Trúc Thư Dao - Tập 4: Thiên Hạ - Chương 01

PHÙ SINH NHƯ MỘNG

Mặt trời lặn đằng Tây, chim mỏi về tổ, khi Thập lê bước chân nặng nề về quán Phù Tô, hai tầng lầu sơn ngói đen đã sáng choang đèn đuốc, bên trong khách khứa như mây. Nhưng tưng bừng vĩnh viễn là tưng bừng của người khác. Còn với cô, đây vẫn là một đêm bi thương trơ trọi, cô đã thấm mệt, mệt đến không còn sức mà đau buồn nữa, chỉ muốn nhắm mắt lại ngủ một giấc thật say.

Cuối hè năm mười lăm tuổi, cô rời xa hắn.

Nhưng trong lòng cô, hắn chưa bao giờ rời xa.

Ngày ngày cô ngồi dựa gốc mộc lan ở quán Phù Tô, nhìn hoa mùa hè trên cành rụng hết, nhìn nhạn mùa thu sắp hàng bay ngang trời, nhớ hắn điên dại. Có lúc thậm chí cô còn quên bẵng chính mình đã rời xa hắn trước.

Hễ uống cạn rượu ở quán Phù Tô, Thập lại đứng thần ra giữa con đường cái quan cát bụi mịt mù, tưởng tượng ra cảnh hắn áo đen đeo kiếm, vung roi thúc ngựa chạy về phía mình. Có những kẻ một khi say thì không kìm lòng được nữa. Còn cô hễ say là không ngăn nổi nhớ nhung khắc cốt đêm ngày.

Sao không tới tìm thiếp? Sao không tới đón thiếp? Dẫu chàng có oán thiếp, giận thiếp, mắng thiếp, đánh thiếp thì chỉ cần chàng tới, thiếp sẽ đi theo chàng, từ nay chân trời góc biển, sống chết không rời…

Trên con đường cái quan nối liền từ Tống sang Tấn ấy, chẳng biết cô đã say khướt bao lần, khóc lóc bao phen, một mình lảm nhảm với mây trôi hờ hững bao ngày.

Nhưng suy cho cùng cô không phải kẻ điên, khi vầng dương lặn xuống, hơi rượu tan đi, khi gió thu se sắt nước Tống thổi khô ngấn lệ trên má, cô sẽ nhớ lại rành rành từng câu mình đã rỉ tai hắn ngay sau hôm hợp cẩn thành hôn.

“Hồng Vân nhi, đừng đi tìm ta, một đêm ân ái coi như đền đáp tấm tình chàng bấy lâu. Suy cho cùng người trong lòng ta vẫn là y, không phải chàng*…”

Kẻ trúng hương an miên, trong vòng nửa khắc nhìn như say ngủ song thần trí vẫn tỉnh táo. Thế nên hắn đã nghe được, cũng đã tin những lời cô nuốt lệ bịa ra. Hoa hè rụng, nhạn thu đi, khi đợt tuyết đầu tiên của mùa đông lạnh lẽo lắc rắc đổ xuống như lông ngỗng, Thập biết, hắn thực sự sẽ không tới tìm mình nữa.

Ngày thứ một trăm linh sáu sau khi rời xa Triệu Vô Tuất, cô ra con đường cái quan cỏ không mọc nổi ngoài thành lần cuối. Hôm ấy trời đổ tuyết, đang trong cơn sốt hầm hập, cô trông thấy một người quen cũ giữa đám khách khứa nhốn nháo trước cổng quán Phù Tô.

“Anh tới giết tôi ư?” Cô hỏi.

Gã chăm chú nhìn cô, lắc đầu, “Ta không ngờ lại gặp cô ở đây.”

“Ồ.” Cô lơ mơ vái chào rồi xoay người đi vào đêm đen. Gã thình lình tóm lấy cánh tay cô rồi trỏ vào quán rượu đèn đuốc sáng choang bảo, “Mời ta uống một bữa Ngọc Lộ Xuân ở quán Phù Tô, hai ta coi như xí xóa ân oán.”

Lấy rượu đổi mạng ư? Dù đang sốt cao đến choáng váng đầu óc cô cũng biết đây là một vụ giao dịch hời.

Phù Tô là quán rượu nổi tiếng nhất Thương Khâu, kinh đô nước Tống, một bình mười nén vàng, một bữa nghìn chén. Gái Tào mất nước gảy đàn cầm đàn sắt, gái Hồ đất Bắc vung tay áo múa thướt tha, lan can đỏ chạm hoa, vách thơm quét hồ tiêu, là miền cực lạc để khách buôn qua lại vung tiền như rác. Thập ở quán Phù Tô, không múa không hát, không hùa chuốc rượu chẳng bán tiếng cười, mười ngón vo gạo trộn men, đầy tháng thắp hương cầu khấn, làm một cô cất rượu, ủ rượu kiếm sống.

Đêm ấy cô cùng gã uống rất nhiều rượu: Ngọc Lộ Xuân, Chu Nhan Đà, Áp Sầu Hương, Thanh Liên Toái, giữa lúc ngất ngư, cô vuốt đuôi mày phải của gã, than thầm: sao chỗ này không có một áng mây hồng?

Từ ấy, cứ cách mười hôm, Trần Nghịch lại tới quán Phù Tô tìm cô uống rượu.

Chiều tối đến, đêm khuya đi, bất luận gió tuyết, chưa từng phá lệ.

Mùa đông năm thứ ba mươi chín đời Chu Kính vương, tộc Triệu nước Tấn chuẩn bị lương thảo tập hợp quân lính, tộc Trần nước Tề giết sạch những kẻ đối nghịch mình, còn trong khoảnh sân nhỏ quán Phù Tô ở Tống, hai con cờ nhảy ra khỏi bàn cờ lại quét tuyết nhóm lò, hâm rượu ủ chén, cả thiên hạ bao la dĩ nhiên không tịch mịch nhợt nhạt vì thiếu hai nhân vật cỏn con như một tên du hiệp và một nàng cất rượu.

Trần Nghịch uống cạn Chu Nhan Đà trong chén đầu vịt sơn son, nhẹ nhàng đặt chén xuống chiếc bàn tre thấp trước mặt cô, “Mai ta phải hộ tống một đội buôn sang Tấn, chắc đến cuối năm mới lại được uống gạt rượu của cô.”

“Ừm.” Thập khẽ đáp, nghiêng người dùng mảnh vải gai vuông vắn lót tay, vớt muôi đồng cán dài ngâm trong nước nóng, rửa chén ủ chén rồi rót cho gã một chén Bạch Phù, “Thử loại này xem, thiêu trữu sáu năm bỏ thêm bạch chỉ, bạch cập, gừng khô, rượu cay, vị đượm, uống lúc trời tuyết thế này là hợp nhất.”

“Hay lắm.” Trần Nghịch gật đầu cảm tạ, đón lấy chén rượu nóng song vẫn tần ngần chưa uống. Đôi bông tuyết sáu cánh nối nhau phất phơ rơi xuống trước mặt gã, đến cách miệng chén ba tấc thì tan thành nước, nhỏ vào chén.

“Chuyến này đoàn buôn sẽ vào thành Tân Giáng, có cần… ta nghe ngóng hộ không?” Gã ngập ngừng hồi lâu, mãi tới khi chiếc mũ bọc vải sa sơn đen trên đâu bám một lớp tuyết mỏng mới lên tiếng hỏi.

Thành Tân Giáng ư…

Tim Thập thắt lại nhưng ngoài mặt vẫn mỉm cười bình thản, “Nơi này là quán Phù Tô, đi từ cánh cửa nhỏ này, qua hai bức rèm là nghe được tin tức trong Nam ngoài Bắc. Nếu tôi muốn biết chuyện lớn gì trong thiên hạ thì hằng ngày chỉ cần đứng sau rèm một khắc là biết hết, đâu cần anh nghìn dặm xa xôi đưa tin về?” Dứt lời cô vén tay áo kép cúi xuống nhặt một mảnh gỗ thông trên đống củi bên phải, nhẹ nhàng bỏ vào lư đồng dưới chân.

Trần Nghịch nhìn cô, buồn buồn đáp, “Là ta nhiều lời.”

Mấy tháng nay, Thập không hề hỏi vì sao gã rời Tề, gã cũng chẳng hỏi vì sao cô rời Tấn. Hôm nay gã quả thực đã nhiều lời.

Trần Nghịch cúi đầu lặng thinh, cô cũng thẫn thờ nhìn cái lư đồng hai tai gỉ xanh dưới chân mình. Mảnh gỗ thông trong lư đồng bị lưỡi lửa liếm hết lớp vỏ ngoài xù xì xấu xí, cháy lách tách.

“Hôm nay ta phải đi sớm, hai tháng tiếp theo đây không tới được, tối nay phải chẻ cho cô thêm ít củi dùng mùa đông!” Trần Nghịch ngửa cổ uống cạn cả chén Bạch Phù cay nồng rồi đứng dậy.

Thập cụp mắt, vươn tay cầm chén rượu gã đặt xuống chiếu, vén tay áo thả vào vò nước sôi bên cạnh, “Quán Phù Tô có nô bộc chẻ củi mà.”

“Không sao, uống rượu của cô thì cũng phải động tay làm tí việc chứ.” Gã cười hào sảng, tháo kiếm ra, xắn tay áo lên.

Đêm ấy gió tuyết vần vũ. Trần Nghịch đội tuyết, chẻ cho cô hai đống củi cao ngang lưng rồi mới lặng lẽ rời trại rượu.

Thập chống cửa sổ nhìn tuyết trắng phủ lên đống củi càng lúc càng dày, trái tim trống rỗng bấy lâu bỗng gợn ưu tư.

Lấy củi của gã, nếu không muốn nhận tình cảm của gã thì cũng phải làm chút việc…

Sáng hôm sau tuyết tạnh. Cô để lại thư cho chủ quán Phù Tô rồi thuê một cỗ xe trâu, một tên đánh xe, ngồi xe lắc lư rời kinh đô nước Tống, đi về phía Đông tới Ngải Lăng nước Tề.

Ngoại ô Ngải Lăng, mùa đông không có tuyết rơi, chỉ có cỏ khô bát ngát. Trên đồng hoang, đất vàng nứt nẻ, xương trắng chất chồng rải rác khắp nơi, nhìn từ xa tưởng như những đống tuyết đọng chưa tan.

Mười vạn xương khô dầu dãi gió mưa ở đây, khóc gào thảm thiết hơn ngàn ngày đêm, cũng nên được đưa tiễn.

Thập thắp đèn dẫn hồn, hát một điệu mo xưa cũ, đi quanh đồng hoang hết vòng này sang vòng khác.

Trời giá đồng không, vạn vật se sắt, chỉ mới một ngày cô đã lạnh nứt cả má, hát rách bờ môi.

Trận Ngải Lăng đánh suốt mười ngày, cô cũng hát điệu mo tròn mười hôm.

Đến ngày thứ mười, gió bấc nổi lên, trời đổ tuyết lớn.

Đất trời bát ngát, xương cốt tiêu tan.

Thập lau vệt máu trên môi, thổi tắt đèn dẫn hồn.

Mười hai tuổi, cô lần đầu tiên đọc được hai chữ Ngải Lăng trên mật báo; mười bốn tuổi, cô gặp Đoan Mộc Tứ, kẻ khơi lên trận Ngải Lăng; mười lăm tuổi, cô hứa với Trần Nghịch sẽ đưa tiễn mười vạn vong linh lính Tề ở đây; trước khi bước sang tuổi mười sáu, cuối cùng cô cũng làm tròn lời hứa.

Thập đứng giữa đồng tuyết mênh mang, lòng chợt nảy ra một ý nghĩ.

Có lẽ năm xưa linh hồn cô thực sự đã tới nơi này trong mộng. Có lẽ hết thảy nhân duyên đưa đẩy cô từ một đứa bé mồ côi trở thành vu sĩ, đều chỉ để cô tới được đây, hát khúc đưa linh cho mười vạn xương trắng nơi này.

Vạn vật trên đời đều có bắt đầu và kết thúc, như mối tình trong lòng cô vậy.

Từ Tề sang Tống, trời lạnh khó đi, mất đến một tháng rưỡi, khi cô quay lại Thương Khâu thì đã sang năm mới.

Băng tuyết ngoài thành mới tan, núi non phô màu xanh biếc, ngọn cây lúc cô đi còn trơ trụi giờ nhú lên những chồi non nõn nà bằng hạt đậu. Đông qua xuân đến, lại một năm mới sang. Sự đời có tới tám, chín phần bất công nhưng năm tháng luôn công bằng với hết thảy, bất luận có bằng lòng hay không, người ta vẫn sẽ bị nó cuốn phăng đi.

Đầu năm mới, việc quan trọng nhất ở Tống là lễ tế mùa xuân, ở cổng thành Thương Khâu, những cỗ xe trâu chở vật dụng tế lễ và rượu ngon lặc lè đi ra ngoài thành qua cổng lớn chính giữa, còn mọi người vừa trải qua một mùa đông lạnh giá thì quảy gánh, dắt con, hớn hở chen vào thành theo cổng bên. Những gương mặt tươi cười xấu có đẹp có, già có trẻ có vây quanh Thập, khiến cô vốn đang mệt lử càng thêm lạc lõng, chẳng hề cảm nhận được ý xuân dào dạt tưng bừng, cũng không sao cười nổi.

Qua khỏi cổng thành Thương Khâu, cô cúi đầu tránh đám đông náo nhiệt, đi thẳng tới phủ thái sử nước Tống.

Năm ngoái, tộc Hướng nước Tống thua to rồi suy tàn. Sau khi anh em Hướng Đồi, Hướng Sào rời Tống, thái sử Tử Vi trở thành đại thần được Tống công coi trọng nhất. Trước kia ở Tấn, Sử Mặc và Doãn Cao đều từng nhắc tới người này với cô. Doãn Cao nói Tử Vi giỏi chiêm tinh bói quẻ, được xưng tụng là nửa thần tiên; còn Sử Mặc nhận xét rằng Tử Vi có tài, lại ham tiền, khó thành nghiệp lớn. Song Thập sang Tống rồi mới biết, thái sử Tử Vi nước Tống còn là chủ quán Phù Tô lừng danh thiên hạ. Hơn nửa năm trước, chính ông ta đã giam hãm cô ở lại Tống.

Hôm ấy cô thẫn thờ rời xa Triệu Vô Tuất, vốn định tới nước Sở ở phương Nam, nào ngờ ngang qua Tống thì đổ bệnh nặng, ngã gục giữa phố lớn Thương Khâu. Ngã bệnh mê man mấy ngày, tới khi tỉnh lại, cô đã nằm trong phủ thái sử. Ở Tống có một luật bất thành văn: kẻ xuất thân thường dân nếu nhận ơn lớn của quý tộc thì phải bán thân làm người hầu để đền đáp. Cô là dân thường không có thân phận mà Tử Vi bốc thuốc chữa chạy cho cô lại là quý tộc hàng đầu nước Tống thế nên sau khi cô lành bệnh, người phủ thái sử nghiễm nhiên coi cô như nô lệ trong phủ.

Bấy giờ Thập vẫn sợ Triệu Vô Tuất sẽ tới tìm mình, dù không tới cũng sẽ phái mật thám tìm kiếm cô khắp nơi nên đã dứt khoát ký khế ước bán thân, trốn vào phủ thái sử trong thân phận nô lệ.

Tự bán thân vì một người hoàn toàn không bận tâm tới mình, giờ nghĩ lại thực ngu xuẩn đến nực cười.

May mà Tử Vi hám tiền nhưng cũng giữ lời, nói rằng nếu nô lệ trong phủ kiếm được trăm nén vàng cho ông ta, ông ta sẽ đốt khế ước bán thân, kẻ đó muốn đi hay ở tùy ý. Nửa năm qua, số tiền cô kiếm cho Tử Vi đã vượt xa con số trăm nén vàng nên hôm nay cô muốn lấy lại khế ước, lên đường tới Sở.

Thập đứng trước phủ thái sử, hít một hơi thật sâu, giơ tay gõ lên cánh cổng lớn bằng gỗ bách đen tuyền cao ngất trước mặt.

Chẳng mấy chốc cửa đã mở. Kẻ mở cửa tên Tán, là quản gia phủ thái sử, cũng là khách quen của quán Phù Tô. Thập không thích gã bởi ánh mắt gã lúc say thường khiến cô bất giác nhớ tới tên Khoái Hội ghê tởm kia.

“Chào quản gia, hôm nay thái sử có trong phủ không?” Cô đứng ngoài cửa vái chào hỏi.

“Ồ, ả Thập về rồi đấy ư?” Quản gia Tán cười cười quan sát cô, hai tay vận sức đầy cánh cửa bên trái ra, “Gia chủ đang tiếp hai vị khách quý trong vườn, cô vào trước đi! Mấy hôm trước gia chủ còn hỏi cô đã về chưa đấy!”

“Làm phiền thái sử mong ngóng rồi.” Cô xách gấu váy nhấc chân bước qua ngưỡng cửa cao nửa thước. Gấu váy vừa vén lên, chiếc hài thêu chân phải lộ ra ngay. Bùn loang lổ chỗ đen chỗ vàng vấy đầy nền lụa đỏ thắm, mũi hài thêu dâm bụt thủng một lỗ bằng móng tay, chỗ thủng tưa ra xơ xác, thấp thoáng thấy cả mảng tất bẩn thỉu xám đen.

Thập đỏ mặt, vội rụt chân lại.

“Ôi chao, cô chưa ghé qua trại rượu à?” Quản gia Tán đảo cặp mắt đục ngầu nhìn khắp người cô rồi toét miệng cười, “Cô đâu cần vội thế, khế ước bán thân của cô gia chủ đã sai ta để riêng ra rồi, hẳn là định trả lại cô. Hôm nay gia chủ đang mải chuyện trò với Triệu thế tử, lát nữa cũng chưa rảnh gặp cô đâu. Chi bằng cô về trại rượu tắm gội đi rồi hẵng tới bái kiến cũng chẳng muộn.”

“Ông bảo khách trong phủ hôm nay là ai cơ?” Lời quản gia Tán như sét đánh ngang tai, tai Thập ong lên, tim như tê dại.

“Tộc Triệu nước Tấn, cô đã nghe bao giờ chưa? Thế tử mới lập của họ dẫn theo thế tử phụ tới bái kiến gia chủ. Lần này gia chủ quả là… mà thôi, có nói cô cũng không hiểu đâu. Cô mau về tắm gội cho sạch, thay quần áo rồi hẵng tới. Trông cô thế này lỡ chạm mặt quý nhân lại thất lễ đấy.”

Hắn ở phủ thái sử, hắn và vợ mới cưới hiện đang ở phủ thái sử!

Thập nắm chặt tay áo ngước mắt ngóng vào trong phủ nhưng hai chân bất giác lại giật lùi.

Bậc thềm phủ thái sử cao gấp đôi nhà bình thường, giữa lúc hoảng loạn, chân phải cô chưa đứng vững thì chân trái đã nhấc lên, cả hai chân đồng thời bước hụt, ngã lăn từ trên thềm xuống. Đá dăm cứa rách lòng bàn tay, gối phải đập vào thềm đá hai cái, cơn đau buốt làm mắt cô tối sầm lại.

“Kìa ả Thập, cô không sao chứ? Sao vô ý thế!” Quản gia Tán chạy xuống thềm dìu cô dậy.

“Tôi không sao, làm trò cười cho quản gia rồi.” Thập nghiến răng đứng dậy, chờ cơn choáng lui bớt mới giãy nhẹ tránh khỏi bàn tay gã quản gia nãy giờ vẫn đặt trên ngực phải mình.

“Ôi chao, cô đừng cậy khỏe nữa, ta nhìn xót lắm. Ả Thập à, tối nay ngỏ cửa cho ta, ta đưa thuốc sang cho nhé?” Quản gia Tán cúi xuống vỗ đùi cô rồi còn véo vào eo cô hai cái.

Thập biết gã đang ám chỉ chuyện gì, cũng hiểu đây là vấn đề mà cô gái đơn chiếc nào cũng sẽ gặp phải. Nếu lúc này còn động não được, nếu lúc này còn chưa mấp mé suy sụp, hẳn cô có thể xử lý ổn thỏa. Nhưng giờ đây tim cô đang đau như sắp vỡ, trong đầu chỉ có một giọng nói văng vẳng lặp đi lặp lại: Vô Tuất đến rồi, chàng cưới vợ mới rồi!

Cô muốn rời khỏi đây, cô không thể để hắn thấy bộ dạng mình bây giờ được. Thập xoay người định đi nhưng quản gia Tán cứ tóm lấy cánh tay cô không buông, “Ả Thập à, cô gật đầu đi mà! Nhà ta chỉ có một bà vợ, nếu cô theo ta, sau này cũng chẳng phải ru rú ở trại rượu không nơi nương tựa, đau ốm không người săn sóc nữa…”

“Ông buông tôi ra!” Thập quay ngoắt lại đẩy phắt tên quản gia cứ nắm níu mãi không thôi ra, gã bị bất ngờ, loạng choạng lùi lại mấy bước, ngã phệt xuống đất.

Mấy tiều phu đứng ngoài hóng chuyện thấy thế cười rộ lên.

Mặt quản gia Tán tím lại như miếng gan lợn, gã lồm cồm bò dậy chửi mấy tiêu phu kia té tát, “Cười gì mà cười? Rặt một lũ rác rưởi không nên nết! Làm bộ trinh khiết thanh cao nỗi gì? Giẻ rách vứt đi còn tưởng mình cao giá!”

Mấy tiều phu nọ phát hoảng, vội gánh củi lẩn hết.

Thập nín lặng quay đi, mười móng bấm sâu vào vết thương trong lòng bàn tay. Đau, nhưng vẫn chưa đủ. Thập à, đây là lựa chọn của mi, năm xưa đã quyết định lìa bỏ chàng, vứt bỏ thân phận con thần thì phải cắn răng nhận lấy tất cả đau đớn sau này thôi.

Kìm nén nhớ nhung đau đớn, bị người lăng nhục cũng đau đớn, hay tin hắn lấy vợ mới, kế vị thế tử lại càng đau đớn, nhưng cô không muốn bị nỗi đau đánh gục, bởi nếu cô kêu đau, nếu cô rơi nước mắt thì cũng có nghĩa là thừa nhận mình hối hận. Cô sợ hối hận, hối hận là thứ thuốc độc nhất trần đời, nó tan vào máu huyết, muốn khiến người ta đau đớn lúc nào thì người ta phải đớn đau lúc ấy.

Thập bần thần đi tha thẩn trên đường phố ngựa xe như nước, dòng người như nêm suốt cả ngày. Cô muốn mua một bình rượu chuốc say mình nhưng lại sợ say rồi sẽ khóc lóc chạy vào phủ thái sử tìm hắn kể lể: ta đau lòng lắm, ta đợi chàng hai trăm linh tư ngày rồi đấy. Ta sợ một ngày nào đó chàng sẽ quên ta, ta cũng sẽ quên chàng. Ta sợ một ngày nào đó mình không còn là Thập, cũng không còn là Tử Ảm nữa, chỉ là một cô nàng cất rượu say mèm ở quán Phù Tô nước Tống, vò võ hết thanh xuân mà chẳng còn gì để nhớ.

Xưa nay cô vốn không phải kẻ kiên cường, cô biết mình yếu đuối nên mới nghiến răng học cách cứng cỏi thôi.

Mặt trời lặn đằng Tây, chim mỏi về tổ, khi Thập lê bước chân nặng nề về quán Phù Tô, hai tầng lầu son ngói đen đã sáng choang đèn đuốc, bên trong khách khứa như mây. Nhưng tưng bừng vĩnh viễn là tưng bừng của người khác. Còn với cô, đây vẫn là một đêm bi thương trơ trọi. Cô đã thấm mệt, mệt đến không còn sức mà đau buồn nữa, chỉ muốn nhắm mắt lại ngủ một giấc thật say.

Song khi băng qua rừng trúc mé Tây quán Phù Tô để về trại rượu, cô mới nhận thấy, hóa ra ngủ cũng là hy vọng xa vời.

Cửa trại rượu đóng từ bên trong, ánh lửa thấp thoáng hắt ra qua khe cửa, có người đang đợi cô.

Là tên quản gia Tán mắt đục mày thưa kia ư, giờ ngoài gã ra còn ai đợi cô ở đây nữa chứ? Hôm nay cô làm gã bẽ mặt trước bao người, giờ gã đang đợi cô dẫn xác tới cửa ư? Gã định làm gì? Sỉ nhục, đánh chửi hay trở mặt chiếm đoạt cô luôn?

Thập nhìn trân trân vào cánh cửa tre khép chặt, bên tai là tiếng hát cao vút mong manh tưởng đứt hơi mấy bận của ca nữ từ quán Phù Tô đưa lại, cô xoay người đi trở lui hai bước rồi xách gấu váy giơ chân đạp mạnh vào cửa.

“Sao mày dám đối xử với tao như vậy, sao mày dám hả? Mày ra đây cho tao, dù tao có là giẻ rách cũng không đến lượt mày sỉ vả! Mày trốn trong đó làm gì, ra đây cho tao!” Cô đã nín nhịn suốt một ngày, vốn tưởng sẽ nhịn tiếp được, nhưng tới cuối cùng lại bị một sợi lông chim rơi xuống đầu đè sụm. Những nhẫn nhịn, tủi hờn, đau khổ cô dồn nén hơn nửa năm nay vào lúc này đột nhiên bùng lên như ngọn lửa dưới lòng đất, xuyên thủng lớp đá phun ra.

Cô vừa đá vừa mắng chửi trước cánh cổng tre, nước mắt tuôn tràn như vỡ đê. Bao nhiêu năm nay, từ khi hứa với Ngũ Phong sẽ từ bỏ bản tính hung hãn lúc lê la ăn mày, cô đã không còn điên rồ như thế này nữa. Song giờ đây cô chẳng có gì cả, không có mẹ, không có Tư, không có Vô Tà, không có Ngũ Phong, cũng không có Vô Tuất, đến cuối cùng cô lại quay về thuở ban đầu. Nhưng cô biết phải đi đâu tìm lại những gai góc đã bị nhổ bỏ đây…

Trước khi cô bị dòng nước mắt hoảng sợ của chính mình nhấn chìm, cánh cửa tre kẽo kẹt mở ra. Sau cánh cửa là Trần Nghịch đang thảng thốt ra mặt.

“Là anh à…” Thập nhìn Trần Nghịch, đờ đẫn thu nắm tay lại. Trong mắt gã, dáng vẻ cô lúc này chắc hẳn chẳng khác mụ điên. Từ Tề sang Tống đi mất hơn một tháng, da dẻ hai má cô đã nứt nẻ đỏ tẩy vì giá rét từ lâu. Giờ đây những vết nứt lại thấm đầy nước mắt, làm mặt cô nóng rát cả lên.

“Cô sao vậy? Cô đi đâu thế?” Trần Nghịch lo lắng bước ra.

“Tôi đi Ngải Lăng.” Cô cúi đầu lau nước mắt, tránh ánh mắt thăm dò của gã, xăm xăm bước vào, “Sao anh lại ở đây? Không phải anh sang Tấn rồi à? Sao về nhanh thế?”

“Ta về từ nửa tháng trước rồi.” Trần Nghịch khép cửa lại, sải bước tới chặn trước mặt Thập, “Có kẻ nào ức hiếp cô à?”

“Trần gia, giờ tôi mệt lắm, không còn sức nói chuyện đâu, anh để tôi đi ngủ đi.”

Trần Nghịch nghe vậy vẫn đứng yên bất động, chỉ cúi đầu nhìn Thập, như một ngọn núi cao sừng sững trước mặt cô, vĩnh viễn không suy suyển.

Cô ngẩng lên bất lực nhìn gã, tự biết hành động của mình vừa rồi rất bất thường và đáng sợ, nhưng thực sự không còn sức phân trần nữa.

Họ cứ đứng im lìm nhìn nhau chằm chằm trong bóng tối. Mắt gã sáng như đuốc, cô lại như tro tàn. Hồi lâu, cuối cùng gã cũng nhích người ra, tiện tay xách thùng gỗ đặt bên thềm lên.

“Anh định làm gì?” Cô mệt mỏi hỏi.

“Múc cho cô thùng nước, trông cô tả tơi lắm.” Ánh mắt gã dừng trên đôi má nẻ toác của Thập, cô gượng cười ném tay nải trên lưng lên tấm chiếu cỏ ở cửa phòng, cởi phăng hài bước lên thềm, “Trần gia, anh không cần tử tế với tôi như vậy, tôi không còn quan trọng với tộc Triệu nữa, cũng sẽ không bao giờ ra sức cho tộc Trần đâu. Nếu Trần Bàn phái anh sang Tống tìm tôi thì anh đi được rồi đấy.”

“Lúc bạn bè cần giúp đỡ, ta sẽ không bao giờ bỏ đi.”

Nghe thế, Thập quay đầu lại, vầng trăng vừa nhô lên đỉnh núi đằng Đông, nét mặt chân thành của Trần Nghịch cùng ánh trăng xanh nhàn nhạt hiện rõ trước mắt cô. Cô ngẩn ra giây lát rồi lạnh lùng đáp, “Anh lầm rồi, tôi không phải bạn anh, cũng không cần anh giúp đỡ.”

Thập ngỡ kẻ kiệm lời như gã sẽ lẳng lặng bỏ đi, nhưng cô quên bẵng gã được người đời gọi là “Nghĩa quân tử”, gã hoàn toàn không để bụng lời cự tuyệt lạnh lùng kiểu trẻ con của cô.

“Gật đầu cười với nhau trên phố là thành bạn, ngồi cùng bàn nâng chén trong quán rượu là thành bạn, cô từng cứu mạng ta, lại giữ lời giúp ta tiễn đưa mười vạn anh em ở Ngải Lăng, dù cô không muốn làm bạn với ta, ta cũng vẫn coi cô là bạn. Chân cô bị thương rồi, nếu không muốn nhận ân tình của ta thì cứ coi như ta rỗi hơi lo việc bao đồng đi!”

Đoạn gã xách thùng quay đi. Cô bất giác buột miệng gọi giật lại, “Trần Nghịch, sao anh lại rời Tề?”

“Vì thanh kiếm này.” Trần Nghịch đặt tay lên kiếm ngoái lại, “Sau khi Tề hầu qua đời, tướng gia muốn thanh trừng tất cả các đại phu dính dáng tới phe hữu tướng. Kiếm của ta giết người không dính máu, trước khi rời Tề, ta đã giết hai mươi bảy người. Thế tử không muốn để ta ở lại Lâm Truy tiếp tục giết người cho tướng gia nữa nên đã cho ta ba năm tự do. Thế tử không hạ lệnh gì cả, chỉ bảo ta chừng nào ngang qua Tân Giáng, nếu có gặp cô thì giúp y và Tố chuyển lời cảm ơn.”

Cảm ơn cô ư, cảm ơn vì chuyện gì chứ?

Bạn bè, kẻ địch, mỗi khi cô rơi xuống vực sâu, luôn là “kẻ địch” chìa tay ra đón lấy. Có lẽ đúng như lời Tố nói hôm đó, trên đời này vốn không có bạn bè vĩnh viễn và kẻ địch vĩnh viễn!

Thập thở dài, ngẩng lên bảo, “Họ không cần cảm ơn tôi, anh cũng chẳng nợ nần gì tôi cả. Xin lỗi, ngày hôm nay của tôi tệ lắm, giờ tôi cũng chẳng biết phải nói gì nữa.”

“Không muốn nói thì đừng ép mình nói, ta hiểu mà.” Trần Nghịch khẽ gật đầu rồi xách thùng gỗ xoay người đi thẳng.

Thập nhìn theo bóng gã, nuốt lại hai tiếng đã ra đến miệng.

Bước lên thềm, đẩy cửa ra, đi vắng ba tháng mà trong nhà cô vẫn sạch sẽ lạ thường. Mùi phương chỉ thoang thoảng trong không khí ấm áp. Giường đệm, bàn sách, hết thảy đồ đạc trong phòng vẫn ở nguyên chỗ cũ. Chỉ khác là cạnh chiếc bàn thấp bên cửa sổ có thêm một tấm đệm lam nhạt.

Khi Trần Nghịch bưng chậu nước vào phòng, Thập đang thần ra nhìn tấm đệm nọ. Cô thầm nghĩ, phải chăng sau khi rời Lâm Truy, gã cũng không có nhà để về như mình.

Trần Nghịch đặt chậu nước trước mặt cô rồi nhanh nhẹn đi tới góc tường cuốn tấm đệm hơi cũ nọ lại, “Đêm nay ta sẽ dọn ra ngoài, cô cứ yên tâm, ta không động vào đồ đạc gì của cô đâu.”

“Lúc tôi đi vắng, anh vẫn ở trại rượu này ư?” Thập hỏi.

“Đoàn buôn không có rượu, ta lại uống quen rượu cô ủ rồi, không nuốt trôi thứ rượu pha nước ở Tân Giáng. Không ở Tấn nổi, trước khi tết đến ta đã vội vã quay về, vốn định uống chén rượu nghệ của cô đón năm mới, không ngờ cô lại sang Tề.”

“Thu năm nay tôi không ủ rượu nghệ.” Thập rút khăn thêu trong ngực áo ra, nhúng vào chậu nước.

“Ừm, lúc về đến nơi ta cũng biết rồi. Bấy giờ cô đi vắng, trong quán lại đang thiếu người trông coi trại rượu nên ta ở lại. Không công, mỗi ngày được nửa vò rượu Phù Bạch uống cho đỡ thèm.” Trần Nghịch lấy trong ngực áo ra một dải vải xám đen, bó tấm đệm đã cuộn lại thành một cái gói đeo được lên lưng.

“Anh quen uống rượu chị Tố ủ, rời Lâm Truy lại không tìm được rượu vừa miệng nên mới lần đến quán Phù Tô chứ gì?”

Trần Nghịch khẽ cười, không chối cãi, Thập quay lưng về phía gã lau sạch ngấn lệ trên má rồi tiện thể treo mảnh khăn đã vắt khô lên cửa sổ, “Tối nay anh ở lại đây đi! Tôi sẽ dọn căn phòng xép để hương liệu và vò lọ không cho anh. Giờ qua tết rồi, không uống rượu nghệ nữa. Trong hầm rượu còn một vò nhỏ Áp Sầu Hương tôi giấu riêng, nếu anh không chê đắng thì hôm nay uống hết với tôi nhé!”

“Có rượu uống là tốt rồi, sao ta chê được?” Gã cười, vác tấm đệm đã buộc gọn lên, sải bước tới cạnh cửa phòng, “Chân cô đang bị thương, cứ ngồi đây đi. Rượu giấu ở đâu? Để ta đi lấy.”

“Trong đống rơm ở góc Đông Bắc.”

“Được rồi.” Trần Nghịch gật đầu, xoay người mở cửa phòng, bàn chân dợm bước ra chợt lại thu về, “Sao Áp Sầu Hương của cô đắng thế?”

“Đắng mới át được sầu chứ.” Thập khẽ cười, cúi đầu.

Đêm ấy, Trần Nghịch cùng cô uống Áp Sầu Hương hết chén này tới chén khác. Gã vốn kiệm lời, rượu vào vẫn nói rất ít. Tộc Triệu mới lập thế tử, thế tử mới cưới công chúa tộc Địch, những chuyện lớn này, Trần Nghịch đã tới thành Tân Giáng thì không thể không biết. Nhưng suốt đêm, gã chẳng hề nhắc tới tộc Triệu nửa câu.

Thập vừa uống rượu vừa tựa bên song ngơ ngẩn ngắm trăng, Trần Nghịch ngồi cạnh cô, lại uống cạn một chén Áp Sầu Hương rồi nói, “Nếu cô là đàn ông, may ra ta còn biết khuyên nhủ.” Thập nuốt ngụm rượu đắng nghét trong miệng xuống, xoay lại giật lấy chén rượu có quai từ tay gã cười bảo, “Trần gia đừng uống nữa, tôi biết anh đâu có thích Áp Sầu Hương.” Gã là một người tử tế vụng ăn nói, đâu biết rằng lúc này từ tận đáy lòng cô lại đang cảm kích sự im lặng của gã.

Nếu khi vầng trăng bạc lên đến giữa trời, bên ngoài cửa tre không vang lên tiếng gõ, Thập nghĩ chắc hẳn Trần Nghịch đã nghe được lời cảm tạ chân thành của cô.

“Có người ở đây không?” Một giọng nam sang sảng phá vỡ màn đêm yên tĩnh.

Nghe tiếng gọi ấy, Thập đánh đổ hết Áp Sầu Hương trong chén.

Báo cáo nội dung xấu