Trúc Thư Dao - Tập 4: Thiên Hạ - Chương 02
THẾ SỰ VÔ THƯỜNG
Kiếp này nên sống cho mình một lần. Câu nói ấy như lời giải nguyền, thắp lên một ngọn lửa trong lồng ngực Thập. Cô gắng gượng bò dậy, châm lửa đốt trụi mảnh gỗ viết tên mình.
Đã bao lâu rồi cô không nghe thấy giọng nói này? Khi giọng hắn xuyên qua cửa truyền vào tai, cô cứ tưởng lại là một giấc mơ đẹp đẽ mà ngắn ngủi nữa. Hơn hai trăm ngày đêm, đêm cô hạnh phúc hơn ngày, bởi chỉ trong mơ cô mới có thể gặp lại hắn, mới có thể cảm nhận sự âu yếm của hắn không chút e dè. Vậy mà đêm nay, khi hắn thực sự xuất hiện trong thế giới của cô, cô lại đau đớn giãy giụa muốn thoát khỏi cơn ác mộng này.
Triệu Vô Tuất đã đến, dẫn theo cô vợ mới diễm lệ như nắng sớm tháng Ba gõ cửa trại rượu.
Trần Nghịch thay Thập ra mở cửa, còn cô bưng miệng nấp sau song cửa như một tên trộm không thể thấy ánh mặt trời.
“Phu chủ, Chu Nhan Đà của quán Phù Tô ngon thật. Thiếp muốn mua năm vò về, chúng ta giữ lại ba vò, còn hai vò gửi biếu trưởng tỷ và vua Đại được chăng?” Vợ mới cưới của hắn áo đỏ như lửa, đôi má bánh mật, sống mũi cao thẳng, nói lời lịch thiệp còn ngượng ngập chưa quen nhưng khiến gương mặt đẹp hoang dại thêm mấy phần yêu kiều yểu điệu.
Triệu Vô Tuất ôm eo vợ như giữa chốn không người, hắn nhìn vợ mình, cười ngây ngất như say, tưởng chừng người đẹp bên cạnh là tất cả nguồn vui của hắn lúc này. “Trưởng tỷ không thích loại rượu ngọt này đâu, nàng thích thì cứ giữ mà uống! Có điều đã uống rượu thì không được rời phủ ruổi ngựa đi chơi nữa, cẩn thận ngã ngựa đấy.” Hắn gí tay lên chóp mũi vợ, giống như vô số lần từng gí đầu ngón tay ấm áp lên chóp mũi lành lạnh của cô.
Trước kia, mỗi lần hắn suồng sã thân mật như vậy trước mặt người khác, Thập đều phát ngượng. Nhưng vợ hắn lại thích thú, ả tựa sát vào vai hắn, đôi lúm đồng tiền trên má ngọt như tươm mật, “Phu chủ, chàng đối tốt với thiếp như vậy, chuyện gì thiếp cũng nghe chàng…” Ả ngẩng lên nhìn Triệu Vô Tuất, hắn cúi xuống rủ rỉ mấy lời, ả liền thẹn thùng vùi mặt vào vòng tay hắn như én non về tổ.
Trong bóng tối, tim Thập nứt ra thành tiếng “lách tách”. Cô ngỡ hắn sẽ nghe thấy, nhưng bên tai đang khúc khích tiếng cười, đàn ông sao nghe thấy tiếng tim vỡ được.
Triệu Vô Tuất vuốt nhẹ mái tóc dài loăn xoăn của công chúa tộc Địch, cười nhìn Trần Nghịch bên cạnh, “Trần huynh phong nhã quá, bỏ cả cánh quân nghìn chiến xa, chẳng màng ba thái ấp để dọn tới trại rượu ở quán Phù Tô này. Lẽ nào nơi đây có thần nữ Nghi Địch khiến Trần huynh bịn rịn không rời hay sao?”
Bên ngoài, Trần Nghịch đặt tay lên kiếm đáp lời. Thập bấu cả mười ngón tay vào song cửa, dỏng tai nghe ngóng mà chẳng nghe được gì cả. Cô chỉ nghe thấy tiếng trái tim rạn vỡ tan tành.
Ủ rượu hơn sáu tháng, vậy mà một người con gái tựa nắng chói gần như chỉ mất một khắc đã vét sạch cả hầm rượu của Thập. Khi Trần Nghịch đặt rương châu ngọc lạnh lẽo xuống trước mặt, cô lập tức bưng chiếc rương nhỏ sơn đen khảm xà cừ nọ lên ném thẳng vào tường như một ả điên.
“Sao chàng lại lấy vợ? Sao chàng không tới tìm tôi? Sao chàng lại tin lời bịa đặt của tôi chứ? Rõ ràng chàng biết trong lòng tôi chỉ có chàng, rõ ràng chàng biết vì chàng tôi mới phải ra đi… Rõ ràng chàng đã nói lấy tôi rồi thì không thể cưới vợ khác nữa… chàng đúng là đồ dối trá, đồ lường gạt!” Thập ngồi thụp xuống đất gào lên, khi những tiếng thét gào nát tim xé phổi ấy vuột ra khỏi miệng, cô mới nhận thấy hóa ra mình lại oán hận sâu đến thế.
Hóa ra cô vẫn hằng mong sau khi chia lìa hắn cũng không hạnh phúc như mình.
Cô vật ra đất khóc thất thanh, có lẽ khóc vì sự vô tình và hạnh phúc của Triệu Vô Tuất, cũng có lẽ khóc cho sự giả tạo và xấu xí của chính mình.
Trần Nghịch vẫn không biết làm sao khuyên nhủ cô, gã chỉ đứng lặng ở đó, nhìn cô khóc đến khàn giọng đứt hơi. Cô không nhớ nổi gã bỏ đi lúc nào, cũng như cô không thấy được bóng Triệu Vô Tuất bỏ đi vậy.
Khi cô khóc đến cạn nước mắt thì Trần Nghịch quay lại. Gã đặt tấm thẻ gỗ bằng bàn tay xuống cạnh tay cô, “Đây là khế ước bán thân của cô, đốt đi là cô tự do rồi. Kiếp này cô cũng nên sống cho mình một lần đi.”
Kiếp này nên sống cho mình một lần. Câu nói ấy như lời giải nguyền, thắp lên một ngọn lửa trong lồng ngực Thập. Cô gắng gượng bò dậy, châm lửa đốt trụi mảnh gỗ viết tên mình.
Nhưng cô chẳng hề tìm thấy khoái cảm tự do trong làn khói xanh tỏa ra mùi là lạ nọ. Bởi gông cùm tròng lên cô xưa nay đâu phải mảnh gỗ này.
Mà là tình cảm, cô có quá nhiều tình cảm không sao buông bỏ được nên vĩnh viễn không thể tự do.
Đồn rằng ở đất Kinh Sở phương Nam có một đầm nước mênh mông bát ngát, sương phủ mịt mờ tên Vân Mộng. Viêm Đế từng trồng ngàn gốc cỏ vong ưu ở đầm Vân Mộng, cỏ tiên tháng Ba mọc lên, tháng Tư héo úa, ăn vào có thể quên hết tình cảm ưu sầu. Cô nghĩ phen này mình phải sang Sở thật rồi.
Thập cưỡi ngựa phi trên con đường cái quan mù mịt cát vàng, lúc ngang qua cây cổ thụ bên đường, cô lại trông thấy cô gái say mèm ngóng đợi kia. Nàng ở đó đợi một người, đợi từ hè nắng gắt sang đông rét mướt. Giờ cô phải đưa nàng đi, đưa nàng tới nơi nàng muốn đến. Bởi người nàng đợi sẽ không bao giờ tới, hắn đã quên nàng rồi.
Mùa xuân năm thứ bốn mươi đời Chu Kính vương, Thập và Trần Nghịch đi về phía Tây, ghé thành Tân Giáng nhìn cố nhân từ đằng xa rồi giục ngựa xuôi Nam tới đầm Vân Mộng.
Lúc Thập ghé thăm Tư ở Tân Giáng, Tư đang ngồi trong sân ngôi nhà Triệu Ưởng ban cho Vu An, bình thản phơi nắng. Bàn tay Tư âu yếm vuốt ve cái bụng nhô cao, nụ cười hạnh phúc thỏa mãn trên môi còn rạng rỡ hơn đôi bông thạch anh tím lủng lẳng bên tai.
Thập mặc áo vải thô, chân trần nằm bò trên chạc cây bên ngoài tường bao, len lén nhìn bạn.
Mười hai năm, tháng năm lặng lẽ trôi qua kẽ tay, Tư đã tìm được người mình yêu, có đứa con của riêng mình, còn Thập mất mười hai năm để đánh mất bản thân rồi ra sức đi tìm lại.
Mười hai năm, Tư lẳng lặng đi theo một con đường, tiến thẳng tới hạnh phúc. Còn Thập sôi nổi loanh quanh một vòng, sau cùng lại trở về điểm khởi đầu.
Tháng Ba trời ấm, Trần Nghịch dựng cho cô một căn nhà gỗ bắc ngang mặt nước giữa bãi lau đầm Vân Mộng. Cô không gọi gã là Trần gia nữa, gã đã nhận cô làm em gái.
Ông anh kiệm lời chỉ có ba năm tự do nên không thể phung phí thời gian giữa sóng nước đầm Vân Mộng cùng cô được. Dựng nhà xong, Trần Nghịch vác kiếm bỏ đi. Sau đó cứ độ hai ba tháng, gã lại về đầm Vân Mộng ở cùng cô mấy ngày, có lúc một mình, lúc lại dẫn theo cả đám du hiệp ồn ào nhốn nháo mà hết sức dễ mến.
Để có chỗ ở, đám đàn ông bèn chung tay dựng một cái lán thấp tè trong bãi lau.
Lúc dựng lán, kẻ nào kẻ nấy đốn cây, bó cỏ, hăng hái ngút trời, mồ hôi đầm đìa, nhưng mỗi sáng cô mở cửa sổ ra lại thấy cả đám trần trùng trục ôm vò rượu nằm la liệt trên bãi đất trống trước cửa lán ngáy khò khò.
Đầm Vân Mộng không có cỏ vong ưu, nơi này có cả ngàn loài cây cỏ xanh um, trăm hoa nở rộ, chỉ thiếu cỏ tiên quên hết ưu sầu. Nhưng dần dà Thập lại nhận ra, sống lâu ngày ở vùng sóng nước mênh mông này, cười đùa nhiều với đám du hiệp này, dường như lòng cô cũng cởi mở hẳn. Lòng đã cởi mở thì những sầu thương dồn ứ bên trong cũng vơi bớt. Cô tìm một góc trong lòng giấu chúng đi, âm thầm hy vọng một ngày nào đó có thể quên sự tồn tại của chúng.
Xuân qua thu đến, thấm thoắt mấy tháng, cả vạt bèo lấm tấm hoa tím bên bờ đầm đã héo khô, chẳng còn tăm tích. Xa xa, cánh rừng xanh ngắt đơn điệu mùa hè theo gió thu hây hẩy cũng khoác lên tấm áo mới rực rỡ màu đỏ pha vàng. Mặt trời nhô lên đằng Đông, Thập đeo chiếc giỏ mây mới đan, vừa đi vào rừng vừa hát.
Nửa tháng trước, cô vào rừng đi săn, tìm thấy mấy cây lê dại đã được bảy tám tuổi, trong tán lá um tùm lúc lỉu những chùm quả xanh sẫm. Quả lê dại thịt mỏng, hạt lại to, có chín ăn vẫn ê răng. Nhưng nếu bỏ tám chín quả vào hầm chung với vịt trời béo mập sẽ được món vịt hầm nhừ tơi, béo mà không ngấy, khiến người ta vừa nghĩ đến đã ứa nước miếng.
Nước Sở đất rộng người thưa, Thập từng thấy người Sở chèo thuyền độc mộc săn chim bắt cá trên đầm Vân Mộng, nhưng chưa từng gặp một ai ở vạt rừng ven hồ này cả. Lâu dần cô nghiễm nhiên coi cánh rừng nhỏ này như sân sau nhà mình, tha hồ hái thuốc, luyện kiếm, săn thú bằng dây thừng buộc đá. Chỉ cần buộc hòn đá vào một đầu dây, cầm đầu kia quay vù vù rồi sẵn đà ném ra, tức thì một con mèo rừng rình rập trên cây ăn thịt chim non sẽ rơi bịch xuống gốc. Chiêu này Trần Nghịch dạy cô, thực ra gã và đám bạn còn dạy cô rất nhiều thứ. Con gái sống một thân một mình phải học nhiều lắm.
Quán Phù Tô tấp nập ở Tống khiến Thập thấy quạnh quẽ, còn vùng hồ vắng vẻ này của Sở lại khiến cô thấy rộn rã mà tự tại. Cô đi săn, bắt chim, câu cá, hôm nào trời đẹp thì nằm trên bãi cỏ ven hồ, đánh một giấc một hai canh giờ. Có lúc cô bị bầy nhạn bay ngang trời đánh thức, lúc lại có mấy con thỏ ngốc nghếch mon men nhấm nháp cành lá cô che trên mặt; dĩ nhiên phần lớn là bị đám người Sở lòng như lửa đốt lay tỉnh. Người Sở tôn sùng vu sĩ, nhưng không phải vu sĩ nào cũng chịu đi mấy chục dặm đường chữa bệnh cho dân thường vì một túi lương thực nhỏ. Thập vừa là vu sĩ vừa là thầy lang, quan trọng nhất là cô thừa thãi thời gian để đi đường. Vì vậy dân Sở trong vòng năm chục dặm quanh đó đều thích nhờ cô chữa bệnh.
Đất Sở ẩm thấp, mùa hè mười người thì ít nhất cũng phải có một chết vì sốt cao hoặc sốt rét. Mấy tháng trước, phần lớn thời gian cô đều lê la trong các làng xóm quanh đầm Vân Mộng chữa bệnh, dạy dân làng sắc ít thuốc thang trị bệnh; giờ trời mát hơn, người ốm ít đi, cô mới được rảnh rang mà bày vẽ ăn uống.
Trước khi mặt trời lặn, Thập đã hái đầy giỏ lê dại về nhà, chọn mấy quả to hầm vịt, còn lại thì bỏ vào vò sành xem có ủ được rượu hoa quả mới không. Suốt cả ngày tới lúc đặt lưng xuống ngủ, cô đều vui phơi phới.
Đêm ấy, Thập mơ thấy Triệu Vô Tuất. Thực ra cô không ngạc nhiên khi gặp hắn trong mơ, từ sau hôm trông thấy hắn và cô vợ mới cưới ở trại rượu, hắn vẫn là khách quen trong giấc mộng cô. Ban đầu cô còn bài xích, kháng cự, khi tỉnh dậy thường ngồi thần ra cả ngày vì người và chuyện trong mơ. Hắn đã quên cô nên cô cũng nóng lòng muốn quên hắn.
Nhưng về sau, cô dần bình tĩnh lại. Cô hiểu không phải vì mơ thấy hắn mới không quên được hắn, mà bởi không quên được nên mới mơ thấy hắn. Những kỷ niệm đẹp đẽ đã trôi qua hóa thành cảnh mộng, cô thản nhiên đón nhận, nhưng khi tỉnh lại cũng chẳng thẫn thờ hồi tưởng nữa.
Đêm nay hắn lại ghé vào giấc mơ cô. Cô mơ thấy hắn ngồi ở mép giường, vuốt nhẹ mắt mình rồi nói, “Nàng chưa bao giờ tin ta phải không? Nàng có đôi mắt dịu dàng nhất, dễ khiến người ta yêu thương nhất trên đời, nhưng lại có cái miệng khéo lừa người và trái tim lạnh như băng. Nàng rời xa ta hệt như năm xưa nàng quả quyết rời Tần, lìa bỏ người kia vậy. Nàng biết mình đã đưa ra quyết định có lợi nhất cho y, giống như nàng cho rằng mình đã thay ta đưa ra quyết định có lợi nhất cho ta. Nhưng vợ yêu à, ai cho nàng quyền lựa chọn thế? Sao ta không có cơ hội được nói không? Giờ mọi chuyện đều như nàng dự liệu, nàng vừa lòng chưa? Thỏa mãn chưa?”
Trong bóng tối, cô gắng gượng muốn lên tiếng, nhưng không sao mở miệng được, linh hồn cô tỉnh táo, song cơ thể vẫn ngủ say. Hắn nằm xuống bên cạnh, ôm chặt cô từ phía sau, hôn nhẹ lên má, lên tai cô, ngón tay lạnh ngắt chầm chậm cởi nút áo cô. Cô khẽ rên lên trong mộng, hắn hôn dọc theo gáy tới bả vai run rẩy của cô. Hắn thở dài, ngón tay dài lần vào cổ áo mở toang của cô, đôi môi nóng rực lúc gần lúc xa khiêu khích sau lưng. Cô muốn giãy giụa nhưng thân thể không tuân theo ý chí.
“Thập à, sao nàng lại giày vò ta thế này? Sao ta không thể được hạnh phúc?” Trong bóng tối, hắn xoay cô lại, đè lên cô. Đôi môi mềm ấm của hắn áp chặt vào tấm lưng trần của cô, lần xuống dưới từng tấc một rồi cắn mạnh vào eo cô.
Hắn oán hận cô, nụ hôn của hắn đượm mùi trách phạt và tuyệt vọng, cô không sao phân rõ được đây là thực hay mơ, đành mặc bản thân chìm đắm trong gió táp mưa sa hắn tạo ra.
Tinh mơ, mấy tiếng nhạn kêu lảnh lót ngoài bãi lau đánh thức Thập, cô mơ màng kéo chăn trở mình, cảm thấy cơn đau như dần trên người vô cùng chân thực. Sững ra một thoáng, cô vội vã tung chăn chạy xộc khỏi nhà như tên bắn.
Là chàng ư? Chàng đến đây sao?
Cô chạy chân trần giữa bãi lau bên bờ đầm Vân Mộng, lớn tiếng gọi tên hắn, hoa lau rợp trời đưa tiếng gọi của cô đi xa. Cô vừa chạy vừa gọi, nhưng giữa đất trời vẫn chỉ có tiếng nước, tiếng gió và tiếng chim ríu rít. So với sự chân thực đêm qua thì cảnh tượng trước mặt còn giống mơ hơn, một giấc mơ khiến người ta hoang mang và thất vọng.
Không, hắn không ở đây, có lẽ hắn vốn chưa từng đến đây…
Thập ôm gối ngồi xuống bờ hồ sớm mai, sương sớm bảng lảng trên mặt hồ bị gió thu xua tới, từng đợt từng đợt ùn lên quanh cô.
Bên hồ Lạc Tinh, họ hợp cẩn thành hôn, chăn gấm giao hoan, chớp mắt đã hơn một năm rồi. Sau khi rời xa hắn, cô cũng từng mơ những giấc mơ không thể kể cùng người khác, nhưng chưa lần nào rõ ràng chân thực như đêm qua, thực đến mức khiến cô ngờ rằng đó không phải mơ. Cô ngồi quỳ bên bờ hồ, thong thả cởi chiếc áo trong ướt đẫm sương sớm. Có lẽ hắn thực sự đã đến, có lẽ sau lưng cô còn dấu vết hắn để lại đêm qua… Cô cố xoay người, nghiêng đâu hòng nhìn cho rõ bóng mình dưới nước.
Chợt một cơn gió thổi qua, sóng gợn lăn tăn, cô ôm lấy cơ thể trần trụi, bất giác rùng mình.
Trời ạ, rốt cuộc cô đang làm gì thế này! Ban ngày ban mặt cởi áo tháo đai nơi hoang vắng chỉ để chứng minh một giấc mơ hoang đường hay sao? Cô vừa tự rủa thầm vừa vội vàng nhặt quần áo dưới đất lên bọc lấy mình. Đó chỉ là một giấc mơ, chỉ là mơ thôi. Thập thắt dây lưng, hít sâu một hơi khí lạnh rồi vươn người đứng thẳng dậy. Xa xa, giữa bãi lau trắng xóa như tuyết lững lờ bốc lên một làn khói xanh.
Đằng kia là phía căn nhà gỗ, lẽ nào?
Thập khép chặt vạt áo, chạy như bay về nhà.
Lò lửa bên ngoài nhà đang cháy bừng bừng, chiếc nồi treo bằng đất thó bên trên sôi ùng ục. Giữa màn khói và hơi nước, một bóng người áo đen đang nghiêng đầu nhìn xa xăm.
“Đại ca?” Thập dừng chân, đứng sững tại chỗ. Thất vọng ư? Có lẽ cũng hơi hơi. Nhưng giờ đây ngoài Trần Nghịch ra còn ai tới tìm cô nữa chứ?
“Sang thu rồi sao áo khoác không mặc, giày tất không đi đã chạy ra ngoài thế?” Trần Nghịch ngoảnh nhìn cô rồi lập tức quay đi.
Thập cúi đầu nhìn tấm áo trong bằng lụa mỏng ướt đầm sương và đôi chân trần lấm láp đất bùn, cỏ vụn, nhoẻn cười khoanh chặt hai tay đi về phía gã, “Đại ca quên em lớn lên ở thành Ung à, mùa thu ở Sở còn nóng hơn mùa hè ở Tần ấy chứ, sáng sớm đi chân đất dạo ven hồ một quãng cũng thích lắm.”
“Mặc áo vào đi, ta có việc cần nói với em đây.”
“Vâng, đợi em một lát.” Cô chạy vào nhà, thay áo ngoài, xỏ giày tất, tâm trạng vốn rối bời vì giấc mộng dần bình tĩnh lại.
“Đại ca, lần này anh ở lại mấy hôm?” Cô vừa thắt dây lưng vừa chạy xuống thềm. Bên bờ hồ, Trần Nghịch đang nấu một nồi cháo thơm phức bằng cao lương khô.
“Không ở lại đâu, hôm nay ta đáp thuyền từ đầm Vân Mộng tới thành Dĩnh kinh đô nước Sở, tiện đường ghé qua thăm em thôi.”
“Anh tới Dĩnh làm gì?” Cô đi đến bên bếp, cầm chiếc muôi dài làm từ lóng tre múc cho mình bát cháo nóng hổi.
“Tháng trước Sở vương phái đại quân đánh nước Đồng, nước Đồng dựa dẫm vào Ngô bấy lâu, đám quyền quý ở kinh đô Sở sợ rằng lỡ Sở thua sẽ bị Ngô báo thù nên đang vung tiền chiêu mộ kiếm sĩ để bảo vệ mình rời khỏi thành Dĩnh.” Trần Nghịch vừa kể vừa dùng dao găm vót đôi đũa gỗ trong tay.
“Chưa đánh đã chiêu mộ kiếm sĩ chuẩn bị chạy trốn ư? Đám quyền quý nước Sở sợ chết thật đấy. Năm xưa Ngũ Tử Tư dẫn quân đánh vào Dĩnh, đốt thành của người Sở, quật xác Sở vương lên quất roi; giờ Phù Sai thua dưới tay Câu Tiễn mà người Sở vẫn sợ người Ngô đến thế cơ à! Có điều lần này họ cả lo rồi, Sở nhất định sẽ thắng Đồng thôi.”
“Sao em biết Sở sẽ thắng?” Trần Nghịch nhúng đôi đũa gỗ xuống nước khua mấy vòng rồi chìa cho Thập, “Tuy năm xưa Việt vương nhân hội thề Hoàng Trì đánh vào kinh đô Ngô nhưng nước Ngô gốc rễ sâu dày, vẫn là kình địch của Sở.”
“Ôi, xem ra đại ca coi em là cô nàng cất rượu ở Tống thật rồi. Đại ca quên trước kia ở Tấn em làm gì ư?” Thập đón lấy đôi đũa khuấy vào bát mấy cái rồi ngửa cổ dốc cả bát cháo thoang thoảng mùi gỗ bách vào bụng.
“Ta đâu có quên, em là con thần được người Tấn tôn thờ.”
“Em không phải con thần, em là vu sĩ.” Thập đặt bát xuống, ngước lên cười, “Vận số các nước trong thiên hạ cũng như mặt hồ trước mặt chúng ta, sóng xô vào rồi lại rút ra, đó lên đây xuống, không bao giờ ngừng. Hết trận Ngải Lăng đến hội thề Hoàng Trì, Phù Sai đã mất mệnh trời từ lâu. Giờ nước Sở vua sáng tôi hiền, ngày sau Sở vương có lẽ vẫn còn cơ hội xưng bá Trung Nguyên lần nữa.”
“Em đã bói vận nước cho Sở rồi ư?”
“Coi là vậy đi, lúc Sở vương xuất quân, ban đêm em đã thấy sao yêu Uổng Thỉ đi về phía Đông, đuôi của nó quét ngang vòm trời, vừa hay rơi xuống nhóm sao ứng với nước Ngô. Uổng Thỉ là điềm động binh đao, bỏ cũ lập mới. Sở và Ngô, Hùng Chương và Phù Sai, ai mới ai cũ rành rành ra đó rồi. Chuyến này đại ca cứ yên tâm đi Dĩnh, nước Sở không rối loạn đâu, anh tha hồ mà kiếm tiền của đám quyền quý kia.”
“Thế hả? Em nói vậy thì ta yên tâm rồi.” Trần Nghịch trầm tư gật gù.
Chín năm trước, Ngô thảo phạt Trần, Sở Chiêu vương đích thân dẫn quân sang cứu Trần, không may chết giữa doanh trướng. Trước lúc lâm chung, Chiêu vương có ý truyền ngôi cho mấy người anh em của mình như Tử Tây, Tử Kỳ, Tử Lư nhưng sau đó bọn Tử Tây lại đón con nhỏ của Chiêu vương là Hùng Chương lên làm Sở vương.
Hùng Chương là một thiếu niên khiến người ta phải tấm tắc trầm trồ. Y là con trai Sở vương, cháu ngoại Việt vương Câu Tiễn, mang dòng máu tôn quý nhất. Y cơ trí, độ lượng, coi trọng hiền tài, hừng hực dã tâm, quan trọng nhất là y vẫn còn trẻ tuổi. Nếu một quốc gia giữ được chính quyền ổn định mấy chục năm, lại được vua hiền cai trị thì chắc chắn sẽ trở thành một đất nước giàu mạnh.
Nước Đồng nằm giữa hai nước Ngô và Sở, cách kinh đô nước Ngô mấy trăm dặm, có Việt vương Câu Tiễn rình rập đằng sau, Phù Sai sẽ không phái quân sang cứu. Sở vương còn trẻ, cần thắng một lần, y biết nước Đồng là lựa chọn tốt nhất để mình lập uy, rửa sạch mối nhục trước kia cho đời ông đời cha. Tháng trước, khi đại quân Sở rầm rộ gióng trống mở cờ đi ngang đầm Vân Mộng, Thập đã cảm nhận được sâu sắc tráng chí hừng hực của một thiếu niên cùng dã tâm tranh giành Trung Nguyên của một vị vua trẻ.
Sao yêu Uổng Thỉ quét ngang trời đêm có lẽ thực sự dự báo cho thất bại của Ngô, nhưng sao sáng đầy trời chẳng hề cho Thập biết, Tấn, Tề, Việt, Sở, ai sẽ là kẻ tiếp theo xưng bá thiên hạ.
Cô nhìn ngọn lửa cháy rực trước mắt, lòng thầm cân nhắc những ưu thế và bất lợi của từng nước trên con đường tranh bá. Đúng lúc ấy, Trần Nghịch nãy giờ vẫn ngồi lặng bên cạnh lại thình lình cho cô một bất ngờ.
Bất ngờ ấy vốn bắt nguồn từ ba tháng trước.
Bấy giờ đầm Vân Mộng đang giữa mùa hè, Trần Nghịch rủ mười hai du hiệp thân mang tuyệt kỹ tới uống rượu đấu kiếm. Trong số đó có người Sở, người Tấn, cũng có kiếm khách đến từ hai nước Ngô, Việt. Mấy hôm ấy, Thập cải trang nam, ở chung với họ cả ngày. Ban ngày thì xem họ so kiếm, hò hét hoan hô họ; đến tối lại ngồi bên đống lửa nghe đám đàn ông câu được câu chăng kể về đời kiếm khách ly kỳ nhiệt huyết của mình.
Mười hai người này đều là cao thủ hàng đầu các nước. Cao thủ so kiếm, bị thương đổ máu là chuyện thường, sau mười ngày, cô gần như đã trị thương cho khắp lượt bọn họ. Trước khi từ biệt, cả đám đàn ông cao lớn lộc ngộc ngẩng đầu ưỡn ngực đứng trước mặt cô, sang sảng nói, “Quỷ con, bọn anh không có tiền trả tiền thuốc đâu, ngoài kiếm ra, chú thích gì trên người bọn anh thì cứ việc lấy!” Đoạn họ vỗ vai cô, ai nấy đều tỏ vẻ “anh cho chú chọn thoải mái đấy”. Nhìn dáng vẻ hào phóng của họ, cô đâm dở khóc dở cười.
Cô có thể lấy cái gì được chứ? Ngoài Trần Nghịch và kiếm khách Quỷ đến từ Việt ra, những người còn lại e rằng chỉ có thể cho cô bộ đồ rách với lũ rận lúc nhúc mà thôi. Hai thứ này có đánh chết cô cũng chẳng thèm.
Cuối cùng, cô đi một vòng quanh các ông anh “hào phóng”, chỉ xin kiếm khách Quỷ chiếc thắt lưng gã đeo trên mình. Lúc trước, cô từng thấy gã dùng chiếc thắt lưng xoàng xĩnh này bắt được con lợn lòi đâm húc lung tung.
Nghe cô đề nghị lấy thắt lưng của Quỷ thay tiền thuốc cho tất cả mọi người, Trần Nghịch ngửa mặt cười phá lên, những kẻ khác cũng vỗ đầu khen cô tinh mắt. Hóa ra kiếm khách Quỷ là đồ đệ của Âu Dã Tử, bậc thầy rèn kiếm nước Việt, thường ngày gã không chuyên tâm rèn kiếm, song lại thích làm mấy món binh khí kỳ quặc. Bên trong chiếc thắt lưng xám thoạt nhìn xoàng xĩnh kia là một sợi xích màu bạc to bằng ngón trỏ, dài hơn trượng, gồm hàng loạt những mắt xích nhỏ nối với nhau, nhìn từ xa như một con rắn dài xám bạc. Chỉ riêng về phần tinh xảo, sợi xích đã đủ khiến người ta phải trố mắt kinh ngạc, nhưng điều làm Thập tấm tắc mãi là chất liệu của nó. Người trong thiên hạ phần nhiều đều dùng đồng để rèn binh khí, nhưng đồng đen không mấy dẻo, va đập mạnh là gãy, còn sợi xích này chẳng hiểu rèn từ loại đồng gì mà con lợn lòi lôi kéo giằng giật thế nào cũng không đứt không bung.
Quỷ bảo Thập rằng, xích này tên là Phục Linh Sách.
Năm xưa Âu Dã Tử vâng mệnh Sở Chiêu vương, rèn ra ba thanh thần kiếm Long Uyên, Thái A, Công Bố. Rèn xong ba thanh kiếm, vẫn còn thừa sắt thuần chất. Quỷ gom góp những sắt dư ấy, rèn nên Phục Linh Sách bền chắc này. Gã nói tặng cho cô cũng được, nhưng phải đợi ít hôm nữa, bởi gã còn cần nó có việc.
Bấy giờ cô gật đầu cười nhưng bụng nghĩ, nghe đồn lúc Âu Dã Tử đúc kiếm có thần mưa quét tước, thần sấm gõ bễ, giao long bưng lò, Thiên Đế bỏ than, kiếm báu đúc ra đều là binh khí thần kỳ tuyệt thế. Năm xưa Sở Chiêu vương cầm kiếm Thái A đánh tan tác liên quân hai nước Tấn, Trịnh. Phục Linh Sách này đúc từ sắt thừa của ba thanh thần kiếm, ắt cũng là thần vật hiếm có trong thiên hạ. Thứ quý giá nhường ấy, gã sao có thể cho, cô sao có thể xin được?
Bởi vậy hôm nay nhận được sợi xích nặng trịch từ tay Trần Nghịch, Thập không dám tin vào mắt mình nữa. “Quỷ tặng Phục Linh Sách cho em thật ư? Em tưởng hôm ấy anh ta chỉ nói cho qua chuyện thôi chứ.”
“Tuy tính tình Quỷ hơi kỳ quặc nhưng rất trọng lời hứa, đã bảo tặng cho em thì sẽ không nuốt lời đâu.”
“Quỷ làm xong việc cần làm rồi à?”
“Ừm.” Trần Nghịch gật đầu, tự múc cho mình một bát cháo, “Hôm trước hắn đã dùng sợi xích này vặn đứt đầu một người.”
Đầu người ư? Thập gượng gạo giơ sợi Phục Linh Sách trong tay lên, tức thì trông thấy những thịt vụn máu bết đỏ bầm dính trên mắt xích.
Cô bất giác hất tay, bụp một tiếng, Phục Linh Sách rơi trúng vào nồi cháo nghi ngút trước mặt Trần Nghịch.
“Ôi, nếu Phục Linh Sách biết nói, chắc chắn nó không ưa người chủ mới này đâu.” Cô vội dùng đũa vớt sợi Phục Linh Sách ướt sũng dính đầy cháo trong nồi, cười nhăn nhó.