Tìm Mình Trong Thế Giới Hậu Tuổi Thơ - Chương 05
16. “TÔI LÀ CÁI NHÀ HỎNG TỪ MÓNG RỒI”
(Nguyễn Hồng Long 24 tuổi,
tốt nghiệp đại học ngành Ngân hàng)
Chúng tôi là một thế hệ bơ vơ. Có nhà mà sợ về, luôn chọn cho mình con đường dài nhất để nán lại phố xá bình yên dù thật sự cái phố đó đang phun bụi mù mịt vào phổi mình lúc cuối chiều.
Một thế hệ thà chọn cái thế giới ảo vì ở thực tại chúng tôi không chốn dung thân, ở nhà mà như thân đi mượn.
Một thế hệ bị đè nén bởi những kỳ vọng về sự hoàn hảo, cho tới khi quá sức chịu đựng chúng tôi nổ tan xác như những quả bóng bay, và rồi lớn lên loay hoay tìm bản thân.
Chúng tôi nhìn lồng ngực của mình và tự hỏi, còn có cái gì ở trong đó, ngoài sự tan nát.
Trận đầu tiên tôi thua là hồi thi đại học. Tôi thua trận lớn. Lúc đó, khoa học là người bạn duy nhất của tôi. Album ảnh của tụi bạn thì đầy hình ca sĩ, của tôi thì là các nhà khoa học. Henrick Abel, nhà toán học Na Uy. Leonhard Euler, nhà thiên văn học Thụy Sĩ. Galois, nhà toán học Pháp, chết do đấu súng vì gái. Lâu rồi tôi không còn nhớ nhiều, nhưng cứ thử vứt cho tôi một đề toán xem, tôi vẫn muốn thanh toán nó khi rảnh đấy. Hồi đó tôi chỉ mơ một lần được đến Viện Vật lý lượng tử ở Thụy Sĩ, nơi họ tìm hạt Higgs. Mê lắm, nên tôi ôm mộng đi học vật lý hạt nhân ở nước ngoài, hay ít nhất là vào Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, Khoa Vũ trụ và Hàng không.
Bố gạt đi. “Viển vông. Với cái bằng ấy thì mày làm gì?” Bố bắt tôi vào trường Ngân hàng, bố làm trong ngành, nên sẽ dễ kiếm việc. Năm ấy chửi nhau nát cả cái Noel, cái Noel coi như vứt đi. Cuối cùng bố dọa đuổi tôi, từ tôi, không được về nhà nữa. Tôi sợ mất đứa em gái. Hai anh em tôi rất yêu quý nhau. Nên tôi gục. Tôi phải nghe theo.
Lúc xuống Hà Nội nhập học, tôi mò lên Thư viện Quốc gia, đọc ngấu nghiến. Tỉnh tôi thiếu sách lắm. Tôi đọc về vật chất ở thể plasma, về vũ trụ giãn nở các thứ, rồi ngồi ở vườn khóc nguyên một buổi chiều. Tôi khóc cho giấc mơ bị giày xéo của mình.
Tôi không biết nhiều về bố mẹ. Bố làm trong ngân hàng, tôi đã kể rồi. Rượu. Nghe nói hồi trẻ bố đào hoa lắm. Mẹ làm kế toán trong cơ quan nhà nước. Kỹ tính lắm! Tôi nghĩ bố mẹ tôi không có gì đặc biệt. Có hàng triệu phụ huynh như họ. Giờ đây, tôi không có cảm xúc gì với họ. Với tôi, họ giống như những bức tường lạnh lẽo. Tôi không còn đau đớn kiểu giãy đành đạch lên nữa, thế là tốt rồi. Tôi vào bệnh viện thăm mẹ ốm, nhẽ thường thì sẽ muốn hỏi thăm. Nhưng tôi cứ mở mồm ra rồi lại khép lại. Có một cục oán hận nằm ngang họng khiến tôi không nói được. Tôi đang tìm cách giã tan cái cục ấy ra, cho nó chảy đi đâu đấy.
Bố mẹ có hạnh phúc không? Tôi không biết. Tôi còn không biết họ muốn cái gì, họ cần cái gì để hạnh phúc. Họ là một sự mâu thuẫn khổng lồ. Muốn con cái có khả năng vượt qua khó khăn trong cuộc sống, nhưng không bao giờ cho chúng tự chịu trách nhiệm về cuộc đời mình. Bảo em tôi, tập tành đi, mày bị béo đấy, rồi đến bữa thì nấu ú ụ cho nó, mày ăn nhiều vào cho tao. Đánh con mà thấy nó câm nín thì, mày lì đòn à, nếu nó khóc thì, tiên sư mày mày la làng à, nín ngay. Tức là đứa con không được làm ồn, nhưng nó phải thể hiện ra là nó đau đớn. Bệnh hoạn, trong mắt tôi là bệnh hoạn. Họ muốn những đứa trẻ sống tiếp cuộc đời của họ, nhưng dưới cái tên riêng của chúng. Chúng chỉ là cái gì đấy để thực hiện nguyện vọng của họ. Họ đặt hàng con cái họ, này, tao đẻ ra mày, tao có quyền đặt hàng mày làm cái này cái kia. Xin lỗi, chúng tôi cũng là con người.
Họ yêu thương trẻ con? Đùa à? Tôi nói một câu thế luôn. Đùa à? Đứa trẻ phải viết một bản kiểm điểm ớ trường, họ sẽ sỉ vả. Nó không đạt được mức thành tích họ đặt ra, họ sẽ lăng nhục. Sợ nhất là lúc họ giơ cái bảng điểm lên, soi xét, rồi bắt đầu rỉa rói, rỉa rói. Họ không cần biết tâm hồn của đứa trẻ như thế nào, nó là ai. Họ chỉ cần biết đến điểm của nó. Tôi kinh hoàng với những lần bị tra khảo. Giống như thẩm vấn hình sự chứ không phải cha mẹ đang hỏi han con cái nữa. Có những dịp Tết thực sự khủng khiếp, tôi ngồi nhà, không muốn làm gì, đi đâu, gặp gỡ ai. Bởi đến đầu người ta cũng hỏi về điểm, điểm, điểm. Bố mẹ tôi đều là con trưởng, tôi cũng là con trưởng, là đứa cháu đầu tiên đi học. Bao nhiêu thứ nó dồn hết lên mình. Con thành công thì bố mẹ hưởng thành tích. Con điểm kém thì bố đập con, con là đồ bỏ. Tôi bị bố đánh nhiều tới mức cái đợt đi tập võ, mấy lão bảo thằng này chịu đòn tốt hơn người bình thường. Bố vừa say xỉn, vừa đánh, vừa gọi họ tên tôi, tới lúc tôi nằm rũ ra như sợi bún bị vắt kiệt. Đến giờ tôi vẫn giật mình sợ hãi mỗi khi nghe thấy ai gọi đầy đủ tên mình.
Mà quan trọng nữa là gì, họ luôn khiến tôi hiểu rằng phải tuân theo họ. Cuộc đời mày không do mày điều khiển đầu. Không bao giờ!
Nhưng tôi thà bị nghiền nát còn hơn là để cuộc đời của tôi cho ai đó điều khiển.
Nỗi đau lớn nhất của tôi là sự cô đơn. Có nhà mà như không có nhà. Tôi cắm mặt vào cái điện thoại. Cái thế giới thực quá kinh khủng. Tôi không thích nó, thực sự không thích nó. Cảm giác bị bỏ rơi, bỏ đói tình cảm, nó kinh khủng lắm, nhất là khi nó xảy ra ngay giữa nhà mình.
Nếu ai đó cho tôi một cái vé về tuổi thơ thì xin lỗi, tôi sẽ đốt, sẽ quẳng cho người khác, cho họ thêm tiền để họ tống tiễn nó đi cho nhanh. Những gì đã xảy ra với tôi ư? Để tôi xem nào… Rất khó khăn để lần về cái thời kỳ ấy. Mỗi lần nhớ lại thì tôi lại hơi bị kích động một chút. Não tôi đã tự xóa đi nhiều rồi, nó tự xóa, tự xóa. Khi ta bị stress quá mức thì ta sẽ tự tắt máy, quên hết đi. Bạn đào một cái hố, bạn chôn nó xuống, chôn quá khứ. Nhưng không cẩn thận thì nó lại phun lên.
Tôi triền miên sống trong ám ảnh mình là kẻ vô dụng. Họ, bố mẹ tôi, vừa đốc thúc tôi về thành tích vừa coi con như một thằng hề. Ôi giời, thằng này làm được cái gì. Mày vô tích sự. Thằng này thì chả làm ăn được gì đâu. Mình bị xúc phạm cực kỳ nặng nề. Tôi mà lơi ra là cái cảm giác đó, con quái vật đen ngòm đó, lại nhảy chồm lên người tôi. Một là tôi sẽ phải rồ lên để mà cưỡi lên cái cảm giác đấy, hai là tôi sẽ đâm đầu vào gối và ngủ mê mệt. Hồi nhỏ, tôi hay sang nhà hàng xóm và khóc nức nở, cho đến một ngày tôi ngừng khóc. Đến bây giờ, nói thật, có người ngã ra chết trước mặt tôi cũng chẳng sợ. Tôi đã trở thành kẻ máu lạnh.
Thỉnh thoảng bố mẹ lại tổng kiểm tra: điện thoại, cặp sách, tất cả sách vở. Họ không tim một cái gì cụ thể, họ chỉ muốn kiểm soát. Quyền riêng tư của tôi bị xâm phạm. Có sáng tôi ngủ dậy thấy mẹ ngồi lù lù đọc tin nhắn của tôi. Tôi phát điên lên. Ngủ dậy là thời điểm rất quan trọng, đầu óc còn mơ màng. Bên Tây, đó là thời điểm người ta bảo mẹ yêu con. Tôi không tin ai nữa, tôi mất hết niềm tin vào gia đình. Những hình ảnh đẹp đẽ của bố mẹ mà tôi được dạy từ mầm non ư, xin lỗi, nó bị nhổ toẹt vào mặt rồi. Sorry, bitch!. Nhìn cuộc đời của tôi đi. Gia đình là nơi an toàn nhất? Nhà là nơi mình được yêu quý, được quan tâm? Quên đi. Tôi là kẻ bị cưỡng bức lao động. Khai đi, có đủ chỉ tiêu không? Xong, đạt, hết! Họ nuôi mình như vỗ béo một con lợn, đầu tư cho nó ăn, cho nó lớn, rồi mổ thịt. Nó không muốn ăn cái thứ đó? Nó có được chọn đâu. Cuối cùng là mổ thịt. Hết.
Tôi lê lết cho tới ngày tốt nghiệp cái trường Ngân hàng. Tôi căm ghét nó. Rồi để được yên, tôi nói với nhà là đang đi làm ở một công ty, công việc ổn định, lương cứng năm triệu tháng, mặc dù tôi đang hành nghề tự do, làm các công việc linh tinh. Tôi nghĩ là mình đã ngấm ngầm nuôi trong người một thái độ từ chối, như một dạng phản kháng. Từ chối lớn lên, từ chối làm việc, từ chối nỗ lực, từ chối kiếm tiền, từ chối trách nhiệm. Tôi đã điêu luyện trong việc nói dối tới mức tôi có thể tưởng tượng ra các trải nghiệm, ám chúng vào chính bản thân. Tôi kể về sếp tưởng tượng, các đồng nghiệp tưởng tượng, tôi nhìn thấy cái văn phòng tưởng tượng trong đầu, cứ như tôi đang đeo kính VR vậy. Bố mẹ có tra hỏi bao nhiêu cũng vô ích, họ sẽ không thể nào phát hiện ra. Tôi dắt mũi họ, tôi dắt mũi chính bản thân mình. Tôi tự đánh lừa mình để có thể đánh lừa họ.
Rất tệ. Những lúc đó cảm xúc của tôi rất tệ. Haiz, mệt lắm. Nhà mình, bố mẹ mình, nhưng về đến nhà là “Cạch!”, giống như có cái clapboard vô hình của đạo diễn dập xuống, mình auto nhập vai. Nói thật luôn, tới chẳng bao giờ muốn đóng kịch ở trong nhà. Nó là một thứ gì đấy rất tởm, rất thối. Tôi sống một cuộc đời fake. Thối tha. Nhiều lúc tôi tự buồn nôn với bản thân.
Tôi trở thành đứa đầu voi đuôi chuột. Nói rất nhanh, rất nhiều, muốn chứng minh cho người khác và cho bản thân giá trị của mình. Lên lắm kế hoạch nhưng đến lúc làm thì lại co lại, sợ hãi. Liên tục tự cản lại những điều mình muốn làm. Mình thành kẻ ba hoa, vì mình không tin vào chính mình nữa, không tin là sẽ thực hiện được các dự định, mong muốn của mình. Vì lần nào trong quá khứ cũng thế, mình tin tưởng bố mẹ, mình chia sẻ dự định này, ước mơ kia, chỉ để bị họ cười nhạo. Không bao giờ được khuyến khích, hỗ trợ, động viên, khích lệ. “Ôi giời! Mơ mộng vớ vẩn.” Họ sẽ bảo. Và ra sức cản. Rồi họ dạy tôi phải luồn cúi. Nịnh trên, đạp dưới. Ăn chia. Mánh lới. Phải thực dụng, khôn lên, lợi ích của mình trên hết. Một trò hề.
Mỗi khi một kỷ niệm trỗi dậy, tôi toàn phải chạy vào nhà vệ sinh, nôn ọe. Hoặc là tôi sẽ gầm lên trong vô thức như một con quái vật. Thỉnh thoảng ban đêm tôi vẫn đọc to lên một bài tôi tự viết để trấn an bản thân, tôi ghìm giọng xuống để nó trầm và vang. Tôi làm vậy nửa tiếng, xoa dịu ký ức. Nếu không thì tôi trắng đêm luôn, não cương lên, kinh lắm, nhắm mắt lại là những chuyện cũ mà tôi đã giấu kỹ cứ quay về. Cứ đến đêm là được cái vé về tuổi thơ. Đầu óc hỗn loạn như một con chó rông, kéo mình về quá khứ. Nhiều nhất là về hồi cấp Một. Cảm giác của tôi? Hoảng sợ khiến tim thắt lại, cộng với oán giận, nuối tiếc cuộc đời mình, lẫn lộn như một nồi lẩu cảm xúc, nhưng cuối cùng thì lúc nào cũng đầy bạo lực. Trong các giấc mơ, rất ít khi tôi thấy mình là con người, mà thường là quái vật. Hoặc ban đầu thì vẫn là người, rồi chuyển thành súc vật. Rất khỏe mạnh, rất sung sức, nhưng mất nhân tính. Vài lần, cơ thể tôi trở thành kẻ tàn sát, tâm trí tôi chỉ là thằng quan sát, tôi nhìn mình ra tay tàn sát. Theo Freud thì giấc mơ là nơi mình gửi gắm mong muốn và khao khát. Tôi khao khát gì đây? Một sự trả thù, trả thù vì căm giận và tiếc nuối?
Có một thí nghiệm tâm lý, người ta cho hai con khỉ con, một đực một cái, sống cùng một con robot. Chúng không được sống cùng khỉ mẹ. Chúng vẫn được ăn uống đầy đủ, nhưng sống cùng với một con khỉ robot không thê hiện tình cảm. Cả hai con lớn lên đều trở nên cục cằn, con khỉ cái còn giết cả con nó đẻ ra. Tôi thấy mình giống mấy con khỉ đó. Tôi không có sự yêu thương của bố mẹ, hoặc cái sự gọi là yêu thương đó chỉ phục vụ cho cái tôi của họ, nên tôi sợ rằng, giống hai con khỉ kia, mình cũng mất bản năng yêu thương, trước hết là bản năng yêu thương chính mình. Mình thấy mình là cái gì rất ghê tởm.
Tôi thấy các thế hệ trước cũng bị như vậy, mà họ không biết. Họ không biết là họ không biết yêu thương. Họ không biết là họ cũng đang căm ghét bản thân.
Tôi sợ sau này mình sẽ rơi vào tình trạng khi yêu thì rất nồng nhiệt nhưng khi cưới nhau về thì lạnh lùng với vợ. Tôi đã quan sát nhiều, những người đàn ông bị tra tấn, cầm tù bởi gia đình trong quá khứ thì họ không muốn về nhà, bao nhiêu cái tốt đẹp họ vứt ra ngoài cho người khác hết. Bởi mỗi lần về nhà họ lại bị vô thức nhắc tới cái gia đình thời thơ ấu của họ. Lần đầu yêu, năm thứ ba đại học, tôi thúc tình cảm lên ầm ầm, làm người kia cảm thấy bị ngộp, bị ngạt thở. Họ bỏ chạy. Bạn hình dung một người chết khát, anh ta vớ cốc nước tu hết sạch, nhưng nó là nước biển, nó cào gan cào ruột mình. Rồi tôi yêu người khác, lại trở thành rất ích kỷ, đòi hỏi họ như thằng chết đói. Tôi không hiểu tại sao mình lại làm những thứ như vậy. Rồi tôi đọc được về thí nghiệm con khỉ con ở với robot, và tôi bảo, à, hóa ra cái này là mình đây. Tôi cố tẩy quá khứ đi, phá nó, đẩy nó ra khỏi đầu. Làm mờ nó, xóa nó đi, thành cái trống hoác trong dòng thời gian của tôi. Nếu bạn nói chuyện với tôi cách đây chục năm thì chắc tôi đã khóc đầy cốc nước này rồi. Tôi cố đẩy hết đi, nhưng trong đầu tôi vẫn còn một khối gì đó rất điên rồ, tôi không biết nó là cái gì.
Tôi vẫn đang loay hoay tự chữa cho mình, nhưng tôi là cái nhà hỏng từ móng rồi. Cần giải tỏa tâm lý thì vục vào ăn. Đánh mất niềm tin vào thế giới xung quanh. Không biết cách yêu người khác giới vì khó thể hiện cảm xúc mặc dù nói rất nhiều. Lắm lúc bên trong buồn nhưng bên ngoài lại cười ngoác ra, mặt méo mó, rất tởm. Bạn tôi bảo, tao sợ mặt mày lúc mày cười to. Những đứa như tôi trông giống giống nhau. Nhìn sẽ hơi ngố ngố tí. Không quyết định được cái gì và không tự chịu trách nhiệm được cho cái gì.
Nhưng có một điều tôi biết chắc. Sau này nếu có con thì tôi sẽ nỗ lực để nó tránh xa bố mẹ tôi ra.
Rồi tôi sẽ dặn con là sau này mày đừng để con mày sống gần tao.
Con mày không nên gần tao.
Sẽ không tốt cho nó đâu.
khúc chuyển giao SỐ BA
17. LỜI TÁC GIẢ:
GÁNH NẶNG CỦA TUỔI THƠ
“Đừng có đổ lỗi cho hoàn cảnh nữa!”, không hiếm khi chúng ta nghe được những câu nửa khuyên nhủ, nửa trách móc như vậy, gửi tới những người đã trải qua một tuổi thơ khắc nghiệt. “Tất cả là do mình, phải mạnh mẽ vượt lên nghịch cảnh chứ.”
Liệu những bình luận này có lý? Liệu người ta có thể để những trải nghiệm tuổi thơ sang bên và bước vào cuộc sống tương lai, đơn giản như lật một trang vở? Liệu điều người ta cần chỉ là “nghị lực”?
Vào thập kỷ 1960, nhà tâm lý học Mary Ainsworth, dựa trên nền tảng những nghiên cứu của John Bowlby, thiết kế một thí nghiệm quan trọng mang tên “Tình huống lạ”, nhằm tìm hiểu tác động của mối kết nối giữa trẻ sơ sinh và mẹ (hoặc người chăm sóc chính) lên tâm lý và hành vi của chúng. Ainsworth để người mẹ mang trẻ nhỏ trên dưới một tuổi của mình vào một căn phòng có nhiều đồ chơi và một người lạ. Sau một lát ở cùng trẻ, người mẹ rời đi một mình, để trẻ ở lại. Sau một thời gian ngắn nữa, người mẹ quay trở lại.
Lặp lại thí nghiệm đơn giản mà tài tình này ở nhiều trẻ, các nhà nghiên cứu quan sát được bốn nhóm hành vi khác nhau. Ở nhóm đầu, khi người mẹ ở trong phòng, đứa trẻ mạnh dạn khám phá không gian và tự tin tương tác với người lạ. Khi người mẹ rời căn phòng, chúng trở nên căng thẳng và hốt hoảng, nhưng lúc thấy mẹ trở lại, chúng vui mừng chào đón mẹ, nhanh chóng lấy lại trạng thái cảm xúc cân bằng và yên tâm tiếp tục tìm hiểu các đồ chơi.
Những trẻ này có sự phát triển tâm lý khỏe mạnh, và được các nhà tâm lý học cho là có một gắn kết vững vàng (secure attachment) với người chăm sóc chúng. Đứa trẻ có gắn kết vững vàng tự tin tìm hiểu thế giới quanh mình, biết rằng nó luôn có thể quay về bên người chăm sóc, tìm thấy ở người đó một nơi trú ẩn an toàn, nó được bảo vệ, che chở, an ủi khi mệt, sợ hay buồn, cảm giác an toàn, tin tưởng này được tạo ra khi người chăm sóc có thái độ ấm áp và sự nhạy cảm cần thiết để nhận biết các nhu cầu tình cảm của trẻ và có những phản hồi phù hợp. Đặc biệt trong những năm tháng đầu đời, khi khả năng thể hiện bản thân qua ngôn ngữ của trẻ còn rất giới hạn, đứa trẻ cần được seen, được người chăm sóc nhìn thấy, gọi tên những cảm xúc của nó để nó có thể phát triển cảm nhận về chính mình. Quá trình người mẹ quan sát và tương tác về mặt cảm xúc với con được gọi là “phản chiếu” (mirroring) - người mẹ đóng vai trò như một cái gương để đứa trẻ soi vào và nhận ra bản thân trong các biểu cảm của mẹ. Nếu quá trình soi gương này bị khiếm khuyết, nếu trẻ sơ sinh nhìn vào mặt mẹ mà như nhìn vào một bức tường, đứa trẻ có thể lớn lên với cảm giác mình vô hình, mình là một bản thể rỗng, và lang thang cả đời đi tìm một ai đó cho nó cảm giác nó được nhìn thấy, được thấu hiểu.
Đứa trẻ có gắn kết vững vàng với người chăm sóc là đứa trẻ được là chính mình. Nó có thể thử nghiệm, khám phá, vấp ngã mà không thấy xấu hố, nhục nhã hay căm ghét bản thân. Nó được nâng đỡ và tiếp sức bởi cảm giác được quan tâm và yêu thương vô điều kiện, rằng con người mình có giá trị, mình sẽ được trợ giúp khi cần, mình không đơn độc. Chính tâm lý vững tin này giúp chúng sau này có thể đi qua các tình huống sóng gió và các thách thức của cuộc đời một cách vững vàng hơn.
Nhóm trẻ thứ hai mà các nhà nghiên cứu quan sát được trong thí nghiệm Tình huống lạ cũng tỏ ra quan tâm tới đồ chơi và người lạ trong phòng, nhưng điểm khác biệt là khi người mẹ rời khỏi phòng, chúng không tỏ ra bị kích động. Và khi mẹ chúng quay lại, chúng cũng dửng dưng, thậm chí nhìn ra chỗ khác và tránh không để mẹ bế chúng lên. Những đứa trẻ này được cho là gắn kết với người chăm sóc theo mẫu hình né tránh (avoidant attachment).
Loại hình gắn kết này là kết quả của một người chăm sóc xa cách và lạnh lẽo. Họ có thể vô cảm không nhận ra nhu cầu tình cảm của trẻ, họ có thể không đáp ứng được những nhu cầu này vì còn bận rộn với những nhu cầu của chính mình, do họ có một hôn nhân bất hạnh, họ phải vật lộn mưu sinh, hay họ bị quá tải vì trẻ hay ốm hoặc khó ăn. Dù hành xử của người chăm sóc có nguồn cơn gì đằng sau đi chăng nữa thì những trẻ ở nhóm này tin rằng mọi biểu đạt nhu cầu của mình là vô ích, mình sẽ không tác động được gì tới người chăm sóc. Sự dửng dưng là một chiến lược để ứng phó với việc bị bỏ rơi và chối từ về cảm xúc. Từ rất nhỏ, chúng đã hiểu rằng chúng cần được cho gì thì nhận nấy, chứ không thể yêu cầu. Cách ứng phó này giúp trẻ không rơi vào trạng thái đòi hỏi và bị kích động mạnh, điều khiến chúng có thể bị người chăm sóc đẩy ra xa hơn nữa. Tuy nhiên, sự dửng dưng chỉ là cái vỏ bên ngoài, nhịp tim của chúng mách bảo nhu cầu được che chở bên trong chúng.
Lại có những đứa trẻ mà ngay từ đầu đã luôn dính lấy mẹ mà không quan tâm tới không gian xung quanh. Khi người mẹ rời căn phòng, nhóm trẻ này trở nên vô cùng hoảng sợ. Đáng chú ý là sau khi người mẹ trở lại, chúng vẫn không lấy lại được trạng thái cảm xúc cân bằng, mà trở nên giận dữ. Chúng có thể bò tiến tới mẹ, nhưng rồi lại đánh và đẩy mẹ ra. Chúng “dỗi”. Đây là những trẻ có kết nối lo sợ (anxious attachment), kết quả của việc chúng không tin tưởng được là khi cần mình sẽ luôn có mẹ ở bên, nhất quán và chắc chắn. Người mẹ lúc hôn hít vồ vập, lúc lại dửng dưng, xa cách. Sự thất thường, khó đoán định của mẹ khiến chúng hoang mang; nguy cơ bị thất vọng, bị bơ vơ luôn lơ lửng trên đầu khiến chúng sợ hãi và bất lực.
Sau này, Ainsworth và đồng nghiệp xác định thêm một nhóm thứ tư. Trẻ ở nhóm này không có hành xử thống nhất, chúng tỏ ra xa lánh, rồi lại đeo bám và giận dữ, rồi lại chuyển sang thẫn thờ hay hoảng sợ. Loại hình kết nối này được gọi là hỗn độn - mất phương hướng (disorganised - disoriented attachment) và xuất hiện nhiều ở trẻ bị ngược đãi nặng khiến chúng khiếp sợ chính người nuôi dưỡng chúng, hoặc ở trẻ có người chăm sóc mắc bệnh tâm lý như trầm cảm và do đó năng lực nuôi trẻ bị hạn chế nghiêm trọng.
Những kết quả nghiên cứu của Ainsworth và John Bowlby đã tạo ra một cuộc cách mạng trong triết lý nuôi dạy trẻ ở phương Tây. Trước đó, người ta cho rằng tương tác cảm xúc giữa mẹ và con không đóng vai trò trong quá trình phát triển của trẻ nhỏ, thậm chí sự gần gũi mẹ con còn gây bất lợi cho chúng. Một thực hành phổ biến hồi đó của các nhà hộ sinh là cách ly trẻ sơ sinh khỏi mẹ, trừ lúc chúng được cho bú. Họ sợ rằng trẻ gần mẹ nhiều sẽ bị hư hoặc trở nên yếu đuối, không đủ mạnh mẽ để đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống sau này - một quan điểm ngược một trăm tám mươi độ với kiến thức tâm lý học ngày nay.
Trở lại với lời khuyên “Đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh, phải tự mình phấn đấu đi chứ!” hay được gửi tới các nạn nhân bị ngược đãi hay bạo lực tinh thần khi họ còn nhỏ. Liệu các vết thương tâm lý có thể được làm lành đơn thuần bởi thời gian hoặc được vượt qua bởi ý chí? Đáng tiếc là không đơn giản như vậy.
Qua những trải nghiệm đầu đời với người chăm sóc của mình, trẻ em hình thành những quan điểm về bản thân và về người khác. Bowlby gọi những quan điểm này là những mô hình nội tâm (internal working model). Một đứa trẻ có gắn kết vững vàng, trưởng thành trong một môi trường ấm áp và an toàn về cảm xúc và tâm lý, sẽ xây dựng một thế giới quan rằng “tôi xứng đáng được yêu thương” và “người khác là tin cậy được.” Khi trẻ lớn lên, những mô hình nội tâm này sẽ định hướng hành vi của chúng cũng như cách chúng phán đoán hành vi của người khác. Như vậy, con trẻ mang mẫu hình gắn kết của mình như một hành trang để đi vào tương lai. Người ta được lập trình bởi trải nghiệm tuổi thơ của mình. “Phần mềm” của họ chỉ được thay đổi nếu sau này họ có những trải nghiệm mới, đi ngược với những trải nghiệm thơ ấu, và những trải nghiệm mới này đủ mạnh, đủ nhiều, và xảy ra trong thời gian đủ dài. Do vậy, nếu môi trường sống không nhiều thay đổi, một đứa trẻ lớn lên sẽ gắn kết với bạn đời và con cái của mình theo cách hồi nhỏ nó gắn kết với người chăm sóc nó.
Do đó, tương tự như những trẻ em của Ainsworth, người lớn cũng rơi vào bốn nhóm khác nhau.
Nhóm người vững vàng xây dựng cuộc sống của mình trên nền tảng của một gắn kết an toàn, kết quả của một tuổi thơ đầy đủ về tình cảm. Họ có cái nhìn tích cực về bản thân và về những người xung quanh. “Tôi không gặp nhiều khó khăn để gần gũi với người khác,” họ sẽ xác nhận. “Mặt khác, tôi cũng không lo lắng là mình sẽ bị cô đơn, và ít khi sợ bị người khác khước từ.” Ở đây, “gần gũi” được hiểu là khả năng mở lòng để thể hiện những cảm xúc và suy nghĩ thực của mình, thái độ tự tin để tìm tới sự quan tâm, chăm sóc của người khác, cũng như sự sẵn sàng quan tâm, chăm sóc ngược lại. Người vững vàng vừa có thể độc lập vừa có thể thân thiết, qua đó xây dựng được những quan hệ khỏe mạnh với bạn đời và con cái. Thái độ lạc quan giúp họ có khả năng ứng xử cao hơn với các tình huống thách thức trong cuộc sống.
Nhóm thứ hai là những người né tránh. Những người này không tìm tới sự gần gũi trong quan hệ. Họ đề cao sự độc lập, “cứng rắn”, hiểu theo nghĩa không tìm đến sự giúp đỡ, an ủi của người khác. Để không bị tổn thương, họ tránh các tình huống mà mình có thể bị chối từ bằng cách không thừa nhận cảm xúc của mình hoặc rời xa nguồn tạo ra cảm xúc đó. Họ không bộc lộ tình cảm với người thân, coi thường tầm quan trọng của cảm xúc trong quan hệ, và khó chịu khi người thân tỏ ra cần họ hay muốn biểu đạt tình cảm với họ. Xa hơn, họ yêu cầu người thân phải “tự lập” như họ. “Đừng có đòi hỏi, tao cho mày như thế là nhiều lắm rồi, chưa bao giờ có ai giúp tao hết,” họ hay nói với con như vậy. Đây cũng chính là những người có xu hướng yêu cầu người khác ngừng “đổ lỗi cho hoàn cảnh” và chế giễu những người này là “yếu đuối” và “hay làm quá lên.” Bowlby gọi hình mẫu tâm lý này là “tự lập cưỡng chế” (compulsive self-reliance), một sự tự cô lập méo mó.
Nhóm người lớn thứ ba là những người lo âu. Không có khả năng đứng một mình, họ có xu hướng đeo bám, bấu víu, khiến người thân cảm thấy ngạt thở. Họ thường lo lắng cao độ rằng mình bị coi là không có giá trị, họ cảnh giác trước khả năng bị bỏ rơi, bị rút đi sự quan tâm hay yêu thương. Nếu như người né tránh giống cái cột điện trơ trơ thì người lo âu hay trở thành những cơn ghen tuông, giận dỗi, oán trách vượt tầm kiếm soát và bùng nổ từ những cớ rất nhỏ. Điều này càng khiến người thân của họ có xu hướng rút ra xa, và qua đó lại củng cố nỗi sợ bị chối từ của họ. Quan hệ với bạn đời của họ có thể cũng bền, giống như ở người vững vàng, nhưng không phải vì họ hạnh phúc; vì sợ bị bỏ rơi và cô đơn mà họ chấp nhận ở trong một quan hệ bất hạnh.
Cuối cùng là nhóm hỗn độn - mất phương hướng. Giống những đứa trẻ ở cùng nhóm, những người lớn này không có mẫu hình hành xử rõ ràng và mang trong mình những nét của cả người né tránh lẫn người lo âu.
Chúng ta có thể thấy thấp thoáng ở đây hình bóng của những cha mẹ trong nhiều câu chuyện của cuốn sách này. Những cha mẹ không có năng lực cảm xúc, không muốn kết nối hay không biết cách kết nối với đời sống tinh thần của con cái, chỉ gói gọn nghĩa vụ của mình vào chuyện chu cấp cho con ăn học. Những cha mẹ tấn công, sỉ nhục con cái vì cho rằng mình đáng nhận được nhiều hơn những gì chúng đem lại. Những cha mẹ vì lo sợ bị bỏ rơi và cô đơn mà giám sát cuộc đời của đứa con và ôm nghẹt chúng vào lòng. Trong phần lớn các trường hợp, những hành xử này tới từ nỗi đau tuổi thơ của chính những cha mẹ này, từ những thất vọng, giận dữ và cay đắng với cha mẹ của họ, với cuộc đời họ. Lớn lên trong sự đói khát tình yêu, họ đẻ và nuôi con như một cố gắng để thỏa mãn các nhu cầu của mình, để cảm thấy mình quan trọng, mình có giá trị, có năng lực, những điều họ không nhận được từ cha mẹ họ. Sự vô minh và hệ quả của một tuổi thơ cằn cỗi khiến họ không ý thức được về sự độc hại trong hành vi của mình. Cha mẹ lạnh lẽo cho rằng sự vắng mặt của mình trong đời sống tình cảm của trẻ không ảnh hưởng gì tới nó. Cha mẹ bạo lực cho rằng đó là điều đứa trẻ cần để chuẩn bị bước vào đời.
Thế còn những người con của những cha mẹ này, họ sẽ phải mang gánh nặng tuổi thơ theo suốt đời? Họ sẽ trở thành một phiên bản mới của cha mẹ mình, điều mà rất nhiều người trẻ trong cuốn sách này luôn lo sợ? Có cách nào để họ hàn gắn những vết thương và chữa lành những sang chấn tâm lý, để “nâng cấp phần mềm”, để xây dựng được gắn kết vững vàng với bạn đời tương lai và con cái của mình? Đây sẽ là nội dung của phần cuối của cuốn sách.
VĨ THANH
hành trình CHỮA LÀNH
18. “MỖI LẦN GIẬN DỮ, ĐAU ĐỚN HAY LO SỢ TRỖI LÊN, TÔI LẠI CỐ GẮNG NHÌN VÀO NÓ VÀ ĐỌC TÊN NÓ RA”
(Xuân Dương, 21 tuổi, nữ sinh viên ngành Giáo dục)
Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thẳng vào quá khứ, lần đầu tiên tôi kể về chuyện này một cách chi tiết nhất. Tôi sẽ khóc, nhưng tôi sẽ cố gắng.
Tôi nên bắt đầu từ đâu nhỉ? Tóm tắt nhất là bố tôi có hai vợ. Người vợ thứ hai là dì, em gái ruột của mẹ tôi.
Để tôi kể trước về dì. Dì có một đứa con trai và một đứa con gái với người chồng trước. Khi chú ấy mất thì con gái dì mới được một, hai tuổi. Dì là người rất đảm đang, một tay nuôi con, chịu thương, chịu khó. Dì cũng rất xinh nữa. Nhiều người trong làng đến đặt vấn đề nhờ dì đẻ con hộ. Họ sẽ mua đất cho dì, xây nhà, cho tiền chu cấp. Ớ quê thì nhiều người có tiền nhưng không có con. Nhưng dì không đồng ý. Dì sống nhờ vào một cửa hàng nhỏ ở chợ, buôn bán đồ tạp hóa. Đến năm tôi học lớp Sáu, lớp Bảy, thì xảy ra chuyện là dì có quan hệ với em rể mình. Em gái của chồng cũ của dì có chồng, và dì có quan hệ với người này.
Gia đình chồng đuổi dì ra khỏi nhà. Ông bà ngoại tôi tới nói chuyện, dàn xếp, nhưng cuối cùng họ vẫn đuổi dì đi. Dì thuê một cái nhà nhỏ trong xóm, ở cùng với con gái. Con trai dì, năm đó đã mười tám tuổi, thì ở lại với họ nội. Vì chuyện đó mà nó đánh dì nhiều lần. Nó cầm dao đuổi dì, cầm bàn cuốc đập vào đầu dì chảy bao nhiêu máu. Không có người can thì chắc là dì chết rồi. “Mày là gái điếm,” nó nói với dì, “mày đẻ ra tao nhưng bà nội mới là người nuôi tao.” Nhiều lần dì quay lại xin lỗi nhưng nó cứ nhìn thấy dì là đuổi đánh.
Bây giờ nói về nhà tôi. Tôi là đứa con gái thứ tư, trên tôi là ba chị gái. Bố tôi là con trưởng. Hồi bé tôi rất thân với bố, thân bố hơn thân mẹ. Tôi hay ngồi cạnh khi bố nói chuyện với người trong làng. Bố vẫn nói là sẽ không đi bước nữa. Họ sẽ quay sang tôi và trêu, “Mày ngoan, mày học giỏi thì thế nào rồi mày cũng sẽ mọc chim.” Lúc đó tôi đã đủ hiểu việc bố không có con trai là một vấn đề. Lớn hơn chút, tôi ngồi trong bếp nấu cơm cho cả nhà, vo gạo, khuân cái nồi lên trên bếp, khời củi, và lẩm bẩm, “Cầu trời cho mẹ một đứa con trai.” Tôi nhớ mãi cái bếp củi cũ hồi nhà tôi chưa xây và mơ ước của mình.
Tới khi tôi lớp Tám thì bá, tức là chị gái bố, đặt vấn đề. Bố và mẹ đồng ý. Mọi người hỏi dì. Dì cũng đồng ý. Đó là sau này tôi biết vậy, chứ lúc đó không ai nói gì với tôi. Mọi người nghĩ tôi còn là một đứa trẻ.
Mọt chuyện bắt đầu như vậy. Tôi xin lỗi là hơi xúc động. Hồi ức nó ùa về, đó là một giai đoạn khó khăn mà trong những năm qua tôi không muốn nhớ tới.
Hôm bố và dì cưới nhau thì tôi vẫn đi học bình thường. Không ai giải thích gì cho tôi, nhưng tôi tự biết ngày đó là ngày gì. Mọi người bàn với nhau là làm nhỏ nhỏ chừng chục mâm, gọi là để báo cho anh em, cô dì chú bác thân thiết. Có phông bạt, có bàn ghế, nhưng không có những trang trí mà tôi vẫn thấy trong các đám cưới. Hôm đó là đầu tháng Chín, trời rất nóng, không phải là thứ Hai, vì tôi không mặc đồng phục. Lúc ra khỏi nhà, tôi thấy dì mặc một cái áo voan trắng, kiểu hơi điệu điệu một chút. Tôi nhớ là mình có hỏi chị ba về chuyện đang xảy ra, nhưng chị gạt đi, như là không quan tâm. Sau này chính chị là người chống đối mạnh nhất.
Tan học, tôi đi bộ về, cảm nhận được ngày hôm đó là một dấu mốc trong cuộc sống gia đình tôi, nhưng tôi không hình dung được mọi sự sẽ khác như thế nào.
Tôi về tới nhà thì cỗ đã tan. Hai chị đầu, một đã lấy chồng chỗ khác, một đang học đại học, vắng mặt. Chị ba thì ra vẻ không liên quan gì. Tôi có nhìn thấy dì không nhỉ, hình như không. Tôi không nhớ nhiều về hôm đó. Có một thời gian tôi không muốn nhớ gì về chuyện ấy nữa.
Nhưng tôi nhớ là chị em tôi hay khóc. Đã có lúc tôi nghĩ mình sẽ tới ở nhà chú mình trong xóm. Tôi là lớp trưởng, giờ thể dục đứng hàng đầu. Sau lưng tôi, chúng nó thầm thì bố nó thế nọ, bố nó thế kia. Tôi quay ra chơi game. Năm đấy tôi không được học sinh giỏi. Tôi còn nghĩ đến cái chết. Nếu cá tính tôi mạnh thì có lẽ tôi đã làm một điều gì đó điên rồ rồi.
Đáng sợ nhất là hàng xóm, bạn ạ. Họ rất biết xát muối vào tim người khác. “Buổi tối bố mày ngủ với ai?” Họ hỏi tôi, “Bố mày hai tay hai bà à?” Tôi chẳng quên được những điều này, hoặc mình quên rồi nhưng rồi một lúc nào đấy, khi mình đã lớn, chúng lại trồi lên, làm đau mình. Tôi bắt đầu ghét ra ngoài đường, giờ tôi đã thành tâm điểm của xì xào. Mẹ tôi xuống ruộng, họ khích bác. Mẹ tôi ra chợ, họ kích, “Ê, việc gì mà bà phải khổ thế. Hai vợ chồng nó đèo nhau xe máy, bà việc gì phải gánh bộ.” Hai vợ chồng nó tức là bố và dì. Thế là nhà tôi đâm ra lục đục, làm sao mà tránh được là có lúc bố thiên vị người này người kia. Các chị chống đối. Chị ba không chào dì, không ăn thức ăn dì mua về. Chị cả cũng phản đối gay gắt. Chị hai hồi đó đang học đại học thì mãi chả yêu đương gì mặc dù có nhiều người theo đuổi. Một thời gian lâu sau chị mới tâm sự với tôi là chị không tin tưởng được đàn ông nữa. Bố mình là một người gương mẫu. Bố từng nói là không đi bước nữa, “có con gì nhờ con ấy”. Chú em bố đã có con trai rồi thì sau này tài sản sẽ cho cháu. Thế rồi đùng một cái thì như vậy. Đến lớp Mười hai tôi mới biết là các chị rất bị tổn thương. Cả mẹ, bố, dì cũng bị những lời nói bên ngoài làm tổn thương. Tôi cũng xa bố dần. Ở quê con gái càng lớn càng chẳng chia sẻ gì được với bố. Càng không nói chuyện thì càng chả biết nói chuyện gì.
Dì lấy bố năm trước thì năm sau có bầu. Dì đẻ con trai, nó thua tôi mười bốn tuổi. Hôm đó là một buổi tối tháng Bảy. Tôi cùng mẹ và bà ngoại xuống trạm xá. Trước đấy thì tới rất khó chịu. “Ai đẻ thì người ấy chăm,” tôi nghĩ vậy, “liên quan gì tới mình.” Nhưng khi nhìn thấy em, tôi giật mình. Nó giống tôi như đúc, nhất là cái mắt. Tôi yêu quý nó luôn.
Mẹ rất hạnh phúc, mẹ ôm em bé mãi, hôm đó mẹ còn không về nhà tắm. Mẹ làm việc quần quật để kinh tế gia đình ổn định, mẹ chịu thương chịu khó, nhưng bao năm nay mẹ mang trong mình tâm lý có lỗi với nhà chồng. Sau tôi mẹ còn có thai mấy lần, nhưng đều bỏ. Hồi đó khoa học phát triển rồi, hai tháng rưỡi, ba tháng là biết, thì mẹ bỏ. Hai hoặc ba lần như vậy. Tôi còn đi siêu âm cùng mẹ, tôi là con út nên đi đâu bố mẹ cũng cho đi cùng. Hồi đó tôi chưa biết hết, nhưng sau này nghĩ lại thì tôi khá chắc chắn về chuyện đó. Hai lần là chắc chắn.
Kể cả cái sự ra đời của tôi cũng là cái may mắn. Siêu âm tới tháng thứ ba rồi mà tôi vẫn quay mông ra, không biết là con trai hay con gái. Đến tháng thứ tư thì thai to rồi, bác sĩ sợ không dám bỏ đi nữa. Mẹ tôi kể vậy. Năm tôi năm tuổi thì bốc mộ ông nội, bà nội bảo, năm nay thay nhà cho ông để ông phù hộ cho có cháu trai. Nói vậy thôi nhưng ông bà nội rất thương các cháu, thỉnh thoảng lại nhét năm trăm, một nghìn đồng vào túi. Hồi đó một nghìn đồng vẫn to. Nhưng ông bà vẫn mong có cháu trai đích tôn.
Những tuần sau đó tôi hơi buồn chút vì mình không được coi là con út nữa, nhưng tôi là người sống tình cảm, tôi rất yêu em. Tôi nhớ hình ảnh dì cho em bú, hình ảnh bố cho em uống sữa thêm. Nhưng nhớ nhất là niềm vui của mẹ. Dần dần không khí trong gia đình có đỡ hơn. Bố mẹ đều là những người rất nhân hậu, dì tôi cũng vậy, họ đều là những người lao động rất chăm chỉ. Các chị tôi lớn lên, đi học, lấy chồng, chăm lo cho cuộc sống riêng của mình. Chỉ có người ngoài thì vẫn lâu lâu châm chích mua vui, đồn đại linh tinh là dì nó sắp ra ở riêng, nhà nó đánh nhau to. Ở quê, người ta thực sự xấu xí.
Nhưng sự bình thường không bao giờ quay lại. Vết thương chỉ được phủ một lớp vải lên, nó không thực sự lành. Lên lớp Mười hai rồi mà nếu có đứa nào trong lớp quay ra hỏi, “Ơ, hôm nay mày đi học à? Tao tưởng mày ở nhà ăn cỗ cưới bố?” thì những ngày cũ tôi tưởng mình đã quên lại ùa về. Lên đại học, tôi ít mời bạn về quê chơi. Nếu chúng về và tôi có đủ dũng cảm thì tôi sẽ dặn trước, “Tớ nói cho mọi người biết giúp tớ, gia đình tớ là như thế này, có bố mẹ và có dì, dì là vợ của bố. Lúc ở nhà tớ thì đừng hỏi đấy là ai, vì tớ sẽ cảm thấy không thoải mái.” Nhưng không phải lúc nào tôi cũng đủ dũng cảm. Có lần, vừa ngồi gọt hoa quả chém gió linh tinh với nhau, tôi vừa đọc được câu hỏi trong mắt chúng, “Sao muộn thế này mà cô ấy vẫn ở đây nhỉ?” Lúc về Hà Nội, một đứa thắc mắc. Tôi bảo, “Chúng mày muốn nghe thì để tao kể, nhưng nếu tao kể thì chắc chắn tao sẽ khóc.” “Mày kể làm cái đéo gì, không cần kể,” nó gạt đi, “tao đéo quan tâm.”
“Nhà mày có mấy anh chị em?” Một câu hỏi đơn giản ai cũng đã nghe tới hàng ngàn lần, nhưng nó vẫn làm tôi không thoải mái. Cố thì tôi sẽ nói được, “Nhà tao có bốn chị em, đẻ cố được thằng cu.” Nhưng mà thường tôi sẽ không muốn trả lời. Rồi sẽ có đứa hỏi, “Ơ, thế mẹ mày gần sáu mươi thì làm sao mà em mày tám tuổi được?” Đấy. Tôi sẽ rất khó chịu và bứt rứt. Người lớn hỏi thì tôi cũng sẽ nói, “Nhà cháu có bốn chị em gái,” rồi nghỉ một giây và nói thêm lúc họ đã gần chuyển sang chuyện khác, “cháu có thêm một thằng em trai nữa.”
Có nhiều tình huống bất ngờ khiến tôi phải khóc lắm, tôi không thể lường trước được, như cái lần trong năm ba đại học cô giáo cho bài tập vẽ cây phả hệ gia đình. Tôi chả biết vẽ thế nào. Gia đình tại sao lại xẻ thành ba nhánh? Tại sao lại có một người như mẹ mình mà không phải là mẹ mình? Nước mắt tôi rơi xuống tờ giấy trắng. Cô nhẹ nhàng đến, đưa gói giấy ăn, rồi đi lên, tế nhị không hỏi gì thêm, không nhìn để tôi khỏi xấu hổ. Bây giờ tôi vẫn giữ cái gói khăn giấy đó như một thứ gì quý giá.
Cách đây mấy năm thì có chuyện tương tự xảy ra ở xóm tôi. Bác này cũng có ba đứa con gái, cũng bảo là có con nào thì nhờ con ấy, cũng không muốn đẻ nữa vì sợ mất công chức, rồi tới khi về hưu thì bác ấy lấy một cô vợ chỉ xấp xỉ tuổi đứa con gái đầu. Đứa con gái út của bác ấy trạc tuổi tôi, trước chúng tôi hay múa may Trung thu với nhau. Nó thay avatar đen sì và viết, “Nếu biến mất được thì tốt.” Tôi nhắn cho nó, “Chị rất thương em, chị hiểu cảm giác của em.” Hai đứa nhắn nhau qua lại, cả thế giới chắc chỉ chúng tôi hiểu mình đang nói về chuyện gì. Gần bốn năm rồi mà bác ấy vẫn chưa có con trai, gia đình rất lục đục.
Mỗi lần có chuyện gì gợi lại như vậy thì tôi lại bị xáo trộn tinh thần mất vài ngày.
Gần đầy nhất là vụ con gái của dì lấy chồng. Nhà chồng nó không nhận gia đình tôi, mà nhận gia đình chồng cũ của dì là thông gia. Bố và dì xuống Hà Nội bị họ đối xử rất lạnh nhạt. Chúng tôi bị coi như cái gì xấu xí, dị dạng, một kiểu bệnh, người ta không muốn dây vào. Thế là ở nhà lại lùng bùng, lại cãi vã rất đau đầu. Tôi học tâm lý nên biết là ai cũng bị tổn thương, chẳng ai được chữa lành cả, nhịn mãi thì cũng có lúc nó phải phát ra thôi.
Chừng một tháng sau cái tiết học có bài tập vẽ cây phả hệ ấy thì tôi đăng ký vào một nhóm đạp xe xuyên Việt, một việc khá điên rồ vì tôi vốn lười vận động và sợ đen. Nhưng trước đó tôi tham gia một chuyến đạp xe đi Tây Thiên. Chúng tôi ở đó hai ngày, hát dưới ánh trăng, lội suối, bẩn nhom nha nhom nhem. Hôm về trời cực nắng, nhựa đường bốc mùi khét, nhưng chúng tôi vừa đi vừa hát, gặp ai họ cũng tươi cười, chỉ có chào công an là họ không trả lời lại. Tôi đã được nếm mùi tự do. Thế là tôi nuôi lợn đất cho chuyến đi xuyên Việt. Chị hai hỗ trợ một ít kinh phí, mẹ thậm chí còn mua cho tôi cái xe đạp, nhà tôi là nhà nông nên quan điểm là đi cho nó dày dạn, trưởng thành.
Chuyến đi sáu tuần vào mùa hè năm đó đã thay đổi con người tôi. Có thể bắt đầu từ đâu để bạn hiểu được sự chuyển hóa cá nhân này nhỉ? Tôi sẽ bắt đầu bằng những con người đi cùng tôi. Các đoàn khác thì tôi không biết, nhưng tôi có cảm tưởng đoàn của tôi là tập hợp những đứa trẻ bị đau đớn và bầm giập. Em Quỳnh bị trầm cảm, đã mấy lần tự tử hụt, gia đình cũng có nhiều biến cố. Tôi thành ra thân với nó tới tận bây giờ, và bất ngờ khi gần đây nó nhắn tin cho tôi, “Chắc chị không biết, nhưng chị đã hơn một lần giữ em lại với cuộc đời.” Chị Dung cũng dị lắm và cũng nhiều tổn thương. Quy định là không được tách đoàn, đi riêng một mình, nhưng ở Nha Trang, chị ấy tụt lại phía sau. Buổi tối bị trách, chị ấy lẳng lặng không nói gì, chỉ đưa cho đoàn một túi na. Mãi tới ngày cuối cùng chị ấy mới kể là hôm đó chị tạt vào nhà mẹ và bà ngoại. Bà ra vườn hái na cho chị. Mẹ chị chỉ quả này chín này, quả này ngon này, nhưng không nhận ra chị. Mẹ chị ấy bị tâm thần. Rồi chị ấy đạp xe đuổi theo đoàn, vừa đạp vừa khóc. Hồi nhỏ chị ấy không có bạn. Chị ấy học đại học gần xong thì bỏ ngang để thi lại vào Kiến trúc. Chị ấy vẽ rất đẹp, chị ấy học massage, học các môn thể thao. Bạn chị ấy bảo, mày định chơi cho tới khi rụng hết trứng à? Đến giờ thỉnh thoảng chúng tôi vẫn viết thư tay cho nhau. Tôi cho những thứ như vậy vào một cái hộp. Nếu cháy nhà thì tôi sẽ mang cái hộp ấy đi thôi, bỏ lại hết tất cả.
Một bạn khác, sinh viên dược, rất giỏi, sống với mặc cảm không có bố. Mẹ bạn ấy bảo muốn đi xuyên Việt thì hãy bước qua xác mẹ bạn ấy, nhưng bạn ấy vẫn đi. Một em nữa cũng bị trầm cảm, trước cắt đứt mọi quan hệ với gia đình nhưng sau chuyến đi thì chủ động viết thư cho bố mẹ. Chúng tôi, những kẻ bị tổn thương và lạc lối đi với nhau trong cái mùa hè đỏ lửa như vậy đó, mùa hè năm tới hai mươi tuổi.
Tôi vẫn nhớ những bữa chúng tôi hết sạch tiền thì các anh chị lớn sẽ tưới nước thịt cho các em ăn trước, mình ăn cơm với rau. Trưa mệt, ngủ dậy thì đã thấy bình nước của mình được đổ đầy và cài vào xe. Lên đèo Omega tôi thè lưỡi dắt xe thì một anh ra bảo, “Mày dắt cái gì, đưa đây tao dắt cả hai xe cho,” tôi chạy bộ theo không kịp. Đến cuối chuyến đi thì chúng tôi không muốn rời nhau nữa, những lúc nghỉ nằm trên cỏ mà vẫn tay trong tay. Đêm cuối, chúng tôi ngồi tới ba giờ sáng kể về đời mình, rồi cảm ơn khắp lượt những người trong đoàn. Quỳnh nói là lâu lắm rồi nó mới cảm nhận được một sự thân thương, một cảm giác an toàn, bình yên, cái mà nó không có được trong gia đình hay nhà trường. Tôi thấy mình tự do, kể cả trong điệu cười nữa. “Mày cứ cười thoải mái đi,” các bạn bảo tôi, con gái cười to có làm sao đâu.
Sau chuyến đi, mọi thứ bừng sáng. Tôi thấy thương từng mảnh đất của Việt Nam, đến đâu cũng thấy thương, không có kỳ thị vùng này tỉnh kia nữa. Ở đâu trẻ con cũng ra đường vẫy, các bà thì cười đẹp lắm, cứ bảo, các cháu đi mạnh giỏi khi nào lại về quê chơi. Có hôm dừng lại xin mít thì người ta cho vặt cả vườn. Bây giờ cứ nghe tin bão ở đâu đâu thì tất cả lại nháo nhác lên, quê mày có sao không.
Tôi cảm nhận là quá trình chữa lành vết thương của tôi được bắt đầu. Tôi ý thức được là mình cần hiểu hơn về bản thân, mình phải đối mặt với chuyện của mình. Mình sống với nỗi đau lâu quá rồi, nó là một phần của mình mà mình chối bỏ nó, không chữa chạy nó, mình nhốt nó dưới hầm. Khi những người bạn mới cho phép tôi nhìn vào nỗi đau của họ, tôi cũng qua đó nhìn được vào nỗi đau của mình, và chia sẻ nó một cách an toàn, không bị phán xét. Lần đầu tiên, khi nói về nó, tôi không cảm thấy hổ thẹn và nhục nhã, cái cảm giác đeo đuổi tôi bao năm nay. Tôi đã được nhìn thấy một cuộc sống rộng lớn hơn rất nhiều, đầy tình yêu thương và độ lượng, và điều này cho tôi lối thoát, giúp tôi tìm được ý nghĩa cho cuộc sống.
“Ơ sao bây giờ mày khác thế?” Một đứa bạn nhận xét khi gặp lại tôi. “Hồi cấp Ba mày hiếu thắng, tranh luận bằng được, bây giờ thì mày thích lắng nghe hơn.” Nếu như không có chuyến đi, chắc hẳn bây giờ tôi đã cuống lên tìm người yêu, rồi lo lắng là mình ế. Tôi sẽ chìm đắm trong nỗi lo tìm việc, kiếm chồng, mà không quan tâm tới việc hiểu bản thân mình, hiểu lịch sử của mình. Tôi sẽ đi theo tư duy của quê tôi, giấc mộng làm công chức, có chồng giàu, cuộc sống “ổn định”. Nhưng giờ đây tôi không vội nữa, tôi muốn lắng nghe bản thân, trò chuyện và làm bạn với chính mình, mình có đang hạnh phúc không, mình muốn cái gì. Đấy mới chính là quá trình trưởng thành. Tôi học cách yêu thương, học cách trân trọng hiện tại. Khi mình hạnh phúc thì vết thương của mình cũng tự mờ dần đi, mình không bị triền miên chìm đắm trong cảm giác mình là người bị hại nữa.
Tuần vừa rồi tôi ở quê. Buổi chiều nắng tắt, tôi ngồi ở bờ ao, để gió thổi vào mặt như hồi còn bé. Tôi thấy rất bình yên.
Sau chuyến xuyên Việt tôi đã dám mời mười lăm bạn ở miền Bắc về nhà, hôm đó có cả bố, mẹ, và dì. Đó là một việc dũng cảm đầu tiên rồi, mặc dù trong bữa cơm hôm đó tôi rúm người lại khi bố nói với mấy đứa ngồi bên cạnh, “ừ, bác lấy hai vợ là vì bác không có con trai.”
Em tôi cất tiếng gọi, nó muốn tôi đọc truyện tranh cùng. Tôi và em trai, bây giờ nó tám tuổi, hai chị em dính nhau như sam. Nó chưa hiểu tình hình, nó chỉ biết là có hai mẹ, mẹ bé và mẹ lớn. Mẹ tôi cũng xưng mẹ với nó. Nó được điểm mười, mẹ lại lấy lợn ra cho tiền. Nằm xem ti vi, hai chân nó gác lên hai mẹ. Nó dễ khóc lắm, bị quát cái là mít ướt. Nó sẽ ngước lên nhìn như thế này này, rồi nó mếu mếu, nước mắt chảy ra. Bây giờ nó cũng thiệt thời vì các chị đi hết, trong nhà còn toàn người lớn, không có ai chơi cùng, xem ti vi nhiều thì bị mắng. Hè nào chị hai tôi cũng cho nó lên Hà Nội chơi một tuần. Tôi và nó đi siêu thị, nó nhìn giá truyện tranh rất cẩn thận. “Chị là sinh viên, chị làm gì đã có tiền, chị mua cho em cuốn hai mươi nghìn thôi…” Qua cửa hàng Lego thì nó liếc vào chứ không tự dừng lại.
Sau này em có ý thức thì tôi sẽ là người giải thích cho nó, tôi biết ngoài mình ra thì sẽ chả ai nói gì với nó cả. Tôi cũng chưa biết mình nên bắt đầu như thế nào, có thể tôi sẽ nói với nó là một người sinh nó ra từ trong bụng, còn một người sinh nó ra từ sự bao dung. Tôi nhớ câu này từ một câu chuyện về một đứa trẻ bị trêu ghẹo vì nó có hai người mẹ đồng tính. Trong chuyện có câu, những trẻ khác được sinh ra từ trong bụng, còn nó được sinh ra từ trái tim. Tôi thích từ bao dung lắm, bao trọn mọi thứ.
Hiện thì nó chẳng quan tâm gì ngoài Bảy viên ngọc rồng và Đảo hải tặc. Nó chạy ra ngoài sân, còn mỗi tôi và dì ngồi với nhau trong nhà. Tôi nhìn dì và thấy bình thường lắm, không có cảm xúc tiêu cực gì. Cũng như cuộc đời bố mẹ tôi, cuộc đời dì khổ. Nhiều lúc dì ích kỷ, chỉ nghĩ cho con dì, không nghĩ cho nhà tôi, không nghĩ cho bố, nhưng tôi không trách dì. Tôi thương dì. Tôi cũng không trách bố mẹ. Bố mẹ thể hiện sự yêu thương qua cái cách của họ, gửi cho con cần gạo, dúi cho con ít tiền, ở quê thì chả ai nói là thương ai cả, không ai biết cách chia sẻ cảm xúc, bộc lộ tâm tư. Bố mẹ có được học hành, có được ai dạy đâu, làm sao có thể đòi hỏi họ có nhiều kiến thức xã hội. Lúc chị cả có thai, mẹ giục đi siêu âm liên tục, lúc biết là con trai thì mẹ nhẹ cả người. Mẹ chỉ sợ người ta miệt thị chị cả là “nó giống mẹ nó, không biết đẻ con trai”. Đẻ bao nhiêu mà không có con trai thì cũng bị coi là không biết đẻ. Cay nghiệt thật. Cuộc đời của người ta buồn nên họ thích châm chích người khác để thấy mình sướng lên.
Bây giờ, hằng ngày mẹ chăm cháu, chữa đau lưng, quanh quẩn mấy chuyện đó. Bố mới đổi sang smartphone, suốt ngày gọi video nhí nhéo với các cháu. Nhưng tôi biết là mẹ có nỗi đau trong lòng, có những uẩn khúc, mà mẹ không đi sâu vào nó được, không diễn giải ra được. Trong nhà vẫn có nhiều lúc không ổn. Đùng một cái, có chuyện cỗ bàn, chuyện làm ăn, thì lại to tiếng, tranh luận căng thẳng mà không lắng nghe nhau. Một lúc nào đấy, khi tôi biết cách hơn, tôi sẽ nói chuyện với mẹ. “Mẹ ơi, hoàn cảnh gia đình của mình đặc biệt vậy, mẹ có bị tổn thương không? Con thương mẹ…”
Tôi cũng không trách bản thân nữa. Trước kia nhiều khi tôi ước mình là con trai. Mẹ mình sẽ không phải chia sẻ chồng, không phải chịu sự dị nghị của hàng xóm, không phải bỏ tiền ra cúng bái. Nhưng giờ đây tôi đã hiểu ra. Tôi không có quyền quyết định giới tính của mình, tại sao tôi phải cảm thấy có lỗi cho cái điều mình không gây ra? Là con gái không phải là lỗi. Đấy, hiểu biết sẽ giúp mình.
Nếu tôi có con thì tôi sẽ chuyện trò với nó một cách tôn trọng, tìm hiểu con người, cảm xúc của nó, chứ không chỉ chu cấp tiền nong cho nó. Khi nó gặp khó khăn thì nhà sẽ là nơi nó quay về để chia sẻ mà không bị phán xét. Con lớn thì mình tiếp tục học các bài học cho cuộc đời mình. Ý nghĩa của đời mình không chỉ nằm ở đứa con, như mẹ tôi vẫn quan niệm, như thế thì phí đời lắm. Lúc con lớn lên thì nó sẽ phải đi xa, nó không ở mãi trong vòng tay mình được. Lúc đó thì mình sẽ là ai? Phí lắm.
Nếu chồng tôi sau này cư xử giống bố, chắc chắn tôi sẽ không chấp nhận. Anh ấy có thể mong muốn có con trai, tôi hiểu sức ép lên đàn ông, tôi có thể thông cảm với họ. Nhưng vừa muốn có con trai lại vừa muốn sống với tôi thì không được. Thế hệ của tôi khác rồi. Tôi không có nghĩa vụ giúp anh ấy hoàn thành ước nguyện của mình.
Mà tôi chưa mặn mà với hôn nhân. Tôi còn nhiều việc phải làm. Học tiếng Anh. Tham gia các khóa học khám phá bản thân, chuyển hóa giận dữ, học cách yêu thương mình. Học thêm kiến thức để có thể tham vấn cho các bạn trẻ trong khủng hoảng. Kết nối nhiều hơn với bố mẹ, và giúp họ kết nối với nhau nhiều hơn. Sống trong thực tại, ăn một bát canh bố nấu, rửa bát, rồi ra bờ ao nhổ cỏ. Thật may là bố mẹ không bắt tôi lấy chồng sớm, cũng không ép tôi kiếm tiền. Đi xuyên Việt về bố mẹ khen rắn rỏi ra, bây giờ tôi muốn đi xa bố mẹ cũng sẽ ủng hộ. Người làng thì toàn bảo, cho con gái học đại học làm gì, xong rồi nó vỗ cánh bay đi, cho nó đi làm thuê kiếm mấy chục triệu làm vốn mà lấy chồng.
Trinh tiết? Quan điểm của tôi về trinh tiết đã thay đổi nhiều. Trước thì tôi nghĩ là nó là cái quý nhất của con gái, mất nó trước hôn nhân thì không còn trọn vẹn nữa. Bây giờ thì tôi thấy những người có quan hệ tình dục trước hôn nhân rất dũng cảm. Họ dám đi theo cảm xúc thật của mình. Tôi rất tôn trọng họ. Thích thì làm và tự chịu trách nhiệm thôi. Bản thân tôi thì thấy mình chưa đủ dũng cảm, hoặc là tôi chưa tìm được người mà tôi thấy đủ tin tưởng. Thế thôi. Còn một người con trai mà nhìn vào cái trinh tiết để đánh giá, dán nhãn mình thì thực sự không dành cho mình rồi.
Thực ra mà nói thì tôi vẫn có một nỗi ám ảnh liên quan tới con cái. Nếu sau này chỉ có hai con gái thì tôi không chắc là mình yên tâm được, dù bản thân tôi không có nhu cầu có con trai. Tôi sẽ không tự tin với cái hạnh phúc mà tôi có. Dù bạn đời tôi có cam đoan là anh ấy hoàn toàn hài lòng, anh ấy không cần con trai, thì đâu đó bên trong, tôi vẫn cho rằng anh ấy nói dối. Hoặc nghĩ thầm, “ừ, anh nói vậy, nhưng gia đình anh thì sao?”
Đặc biệt là tôi sẽ tránh xa con trưởng.
Hôm nay tôi đã có thể nói hết được những gì chất chứa trong lòng, mặc dù với nước mắt. Tôi biết mình vẫn chưa khỏe mạnh hoàn toàn. Nhìn lại quá khứ, có lúc tôi vẫn tức giận. Nhìn vào tương lai, nhiều lúc tôi vẫn sợ hãi. Sợ bị phán xét, bị coi là dị biệt. Nhưng mỗi lần giận dữ, đau đớn hay lo sợ trỗi lên, tôi lại cố gắng nhìn vào nó và đọc tên nó ra. Gần hai mươi hai tuổi, tôi vẫn còn là một đứa trẻ. Nhưng điều đó không sao, tôi vẫn đang học để trưởng thành.
19. “TÔI HIỂU LÀ AI CŨNG CÓ NỖI KHỔ RIÊNG CỦA MÌNH, MẸ ĐÃ TỪNG LÀ MỘT ĐỨA TRẺ KHAO KHÁT TÌNH YÊU THƯƠNG”
(Lâm, 19 tuổi, nữ sinh viên ngành Tài chính, đang bảo lưu)
Liên, mẹ Lâm, 51 tuổi, hiệu trường tiểu học
Song Lê, 40 tuổi, nữ bác sĩ tâm lý)
LÂM
Lên cấp Ba thì học lực của tôi tụt thảm hại. Thứ nhất, tôi được mẹ xin vào một lớp chuyên, trong lớp có nhiều bạn giỏi hơn tôi. Thứ hai là tôi bị mất ngủ, lên lớp cứ đờ đẫn. Hồi đó mẹ tôi rất kinh khủng. Một buổi chiều mẹ đi họp phụ huynh về, giận ngùn ngụt. Con chó, sau này ra đời thì làm được cái gì, đi bốc cứt à. Mẹ đánh, giật tóc, đập đầu tôi vào tường, lấy thắt lưng quấn vào cổ tôi. Mẹ bắt tôi quỳ ở góc nhà, không được ăn tối, rồi bỏ lên trên tầng. Tới mười một giờ đêm thì bố thương, bố xuống dưới nhà nấu cho tí mì. Khi đó tôi sợ quá, ú ớ, không cử động được, co ro, run rẩy trong góc như một con chó hoảng loạn, há mồm cho ba đút cho từng thìa một.
Học kỳ sau, bảng điểm lại được gửi về nhà. Lần này thì bố mắng, không kinh khủng như mẹ, nhưng bố vừa sập cửa ra ngoài thì nước mắt nước mũi tôi trào hết cả ra, tôi chui xuống gầm bàn, nằm co quắp, khóc đến gần nửa đêm mới ra ngoài rửa mặt.
Lên lớp Mười một tôi bị đánh ít hơn nhưng vẫn bị chửi mắng như vậy. Đỉnh điểm là ngày mồng hai Tết năm đó. Tối hôm ấy tôi đang vẽ vời trong phòng, thả lỏng nghỉ ngơi một chút, thì mẹ vào. Không rõ mẹ đang giận cái gì, nhưng mẹ đi vòng vòng xong bắt đầu mắng. Mày chỉ suốt ngày vẽ vời không làm bài, mày vô tích sự, chả làm được cái mẹ gì cả, sao tao lại đẻ ra con như mày, mày chết đi cho rồi. Tôi cãi lại. Mẹ thì biết cái gì, cả năm con đã học vất vả rồi bây giờ đến cả một tí thời gian để làm cái gì đấy cho bản thân mẹ cũng không cho à, đây là phòng con, mẹ đi ra đi. Mẹ đứng dưới, tôi ở trên giường, hai người cùng gào. Bố phải chạy lên can và đẩy mẹ ra khỏi phòng. Tôi sập cửa lại, tắt đèn và bắt đầu gào thét để giải tỏa. Đó cũng là thời điểm tôi cào cấu bản thân, chỗ bụng chân dưới, cổ tay, hoặc là cấu vào lòng bàn tay, cào ở đằng sau gáy nữa. Những tháng sau đó, tôi bắt đầu bỏ bê ăn uống và có dấu hiệu rệu rã, bệ rạc. Tôi lao vào vẽ để giải tỏa, vẽ bạt mạng, kệ mẹ học, vẽ, chỉ có vẽ thôi. Giờ toán trên lớp, tôi đứng đực ra, cô thì cứ gặng hỏi, cứ bắt tôi đứng đó trước bốn mươi con mắt, khiến tôi chỉ muốn chui xuống lỗ. Hỏi dồn mãi mà không nhận được câu trả lời nào, cô lẩm bẩm, “Thế mà cũng đếch hiểu, học làm cái đéo gì.”
LIÊN
Mỗi khi nhớ lại thời niên thiếu, tôi lại thấy mình đeo cặp sách đi bộ qua những ngọn đồi ở miền trung du quê tôi. Khung cảnh yên bình, nhưng tuổi thơ của tôi thì dữ dội. Là con gái lớn, tôi phải ra vườn trồng rau lang, vào rừng lấy củi, mỗi sáng gánh mười lăm thùng nước trước khi đi học, đêm ba mươi Tết vẫn lau nhà và là quần áo cho mọi người. Tôi vẫn nhớ khoảnh khắc bố và em gái châm bánh pháo trước cửa, mùi pháo bay vào nhà, nơi tôi lặng lẽ đơm nốt cái cúc áo và nghĩ thầm, năm mới đã đến rồi đó. Đôi khi tôi tự hỏi không biết mình có được coi là người trong nhà hay không.
Mẹ rất đẹp, tóc dài, đi cái xe đạp Eska, nhưng tôi luôn cảm nhận mẹ có cái gì đó không ổn. Chả bao giờ mẹ vỗ về, âu yếm, hay thể hiện sự biết ơn cả. Mẹ là một bông hoa đẹp nhưng không có hương. Một lần, khi đó là mùa đông, tôi khóc dai, đòi hỏi sự quan tâm, chú ý, mẹ lôi tôi ra bể nước và giội nước vào người tôi. Tôi còn nhớ mình nghĩ gì, “Sao mẹ mình ác thế?” Anh em chúng tôi nghịch ngợm, mẹ cáu, “Chúng mày cút đi đâu thì đi!” Tôi đi lang thang ngoài đường, trong đầu nung nấu, “Sau này mình phải độc lập, vì mình không có chỗ dựa nào cả.”
Bố tôi là nhà giáo, ông đặt mục tiêu cho các con là chỉ có thể học bằng hay hơn người khác. Người khác là ai? Là tất cả. Bây giờ thì tôi có thể giải thích được là cái khao khát mãnh liệt này đến từ sự bất mãn của bố, ông không thành đạt trong công danh sự nghiệp nên dồn hết tham vọng vào con đường học hành của con cái. Năm anh em tôi nổi tiếng học giỏi trong khu vực. Anh trai tôi nghe lời nhất, học chăm nhất, làm bố mẹ hài lòng nhất. Duy nhất có tôi dám cãi lại, dám đặt câu hỏi tại sao, có cần phải như vậy không, điều mà bố tôi, một người gia trưởng, không thể chấp nhận. Tôi là đứa ăn tát, ăn roi nhiều nhất. Ăn tát vì trên đường tới trường tôi cười nói với một đứa con trai cùng lớp, vì bố thấy một cái ảnh chụp chung với cậu bạn kẹp trong nhật ký. Những thứ tôi trải qua, giờ sẽ được coi là bạo lực tinh thần.
Rơm rớm
Tôi lớn lên trong cô đơn và khi trưởng thành không thể hiện được tình cảm là vì vậy. Có một cơ chế tự bảo vệ ngăn để không bao giờ tôi vui quá; vui vừa thôi, chứ vui quá rồi đau buồn lại đến thì mình không thể chịu được. Cho tới khi năm mươi tuổi, khi tôi cùng Lâm bước vào hành trình mà tôi kể dưới đây, thì tôi mới khóc được.
Giờ đây tôi là hiệu trưởng của một trường tiểu học, mới nhận danh hiệu nhà giáo ưu tú, và trở thành trụ cột của gia đình, nhưng tôi vẫn không có cảm giác gần gũi với bố mẹ. Trong tôi chỉ là trách nhiệm, không có cảm xúc - tôi đã có quá nhiều vết thương lòng, chúng hằn sâu vào ký ức. Mình muốn lại gần bố mẹ, nhưng chính mình lại tự đẩy mình ra.
Đúng như mong muốn của bố mẹ, anh trai tôi chỉ biết học. Chỉ có thể bằng hoặc hơn người khác. Bố mẹ hay khoe với hàng xóm điều mà lúc còn nhỏ tôi đã thấy ngớ ngẩn. “Ôi, cái thằng này không biết yêu đương là gì đâu, cứ nói chuyện với con gái là đỏ mặt.” Có gì hay mà phải khoe, tôi bảo vậy và bị ăn tát.
Học xuất sắc vậy nhưng không hiểu sao anh ấy trượt đại học hai năm liền, chắc là vì áp lực lớn quá. Bố mẹ kêu than, còn anh ấy cứ ở lì trong nhà, không giao tiếp với ai nữa. Cuối cùng thì anh ấy cũng tốt nghiệp đại học và xin được vào làm trong một viện nghiên cứu. Nhưng anh ấy không làm được gì, thất bại, thất vọng. Anh bắt đầu hoang tưởng, cho rằng người ta muốn ám hại mình, rồi lao vào học thêm tiếng Anh và lập trình như điên. Ngoài ba mươi thì bố mẹ cưới vợ cho anh ấy, lúc đó anh đã nghỉ việc rồi. Sau khi sinh con gái, cái Hồng, thì cô vợ anh ấy muốn chia tay. Tôi nói với bố mẹ là nên giải phóng cho cô ấy, người ta có thể buộc được chân gà chứ không buộc được chân người. Khi Hồng được ba tuổi thì bệnh anh ấy trở nên nặng hơn. Anh bị trơ thuốc, suy kiệt thần kinh vì tác động của thuốc, và mất năm ngoái, khi anh ấy năm mươi ba tuổi. Tôi nói với bố mẹ là họ đã mất một đứa con vì cách dạy dỗ của họ, nhưng tới khi chết bố vẫn không đồng ý như vậy.
Tôi vẫn nói với cái Hồng là dù bố bị bệnh thì đó vẫn là bố nó, vẫn là máu mủ ruột rà. Nhưng những năm cuối đời, anh tôi không được gặp con gái, dù nó ở cùng nhà. Ông bà còn không cho nó mang cơm lên cho bố, họ sợ cái gì tôi cũng không biết. Tình yêu thương của ông bà với Hồng là mù quáng, nhưng tôi không nói được.
Buồn đau về bố nó bao nhiêu thì ông bà dồn tâm huyết vào đứa cháu bấy nhiêu. Nó ở với ông bà và được coi là đối tượng bất khả xâm phạm. Có hai cái đùi gà thì bà sẽ cho Hồng riêng một cái, hai đứa cháu khác chia nhau một cái. Ông thì ngày đêm ngồi học cùng cháu, bắt nó chép lời giải toán vào cuốn vở rất sạch mà nó đâu có hiểu gì. Đã nhiều lần tôi và bố gay gắt về chuyện ép nó học tới mức bố lật bàn chỉ thẳng tay vào mặt tôi. Khi mẹ nó từ Đông Âu trở lại Việt Nam, tôi khuyên hãy để hai mẹ con ở với nhau, trẻ con cần mẹ, gia đình chỉ hỗ trợ tài chính thôi, nhưng bố mẹ tôi kiên quyết giành quyền nuôi nó và mắng tôi là ngu xuẩn.
Lên cấp Ba, một hôm Hồng bảo tôi, “Mẹ ơi,” nó gọi tôi bằng mẹ, “con không đủ sức học nữa, con kiệt sức rồi.” Tôi nhìn tay nó, “Tay con làm sao thế kia, con rạch tay đúng không? Con nhìn mẹ đây này, trong nhà mẹ là người học dốt nhất, cứ nói thẳng ra như vậy đi, nhưng mẹ không có gì phải xấu hổ, khi trưởng thành, mẹ thành người tháo vát nhất nhà, cái gì cũng đến tay mẹ, nên là con không phải học một cách điên cuồng như thế, khi nào mệt thì con nghỉ.” Rồi Lâm kể với tôi là đã mấy lần cái Hồng đứng trên tầng bốn định nhảy xuống. Tôi làm loạn lên với cả nhà, tôi dọa mẹ, lúc đó bố tôi đã mất, mẹ mà ép nó học nữa là mẹ mất nó đấy. Nhưng mẹ tôi không hiểu. Ngay tuần trước thôi, tôi đang ngồi với mẹ thì Hồng gọi điện từ chỗ học quân sự về. “Bà ơi, con có điểm rồi, con được 3.7 trên 4 điểm, thế là được chứ gì bà?” Tôi giật lấy cái điện thoại, “Con ơi, con không phải lo thế đâu, mẹ nghĩ ba phẩy trên bốn cũng được, con trung bình cũng được, quan trọng là con cảm thấy thoải mái, con hiểu chưa???” Mẹ tôi im.
Nhưng làm sao mà tôi có thể ở bên suốt được để can thiệp?
Đến giờ thì tôi hiểu ra là những gì mình trải qua sẽ để lại dấu ấn trong mình. Tôi phản đối cách bố dạy Hồng, nhưng vẫn vô thức tạo cho con mình áp lực như bố ngày xưa. Cái cách của bố ngấm vào tôi lúc nào mà không hay, khiến tôi nhiều lúc giật mình. Chỉ có thể bằng hay hơn người khác. Sự ám ảnh này vẫn lơ lửng trong không khí của gia đình tôi, của họ nhà tôi, ngày ngày được nuôi dưỡng bằng những lời so sánh, những bình luận, những ánh mắt. Tôi hoàn toàn bất ngờ khi nghe Duy, anh trai của Lâm, nói với bạn gái là mình bị áp lực học hành rất lớn. Tôi và chồng gần như suy sụp khi phát hiện ra Duy đã bỏ ngang đại học và sống với bí mật đó trong nhà hàng năm trời. Lớp Bảy, hồi đó Lâm học chuyên toán, lần đầu tiên nó bảo, “Mẹ nghe con này, con không muốn học thêm nữa đâu, con đau đầu lắm.” Tôi gạt đi. Cấp Ba tôi cho nó vào Chuyên ngữ, hệ B. Nó học đuối, bị cô giáo ghét vì ảnh hưởng tới thành tích của lớp. Nó bắt đầu quay ra vẽ, vẽ ngày vẽ đêm, vẽ trên lớp, vẽ dưới bàn, buổi tối tôi ra khỏi phòng là nó nhỏm dậy vẽ. Đó là một dạng chạy trốn? Xả hơi? Tôi không rõ và cũng không bỏ công tìm hiểu. Với tôi, thế là lười học.
Lớp Mười một, tôi vứt hết tranh và màu vẽ của nó đi. Sau này bác sĩ tâm lý nói là điều đó giống như đột ngột bắt nó cắt đứt với người yêu, khiến nó bị chấn thương tâm lý. Nó gào thét, cãi lại. Tôi không chấp nhận cái bướng của nó, như ngày xưa bố tôi không chấp nhận cái bướng của tôi. Cái hôm đỉnh điểm, tôi lấy chổi quật nó túi bụi rồi đẩy nó ra ngoài hành lang tối. “Có biết đấy là chỗ con nào ngồi không?” Tôi quát, “Nếu không muốn làm người thì ngồi đấy!” Tôi, chồng và Duy ăn cơm trong im lặng, xong quay ra thì thấy nó đang khóc khóc cười cười như mê sảng. Tôi lạnh người, đưa nó vào, bảo chồng chăm sóc con, rồi tự cách ly mình khỏi con để khỏi làm hại con thêm nữa.
SONG LÊ
Lâm và chị Liên tới gặp tôi lần đầu khi con học lớp Mười hai, trong một giai đoạn mà Lâm tự gọi là “chu kỳ tụt pin” của mình. Từ hai năm trước con đã có những giai đoạn như vậy, nhưng bây giờ hai mẹ con mới tới bác sĩ.
Tôi dùng nhiều công cụ để đánh giá, và sau buổi thứ ba thì tôi có thể chắc chắn là Lâm bị trầm cảm và rối loạn lo âu ở mức độ khá nặng. Đây là những ghi chép của tôi. Bề ngoài, Lâm có khí sắc mệt mỏi, trễ nải trong việc chăm sóc bản thân, bỏ ăn, lười tắm, mùa hè mà con vẫn khoác cái áo choàng đồng phục lên người như một lớp bảo vệ. Về mặt tâm lý, Lâm có mức độ tự tin cực kỳ thấp, lúc nào cũng có cảm giác mình là một sản phẩm thất bại của mẹ, trong khi mẹ thành công như vậy, giỏi giang như vậy, thì mình không có giá trị gì, mình đáng bị đại gia đình khinh miệt. Con thấy mình xấu xí, gớm ghiếc và luôn nghi ngờ mọi người chê bai, cười nhạo mình.
Vào thời điểm này, Lâm đã mất hứng thú với vẽ, thứ mà con vốn rất đam mê. Con hay lo lắng, không cảm thấy an toàn về tương lai, luôn sợ những điều bất trắc, tồi tệ xảy ra. Lâm không kiểm soát được cảm xúc, vừa dễ nổi giận ghê gớm, vừa bồn chồn, không thể thư giãn, tim đập nhanh, khó tập trung, nhiều lúc cảm thấy nóng trong người và thỉnh thoảng lại đau bụng do căng thẳng quá.
Qua những buổi đầu, tôi cũng có thể kết luận là Lâm bị bạo hành trong gia đình. Từ hồi cấp Hai con đã bị mẹ đánh rất nhiều. Bị bạt tai, lấy thắt lưng siết cổ, bị bắt quỳ và bỏ đói ở phòng khách tới nửa đêm, phải chui vào một góc. Có những giai đoạn chỉ nghe thấy tiếng hay nhìn thấy mẹ thôi con đã bị nghẹn, ứ, khó thở, muốn khóc và không thể nói được. Thêm vào đó, có những giai đoạn ở trường Lâm bị bắt nạt và bị cô giáo ghét.
Lâm bị kiểm soát cực cao, con thực sự sống và học tập theo định hướng gắt gao của gia đình và dưới áp lực cực kỳ lớn, kỳ vọng cực kỳ lớn của mẹ. Gia đình Lâm có điều kiện và quen biết rộng, nên vạch ra cho con một con đường mà Lâm chỉ có thể đi theo như nước chảy theo máng. Đấy, tôi ghi trong hồ sơ như vậy. Con có cảm giác không được sống cuộc đời của mình, luôn luôn bị theo dõi, luôn luôn lo lắng liệu dam mê vẽ và thiết kế đồ họa của mình có được gia đình chấp nhận hay không.
Rất may là dù bị bạo lực thể chất lẫn tinh thần nhưng con vẫn tôn trọng mọi người trong nhà, chưa chuyển sang thái độ oán ghét, nên cơ sở để hàn gắn vẫn còn. Dù rất sợ mẹ và mong mỏi mẹ mềm mại hơn, Lâm vẫn ngưỡng mộ mẹ và đánh giá mẹ rất giỏi giang, có uy tín ở cơ quan, là trụ cột của hai bên nội ngoại. Con là một đứa trẻ rất hay, thông minh, rất nhân văn, giàu lòng trắc ẩn, tới lúc đó vẫn lo cho tinh thần của Duy, anh trai mình, đang vướng chuyện yêu đương và xích mích với gia đình. Lâm cũng thực sự muốn được giúp đỡ, đây là một điểm tích cực rất lớn, khác với nhiều bạn khác. Tôi nhanh chóng xác định hướng can thiệp của mình là trị liệu liên quan tới gia đình, và nói với chị Liên là tôi cần sự cộng tác của chị, người Lâm chọn để đi cùng mình. Chị đồng ý. Lúc đó chị rất cuống, chị rất yêu con nhưng không biết có thể giúp con như thế nào.
Tôi cứ gặp Lâm hai buổi thì gặp chị Liên một buổi. Tôi hướng dẫn chị làm cùng con những việc nhỏ trong sinh hoạt hằng ngày, như chị đang chăm sóc một đứa trẻ, và khen các cố gắng, dù nhỏ nhất, của Lâm. Khi con cầm lên cái khăn để lau mặt, khi con bước được ra khỏi giường. Tôi khuyên chị ngừng ngay việc so sánh con với bạn bè, anh chị em họ. Tình thương mà Lâm nhận được cực lớn nhưng là thứ tình thương có điều kiện, luôn đi kèm với kỳ vọng, với áp lực. Điều đó khiến tổn thương cứ tích tụ, cứ ngấm dần vào Lâm. Chị Liên cũng cần tôn trọng và cùng con bàn bạc các kế hoạch, chứ không áp đặt. Và vô cùng quan trọng, chị đừng có lo lắng chuyện vẽ vời khiến Lâm bị ảnh hưởng tới học hành, ngược lại, chị phải tìm cách duy trì, nuôi dưỡng được sở thích này. “Khi còn có một hứng thú nào đấy thì người ta còn nhúc nhắc,” tôi nói, “không có thì tất cả sẽ đi xuống hết.”
Những người bị trầm cảm hay mặc cảm về giá trị bên trong và hình ảnh bên ngoài của mình, tự đánh giá mình là kẻ bỏ đi, xấu xí, vô dụng. Lâm cũng vậy. Tôi dùng liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý (rational emotive behavior therapy) của Albert Ellis để chỉnh lại cái suy nghĩ tiêu cực đó. “Có thể một số người cho rằng bên ngoài của con như thế là thô ráp, không nữ tính,” tôi nói với Lâm, “nhưng cô và nhiều người khác thì lại thấy con rất là tự nhiên, bình thường, chả xấu gì cả.”
Thật may là chị Liên rất thông minh, hiểu nhanh vấn đề, và không có thái độ phòng vệ gì lớn, nên chị có thể thay đổi khá nhanh chóng. Đây là một điều kỳ diệu, vì “giang sơn khó đổi, bản tính khó dời,” nhất là ở lứa tuổi của chị. Vì yêu con và tin tưởng vào phương pháp của tôi nên chị rất nỗ lực. Được vài tuần thì Lâm ngạc nhiên, con thấy mẹ bắt đầu ít kiểm soát điện thoại của mình hơn, thả lỏng hơn, thay vì trước kia cứ đau đáu, cứ kèn kẹt. Sau vài tháng, Lâm cũng bắt đầu có những thay đổi, con để tâm tới ăn uống hơn, chịu khó chăm sóc vệ sinh cá nhân hơn. Con bắt đầu dễ ngủ hơn, và ghi lại các giấc mơ của mình theo hướng dẫn của tôi. Cảm giác chán nản, kiệt quệ năng lượng giảm đi, con cảm thấy có động lực, có mục tiêu hơn. Hai mẹ con kết nối với nhau nhiều hơn về cảm xúc, gần gũi nhau hơn về mặt cơ thể, lắng nghe tâm sự của nhau, quá khứ của nhau, gọi tên những cảm xúc của nhau, dẫn tới chấp nhận nhau dựa trên sự thấu cảm chứ không phải áp đặt. Sự thay đổi này, theo Lâm, có công phần lớn của mẹ, rồi sau đó mới là công của chính con.
Nhưng con vẫn bị vật lộn nội tâm, rất là thương. Trong con có sự giằng xé, sống thật với mình, theo đam mê đồ họa, hay sống theo bố mẹ. Cuối cùng thì con vẫn ghi nguyện vọng thi đại học là Tài chính, vì bố Lâm ở trong ngành. Tôi nhận thấy các gia đình càng giàu thì lại càng lo sợ là con họ không sống sót được, nên muốn con chọn con đường “an toàn.” Đây này, Lâm ghi trong sổ là ngoài mục tiêu đỗ đại học thì vẫn có mơ ước tiết kiệm tiền để đi học đồ họa buổi tối rồi làm part-time trong lĩnh vực đó. Tội lắm. Các con không được sống theo đúng bản thân mình, lúc nào cũng đứng trước mâu thuẫn.
Chúng tôi đi với nhau được bảy tháng thì ở buổi gặp cuối cùng Lâm đưa tôi xem một lộ trình con tự vạch ra. Năm nhất đại học thế này, năm hai thế này, kiếm việc thực tập thế này, năm hai mươi lăm tuổi sẽ thế này. Tôi vui mừng, Lâm đã vững vàng hơn nhiều, đã đủ tự tin và lạc quan để nhìn vào tương lai. Mà lúc nào chữ “đồ họa” cũng lấp ló xuất hiện trên trang giấy đó, thương vậy chứ. Tôi đọc được ở đâu đó rằng sau khi những người chết lâm sàng sống lại thì họ đều khao khát được thực sự sống cuộc đời của chính mình.
Trước khi ra về, Lâm nói mong được tôi hỗ trợ để con quay ra giúp ngược lại mẹ. Khi kể lại cho chị Liên điều này, lần đầu tiên tôi thấy nước mắt chị chảy. Trong nhiều tháng trời, chị ấy cứng như đá, không khóc nổi. Đó là sự tự vệ của chị trước những đau đớn mà chị đã phải trải qua. Khoảnh khắc nghe câu nói ấy của Lâm, chị mới tan chảy.
LÂM
Cuối năm đó, mẹ đưa tôi tới bác sĩ tâm lý. Cô nói rất may là chúng tôi đã đến kịp thời, tôi bị trầm cảm, càng để lâu thì càng khó phục hồi. Là người giám hộ của thân chủ, mẹ tôi cũng phải làm việc với bác sĩ, nên thực sự cô ấy đã cứu cả hai mẹ con tôi. Đến giờ thì mẹ đã mềm mại, nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Vẫn còn có lúc mẹ mắng, nhưng mẹ không miệt thị, xúc phạm nữa. Cô bác sĩ nói là cỡ tuổi như mẹ mà thay đổi được như thế là rất may mắn. Còn tôi cũng nhún một phần, thậm chí tôi còn quay lại giúp mẹ. Khi thấy mẹ đang ngập dần trong stress, tâm thần chuẩn bị rất bất an thì tôi chủ động rủ mẹ nấu cơm, hay đi tút tát lại bản thân một tí, rồi tôi kể mấy chuyện linh tinh ở trường để mẹ cảm thấy dễ chịu hơn. Một buổi tối, mẹ hồi tưởng về tuổi thơ bất hạnh của mình, chuyện mẹ như là đứa trẻ bị bỏ quên trong nhà, lặng lẽ đi học, lặng lẽ về nhà ăn cơm một mình. Lủi thủi như một con chó vắng chủ, mẹ cứ tự mày mò lớn lên. Lúc kể, mẹ bị chấn động, người run hết cả lên. Tôi ôm mẹ, hướng dẫn mẹ thở sâu. Tôi ngồi đếm từ một tới mười cho mẹ thở. Dần dần mẹ dịu lại, rồi mẹ bật khóc. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ khóc, ai cũng bảo mẹ là người mạnh mẽ, cứng rắn như sắt.
Từ đó tôi nhìn mẹ với con mắt khác. Tôi hiểu là ai cũng có nỗi khổ riêng của mình. Mẹ không phải chỉ là con người đem lại cho tôi sự đau khổ nữa, mẹ đã từng là một đứa trẻ khao khát tình yêu thương nhưng sau này phải tạo ra cho mình một cái áo giáp bên ngoài. Mẹ nói tôi bướng bỉnh giống mẹ ngày xưa, nên mẹ rất lo, mẹ sợ tôi cũng bất hạnh như mẹ. Vì quá lo lắng nên mẹ trở nên nghiêm khắc tới cực đoan.
Tôi đã an ủi được mẹ, khiến mẹ thấy nhẹ nhõm, được yêu thương. Tôi thấy mình mạnh mẽ lên và trưởng thành rất nhiều. Bây giờ, mẹ có đánh tôi thì tôi cũng không giận mẹ nữa, tôi thương mẹ, vì tôi hiểu quá khứ của mẹ.
Gần đây vẫn có những giai đoạn tôi rơi vào trạng thái tệ, phải cần tới sự hỗ trợ của thuốc. Có hôm tỉnh dậy, mình thấy buồn và kiệt sức mà không có lý do gì. Tuần trước tôi phải hủy cuộc hẹn của chúng ta cũng là vì vậy. Ngay cả cuộc nói chuyện này cũng khiến tôi thấy bị cạn năng lượng, giống cái xe máy hết xăng. Tí nữa về nhà, tôi sẽ phải nằm nghỉ cả tối.
Trừ với một số ít người ra thì tôi gặp khó khăn để nói chuyện. Chỉ cần thấy bầu không khí xung quanh hơi lệch tần số là tôi không bắt chuyện được. Cô bác sĩ cùng tôi lên kế hoạch dần dần chuyển từ nhắn tin sang gọi bằng viber, để tôi bớt sợ giao tiếp đi. Hiện tôi đang thích một em ít tuổi hơn. Chúng tôi đi chơi, nhưng tôi hồi hộp quá nên không thể nói được. Hai đứa ngồi cách nhau một cái bàn nhưng lại nhắn tin cho nhau, tôi cảm thấy như thế thoải mái hon. Em ấy chăm sóc, quan tâm tới tôi rất nhiều. Với tôi cái đó quan trọng hơn là quan hệ tình dục. Nói thật là để vẽ anime thì tôi phải xem phim sex rất nhiều để biết về cơ thể người. Muốn vẽ đẹp thì xem nhiều phim sex vào, giới vẽ chúng tôi hay bảo nhau vậy. Tuổi chúng tôi thì chả ai không xem phim sex hay đọc truyện sex cả. Nhưng không phải cứ yêu nhau là nhất thiết phải có quan hệ tình dục, quan trọng là hai người giúp cho cuộc sống của nhau tốt lên. Mà tôi cũng không quan trọng cái chuyện trinh tiết. Nó chỉ là tấm màng thôi mà, đi xe đạp cũng có thể làm nó rách. Tôi cũng không quan tâm là trước đây bạn đời của mình đã ăn nằm với bao nhiêu người, chỉ cần khi anh là hoa đã có chậu rồi thì anh đừng có lang chạ ở ngoài là được. Trước đấy thì là chuyện của anh. Nhiều anh nam thích lấy vợ xinh, đảm đang, thạo chuyện giường chiếu mà lại phải còn trinh. Vô lý làm sao.
Giờ đây nhìn chung tôi hài lòng với cuộc sống của mình. Niềm vui của tôi là đọc sách, chủ yếu là các tác giả Nhật. Tôi đọc gần hết các cuốn của Otsuichi, Sở thú này, Đồng thoại đen này, rồi Thú tội của Minato Kanae này. Tôi vẽ anime trên một cái bảng vẽ điện tử mà tôi đã tự dành dụm để mua. Mẹ hay hỏi han về bạn bè của tôi, về trạng thái cảm xúc của tôi. Mẹ không khủng bố tinh thần tôi như trước kia mỗi khi tôi bị điểm kém, mà khích lệ, động viên và nói sẵn sàng viết đơn bảo lưu cho tôi nếu tôi thấy mệt quá, tôi không cần phải cố quá.
Bố cũng rất cố gắng giúp tôi. Những thời điểm tinh thần tôi đi xuống thì bố sẽ về nhà ăn trưa cùng để tôi không bỏ bữa. Tôi cũng cố gắng làm những việc nhỏ để trầm cảm không kéo mình xuống đáy. Cho mèo ăn, nấu cơm, đi xe đạp. Người bị trầm cầm thường khá hỗn độn trong việc sắp xếp công việc. Những việc nhỏ như thế cho mình chỗ tựa, một mục tiêu để mình bấu víu vào.
Hôm sinh nhật mười chín tuổi của tôi, mẹ gợi ý tôi tự lên kế hoạch cho cả nhà. sắp Giáng sinh rồi, nên tôi chọn phim The Grinch, phim gia đình. Chúng tôi xem buổi năm giờ chiều, rạp vắng teo, rồi chúng tôi đi ăn thịt nướng ở gần đó, xong thì thơ thẩn đi dạo.
Tôi thấy hạnh phúc.
SONG LÊ
Trường hợp của Lâm rất thuận lọi, may mắn, nhiều em khác thì cứ leo dốc được một đoạn lại tụt xuống, và người trợ giúp các bạn ấy cũng không đủ mạnh như chị Liên để giúp các bạn ấy leo lên. Hoặc họ lại bị tác động bởi người thân trong gia đình. Rồi bố mẹ không tin vào bác sĩ tâm lý, hoặc nghi ngờ con mình đang lừa cả bác sĩ để biện hộ cho sự lười biếng, để được “bác sĩ thương.” Nhiều cha mẹ khi ngồi trong phòng khám mình tưởng là họ thông rồi, nhưng về tới nhà thì những thói quen, suy nghĩ cũ của họ lại trỗi dậy. Họ lại bắt con thực hiện những mơ ước mà trước kia họ không thực hiện được. Họ lại nghĩ mức điểm số đó là chưa hết năng lực của con. Họ lại cắt các giấc mơ hình tròn hình vuông của mình, rồi nhét đứa trẻ vào đấy, nó chỉ cựa quậy được trong đó thôi. Họ rất tội, họ cũng cần phải được trị liệu tâm lý. Nhiều gia đình giàu có, chức tước, bị như vậy lắm. Rồi họ không nhận biết được các dấu hiệu trầm cảm của con, hoặc khước từ coi chúng là dấu hiệu của bệnh lý.
Nửa năm sau buổi trị liệu cuối cùng, Lâm quay lại thăm tôi, “Con thấy thoải mái để gặp lại cô, thoải mái và tự hào. Con muốn tới để kể với cô về những gì con đạt được. Con cảm ơn cô vì cô đã giúp con và mẹ.” Trước kia, mẹ Lâm chấp nhận con ở mức ba, bốn, bây giờ đã là bảy, tám trên mười. Lâm cảm thấy mình được tôn trọng, giữa em và mẹ bây giờ là sự gần gũi, yêu quý, chứ không phải sợ hãi hay kiểm soát nữa.
Tôi cũng nói với hai mẹ con là trầm cảm sẽ không chấm dứt hẳn, nó có thể quay lại ở những thời điểm có nhiều áp lực, cuộc sống không thuận lợi, hoặc cơ thể không được khỏe mạnh. Ở Lâm, mỗi đợt thi học kỳ là một giai đoạn con dễ bị kích hoạt trầm cảm. Tôi nhắc chị Liên theo dõi, nếu thấy xuất hiện những dấu hiệu như khí sắc đi xuống, trễ nải cơ thể, khó ăn khó ngủ, thì cần hỗ trợ luôn, nếu thấy không cải thiện nhiều thì quay lại gặp bác sĩ.
Sau Lâm một năm thì chị Liên mang Hồng, cháu của mình tới. Hồng chịu áp lực học hành ghê gớm từ ông bà nội, và cũng bị chấn thương tinh thần rất nặng. Một ca thương lắm. Hồng cũng chọn chị Liên làm người đồng hành trong quá trình chữa bệnh. Lâm thương mẹ, một tay hai đứa trẻ, nhưng ngoài chị Liên ra thì Hồng chẳng có ai nữa cả. Cả gia đình đó chỉ có mình chị Liên đi theo một hướng.
Trong thực hành nghề của mình, tới gặp nhiều trường họp như Lâm, như Hồng lắm, đến mức nhiều khi tôi sốt ruột. Nhưng sức người có hạn, mình không biết làm thế nào. Với phần lớn các ca tôi đều áp dụng phương pháp trị liệu gia đình (family therapy), như tôi đã làm với Lâm và chị Liên. Thậm chí khi thân chủ của tôi đã rất lớn rồi và đến với tôi vì các vấn đề liên quan tới hôn nhân, con cái hay công việc, thì tôi vẫn phải gặp bố mẹ của họ, tức là thế hệ ông bà, bởi nguồn cơn ẩn ức của họ bắt nguồn từ thời thơ ấu. Chắc là khi về hưu tôi sẽ viết hồi ký về nỗi đau của nền giáo dục Việt Nam. Bệnh thành tích, kỳ vọng khoa cử đã ăn quá sâu vào gốc rễ rồi, khiến thế hệ bị tàn phá này lại quay ra tàn phá thế hệ tiếp theo.
LIÊN
Lần đầu tôi ngồi trong phòng làm việc của bác sĩ Song Lê là khi Lâm tròn mười bảy tuổi. Bác sĩ Lê hỏi tôi muốn gì. Tôi không nói là tôi muốn con học giỏi, con không cái lại. Linh cảm của người mẹ cho tôi thấy là giờ đây những cái đó không còn quan trọng nữa. Tôi trả lời là tôi muốn hiểu con tôi, tôi muốn biết vì sao từ một đứa trẻ sôi nổi, say mê, lanh lợi hồi nhỏ nó đã trở thành một đứa lờ đờ, chán nản, cau có. Bác sĩ Lê nói là thái độ uể oải, xa lánh, không hợp tác của nó không phải đến từ việc nó “mất dạy, lếu láo, lười,” mà tới từ việc nó bị trầm cảm. Lâm có cảm giác bị so sánh với anh trai và với các em họ, bị đối xử không công bằng. Ở lớp thì bị cô giáo không ưa, ở nhà thì bị cấm vẽ, cuộc sống của nó không còn niềm vui, không còn lối thoát. May mà chúng tôi tới kịp thời, bác sĩ nói, nếu muộn nữa, tính mạng cháu có thể bị ảnh hưởng.
Những tháng sau đó, mỗi ngày tôi đều dành nhiều thời gian điểm lại tất cả hành xử của mình, những tương tác của mình với con, cái gì làm cho nó buồn, cái gì khiến nó bị tổn thương. Tôi học để trở thành con người khác.
Tôi dừng hết mọi áp lực học hành với Lâm, thậm chí còn giảm thiểu giao tiếp của nó với những người họ hàng hay hỏi về điểm số. Với những người gần tôi hơn, tôi yêu cầu hẳn là không hỏi về thành tích học hành. Tôi cứng rắn và quyết liệt, mọi người trong nhà đều ngại, có ý kiến gì thì chỉ thì thào với chồng tôi. Tôi phải làm vậy để bảo vệ cái Lâm. Năm đó nó vẫn thi đại học và đỗ Tài chính, làm cả nhà ngạc nhiên. Tôi nhận thấy là với khả năng của con, cộng với trạng thái tâm lý bình thường, thêm sự giúp đớ về phương pháp, thì sẽ ra kết quả.
Làm thế nào để khoi lại hứng thú vẽ của Lâm, sau khi nó đã bị vùi dập? Tôi gọi điện cho đứa bạn thân của nó, “Lâu lắm bác không thấy mày đến choi.” Cuối tuần đó, tôi nhờ chúng thiết kế cái logo cho trường cấp Một của tôi, một cái gì “phù họp với học sinh tiểu học,” rồi kiếm cớ rút lui, để hai đứa bò ra sàn bàn bạc với nhau, vẻ mặt tập trung và sáng lên niềm vui. Khi khép cửa lại, tôi ghi trong lòng là mình sẽ phải xin lỗi con vì đã từng giấu màu, xé tranh của nó. Tôi đã sai, sai quá. Mấy tháng sau, Lâm khoe với tôi cái bảng vẽ điện tử mà dân vẽ anime Nhật thứ thiệt nào cũng phải có, nó mua bằng tiền túi để dành.
Tôi trở thành người bênh vực trẻ em. Khi một đồng nghiệp kể lể là cô ấy khổ sở vì con gái cô ấy “cứ như con trai,” tôi bảo, “Em không nên rêu rao về con như vậy, em đang không tôn trọng con đấy. Chị rất thích cái Rin (Rin là tên con bé con), nó có bản lĩnh, có dám khẳng định bản thân, nó đang vượt qua các khó khăn, chị rất ngưỡng mộ nó, chỉ có em tự làm mình và làm nó khổ mà thôi.”
Mình tôi có ý thức thay đổi thì không đủ, tôi phải thay đổi cả bố của Lâm nữa. Bình thường, anh ấy sẽ mang đồ ăn tới tận bàn cho nó trong lúc nó đang tập trung làm cái gì đó, sẽ đập vào vai nó, “Con ăn đi, con ăn đi, khổ thân con.” “Con không thích ăn, bố buồn cười nhỉ,” nó sẽ gắt, “bố đi ra đi.” Và bố nó sẽ cáu lại, “Cái con này hay nhỉ, bố chăm mà con hỗn thế à, con này láo…” Ngày nào cũng như vậy. Tôi nghĩ bố mẹ nên định nghĩa lại chữ láo. Trước khi phán xét, mình hãy lắng nghe giọng của nó, nhìn vào mắt nó, để thấy cảm xúc của nó, hiểu được tâm lý của nó. Nó cảm thấy được tôn trọng, hay bị kiểm soát, hay bị quấy rầy, hay đang oan ức? “Con lớn rồi, nó không thích được quan tâm như một đứa trẻ nữa,” Tôi phân tích cho chồng, “Nếu anh muốn nó ăn sữa chua, anh có thể nói, ‘Con lấy hộ ba một hộp sữa chua trong tủ lạnh, trong đó có cả của con đấy, nếu con thích..Tôi rất giỏi tạo ra các tình huống để mẹ con giúp nhau như vậy. “Mẹ muốn gội đầu mà đau lưng quá,” tôi sẽ ca cẩm, và Lâm sẽ xung phong giúp tôi, hai mẹ con lại có cơ hội rủ rỉ với nhau.
Nghe như mâu thuẫn, nhưng một mặt tôi và các con gần nhau hơn, mặt khác, tôi cho chúng nhiều không gian hơn. Tôi rút lui ra ngoài, không kiểm soát, không soi mói, tra hỏi như một cai ngục nữa. Trước kia, chúng rất sợ tôi, chúng bị ức chế khi ở bên tôi mà tôi không biết vì sao, lại cứ nghĩ hay là vía của tôi “át vía chúng nó”. Rồi tôi bắt đầu xây dựng một cuộc sống riêng cho mình, cùng chồng đi du lịch, các con không phải là trung tâm vũ trụ của tôi nữa. Khi tôi thể hiện sự tin tưởng vào tính tự lập, khả năng ra quyết định và tinh thần trách nhiệm của chúng thì chúng lại chia sẻ với tôi nhiều hơn.
Tôi sẽ là người dối trá khi nói rằng chặng đường thay đổi thói quen, thay đổi bản thân trong hai năm qua của gia đình tôi là một cuộc dạo chơi thanh thản. Có những lúc sự giận dữ bùng nổ, có những khi phản xạ cũ trỗi dậy. Giờ đây, khi thấy tức giận trào dâng trong lòng, tôi cố gắng chỉ nói với con một câu như, “Con hay nhỉ! Mẹ không hiểu nổi con đấy!” rồi nhanh chóng bước chân ra chỗ khác, trước khi mình kịp làm tổn thương con.
Bước vào năm thứ hai đại học, Lâm lại cảm thấy bị quá tải. Tôi đồng ý để con bảo lưu, trong sự không bằng lòng của họ hàng. Khi tôi cùng Lâm quyết định để nó vào Sài Gòn với anh nó một thời gian, thay đổi môi trường, có những trải nghiệm mới, học cách sống tự lập, thì cả nhà rầm rầm phản đối. Mẹ tôi khóc, cho là tội ác. “Nhà cao cửa rộng như thế mà đẩy con vào chỗ khổ. Chúng nó thích như vậy, nhưng sao mình lại đồng ý? Chúng nó thích nhưng rồi chúng nó sẽ khổ. Lại còn để chúng đi làm thêm trong khi gia đình có thể chu cấp tài chính đầy đủ nữa chứ”. Tôi nói, các cô các chú đừng có cản, đã tới lúc tụi trẻ chịu trách nhiệm cho các quyết định cá nhân của mình. Nhưng thú thật, nhiều lúc tôi cảm thấy cô đơn trong nhà mình.
Vậy là từ mấy tháng nay, Lâm sống cùng anh và theo học một khóa đồ họa trong Nam. Ở nhà với bố mẹ thì người giúp việc làm hết, trong đó thì hai anh em phải tự đi chợ, nấu ăn, giặt giũ, cuối tuần ngồi hạch toán chi tiêu. Mọi người cứ tưởng là chúng tôi sẽ sốt sắng, hai tuần lại bay vào một lần. Với chúng tôi thì tiền không thành vấn đề rồi, nhưng tôi bảo, không, tôi không muốn chúng có cảm giác đang bị kiểm soát.
Hôm qua, Lâm lo không biết là năm học tới đã đủ khỏe mạnh để quay lại trường chưa. Tuần vừa rồi nó không đi làm được buổi nào. Mức trầm cảm của nó vẫn lên xuống theo hình sin, số buổi đi làm là một thước đo. Con mèo ở nhà là một thước đo khác. “Bố mẹ chăm nó mệt lắm rồi, nó cứ cào ghế của mẹ,” tôi sẽ đùa. Lúc vui thì Lâm sẽ phản ứng khác, lúc mệt thì nó sẽ cáu.
“Con không bắt buộc phải quay lại đại học bằng mọi giá, con có thể học nghề.” Tôi trả lời, rồi nói thêm những điều mình đã nghĩ từ lâu, “Mẹ không quan tâm tới việc con có thành danh ông nọ bà kia hay không, điều mà mẹ mong muốn là con có một cuộc sống hạnh phúc, thế thôi. Con là con của mẹ. Cả xã hội có thể quay lưng lại với con nhưng chắc chắn con luôn sẽ có mẹ bên cạnh.”
Đầu dây bên kia im lặng. Rồi nghe thấy tôi ho, nó hỏi dồn dập, “Mẹ ốm à, mẹ uống thuốc đi chứ, mẹ lại ăn giá phải không, hay mẹ lại uống nước lạnh?” Hai năm trước, nó không như vậy với tôi. Nó đã thay đổi bởi tôi đã thay đổi. Khi Lâm chia sẻ với bác sĩ Lê, một năm sau cái buổi gặp đầu tiên ấy, là nó thấy vui vì mẹ hiểu nó hơn, lắng nghe hơn, gần gũi hơn, tôi thấy được đền đáp.
Nhưng tôi vẫn buồn là không thể giúp cái Hồng được nhiều hơn. Vừa rồi tôi đem xoài xanh lên chỗ nó học quân sự để tổ chức sinh nhật, nó nhảy cẫng lên vui sướng, “Mẹ Liên tâm lý quá.” Hồng tới cô Lê chừng nửa năm sau Lâm, và bây giờ vẫn tiếp tục phải uống thuốc, vẫn mất ngủ. Cơ chế tự bảo vệ làm nó quên sạch những kỷ niệm thơ ấu, khiến nó cứ buồn và lo lắng. Mỗi lần bị áp lực nặng là nó lại ngạt thở, bà thì cứ cho là nó bị bệnh tim. Những đứa trẻ như nó cần có một môi trường sống với những người xung quanh hiểu biết hơn.
Hai năm trước, tôi đã kịp thời bẻ lái trước khi cuộc sống của gia đình tôi rơi xuống địa ngục, nhưng con đường trước mắt vẫn không đơn giản. Sự tiến bộ và phục hồi của con như những hạt cát, tôi là người đi nhặt chúng. Tối đến, tôi nằm điểm lại, thấy mình có hai, ba, bốn hạt thì cứ như là có hai, ba, bốn hạt vàng. Tôi có cơ duyên nên mới gặp đứa con này, nó đến như một sự thử thách, kiếp trước tôi mắc nợ nó cái gì đó, và kiếp này tôi trả nợ. Tôi giờ, tôi thấy mình may mắn, con khiến tôi phải học hỏi và trưởng thành trên đường đời.
20. LỜI TÁC GIẢ:
HÀNH TRÌNH CHỮA LÀNH
Né tránh, lo âu, hay hỗn độn, các mẫu hình gắn kết tiêu cực ở người lớn, như đã được trình bày ở Chương 17, đều bắt nguồn từ những trải nghiệm tổn thương của tuổi thơ. Như những đường ray chạy ra khỏi ga tàu, chúng đấy người ta vào những khuôn mẫu suy nghĩ và hành xử mà họ không dễ dàng thoát ra. Họ đã được “lập trình” bởi những mô hình nội tại, những quan điểm về thế giới và về bản thân, để có nguy cơ lặp lại những quan hệ cũng độc hại như những quan hệ mà họ đã có với người chăm sóc khi còn nhỏ.
Tuy nhiên, như John Bowlby, cha đẻ của lý thuyết gắn kết, đã nhận ra từ thập kỷ 1970, dù không dễ dàng, những mẫu hình gắn kết tiêu cực kia có thể thay đổi để trở thành vững vàng. Đường ray tàu có thể dần chuyển hướng qua các bộ phận bẻ ghi. Dù không thể được đập bỏ hoàn toàn, phần mềm có thể được cập nhật.
Nhưng những thay đổi không tới từ các bài lên lớp lý thuyết, hay bằng ý chí đơn thuần. Điều người ta cần là những trải nghiệm mới, đi ngược lại những trải nghiệm quá khứ của họ. Quá trình chữa lành của Xuân Dương bắt đầu từ thời điểm cô gặp được nhóm đạp xe xuyên Việt. Trước kia, bố mẹ cô không đủ năng lực cảm xúc để nhận biết các tổn thương của cô. Bản thân cũng là nạn nhân của định kiến xã hội, họ không bảo vệ được cô, một đứa trẻ lớp Tám, trước sự độc địa của người xung quanh, khiến cô phải sống với cảm giác gia đình mình dị dạng, mình bị hắt hủi. Ở nhóm bạn mới, cô tìm được một nơi trú ấn an toàn. Lần đầu tiên, cô thấy mình được che chở, được hiểu và chấp nhận, được kết nối và yêu thương một cách sâu sắc. Lần đầu tiên, cô có thể để người khác nhìn vào nỗi đau của mình mà không lo bị chê cười, phán xét hay thương hại.
Tương tự như vậy, khi gặp bác sĩ Song Lê, lần đầu tiên Lâm được lắng nghe, được có cảm giác có người quan tâm tới các cảm xúc, những nỗi buồn, những mơ ước và đam mê của mình. Với sự trợ giúp của bác sĩ, cô có thể quay lại nhìn sâu vào những trải nghiệm đau đớn của bản thân và giải nghĩa những gì xảy ra với mình.
Những trải nghiệm mới, như Xuân Dương có với nhóm bạn đạp xe, như Lâm có với bác sĩ tâm lý, được các nhà chuyên môn gọi là những “trải nghiệm mang tính điều chỉnh” (corrective experience). Bất ngờ, đi ngược với những gì người ta đã biết và chờ đợi, chúng điều chỉnh hệ quả của những trải nghiệm cũ. Những trải nghiệm điều chỉnh này có thể tới từ một người họ hàng tâm lý, một thầy giáo thấu hiểu, một nhà sư trắc ẩn, những bạn bè không phán xét, một bác sĩ tâm lý chuyên môn cao hay sau này, từ một người bạn đời kiên nhẫn và bao dung. Khi đủ mạnh mẽ, chúng có thể làm lung lay cái nhìn thế giới của một cá nhân, khiến họ bừng tỉnh và nhận ra rằng cuộc sống không chỉ là những điều cay đắng và đau buồn mà họ đã từng biết. Lúc này, người bị chấn thương tâm lý có thể quay lại với những ký ức, hồi tưởng có thể đã bị chôn vùi nhưng chưa được chữa lành của mình, nhưng trong một bối cảnh an toàn, khiến họ không bị chúng khủng bố. Mục tiêu của việc này không phải là để tăng thêm oán giận, mà để nhận diện những nỗi đau và những tác động của chúng lên nhân cách và cuộc sống của người bị tổn thương, để trọn vẹn nói ra nỗi tiếc nuối về một tuổi thơ đẹp đẽ mà họ không bao giờ có được, một bước cần thiết cho quá trình phục hồi. Hiển nhiên, mẫu hình gắn kết tiêu cực tồn tại càng lâu, với các chấn thương càng sâu sắc, thì càng khó để thay đổi. Một đứa trẻ sáu tháng tuổi được một gia đình yêu thương nhận làm con nuôi có thể nhanh chóng vượt qua những trải nghiệm khắc nghiệt của trại mồ côi và trở nên khỏe mạnh về tâm lý. Với một đứa trẻ mười hai tuổi, bố mẹ nuôi của nó sẽ cần vô cùng nhiều kiên nhẫn để có thể thay đổi tâm lý của nó, để nó rũ bỏ được thái độ cảnh giác, thủ thế hay lo sợ, đeo bám, và thiết lập niềm tin vào con người và cuộc sống. Hai năm sau khi bắt đầu con đường chữa lành, trầm cảm vẫn thỉnh thoảng trỗi dậy ở Lâm, và Xuân Dương vẫn sợ yêu con trai trưởng.
Trải nghiệm điều chỉnh kinh điển và nối tiếng nhất xảy ra với Jean Valjean, người tù khổ sai trong tiểu thuyết Những người khốn khổ của Victor Hugo. Mồ côi cha mẹ, lớn lên trong đói nghèo và vào từ khi còn trẻ vì ăn cắp một ổ bánh mì, cả cuộc đời mình, Jean Valjean chỉ biết tới sự độc ác của thế giới quanh anh. Mười chín năm trong ngục (hạn tù được kéo dài bốn lần vì những cố gắng vượt ngục bất thành của anh), anh không rỏ một giọt nước mắt. Anh đã giết chết các cảm xúc của mình, đã trở thành một người né tránh cực điểm.
Lang thang sau khi mãn hạn tù, một đêm, Jean Valjean được giám mục Myriel cho ăn và cho trọ lại. Thức giấc lúc nửa đêm, anh vơ vét những món đồ bạc của ông và biến vào bóng tối, chỉ để bị bắt sau đó mấy tiếng và bị áp giải quay lại nhà giám mục. Khi nhìn thấy Jean Valjean cùng ba người cảnh sát, vị giám mục reo lên:
“Anh đây rồi! Thật vui được gặp lại anh. Anh quên là tôi đã cho anh cả hai cái chân nến này à? Chúng cũng là bạc như những thứ kia, giá trị tới hai trăm franc đó. Anh quên chúng à? Hãy rời đi trong bình an nhé. À mà anh bạn ơi, nếu có dịp lại ghé qua thì anh không cần phải lội qua vườn đâu, cánh cửa này không bao giờ khóa. Và đừng quên, đừng bao giờ quên là anh đã hứa với tôi là anh sẽ dùng số tiền này để trở thành một con người tốt.”
Sự tha thứ của vị giám mục là một đòn tấn công đặc biệt và bất ngờ làm rung chuyển thế giới quan của Jean Valjean. Hành vi của ông đi ngược với hình dung của anh, làm anh mất đi sự cân bằng cảm xúc mà anh đã xây dựng trong hai mươi năm qua, một sự cân bằng dựa trên triết lý con người phải độc ác với nhau. Ngày hôm sau, khi gặp một cậu bé đang chơi trên đường, Jean Valjean chặn chân lên đồng xu hai franc rơi trên đất của cậu, mặc cho cậu van xin. Phản xạ giẫm lên đồng xu là một hành động vô thức hòng tái thiết lập sự cân bằng cũ. Sau khi cậu bé khóc lóc chạy đi, Jean Valjean bừng tỉnh và đuổi theo để trả lại đồng xu nhưng bất thành. Anh hiểu rằng mình đã bước vào một cuộc tranh đấu nội tâm khổng lồ để trở thành con người mới.
Nhóm bạn đạp xe của Xuân Dương, bác sĩ Song Lê, giám mục Myriel, họ đều có một phẩm chất quan trọng, đó là lòng trắc ẩn. Lòng trắc ẩn khiến họ có khả năng nhìn thấu vẻ ngoài của một con người (một cô gái có gia đình chả giống ai, một nữ sinh cáu bẳn khó gần, một kẻ tù tội) để chạm tới bản thể khổ đau của người đó, khiến họ có cảm giác được an ủi. Yêu thương, trắc ẩn là điều mà những người có một tuổi thơ tổn thương thiếu thốn. Thêm vào đó, sau bao nhiêu năm nghe người thân nói rằng họ là phế phẩm, vô dụng và là sự nhục nhã của gia đình, họ tin vào những điều đó và quay ra tự chỉ trích, miệt thị hay căm ghét bản thân. Họ thiếu lòng trắc ẩn với chính mình (self-compassion).
Trong khi đó, tâm hồn ta cần lòng trắc ẩn với chính mình như cơ thể cần vitamin. Đây là một sự thương cảm hướng vào trong, coi bản thân là một thực thể để mình chăm sóc và quan tâm, đặc biệt trong lúc mình khổ đau nhất. Khi xuất hiện, nó đem tới cảm giác nhẹ nhàng, được an ủi; lo âu và buôn phiền lắng xuống. Trong một thí nghiệm tâm lý học, sau khi những người tham gia thực hiện một bài tập để tăng lòng trắc ẩn với bản thân (ví dụ hình dung ra một người bạn hiền gửi tới mình những thông điệp chấp nhận và yêu thương vồ điều kiện), mức hoóc môn cortisol của họ, vốn liên quan tới cảm nhận về stress, giảm xuống; đồng thời, sự biến thiên tần số tim, một chỉ số gắn với khả năng tự xoa dịu bản thân, tăng lên.
Những yếu tố gì cấu thành nên lòng trắc ẩn với chính mình? Chất liệu đầu tiên của nó, thú vị thay, theo nhà tâm lý học Kristin Neff, một nhà nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực này, là chánh niệm. “Tôi đang đau khổ,” “mình đang bị tổn thương,” chánh niệm giúp chúng ta lùi lại một bước, nhận diện được những gì đang xảy ra bên trong mình mà không phán xét. Bước lùi này quan trọng để chúng ta bước ra ngoài dòng thác của những cảm xúc tiêu cực đang hòng nhấn chìm ta.
Yếu tố thứ hai của nó là ý thức rằng câu chuyện của mình không độc nhất, rằng đau khổ là một phần của cuộc sống, rằng ai cũng có những ẩn ức của mình, kể cả những người đã và đang hành hạ ta. Ý thức này khiến ta bớt thấy lẻ loi, đơn độc, vốn là cảm giác thường trực của người không được yêu thương. Khi hướng cái nhìn ra bên ngoài và thấy những số phận khác, những nỗi đau khác, nỗi đau của ta nhỏ lại. Nó đã được đặt trong một tổng thể đời sống con người rộng lớn hơn, nó không còn khổng lồ, chiếm đoạt toàn bộ không gian và tâm trí của ta nữa. Ta cảm thấy dễ thở hơn, bình tĩnh hơn.
Đến lúc này, ta tự nhắc nhở rằng mình hãy dịu dàng với chính mình, hãy chấp nhận bản thân, với tất cả những khiếm khuyết, những vụng về và tổn thương. Nhẹ nhàng với bản thân (self-kindness), theo Neff, chính là yếu tố thứ ba của lòng trắc ẩn với chính mình. Nó giúp ta có thế cư xử với chính mình như với một người bạn quý đang trong một hoàn cảnh khó khăn. Thay vì tự sỉ vả mình là kém cỏi và ngu dốt, ta tự an ủi và động viên. Ta cũng nhắc nhở bản thân về quyền được mưu cầu hạnh phúc của mình, thay vì chạy theo nghĩa vụ sống hộ người khác, dù người đó là cha mẹ mình.
Trắc ẩn với chính mình không có nghĩa là tự thương hại. Người tự thương hại coi mình là một loser, một kẻ thất bại, không đáng được tôn trọng, được đứng ngang hàng với những người khác, chỉ đáng được bố thí tình cảm. Điều đó, nếu không dẫn tới cảm giác tự ghét bỏ thì cũng dẫn tới cảm giác mình bị cô độc, ngoài lề, mình không có gì để trao tặng người khác. Ngược lại, sự nhân từ với chính mình khiến ta quỳ xuống để đỡ bản thân lên.
Trắc ẩn với chính mình cũng không có nghĩa là tự nuông chiều. Ngược lại, khi được khích lệ, ta sẽ có động lực hơn để đi qua khó khăn, hướng tới một tương lai khỏe mạnh và an lạc chứ không chạy trốn vào những điều dễ dãi trước mắt. Mong muốn thay đổi bản thân của ta sẽ tới từ bên trong, chứ không bắt nguồn từ nguy cơ bị trừng phạt hay viễn cảnh được khen thưởng bởi người khác. Ta có thể bình tĩnh nhìn ra những thiếu sót của mình mà không liên tục so sánh mình với người khác, có động lực thực hiện những gì mình mong muốn mà không bị tra tấn bởi ám ảnh mình cần phải hoàn hảo và mình cố gắng bao nhiêu cũng sẽ không đù. Người trắc ẩn với chính mình ít sợ hãi thất bại hơn và không bị phá hủy bởi sự xấu hố, nhục nhã, nếu họ không đạt được đích của mình. Họ dịu dàng mời bản thân nghỉ chân, nhìn nhận hoàn cảnh, rồi đi tiếp.
Cuối cùng, trắc ẩn với bản thân không phải là chạy trốn các cảm giác tiêu cực. Nó làm giảm nhẹ sự căng thẳng, khổ đau hay giận dữ, nhưng không phải bằng cách chối bỏ sự hiện diện của chúng hay đè nén chúng. Khi nhận diện được những cảm xúc này bằng chánh niệm, ta “ôm ấp chúng,” theo chữ của thiền sư Thích Nhất Hạnh, ta không nhốt chúng xuống dưới hầm cảm xúc tiêu cực có đó, nhưng đang được chăm sóc. “Tình thế không còn hỗn loạn, em bé không còn bị để cho khóc la một mình,” Thích Nhất Hạnh viết. “Bà mẹ đã có đó để săn sóc em và tình trạng đã trở nên ổn định.” Được gọi tên, được chú ý tới, được gặp sự dịu dàng, cơn giận hay sự đau khổ sẽ từ từ dịu xuống.
Ngoài việc tìm được đến các trải nghiệm điều chỉnh và học cách tôn trọng, chấp nhận và yêu thương bản thân, Xuân Dương và Lâm còn làm được một điều khác nữa rất cần thiết cho quá trình chữa lành của mình. Họ có sự thấu cảm. Thấu cảm giúp Lâm nhìn thấy ở mẹ không chỉ một hiệu trưởng sắt đá, lạnh lùng, một người đã từng vô cùng khắc nghiệt với mình, mà còn là một đứa trẻ lủi thủi lớn lên một mình, đầy cô đơn và thương tổn. Hiểu biết khiến cô có mong muốn quay lại giúp mẹ, hai người dìu dắt nhau đi tiếp trong cuộc đời. Thấu cảm giúp Xuân Dương hiểu được rằng những người lớn trong nhà mình vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân, rằng sự độc ác của con người tới từ sự vô minh và định kiến xã hội. Hiểu biết khiến giận dữ và sợ hãi trong cô dần dịu đi, nhường chỗ cho thương xót và bao dung.
Nhìn ra được rằng người làm mình đau khổ không phải là người có bản chất xấu xa, mà là người cũng đã trải qua một tuổi thơ độc hại, cũng không có gắn kết vững vàng với cha mẹ, cũng không biết cách yêu thương bản thân, cũng thiếu sự trưởng thành trong cảm xúc, người bị hại sẽ buông bỏ được oán giận và cay đắng. Buông bỏ không có nghĩa là phủ nhận trách nhiệm của người gây hại, xí xóa cái sai, cho là nó không quan trọng, hay chấp nhận và tiếp tục chịu đựng bạo lực và ngược đãi nếu chúng vẫn xảy ra. Để bảo vệ mình, người trẻ cần xác lập ranh giới với người thân và phát ra thông điệp rõ ràng về quyền được sống cho bản thân, quyền được mưu cầu hạnh phúc, với một thái độ cương quyết nhưng phi bạo lực. Nếu người bị hại không ý thức được về những sai trái, họ sẽ tiếp nối vòng quay bạo lực và chuyển giao sự độc hại tới thế hệ tiếp theo. Nếu họ ý thức được về cái sai nhưng không tự bảo vệ, họ sẽ bị phá hủy, sẽ căm ghét người làm mình đau khổ, căm ghét bản thân, hoặc cả hai. Và một lúc nào đó trong tương lai, khi người gây hại đã già, yếu, không còn quyền lực, nạn nhân có thể sẽ đem những tổn thương quá khứ của mình ra để trách móc, tấn công, thao túng tâm lý họ, tiếp tục đào sâu những tổn thương ở cả hai phía.
Ngược lại, khi sự buông bỏ đúng nghĩa, được kích hoạt bởi thấu cảm, xảy ra, nó sẽ đem lại cho người bị hại cảm giác tự do, được giải phóng, một sự nhẹ nhõm, khỏe khoắn tinh thần, kể cả khi hành vi và thái độ của người gây hại không thay đổi. Xuân Dương sẽ không thay đổi được những người cùng làng, thậm chí bố mẹ và dì của cô có thể sẽ không bao giờ hiểu được con người cô, nhưng cô đã giải thoát mình ra khỏi vị trí nạn nhân, cô trở thành người mạnh mẽ, vững vàng, để một lúc nào đó có thể quay lại giúp người thân. Do đó, sự buông bỏ đặt nền móng cho một quá trình hòa giải và hàn gắn quan hệ trong tương lai. Khi người bị hại không còn mang trong mình sự tủi hổ, oán giận, thì lòng trắc ẩn và sự hiếu biết của họ có thể tác động tích cực tới mẫu hình gắn kết của cha mẹ họ, khiến những người này cũng được chuyển hóa.
Hành trình của tôi với những người trẻ kết thúc ở đây. Tôi xin tặng họ và tặng cha mẹ họ, những người đã trải qua bao đau khổ do người thân của mình đem tới, một bài thơ của thiền sư Pháp Linh ở Làng Mai, Pháp. Mong cho tất cả chúng ta, bất kể tuổi tác, có cơ hội để tìm mình, được sống cuộc sống của mình, trong tình yêu thương vô điều kiện và sự sum vầy với người thân.
Hãy để tôi nghỉ ngơi một chút
Hãy để tôi nghỉ ngơi một chút
Đắm mình trong cơn lạnh với nắng trời
Kìa chao khẽ những cánh lá sồi
Dưới bầu trời xanh ngát.
Tôi nhọc nhằn đã chừng quá lâu,
Hãy để tôi nghỉ ngơi một chút
Tôi nhọc nhằn đã chừng quá lâu,
Để chứng thật mình với chính mình
Để chứng thật mình với mọi người
Tôi đã gắng xứng đáng với tình yêu của họ
Gắng chứng thật rằng tôi yêu họ.
Giờ đây, mắt tôi bỗng tỏ
Tôi không hoàn thiện, cũng chẳng thiếu hụt gì
Gánh nặng tháng năm của bao thế hệ kia
Tôi nhẹ nhàng đặt xuống.
Tôi đặt xuống với ân tình sâu nặng
Những gánh nhân gian ai nào biết đã đa mang
Ai nào thấy cái nhìn ám ảnh trong gương
Ai nào thấu tại sao lòng mình không bình lặng.
Và chỉ khi bắt đầu đặt xuống
Buông đi tất cả
Tôi mới nhận chân lẽ đời
Tôi đã chạy mướt mải suốt thời gian
Bây giờ, tôi để mình ngừng lặng, hân hoan.
(KD dịch từ nguyên bản tiếng Anh)
Nguyên bản tiếng Anh:
Let me rest for a while
Let me rest for a while
Let me enjoy the cold and the sunlight,
The soft falling oak leaves
And the blue-white sky.
I have struggled so long,
Let me rest a while
I have struggled so long
To prove myself to myself,
Myself to others, to try
To be worthy of their love To try to prove I loved them.
Now I start to see
That I am neither lacking nor complete
And I let the burden of ages, of generations softly down.
I put it down with all my love
We did not know we were carrying it -
We did not catch the haunted look in the mirror
We did not understand why we had no peace.
And it is only as I start to put it down
To let it go
That I see it for what it is
I have been running for a long time
Now I allow myself to stop and enjoy.
(Brother Phap Linh, a monastic student of Thich Nhat Hanh, living in Plum Village, France)

