Trúc Thư Dao - Tập 2: Nước Tấn - Chương 15
MỘNG CŨ THIẾU THỜI
Cô nắm chặt tay y, “Không, tướng quân chỉ làm việc mình nên làm thôi.” Cô có tư cách gì mà trách móc người trước mặt đâu, y đã làm đủ rồi, tình thân, tình yêu và trách nhiệm với gia tộc đã khiến y tơi tả, mãi tới hôm nay cô mới nhận rõ đằng sau vẻ bề ngoài ung dung bình thản của y là một trái tim đau khổ bất đắc dĩ nhường nào.
Sau khi việc ở Tần kết thúc, Triệu Vô Tuất bắt đầu thu dọn hành lý chuẩn bị về Tấn. Chúc Độc muốn đưa Mật Tào về nhà nên cũng ra ra vào vào tất bật.
Thập ngày ngày ngồi ngẩn ra trên mái nhà, không gặp Ngũ Phong, cũng không gặp công tử Lợi, cứ thẩn thơ ngồi đó, thỉnh thoảng lôi huyên ra thổi một khúc, mặc ai làm gì thì làm.
Bá Doanh tuy quyến luyến không muốn đi, nhưng chẳng có lý do gì ở lại nên hết sức phiền muộn, trèo lên mái nhà ngồi xuống cạnh cô than thở, “Tử Ảm nói xem, Ngũ tướng quân liệu có sang Tấn gặp khanh phụ ta xin cưới không? Y có chê ta già quá rồi không?”
Cô lặng thinh, tiếp tục thổi huyên.
“Ta hai mươi chín tuổi rồi, từ sau khi con trưởng tộc Trung Hàng chết đi, ta cứ ngỡ không ai chịu cưới ta nữa. Không ngờ lại đợi được một người đàn ông tốt thế này” Bá Doanh cười tươi rói kéo tay áo cô bắt chuyện, “Hay là giờ ta đi nói với y, rủ y cùng chúng ta về Tấn? Tử Ảm bảo nếu y biết Tiểu Doanh là Bá Doanh tộc Triệu, liệu có vui không?”
Bá Doanh vốn không hề quan tâm cô có nghe hay không, chỉ muốn tìm ai đó trút bầu tâm sự mà thôi, nhưng từng câu từng chữ chị ta thốt ra, lọt vào tai cô lại là một lần giày vò thảm khốc. Lúc quân địch vây thành, chẳng ai biết được liệu mình có sống sót nổi không nên cô đã hoàn toàn quên lãng những nghi ngờ và oán hận với Ngũ Phong trước kia, chỉ một lòng muốn ở bên y, bất kể sống chết. Giờ liên quân Ba Thục đã thua trận rút lui, những điều trước kia cô tránh né, quên lãng lại hiện lên trong tâm trí, mà sự tồn tại của Bá Doanh cũng khiến mọi thứ càng thêm phức tạp.
“Này Tử Ảm! Ngũ tướng quân cho người gọi cô tới đấy!” Chúc Độc đứng giữa sân nghển cổ gọi với lên.
“Biết rồi, anh cứ cho người đó về đi, lát nữa tôi đi!” Cô đáp một tiếng rồi buông huyên xuống. Trước khi ổn định lại tâm trạng mình, cô chẳng biết nói gì với y cả.
“Tử Ảm, trước kia lúc ở Tấn cô nói dối ta đúng không?” Bá Doanh đang thao thao bất tuyệt bên cạnh chợt lặng thinh rồi buông ra một câu hỏi làm người ta giật nẩy mình.
“Tôi nói dối gì cơ?” Tim cô ngừng một nhịp.
“Thực ra cô là người được Ngũ tướng quân nuôi dưỡng, đúng không?” Bá Doanh mân mê miếng ngọc bội trắng chạm hình chim đeo bên hông, giọng bình thản, “Tuy ta không nhạy bén bằng Hồng Vân nhi, nhưng hơn nửa tháng nay ít nhiều cũng nhìn ra được manh mối.”
“Quý nữ, chuyện giữa tôi và tướng quân nhất thời không thể nói rõ được, tôi e quý nữ nghĩ ngợi nên mới giấu đi thôi.”
“Ta hơn cô mười lăm tuổi, rất nhiều việc ta không nói, không có nghĩa là không hiểu.” Bá Doanh mỉm cười nhìn vào mắt cô, “Tử Ảm, ta rất thích cô, nhưng từ bé đến lớn ta không bao giờ chia sẻ thứ mình thích với người khác, kiếm là vậy, đàn ông cũng vậy, dù kẻ ấy có là bạn ta chăng nữa. Ta nghe nói giờ trong phủ Ngũ tướng quân không có hầu thiếp, mong rằng sau này cũng sẽ như thế mãi, cô hiểu ý ta chứ?”.
Những lời này của Bá Doanh như sét đánh ngang tai cô, chẳng lẽ vừa rồi Bá Doanh huyên thuyên tâm sự chuyện tình cảm là nhằm nhấn mạnh Ngũ Phong là của mình? Nhìn gương mặt tươi cười cùng đôi mày cong cong của Bá Doanh, Thập chợt thấy xốn mắt kinh khủng, một cảm giác khó tả nhoi nhói đâm vào sống lưng cô rồi lan ra khắp người.
Cô đờ đẫn gật đầu. Tức thì Bá Doanh lấy lại nụ cười như thường, đứng dậy vỗ vai cô, cao giọng, “Tướng quân đã cho gọi thì cô mau đi đi!” Dứt lời tung mình nhảy từ mái nhà xuống.
Hoàng hôn, đứng trước cổng phủ tướng quân, cô thẫn thờ nhìn hai cánh cửa sơn đỏ rực trước mắt, nhưng mãi không có gan gõ cửa. Nơi đây từng là nhà cô, là ngôi nhà cô canh cánh trong lòng, hết thảy vẫn như cũ, thời gian dường như đã ngừng lại vào đúng ngày cô ra đi.
Cây mận đã trụi lá ở sân trước vươn bao nhiêu cành ra ngoài tường. Giữa lúc bần thần, cô như trông thấy hai bé gái cầm gậy gỗ nghiêng người nấp bên tường. Đứa đứng trước cao hơn, tóc xõa chân trần, tay lăm lăm cây gậy gỗ to tướng, mặt mũi hằm hằm; đứa nấp sau để tóc trái đào, căng thẳng cầm một cành cây nhỏ.
Mùa thu, cây mận trong phủ tướng quân kết trái, thế nào cũng sẽ có mấy đứa bé nghịch ngợm công kênh nhau lên hái trộm quả. Cô và Tư thỉnh thoảng lại “mai phục”, nhân lúc chúng đang công kênh nhau không tiện cử động, bèn vung gậy đập túi bụi, đập xong thì ù té chạy vào phủ để khỏi bị trả thù.
Về sau tướng quân từ biên ải trở về, mỗi khi đến mùa mận chín lại sai người hái quả chia cho đám trẻ xung quanh. Thấy mấy đứa nghịch ngợm kia tới nhận, lần nào cô cũng lấy một ít phần mình ra chia thêm cho chúng, dù sao trước đây chúng cũng đã bị ăn bao nhiêu gậy của cô. Bấy giờ tướng quân không hiểu nguyên nhân bên trong, còn bế cô lên tay cười khen ngợi, “Xem Thập nhà ta tốt bụng chưa kìa…”
“Quý nữ? Là cô à?”
Ngoảnh lại thấy Bách Phụ đứng phía sau mình, Thập vội bước đến cầm tay chị hỏi han, “Bách Phụ, dạo này chị khỏe không? Hôm ấy ăn chè của chị mà mãi vẫn không có cơ hội đến thăm chị lần nữa.”
“Khỏe, vẫn khỏe cả…” Bách Phụ gầy xọp hẳn đi so với hai năm trước, khóe mắt cũng hằn lên hai nếp nhăn thật sâu.
“Em bé chị bế trong lòng hồi ấy đây à?” Cô xoa đầu đứa bé Bách Phụ địu sau lưng, cảm thán, “Lớn thế này rồi, trông giống cha quá.”
“Hôm ấy cha nó về nói quý nữ chết đuối rồi, nhưng tôi không chịu tin.” Bách Phụ siết chặt tay cô, mắt đỏ hoe, nghẹn ngào, “Tôi trông nom quý nữ lớn lên tôi biết chứ, cô đâu dễ chết thế được…”
“Đúng rồi, mạng tôi lớn lắm, té nhào, trèo cây, mò cá, đánh nhau, cũng ngã sông cả mấy lần rồi, sao chết đuối được?” Cô cố nén xúc động, nói đùa.
“Ừm, về là tốt rồi, về là tốt rồi…” Bách Phụ gạt nước mắt, đang định nói gì đó thì đứa bé sau lưng chợt khóc ré lên, “Để quý nữ chê cười rồi.” Bách Phụ giơ tay đỡ mông đứa bé vỗ vỗ, nựng nịu, “Đừng khóc, về nhà mẹ nấu cháo kê cho…”
“Chị mau về đi, đừng để con nó đói!” Thập vỗ về đứa bé sau lưng Bách Phụ, “Chừng nào rảnh em lại tới thăm chị”
“Sau vụ xuân năm nay, tôi sẽ về giúp việc trong phủ, sau này ngày nào ta cũng gặp nhau rồi.” Bách Phụ vui vẻ hành lễ với cô rồi vừa ngân nga một khúc ca dao dỗ dành đứa bé trên lưng vừa đi xa dần.
Mười năm trước lúc mới tới phủ tướng quân, cô nhớ mẹ không ngủ được, chị cũng địu cô sau lưng, hát u ơ mấy bài ca dao Tần, đi lòng vòng trong sân, dỗ cho cô ngủ. Chớp mắt chị đã thành mẹ ba con, cô cũng chẳng còn là A Thập bé bỏng ngồi chồm hổm bên giếng nhìn chị giặt giũ nữa.
Thời gian thật đáng sợ, cứ thế âm thầm thay đổi từng người trong lúc người đó còn chẳng nhận ra.
Cuối cùng, cô vẫn gõ cửa, ra mở là ông quản gia Tần Cổ. Trước kia lúc ở phủ Bách Lý, Tư kể rằng ông cụ đổ bệnh nặng dưới quê, nhưng không cho cô biết ông cụ đã già nua yếu đuối tới mức này.
Mặt Tần Cổ vàng như nghệ, chi chít vết đồi mồi nâu sẫm, mái tóc hoa râm lúc trước giờ đã bạc phơ, tấm lưng thẳng tắp cũng còng xuống.
“Ông quản gia, ông có khỏe không? Giờ ông uống thuốc gì?” Trên đường theo ông vào phủ, cô lo lắng hỏi.
“Tôi không sao, quý nữ chớ lo. Già rồi thì thế thôi, không ốm được đâu.” Đoạn ông cụ ngoái lại cười với cô, “Tướng quân đợi trong thư phòng cả ngày rồi, quý nữ mau tới đi.”
“Vâng.” Cô rảo bước nhanh hơn theo ông cụ, “Đại ca của Tư đã về chưa?” Cô nhớ lúc trước Tư kể cháu đích tôn của ông cụ bị bắt sung quân, cháu dâu cũng bỏ trốn theo người khác. Giờ nước Tần đã không còn chinh chiến, chắc cháu ông cụ cũng phải về nhà rồi.
“Về rồi, nhưng mấy hôm trước lại bị bắn chết trên thành.” Ông cụ ho sù sụ mấy tiếng, giọng khàn đặc rầu rầu, “May mà giữ được toàn thây, lão nhờ người đưa về quê chôn cất rồi. Lần này nó cũng coi như về nhà, ít ra về sau cũng khỏi lo nó đi đánh giặc ở xa, bỏ mình xứ khác nữa.”
Thà làm ma quê nhà, chớ làm người đất khách. Trong lời kể đau đớn của ông cụ vẫn xen lẫn chút vui mừng, song nỗi vui mừng ấy khiến cô càng xót xa hơn. Giữa thời loạn lạc này, người già tóc bạc phơ phơ chỉ mong con cháu mình giữ được toàn thây, đưa về quê chôn cất. Đối với họ, cuộc sống bình yên, con cháu đầy nhà chỉ là những ảo tưởng viển vông.
“Tướng quân ở bên trong ấy, quý nữ mau vào đi!” Ông quản gia hành lễ rồi lui xuống. Cô cởi giày ngoài cửa, sửa lại vạt áo, hít sâu một hơi rồi mở cửa bước vào.
Bốn cây đèn chân chạm phượng đặt trong bốn góc phòng đã được thắp, Ngũ Phong vẫn ngả người ngồi dựa vào bàn, tay cầm một cuốn sách thẻ tre hệt như lúc trước, thấy cô bước vào, y ngẩng lên khẽ khàng hỏi, “Bé về đấy à?” Vẻ mặt như thể cô chỉ vừa tiễn thầy Thái ra cổng, giờ quay vào đọc sách cùng y, níu lấy y trò chuyện.
Cô ngồi quỳ xuống trước mặt Ngũ Phong, cúi đầu khẽ thưa, “Ngày kia tôi muốn theo người tộc Triệu về Tấn.”
“Vội thế à, ta cứ ngỡ bé sẽ muốn về đây ở thêm ít ngày.” Vẻ mặt Ngũ Phong thoáng đờ ra, y ngồi thẳng dậy, toan nói thêm gì đó, nhưng cứ tần ngần mãi, đành cuộn qua quýt mấy cuốn sách thẻ tre đang mở ra trên bàn, xếp sang một bên.
Trong phòng nhất thời im phăng phắc, cả hai đều không nói câu nào, chỉ lẳng lặng ngồi đối diện nhau.
Cửa sổ hướng Nam của thư phòng hé ra một khe hở, gió đêm từ bên ngoài lùa vào, thổi tắt một ngọn đèn trên bàn. Cô đứng dậy lặng lẽ khép cửa rồi lấy một que mồi lửa thắp lại cây đèn đồng hình người quỳ đã bầu bạn bên mình suốt bao năm, “Trước kia sao tướng quân lại gạt tôi?” Cô thổi tắt que mồi lửa trên tay, nhìn làn khói xanh lững lờ bốc lên, khẽ hỏi.
“Vì ta không thể nhìn vào mặt bé mà thông báo quyết định của ta được.” Ngũ Phong cụp mắt, hàng mi dài đổ bóng xuống hốc mắt y, càng khiến gương mặt y lúc này thêm phần quạnh quẽ.
“Tướng quân đã hứa với tôi, chỉ cần trước lúc cài trâm tôi không đổi ý, thì sẽ để tôi ở lại bên cạnh người mãi mãi. Giờ tôi chưa hề thay đổi, sao tướng quân lại nuốt lời?”
“Ta…”
“Tướng quân không cần trả lời tôi ngay đâu, những câu hỏi này tôi đã ấp ủ trong lòng rất lâu, tướng quân cứ nghe tôi nói hết đã.” Cô bước thêm một bước, nhìn sâu vào mắt y, “Mười năm trước tướng quân cứu tôi, đối tốt với tôi như vậy, là mong có ngày tôi sẽ thay tướng quân lôi kéo đám quyền quý, thao túng triều chính ư? Tất cả những lời tướng quân nói, những việc tướng quân làm, chỉ để tôi cam lòng gả cho người khác, để tướng quân sai khiến sao?”
“Bé nghĩ về ta như thế ư?” Y nhìn cô, vẻ mặt gần như tuyệt vọng.
“Tướng quân không cần gạt tôi nữa, cái đêm tướng quân gặp Thúc Quy, tôi ngồi ngay trên cành lê.” Vừa nghĩ tới những chuyện mắt thấy tai nghe lúc vắt vẻo trên cây hôm ấy, lòng cô lại bốc hỏa. Ngọn lửa ấy làm đỏ bừng đôi má, cũng làm đỏ hoe khóe mắt cô, “Từ đầu tới cuối tôi chỉ là một con cờ trong tay tướng quân, một con cờ bồi đắp cả chục năm nhưng lại sơ sót vào đúng thời điểm quan trọng nhất. Tôi không chỉ khiến mọi công sức trước kia của tướng quân đổ sông đổ bể mà còn ép tướng quân phải đưa người mình yêu vào phủ công tử, để con trai mình sinh ra ở lại biên ải chịu khổ. Tôi…” Nói đến đó, cô nghẹn ngào không sao tiếp tục được nữa.
“Bé hận ta ư?” Ngũ Phong đứng dậy bước tới trước mặt cô, vòng tay siết chặt cô vào lòng, “Xin lỗi đã để bé nghe được những lời ấy… Đó không phải thật đâu, bé xưa nay không phải quân cờ, bé là trái tim của ta, lúc quyết định gả bé cho công tử Lợi, ta đã đau đớn như bị móc tim, sau khi bé đi rồi, nơi này cũng trống không…”
“Không! Đừng lừa gạt tôi nữa, đừng nói ngon nói ngọt để gạt tôi nữa!” Cô gào lên, tay đấm chân đá, giãy giụa vùng ra khỏi tay y như điên dại.
“Thập à.” Khóe mắt y ướt đẫm.
“Tướng quân nói muốn cho tôi một mái nhà, tướng quân lột sạch vỏ cứng, nhổ hết gai góc trên mình tôi, rồi vì sao lại không cần tôi nữa? Nếu tôi không phải Thập của tướng quân, vậy tôi là ai?” Cô ngồi phệt xuống đất, trút hết những đau đớn kìm nén trong lòng lâu nay ra.
Ngũ Phong ôm chặt lấy cô, chặt đến mức như muốn hòa tan cô vào xương thịt mình, “Nếu hận ta khiến bé dễ chịu hơn thì cứ hận đi, đừng bao giờ tha thứ cho ta.”
“Nói cho tôi biết tại sao đi, cho tôi biết lý do của tướng quân.” Cô nức nở ngẩng lên.
Y giơ tay lau sạch nước mắt cho cô, cởi áo ngoài ra khoác lên mình cô rồi nhẹ giọng hỏi, “Giờ bé có bằng lòng nghe ta kể một câu chuyện nữa, câu chuyện của chính ta không?”
Thói quen thích trèo lên mái nhà nghe kể chuyện của cô hình thành từ thuở bé.
Trước kia mỗi khi tới hè, thành Ung sẽ thành một lò lửa. Buổi tối nếu ở trong phòng, chưa đầy nửa khắc sẽ đầm đìa mồ hôi. Thế nên Ngũ Phong thường kéo cô trèo lên mái nhà hóng mát, kể cho cô nghe những chuyện mới xảy ra trong thiên hạ gần đây. Nếu kể với người hữu ý, những câu chuyện ấy là tin tình báo Tần thu thập được từ các nước, nhưng kể với một cô bé mới hơn mười tuổi thì chỉ đơn thuần là chuyện phiếm.
Ngũ Phong đã kể cho cô nghe về rất nhiều người: Khổng Khâu nước Lỗ, Trần Hằng nước Tề, Nam Tử nước Vệ, Tôn Vũ nước Ngô, thậm chí còn kể cả về cha chú, tổ tiên Triệu Vô Tuất, duy chỉ chưa bao giờ kể về mình.
Màn đêm yên tĩnh bao trùm lên bầu trời thành Ung, vầng trăng nấp sau tầng mây dày, chiếu ánh sáng lành lạnh xuống đất. Đêm cuối thu se lạnh, sương giăng trên mái nhà, ngồi xuống cũng hơi lạnh, nhưng lại xoa dịu được cái nóng trong lòng cô lúc này.
Cô như một người bệnh lâu ngày không khỏi, nôn nóng đợi nghe thầy thuốc phán định, lòng bàn tay liên tục rịn mồ hôi, tim hồi hộp không thôi, nhưng cũng có một phần gắng gỏi xem cái chết như không.
“Ta là người Sở, ông nội là thái phó của thái tử Sở Bình vương, cha ta là Ngũ Thượng, con trưởng tộc Ngũ.” Ngũ Phong khép lại vạt áo cho cô rồi bình thản kể.
Cô vẫn biết quan hệ giữa y và Ngũ Tử Tư không đơn giản, nhưng không ngờ y lại là con trai Ngũ Thượng, cháu ruột Ngũ Tử Tư.
“Tộc Ngũ từ ông cố ta đã phò tá Sở vương trị nước, đời đời được trọng vọng. Nhưng tới khi Sở Bình vương lên ngôi lại nghe lời nịnh thần Phí Vô Kỵ gièm pha, giam cầm ông nội ta, còn lấy mạng ông ta uy hiếp, dụ cha và chú ta về kinh đô để giết luôn một mẻ, diệt trừ hậu họa.” Trong mắt Ngũ Phong bùng lên hai ngọn lửa âm ỉ, dù y ra sức chôn chặt thù hận trong lòng, nhưng nhớ lại tai họa trên trời rơi xuống năm ấy, y vẫn không nên được phẫn nộ.
“Sao cha tướng quân không bỏ chạy theo em trai mình? Ông ấy biết rõ quay về là đâm đầu vào chỗ chết mà, Sở vương đời nào chịu tha cho ông nội tướng quân”
“Dĩ nhiên cha ta biết đây là mưu gian của Sở vương, nhưng ông ấy là con trưởng tộc Ngũ, không nỡ để ông nội đã già một mình chịu chết, cũng không thể sống lay lắt một mình sau khi cả tộc Ngũ bị diệt. Ông ấy không như chú ta, có thể cắt đứt hết thảy ràng buộc, ôm lòng thù hận mà sống tiếp. Ông ấy rất yếu đuối, những người ông ấy không bỏ được lại quá nhiều, nếu không thể cùng sống thì chỉ còn cách cùng chết…”
Đứng trước sống chết, không phải ai cũng chọn được sống.
Sau khi về kinh đô nước Sở không lâu, Ngũ Thượng đã bị Sở vương giết hại cùng cha mình là Ngũ Xa. Sau khi hai người qua đời, Sở Bình vương còn ra lệnh tàn sát cả tộc Ngũ, từ ông già tóc bạc đến đứa bé quấn tã, nhất loạt không tha. Đây cũng là lý do năm xưa khi Ngũ Tử Tư dẫn quân Ngô đánh Sở, đã quật mồ Sở Bình vương lên, quất ba trăm roi vào xương cốt, mặc cho cả thiên hạ lên án. Ông ta cần trút ra hết những oán hận tích tụ trong lòng suốt mười mấy năm, dù kẻ thù đã chết, ông ta cũng không sao nguôi hận.
“Năm xưa Ngũ Tử Tư đã cứu tướng quân ư?”
“Trước khi qua đời cha đã giao ta cho chú, trước khi về dưới trướng Ngô vương Hạp Lư, chú gửi nuôi ta ở Tề, về sau ta mới trôi dạt sang Tần.”
“Còn Thúc Quy thì sao?” Cô ngập ngừng hồi lâu mới thốt ra cái tên này.
“Sinh thời cha đã đính hôn cho ta với con gái đầu dòng thứ của Trần hầu, về sau lúc tộc Ngũ gặp nạn, ta mới chỉ hai tuổi, cứ nghĩ chuyện đính ước cũng bỏ qua, không ngờ mười sáu năm sau Mạnh Quy hay tin ta chưa chết, bèn dẫn em gái là Thúc Quy sang Tề tìm ta, thực hiện lời hứa của cha nàng với tộc Ngũ năm xưa. Bấy giờ tuy ta ở Tề, nhưng luôn phải trốn tránh thích khách Sở truy sát, hai chị em nàng đi theo ta đã phải chịu rất nhiều khổ sở… Năm mười chín tuổi, Mạnh Quy chết vì khó sinh trên đường từ Tề sang Tần.”
“Đứa bé ấy còn sống đúng không?”
“Mạnh Quy mang thai đôi, thằng bé thì sống còn con bé chẳng được mấy ngày cũng mất.” Ngũ Phong hít sâu một hơi, quay sang nhìn cô, “Thập à, năm ta cứu bé, nếu con nhỏ còn sống, thì cũng tầm tầm như bé. Lúc ấy ta địu nó trước ngực, gặp phải cung thủ mai phục trong cánh rừng trước mặt. Một mũi tên lửa găm vào ngực ta, ta không chết, nhưng nó thì không khóc được nữa. Người nó bắt lửa, đúng lúc ấy thích khách trong rừng xông ra chém giết, ta đành tạm thời đặt nó xuống, nhưng khi quay lại thì nó đã cháy đen. Thập à, nó là con gái ta, nhưng ta thậm chí còn không nhớ nổi dáng vẻ nó…” Ngũ Phong cúi đầu nhìn xuống trước ngực, tựa như đứa con gái đã chết vẫn được địu ở đó, trên mình cắm một mũi tên lửa cháy rừng rực.
“Sau đó, tướng quân lại tìm thấy tôi bấy giờ bốn tuổi trong một đám cháy…” Cô vươn tay ra ôm lấy Ngũ Phong đang run bần bật. Suốt mười năm cô chưa từng thấy y rỏ một giọt nước mắt hay kêu đau một tiếng, vậy mà tối nay mặt y lại đầm đìa nước mắt, đôi mắt, bờ môi và trái tim y đều đang gào thét trong câm lặng , “Thập ơi, ta đau lắm…”
Mùa xuân y đưa cô ra sông Vị chơi thuyền, ngắm cảnh xuân tuyệt đẹp, ăn quả mọng ngọt lịm; mùa hè y ngâm chân cô vào nước lạnh, cùng cô ngắm sao, kể chuyện; mùa thu hai người lại tựa kề bên nhau đọc sách xem sử; mùa đông y đắp mười mấy người tuyết trong khoảnh sân cô ở. Cô không có cha, nhưng y lại cho cô tất cả tình yêu mà một người cha có thể ban tặng, y như vậy, cô sao còn oán hận được nữa.
“Bé con à, sau khi con nhỏ mất đi, bé chính là con ta, nhưng khi bé lớn lên từng ngày, rực rỡ mê người, ta lại sinh lòng riêng. Trước kia bé vẫn nói rằng mình không lấy chồng, dù ta biết chỉ là trẻ con nói đùa, nhưng cũng động lòng muốn giữ bé lại cả đời.”
“Không phải nói đùa, trước giờ đều không phải đùa bỡn!” Cô nắm chặt vạt áo y, lắc đầu quầy quậy.
“Ta biết, nhưng bé con à, bé có biết muốn giữ bé lại cả đời phải can đảm đến nhường nào không? Bé tốt đẹp nhường ấy, mười năm, hai mươi năm, khi bé ngày càng lộng lẫy, lại phải chứng kiến ta già đi từng ngày. Ba mươi năm nữa, nếu ta trở nên như Tần Cổ, răng long, tóc rụng, ta có còn là tướng quân của bé không? Nếu ta chết già thì bé phải làm sao? Ai sẽ chăm lo cho bé đây?”
“Tướng quân già, tôi sẽ chăm sóc cho người; tướng quân chết đi, tôi sẽ chết theo” Thập nhìn vào mắt y, nói rành rọt từng chữ.
“Ta sao nỡ…” Y thở dài, nhắm nghiền mắt lại, một giọt nước mắt như hạt đậu lăn dài theo gò má.
Cô lặng lẽ ôm y hồi lâu, lòng dần bình lặng lại. Có lẽ đây là số mệnh trêu ngươi, rõ ràng cả hai đều muốn trao cho nhau những gì tốt đẹp nhất, vậy mà cuối cùng lại thương tổn nhau sâu sắc,
“Tướng quân đón con trai về đi, để y ở Tây Bắc khổ lắm.” Cô thở dài.
“Năm lên ba, nó sốt cao, thành tật ở chân. Nếu đưa nó về thành Ung, nó khó tránh bị kẻ khác xì xào bàn tán, bản thân nó không muốn, ta cũng chẳng đành lòng. Thúc Quy cho rằng đó là do mình sơ suất nên cũng xin ở lại Tây Bắc chăm sóc nó.”
“Mỗi năm tướng quân về Tây Bắc mấy tháng là để thăm họ ư?”
“Ừm, nhưng Ngũ Huệ không ưa ta, mỗi lần tới thăm đều không tránh khỏi cãi vã, nên về sau ta cũng ít thăm nom.”
“Thúc Quy thay tướng quân săn sóc con trai bao năm, sao tướng quân không lấy cô ta mà lại dâng cho công tử Lợi?”
“Lúc vừa đến Tề, Thúc Quy mới lên năm, ta vẫn luôn coi cô ấy như em gái. Sau khi chú bị Phù Sai ép phải tự sát, tộc Ngũ nước Sở chỉ còn lại mình ta. Ta là con đích cũng là cháu đích, không thể mắt lấp tai ngơ mà sống bên bé cả đời ở đây được. Thập à, từ khoảnh khắc Sở vương giết hơn sáu trăm người tộc Ngũ, ta đã không còn quyền được hạnh phúc nữa rồi. Lúc chú còn sống, ta còn có thể né tránh, nhưng về sau ngay cả ông ấy cũng không còn, ta chẳng thể tránh né được nữa.”
“Thế nên sau khi từ Ngô về, tướng quân mới quyết định gả tôi cho công tử Lợi ư?” Cô nhớ dạo đó y lúc nào cũng thẫn thờ hoảng hốt, người gầy rạc đi, trong bảy ngày trước khi rời thành Ung đi Tây Bắc, gần như ngày nào y cũng nói chuyện vu vơ đâu đâu với cô. Giờ nghĩ lại, hóa ra đó là y đang từ giã.
“Công tử ái mộ bé nhiều năm, nếu lấy được bé, chắc chắn sẽ đối tốt với bé hơn cả ta. Công tử sẽ là thái tử nước Tần, là quân chủ đời kế tiếp. Rồi một ngày bé sẽ trở thành người đàn bà tôn quý nhất nước Tần, còn ta sẽ trung thành với con trai bé, sẵn sàng để đến giọt máu cuối cùng. Sau khi từ Ngô về, ngày nào ta cũng tự nhủ như vậy, gả cho công tử Lợi có lẽ là kết cục tốt nhất mà ta có thể đem lại cho bé.” Dứt lời y cười thảm não, nhìn cô đau đớn nói, “Đấy chỉ là cái cớ đê hèn, bỉ ổi mà ta viện ra thôi, đến cả chính mình ta cũng chưa gạt nổi đã hoảng hốt trốn đến Tây Bắc. Về sau bé bỏ đi, cả đời ta cũng chỉ còn chấp niệm duy nhất là trùng hưng tộc Ngũ.”
Thập ngơ ngẩn nhìn y, chẳng nói chẳng rằng, Ngũ Phong thẫn thờ buông tay cô ra, nói với vẻ tự trào, “Giờ bé biết rồi, biết ta là kẻ bỉ ổi thế nào rồi đấy.”
Cô nắm chặt tay y, “Không, tướng quân chỉ làm việc mình nên làm thôi.” Cô có tư cách gì mà trách móc người trước mặt đây, y đã làm đủ rồi, tình thân, tình yêu và trách nhiệm với gia tộc đã khiến y tơi tả, mãi tới hôm nay cô mới nhận rõ đằng sau vẻ bề ngoài ung dung bình thản của y là một trái tim đau khổ bất đắc dĩ nhường nào.
“Tiểu Doanh chính là Bá Doanh tộc Triệu, lần này tướng quân theo chị ấy về Tấn đi! Chị ấy là đứa con gái được Triệu Ưởng yêu thương nhất, sớm lấy về thì sớm liên kết được với tộc Triệu.” Cô gạt nước mắt, mỉm cười nói.
“Bé con…”
“Tướng quân cho tôi thêm chút thời gian, cũng cho mình thêm chút thời gian, chúng ta sẽ quên thôi…”
Khi người quên tôi, khi tôi quên người, có lẽ gốc cây già bên góc tường Đông vẫn nhớ từng có một thiếu nữ tuột từ trên mình nó xuống, rơi vào vòng tay ấm áp của một người đàn ông; Có lẽ ngói xanh nhỏ giọt trên mái vẫn nhớ, từng có lứa đôi kề tựa đọc sách thâu đêm, nghe mưa tới sáng bên dưới nó; Có lẽ cỏ cây trên Ma Nhai sơn vẫn nhớ, từng có một cô gái giữa lúc thoi thóp bên lằn ranh sống chết, gặp lại tình nhân lòng như lửa đốt.
Khi người từ từ già đi, khi tôi tóc bạc da mồi, có lẽ chỉ chúng mới nhớ được mười năm kề cận bên nhau, cả đời chia lìa quên lãng của chúng ta…