Trúc Thư Dao - Tập 4: Thiên Hạ - Chương 30
TRĂNG TÀN CỐ LƯƠNG
Thập mệt rã rời, vô thức rơi vào bóng tối, không cảm nhận được thời gian trôi, cũng chẳng thấy đau đớn nữa, hết thảy đều đã dừng lại trong bóng tối vĩnh hằng. Cô chết rồi ư? Có lẽ thế, bởi nếu không mở mắt ra lần nữa thì cô cũng không thể trả lời câu hỏi này được.
“Đau quá, đau quá!!” Cơn đau dữ dội từ một điểm bên trong thân thể thoắt chốc lan ra toàn thân Thập, cô nghe thấy tiếng mình thét lên thảm thiết, tiếng thét chói tai xé lòng, khiến người ta phát sợ. Cô muốn co cuộn người lại, nhưng bị ai đó giữ chặt hai chân. Thân thể cô như bị gỡ ra, xé toạc, chẳng còn chỗ nào thuộc về cô nữa, nhưng cô lại cảm thấy đau ở mọi chỗ. Mồ hôi từ trán chảy xuống mắt, Thập không mở nổi mắt ra, cũng chẳng biết sao mình lại nằm ở đây, sao bên tai cứ lùng bùng tiếng chuông tiếng trống và tiếng vu sĩ nỉ non như khóc. Tư của cô đâu? Tư của cô chết rồi.
“Tư, Tư ơi…” Thập khóc òa lên nức nở, nước mắt tuôn ra, cuốn trôi cả mồ hôi trong mắt.
“Bên trên chảy máu, bên dưới cũng chảy máu, hôm nay đứa bé này không sinh nổi, người mẹ cũng cầm chắc cái chết rồi.”
“Bà đỡ đến chưa? Người có chết cũng không thể chết trong tay chúng ta, bằng không tất cả chúng ta đừng hòng giữ mạng.”
“Ôi chao, vậy phải làm thế nào đây! Cô nương, vận sức rặn đi!”
Người nâng đầu cô lên, người lại quỳ bên cạnh ấn mạnh bụng cô. Cơn đau không sao chịu nổi xộc thẳng lên đầu, Thập cố đẩy người đang đè trên mình ra, lăn lộn trên giường gào thét.
“Tư ơi Tư, đau quá!! Vô Tuất!! Vô Tuất!!!” Có thứ gì đó muốn bung ra khỏi thân thể cô, nó quằn quại đau đớn trong bụng làm cô rú lên, cảm thấy lục phủ ngũ tạng đều bị khuấy đảo.
“Cô nương, cô không thể thế này được, cô trở dạ cả đêm rồi đấy, cô cố chịu chút đi, đứa bé sắp ra rồi.”
Đứa bé?
Cô cố mở mắt ra, nhưng chẳng thấy gì cả, mọi thứ đều nhuốm màu máu, đậm có nhạt có, sắc máu xoay vần trước mắt cô. Cô sờ bụng, thần trí hỗn loạn dần dần tỉnh táo lại. Con, con cô sắp chào đời rồi.
Cơn đau dữ dội một lần nữa ập tới, Thập bấu chặt tấm đệm ướt đầm bên dưới, cong người lấy sức rặn. Tiểu Nha nhi, con mau ra đi, mẹ con mình đi tìm cha, mẹ con mình cùng đi tìm cha nào…
“Không xong rồi, vết thương trên vai cô ấy bị vỡ!”
“Mặc kệ bên trên đi, đầu đứa bé sắp ra rồi. Cô nương, rặn mạnh thêm đi!”
“Đừng rặn vội. Thai chưa đủ tháng, đẻ ra cũng chưa chắc sống được đâu. Lỡ mẹ chết, người bên ngoài sẽ cắt đầu chúng ta đấy.”
“Vậy bà mau cầm máu đi!”
“Lấy gì mà cầm?”
“Ôi thôi, mặc kệ nó chảy đi vậy! Cô nương, rặn mạnh nữa đi, sắp ra rồi, mạnh thêm chút nữa!” Người đàn bà giục giã, Thập cắn rách cả môi, nhưng chẳng còn thấy đau nữa, máu đang ồ ạt tuôn ra từ vết thương trên vai cô, tay chân cô lạnh đến tê dại, cơn đau không sao chịu nổi trong bụng dường như cũng đã bồng bềnh trôi theo tiếng hát thê lương của vu sĩ bên ngoài. Không được, trở lại đây, cô muốn níu cơn đau như nứt xương kia lại…
Thập nhỏm người dậy, cứ hít được một hơi lại vật vã thét lên, dốc hết sức rặn mạnh. Cô đã bắt đầu nảy sinh ảo giác, cảm thấy Triệu Vô Tuất ngồi bên cạnh, siết chặt tay cô, hết lần này tới lần khác cùng cô gào thét, la khóc.
“Ra rồi, ra rồi!” Người đàn bà reo lên mừng rỡ, “Còn sống, là một bé gái.”
Phía dưới cô, một dòng nước ấm tuôn ra, sau đó cô nghe thấy một tiếng kêu yếu ớt như mèo. Không có tiếng khóc oa oa khỏe khoắn, con gái cô chào đời với thân hình bê bết máu me. Nước mắt chảy dài theo gò má cô thấm vào mớ tóc bết mồ hôi, rõ ràng đang vui sướng, nhưng cô lại nhắm mắt khóc tức tưởi.
“Cô nương, không thể khóc được, cô nương mau tỉnh lại đi…”
Bóng tối ập xuống quá nhanh, đến nỗi cô còn chưa kịp ôm đứa con gái nhỏ như mèo của mình.
Thập mệt rã rời, vô thức rơi vào bóng tối, không cảm nhận được thời gian trôi, cũng chẳng thấy đau đớn nữa, hết thảy đều đã dừng lại trong bóng tối vĩnh hằng. Cô chết rồi ư? Có lẽ thế, bởi nếu không mở mắt ra lần nữa thì cô cũng không thể trả lời câu hỏi này được.
Mặt trời sắp xuống núi rồi à? Tán lá xanh vàng đan xen ngoài cửa sổ kia là cây xuân du đã kết quả đấy ư? Chẳng biết ai có lòng để ngỏ cửa sổ nên cô nằm trên giường vẫn ngắm được mấy tia nắng chiều vàng rực trên ngọn cây thế nhỉ? Thập vẫn còn sống, vẫn nhìn ngắm được cảnh vật, nhưng Tư đã chẳng còn, cũng không thể nhìn thấy được nữa…
“Sao vừa tỉnh lại đã khóc rồi?” Đạo Chích đang nằm trên chiếu trải cạnh sập trở mình nhỏm dậy, “Đói không? Gọi người mang ít đồ ăn đến cho ngươi nhé?”
Thập nhắm mắt rồi lại mở ra, xác định cảnh tượng trước mắt không phải là ảo giác mới giơ tay rờ rẫm phía trong giường, “Con tôi đâu?”
“Ngươi mất máu quá nhiều, hôn mê ba ngày liền, cung tỳ đã bế nó tới chỗ vú em rồi, bú sữa xong lại bế về. Con bé nhăn nheo xấu lắm, ngươi đừng nhìn thì hơn.”
“Trí Dao đánh vào thành rồi à?”
“Ngươi nói xem?” Đạo Chích cười, tự nhổ một sợi tóc hung hung cháy sém.
“Bệ hạ muốn đánh hay hàng?” Thập ho húng hắng, cơn đau tưởng đã tan biến giờ lại ùa về, chỉ hơi nhúc nhích mà vai đã đau như bị moi tim.
“Bệ hạ cái cục cứt, thằng lỏi con tráo trở thì có. Lúc chưa xảy ra chuyện nó còn tưởng mình là hổ dữ, định cắn chết hết bọn người ngáng đường; tới khi loạn lạc thì còn chẳng bằng chuột nhắt, cả ngày trốn trong phòng, đánh không dám đánh, hàng không muốn hàng, rõ là hèn hạ.”
“Cơ Tạc sợ chết ấy mà. Vu An… chết rồi, Cơ Tạc giao quân thủ vệ kinh thành cho ai vậy? Cha tôi à?”
“Hừ, cha ngươi thông minh quá, Cơ Tạc làm sao tin nổi, quân thủ vệ giờ giao cho ty dân chỉ huy rồi.” Đạo Chích cho Thập uống một hớp nước rồi khoanh chân ngồi xuống đất.
Nước lạnh trôi xuống bụng, lửa trong bụng cô lại bốc lên, “Ty dân chỉ biết lập sổ tra hộ tịch, làm sao cầm quân giữ thành được?”
“Đúng là không biết, nhưng ai bảo tư mã nước Tấn các người lại là người tộc Hàn cơ chứ. Ty dân tuy dốt nát nhưng tốt xấu gì cũng là công tộc, Đổng Thư chết, Cơ Tạc chỉ tin mình kẻ này thôi.”
“Hàn Hổ và Ngụy Câu vẫn còn sống chứ?”
“Còn sống cả. Cha ngươi muốn giết, nhưng ta không thể để hắn giết người rồi đổ cả chậu cứt lên đầu ta được. Ta đã phái người đến cả phủ Hàn và phủ Ngụy coi chừng rồi, sẽ không để xảy ra chuyện như phủ Triệu đâu.”
“Phủ Triệu…” Vừa nghĩ tới Tư, cổ họng Thập đã nghẹn ứ.
Đạo Chích thở dài, “Đám người trong phòng hôm ấy chết mất quá nửa, nhưng cũng có dăm kẻ chạy thoát. Trước kia ta không nghe lời ngươi, phen này bị vây khốn ở đây, sớm muộn cũng chết. Ngươi bảo trước khi chết, ta có nên giết sạch đám quý nhân đáng ghét trong thành này không hử?”
“Liễu Hạ Chích! Giờ ông nói những lời này có ích gì? Có người vừa gây ra chuyện ngu ngốc, ông cũng định học theo đấy à? ông và người của ông sống hay chết…” Thập nói một hơi dài thì mắt đã nổ đom đóm, song Đạo Chích không hề nhận ra cô đuối sức, y xáp lại gần căn vặn, “Ngươi có cách gì cứu được ta hả?”
“Ông ở lại đây chăm tôi, chẳng phải muốn hỏi câu này à?”
“Hừm, ngươi suýt chết vì sinh khó nên ta mới tới đấy. Ta là ác quỷ, có ta ở đây, ma quỷ nào dám tới bắt ngươi? Có điều con bé nhà ngươi nghĩa khí gớm, trước kia ta bảo ngươi cứu ta một lần, ngươi cũng ở lại thật.”
“Ông lại đây.” Thập nhắm mắt, điều hòa hơi thở, ra ý bảo Đạo Chích ghé tai lại gần.
Đạo Chích khom người ghé tai sát miệng Thập, nghe cô thều thào nói xong thì cười toe toét, “Năm xưa ngươi từng theo học thầy Khổng, vậy mà lại đưa ra chủ ý đại nghịch bất đạo này! Ha ha ha, ta ưng đấy.”
“Ông đừng vội mừng. Đây không phải kế vẹn toàn, ông và đám anh em kia vẫn có thể phải chết đấy.”
“Không sao, ôm hy vọng mà chết còn hơn chết trong tuyệt vọng.”
“Tùng! Tùng! Tùng!” Một hồi trống dồn dập theo gió chiều đưa lại, Đạo Chích tóc tai cháy sém đứng dậy, xỉa chuôi kiếm vào mặt mình cười nói, “Ngươi xem, giờ ta vui thế này kia mà, có hy vọng vẫn hơn. Ta đi đây, phải bắt thằng lỏi Trí Dao kia cút về ngủ mới được.”
Đoạn Đạo Chích cầm kiếm đạp cửa bỏ đi. Thập gắng gượng muốn xuống giường, vừa hay cung tỳ bưng khay đồ ăn vào, thấy cô định trở dậy thì hoảng quá đặt vội khay xuống chạy đến, “Cô nương không thể xuống giường được, bà đỡ và thái sử đều nói, nếu lại ra máu nữa là mất mạng đấy.”
“Con ta đâu?” Thấy cô ả không bế theo đứa bé, tim Thập trĩu nặng.
Cung tỳ cười đáp, “Cô nương yên tâm, Hàm Đan quân đang bế rồi, lát nữa lại đưa về thôi.”
“Ông ấy đang bế à? Bế đi đâu rồi?” Nghe thấy ba tiếng Hàm Đan quân, Thập đẩy ả ta ra, định tụt xuống giường, ả vội ấn cô xuống, “Chẳng đi đâu cả, ở ngay chỗ vú em thôi. Em bé còn nhỏ, ăn ít lắm, cứ một canh giờ lại phải cho bú một lần. Hàm Đan quân mến tiểu quý nữ lắm, ngày nào cũng đích thân đến bế hai lượt, giờ chắc sắp về rồi. Hay cô nương cứ ăn chút gì đi đã? Mấy ngày nay cô nương không ăn uống rồi.”
“Vú em ở đâu?” Thập hỏi dồn.
“Ngay phòng xép bên cạnh đây thôi. Cô nương chớ lo, cứ ăn một ít đi, nô tỳ đi bế bé về.”
“Đi mau đi!” Thập nén đau, bóp chặt tay cung tỳ.
“Cô nương…”
“Ngay bây giờ!” Cô quát lên.
“Dạ!” Cung tỳ nghi hoặc nhìn cô rồi vội vàng đi ra.
Thập bải hoải ngả người xuống giường, nhìn chong chong lên vệt nắng cuối ngày đỏ như máu trên xà nhà, tim đập như trống giục.
Chẳng mấy chốc cung tỳ đã trở lại, lúng túng đi tới bên giường, lí nhí thưa, “Bẩm cô nương, em bé không ở chỗ vú em, chẳng biết Hàm Đan quân bế đi đâu nữa. Nô tỳ đã cho người đi tìm rồi, cô nương chớ lo.”
Triệu Tắc bế con cô đi mất rồi! ông ta định làm gì đây?
Tiếng trống sầm sập như mưa lại một lần nữa gióng lên trên lầu cổng thành đằng xa. Tim Thập rúng động, cô bật dậy túm tay cung tỳ, “Mấy ngày ta mê man, cánh quân bên ngoài cứ chiêu tối lại đánh vào thành à?”
“Ờm… hình như hôm nay là lần đầu tiên.”
“Quân nô lệ đang trấn giữ cổng thành nào?”
“Thưa, cổng Nam.”
“Quân thủ vệ của ty dân thì sao?”
“Hình như là cổng Bắc.” Cung tỳ cầm khăn tay lau mồ hôi lạnh lấm tấm trên thái dương cô, lo lắng khuyên, “Cô nương mới sinh nở, không nên ngồi lâu, cứ nằm xuống đi đã!”
“Chuẩn bị xe, ta muốn tới cổng Bắc.”
“Cô nương muốn ngồi xe xuất cung ư? Không được đâu!”
“Ngươi mau tìm cho ta một cỗ xe ngựa rồi phái người đuổi theo gọi Đạo Chích về, cứ bảo lầu cổng thành mặt Nam không cần ông ta đâu, bệ hạ ở đây mới cần ông ta. Trong tang lễ Định công ngươi đã gặp ta rồi đấy, ngươi nhận ra ta là ai phải không nào? Ngươi lo liệu chuyện này xong xuôi, trở về ta sẽ tặng ngươi một hộc ngọc trai biển làm thù lao.”
“Vu sĩ!!” Cung tỳ lùi lại quỳ xuống thưa, “Không phải nô tỳ muốn trái lời vu sĩ, nhưng nô tỳ chỉ là một ả hầu, xưa nay chỉ có người ta sai phái nô tỳ, chứ nô tỳ sai phái được ai?”
“Không sao, ngươi đi tìm Hữu Dương, nhắn lại những lời ta vừa nói, cô ấy sẽ giúp ngươi.”
“Phu nhân Hữu Dương, thiếp của bệ hạ ấy ư?”
“Đúng thế, mau đi đi!”
“Dạ.” Cung tỳ vội vàng hành lễ rồi đứng dậy chạy ra ngoài.
Lúc còn ở phủ thái tử, Dương đã sinh cho Cơ Tạc một đứa con trai, giờ ngoài quân phu nhân ra, Dương là người có địa vị cao nhất trong hậu cung nước Tấn. Cung tỳ vừa chuyển lời Thập nhắn, Dương đã giao ngay xe ngựa và phu xe của mình cho cô, còn chuẩn bị cho cô một bộ đồ hoa lệ.
Phu xe đánh xe chạy như bay ra khỏi cửa cung. Gió chiều lật tung rèm xe, bên ngoài ánh trăng như suối bạc tuôn đầy đất. Rõ ràng đương cuối xuân, gió cũng ấm áp, vậy mà nhìn vầng trăng vằng vặc trên đỉnh núi, Thập lại thấy lạnh tới mức răng đánh lập cập.
Cô đúng là một người mẹ tồi tệ, Tiểu Nha nhi ở trong bụng cô chẳng được ngày nào yên ổn. Con cùng cô chịu khổ, cùng cô phiêu bạt, chia sẻ bi thương cùng cô mà chẳng nỡ bỏ cô đi, cũng chẳng để cô hao tâm tổn trí vì nó mảy may. Giờ khó khăn lắm nó mới đến được với thế gian này, vậy mà cô lại làm mất nó. Trên đời có người mẹ nào như cô không chứ?
“Vu sĩ, sắp đến cổng thành rồi.” Giọng phu xe vang lên bên ngoài.
“Ai vậy?” Tướng giữ cổng thành Bắc chặn xe ngựa lại.
“Láo xược! Không nhận ra cỗ xe ngựa này à?” Phu xe giơ roi ngựa chỉ vào miếng ngọc hình bán nguyệt treo trên góc rèm xe.
“Thân tham kiến phu nhân Hữu Dương.” Tướng giữ cổng thành chắp tay thi lễ.
Thập vén rèm xe, để lộ tay áo thêu đầy hoa văn mây, “Người vừa đánh xe rời thành có phải Hàm Đan quân không? ông ta bế trong tay một đứa bé à?”
“Bẩm phu nhân, đúng là Hàm Đan quân mới rời thành, nhưng không bế đứa bé, chỉ dẫn theo một thị vệ che mặt, xách một hộp đồ ăn.”
Hộp đồ ăn!
Da đầu Thập tê rần, cô xẵng giọng, “Bệ hạ đã ra lệnh đóng chặt cổng, sao các ngươi dám tự tiện thả người ra khỏi thành?”
“Bẩm, Hàm Đan quân phụng chỉ rời thành nghị hòa với tộc Trí, thần nào dám ngăn cản.”
“Cổng Nam gióng trống, cổng Bắc nghị hòa à? Hoang đường!”
“À ờm…” Tướng giữ thành cứng họng, đứng thộn ra.
“Mở cổng, ta muốn ra khỏi thành!”
“Phu nhân Hữu Dương, thế này không ổn đâu?”
“To gan!” Phu xe quát, “Phu nhân nhà ta giúp bệ hạ lo việc, có lần nào không phải việc lớn đâu? Đêm nay phu nhân rời thành là để cứu mạng các ngươi đấy, nếu chuyện bên ngoài thành có sơ sót gì, các ngươi đều phải tội chết cả!”
“Thế này…”
Thấy tướng giữ thành vẫn ngần ngừ, Thập cười nhạt, “Thôi, khỏi phí lời với hắn nữa. Hắn đang ép ta về cung xin quân lệnh đấy mà! Được, để ta về cung xin bệ hạ tự tay viết cho ngươi một ý chỉ nhé. Dám hỏi tướng quân họ tên gì đây?”
“Thần không dám, mau mở cửa! Mở cửa đi!”
Cổng lớn mở, phu xe đánh xe phóng vụt ra. Cổng thành khép lại ngay sau lưng. Đi được chừng nửa dặm, cô thấy xe ngựa Triệu Tắc chạy thẳng vào doanh trướng tộc Trí.
“Vu sĩ, có đuổi theo nữa không ạ?” Phu xe hỏi.
“Đuổi đi!” Đuổi theo thế này chẳng khác gì dê chui vào hang cọp, nhưng con dê con cô mới sinh đang nằm trong miệng cọp, dù chẳng có vuốt sắc để quần nhau với hổ dữ, dù có chết, cô cũng phải tìm được con mình.
Trước quân doanh tộc Trí, mấy chục mũi giáo dài sáng loáng lạnh lẽo chĩa vào xe ngựa, buộc dừng xe.
“Ai đó?” Một tên lính quát hỏi.
“Trí khanh ở đâu? Bệ hạ có mật lệnh!” Thập ló ra, lớn tiếng nói với đám lính như hổ sói vây quanh.
Gia tướng phủ Trí đứng lẫn trong đám người nhận ra Thập, bước lên thi lễ, “Gia chủ đang ngắm trăng ở cầu Cố Lương, mời vu sĩ!”
Phu xe đỡ Thập bước xuống, hai chân cô bủn rủn, cả người không ngừng run lên. Hắn ngỡ cô sợ, bèn ghé tai nói nhỏ, “Phu nhân có lệnh, thần sẽ liều chết bảo vệ vu sĩ chu toàn.”
“Không cần liều mạng vì ta, dìu ta đến cầu cố Lương rồi ngươi quay về đi.”
“Vu sĩ?”
“Thay ta cảm tạ phu nhân Hữu Dương. Khuyên phu nhân… bớt đau buồn.”
”… Dạ.” Hắn gật đầu.
Cố Lương là cây cầu đẹp nhất trên sông Phần, được xây từ thời Bình công nước Tấn, như cầu vồng mọc lên từ mặt nước, nối liền đôi bờ. Năm xưa Bình công thường cùng Sư Khoáng lên cầu gảy đàn ngắm trăng, uống rượu xem sóng. Đêm nay trời xanh thẫm sâu như biển, trăng sáng treo giữa trời, dưới ánh trăng vằng vặc, dòng sông Phần chảy xiết dưới cầu hóa thành một dải sáng bạc. Một bóng áo đen đang xăm xăm xách hộp đồ ăn có con cô chạy thẳng về phía cầu.
“Đứng lại!” Trông thấy bóng Triệu Tắc, Thập vội xách gấu váy đuổi theo.
“Vu sĩ đang ra máu kìa!” Thấy vết máu dưới đất, phu xe thất kinh la lên.
“Triệu Tắc, trả con lại cho tôi!” Máu chảy dọc theo đôi chân tê dại, nhưng Thập không thể dừng lại, cô đã mất Tư, không thể lại mất cả con nữa.
Tiếng sóng sông Phần át cả tiếng gào gọi như xé gan xé ruột của cô. Triệu Tắc càng lúc càng đến gần cầu, trong khi hai chân cô lại nặng như đổ chì, “Các người đứng lại! Anh ơi! Anh! Đợi em với!”
Người đằng trước rốt cuộc cũng dừng chân, Lê quay lại trông thấy Thập bèn buông tay Triệu Tắc ra, tập tễnh chạy về phía cô, “Em à, sao lại là em? Cha bảo em đi rồi mà, sao em lại tụt lại sau thế? Mau lên, chúng ta sắp về nhà rồi.”
“Anh!” Thập buông tay phu xe ra, nhào vào lòng Lê.
Lê hơi loạng choạng, phải cố lắm mới đỡ được cô, “Sao thế, sao em lại thành ra thế này? Cha ơi, cha mau lại đây…” Lê lau mồ hôi trên mặt cô rồi ngoái đầu nhìn. Song Triệu Tắc không hề nhúc nhích, chỉ xách hộp đồ ăn nhìn cô từ phía xa.
Thập vịn vào anh, lê từng bước tới trước mặt Triệu Tắc, cô muốn chỉ trích, muốn mắng chửi, nhưng đã kiệt sức, vừa mở miệng, môi đã run run, “Hàm Đan quân, xin ông trả con lại cho tôi.”
“Con không nên tới đây.” Triệu Tắc lạnh lùng nhìn cô.
“Ông không nên tin tưởng Trí Dao thì có, dù ông giao con tôi cho gã, gã cũng không thả cho ông đi đâu. Nó là con gái tôi, là cháu ngoại ông đấy, nó vừa mới chào đời, ông muốn để Trí Dao ném nó vào vạc ăn thịt ư?” Nhìn hộp đựng đồ ăn nắp khoét rỗng trong tay Triệu Tắc, nghĩ tới đứa con gái sơ sinh của mình đang nằm trong đó, nước mắt Thập lã chã, “Tiểu Nha nhi, mẹ ở đây, mẹ ở đây này…” Cô run rẩy giơ tay ra định ôm lấy cái hộp, nhưng Triệu Tắc chợt lùi lại, “Không, nó mang dòng máu của Triệu Vô Tuất, nó là cháu Triệu Ưởng, không phải cháu ta! Con đi đi, hai mươi năm trước ta đã làm sai một lần, giờ không thể sai lần nữa được.”
“Hai mươi năm trước ông có làm gì sai đâu? Ông đã cứu tôi mà!”
“Nhưng ta đã để mất thành Hàm Đan, để mất mẹ con!” Triệu Tắc căm giận nhìn cô trừng trừng, mắt loáng ánh nước, nhưng ông ta cố không để chúng lăn xuống.
“Dừng tay lại đi cha! Đây không phải là cha, Hàm Đan quân Triệu Tắc sẽ không bao giờ đem tính mạng một đứa bé ra đổi lấy đường sống cho mình, năm xưa đã vậy, hiện giờ cũng thế. Cha trả con bé lại cho con đi, nó không giúp được cha đâu, để con giúp cha.” Thập lê đôi chân ròng ròng máu bước thêm một bước.
Triệu Tắc rưng rưng nhìn cô, cười mỉa mai, “Cuối cùng con cũng chịu gọi tiếng cha rồi, tốt lắm, tốt lắm… Tiếc rằng Triệu Tắc ta không nhận nổi đâu. Hai mươi năm nay, vợ con ly tán, nhà tan người mất, ta từ lâu đã không còn là ta năm xưa nữa. Ta chẳng còn gì cả, sao có thể thua được? Ta vẫn chưa thua, ta còn việc chưa làm xong mà…” Triệu Tắc ôm hộp thức ăn lùi liền mấy bước, xoay mình chạy vụt về phía cầu Vố Lương.
“Cha!!!” Thập bất chấp tất cả đuổi theo, nhưng đôi chân bủn rủn mềm nhũn không nâng nổi bước cô nữa, cô kéo cả Lê lăn lông lốc xuống triền đê, ngã nhào vào lùm cỏ dại ven sông. “Triệu Tắc, ông dừng lại đi, trả lại con cho tôi! Triệu Tắc!” Thập nắm lấy búi cỏ dại tong tỏng máu dưới mình, tuyệt vọng gọi với theo, nhưng Triệu Tắc chẳng hề ngoảnh lại, ông ta đã bước lên cầu Cố Lương.
Trên cầu, quỷ dữ áo đỏ cười tươi, giẫm lên bóng trăng và ánh sóng bước tới đón, “Mọi người ở cả đây à! Tốt quá rồi! Chào Lê, vẫn khỏe chứ hả!” Trí Dao đứng trên cầu, thò đầu ngó xuống bụi cỏ bên dưới nhăn răng cười bảo.
Lê cứng người, trợn tròn hai mắt nhìn chằm chằm Trí Dao.
Trí Dao vẫy tay với Lê, Lê thình lình hất tay Thập ra, chạy thục mạng về phía trụ cầu. Dưới cầu có cọc đá, khe hở giữa hai cọc đá chỉ rộng chừng nửa thước, thân hình Lê vốn không chui vào được, nhưng y vẫn cố nhét mình vào như phát điên. Y khóc lóc, cầu xin, rú rít, điên cuồng gào thét như đã mất hết thần trí, trong khi Trí Dao đứng trên cầu cười ha hả.
“Không sao đâu, gã không trông thấy anh nữa, không tìm thấy anh nữa đâu.” Thập nức nở cởi áo ngoài phủ lên Lê, Lê lẩy bẩy co rúm lại như một con thú nhỏ bị thương, rít gào thảm thiết, nấp dưới tấm áo cô, bất động.
“Anh ở đây đợi em nhé, để em đuổi gã đi.” Thập vận độc một tấm áo đơn loang lổ máu bước ra khỏi bóng đổ dưới chân cầu. Triệu Tắc cau mày nhìn cô rồi bảo Trí Dao, “Đứa bé ở đây, mong Trí khanh giữ lời thả cho nhà ta đi.”
“Đi ấy à? Vội gì.” Trí Dao quay đầu, bên kia cầu có hai cái bóng đang hối hả tiến lại phía này. “Triệu Vô Tuất chết rồi hả?” Trí Dao cười, quay lại hỏi Triệu Tắc.
“Chết rồi, Đổng Thư đã giết hắn.”
“Còn Hàn Hổ, Ngụy Câu?”
“Cũng chết cả, đám quân nô lệ giết sạch con trai lớn dòng chính dòng thứ trong nhà chúng luôn rồi.”
“Ha ha ha, hay, hay lắm! Hàm Đan quân làm việc quả là chu đáo! Chết rồi, chết hết cả rồi, ha ha ha…” Trí Dao ngửa mặt cười phá lên, cười quá đỗi đắc ý, quá đỗi ngông cuồng, cười đến chảy cả nước mắt mới dừng lại, “Được, nào, mau đưa đứa nhỏ cho ta xem!” Gã chìa tay ra.
Triệu Tắc cúi xuống bế Tiểu Nha nhi từ trong hộp ra, “Trí khanh nói phải giữ lời đấy.”
“Dĩ nhiên rồi, ta đã nhận lời với Trần tướng, sao có thể lật lọng được? Đợi Trần thế tử tới, các người theo y về Tề đi! Nào, mau đưa đứa bé cho ta!”
“Đừng!!” Thập lê lết đôi chân, sải hai bước làm một mới miễn cưỡng níu được vạt áo Triệu Tắc, song Triệu Tắc đã đưa hai tay ra, đặt đứa bé vào lòng Trí Dao.
Trí Dao nhìn Thập rồi cúi đầu cười, rút cánh tay Tiểu Nha nhi từ trong bọc tã ra, “Là mi đấy à? Bé thật đấy, cánh tay này chỉ cắn một miếng là hết.” Vừa nói gã vừa há miệng cắn vào cánh tay Tiểu Nha nhi, Tiểu Nha nhi bị đau, oằn người lên trong lòng gã, làm gã phá lên cười, “Mau mở mắt ra cho ta xem nào.”
“Trẻ con mới đẻ chưa mở mắt đâu.” Triệu Tắc nhíu mày nhìn vết răng hằn sâu trên cánh tay Tiểu Nha nhi.
“Mở ra, để ta xem mắt mi nào. Mắt xanh diệt Tấn, mi thực sự có thể giúp ta trường sinh, giúp tộc Trí ta diệt Tấn lập nước ư?” Trí Dao toan lấy ngón tay vạch mắt Tiểu Nha nhi ra, Tiểu Nha nhi quay mặt đi khóc ngằn ngặt. Tiếc rằng nó sinh non nên dù khóc đến đỏ bừng mặt, hai tay run rẩy, thì tiếng khóc vẫn ri rí yếu ớt, nhưng âm thanh khe khẽ ấy lại như những mũi kim đâm vào tim cô. Thập lao lên toan giằng lại đứa bé từ tay Trí Dao, nhưng bị Triệu Tắc ghì chặt, “Trí khanh đã có được đứa bé, có thể để con gái theo ngoại thần cùng về Tề chăng?”
“Cô ta ư?” Trí Dao ngước mắt nhìn Thập.
Hai người chạy từ đằng kia lại là Trần Bàn và Trần Nghịch. Thấy Trí Dao đang ẵm đứa bé, Trần Bàn nhanh nhảu nói ngay, “Chúc mừng Trí khanh đã được như nguyện. Hôm trước tướng phụ lại gửi thư tới giục Hàm Đan quân về Tề, Bàn thực không dám lần khân, đêm nay xin bái biệt tại đây!”
“Phiền Trần thế tử và Hàm Đan quân rồi. Ngày sau Dao tất sẽ hậu tạ Trần tướng giúp đỡ phen này. Hàm Đan quân, mời ông! Mời vu sĩ!” Trí Dao nhếch môi, buông bàn tay đặt trên mặt Tiểu Nha nhi ra.
“Đa tạ Trí khanh.” Triệu Tắc cúi đầu hành lễ rồi khẽ bảo Thập, “Ở đây đợi ta, ta dẫn anh con lại. Chịu khó đợi một lát, ta không phụ tiếng ‘cha’ của con đâu.” Nói rồi hơi nhếch môi cười với cô, sải bước xuống cầu.
Lòng Thập rối như tơ vò, nhất thời không hiểu ý ông ta.
“Hàm Đan quân đợi đã, Dao còn có lời muốn nói.” Trí Dao bước đến sau lưng Triệu Tắc, vịn vai ông định rỉ tai.
Triệu Tắc ngoái lại, nhưng lập tức chau mày.
“Triệu Tắc, hai mươi năm trước, tộc Trí ta cũng góp tay diệt thành Hàm Đan của ông. Thủ đoạn ông ghê gớm như vậy, sao ta có thể thả ông về Tề được? Ông giết Triệu Ưởng, giết Triệu Vô Tuất, diệt tộc Hàn, tộc Ngụy, tiếp đó chẳng phải sẽ tới lượt ta ư. Ông đem đứa bé này tới đây, muốn làm ta tin ông là hạng tham sống sợ chết à? Ông tưởng Dao vẫn là đứa bé như xưa hả? Ông tưởng ta ngày ngày chỉ biết lột da làm vui, cầu thuốc trường sinh hả? Người ông cài cắm vào doanh trướng ta đã chết, người ông giấu dưới cầu cũng chết cả rồi. Giờ ông cũng đi theo chúng đi!” Đoạn Trí Dao buông bàn tay vịn vai Triệu Tắc ra.
Dưới ánh trăng, Trần Bàn nhận ra bụng Triệu Tắc đã cắm một con dao, không khỏi bàng hoàng lúng túng, “Trí Dao, sao ngươi lại nuốt lời?”
Trí Dao phủi tay, ghé lại trước mặt Trần Bàn, “Trần thế tử, chúng ta trù mưu việc lớn, đừng vì một mưu sĩ nhỏ nhoi mà làm tổn thương hòa khí. Ta đã nhận lời Trần tướng định thả lão ta về Tề, nhưng lão giấu mười hai thích khách dưới cầu Cố Lương, chỉ đợi cả nhà mình đi khỏi thì sẽ tiễn ta xuống suối vàng! Mạng Triệu Tắc không thể giữ lại được, ngày mai vào được thành rồi, Dao sẽ phái Trí Nhan con ta đưa lễ lớn tới Lâm Truy tạ tội với Trần tướng. Trần tướng là người rộng lượng, chắc sẽ không so đo chuyện vặt vãnh này với Dao đâu nhỉ, thế tử bảo có phải không?”
“Thế tử…” Triệu Tắc không đứng nổi nữa, hất tay Thập ra, loạng choạng mấy bước, va phải thành cầu phía sau, ông rên rỉ ôm vết thương túa máu, đau đớn nhìn Trần Bàn.
Trần Bàn tái mét mặt, nhìn Triệu Tắc không chớp mắt, siết chặt hai nắm tay nhưng chẳng thốt nổi lời nào.
Trí Dao liếc bọn họ rồi sừng sộ nhìn Thập, “Lão thất phu sư phụ ngươi lừa gạt ta bao nhiêu năm, hóa ra trên đời không hề có bé gái mắt xanh nào khác. Để ta đợi mãi đợi mãi, mắt con nhãi này giống hệt Triệu Vô Tuất, trông mà ghét!” Trí Dao cúi đầu nhìn gương mặt đỏ hỏn của Tiểu Nha nhi rồi thình lình giơ tay ra, ném nó xuống dòng sông chảy xiết.
“Không!!!” Thế giới vỡ vụn trước mắt Thập, chân cô hẫng đi, như rơi xuống vực thẳm không đáy.
“Em!!” Dưới cầu có người gọi to, sau đó là tiếng vật nặng rơi xuống nước.
“Anh? Lê!” Thập rú lên lao tới thành cầu, nhưng dưới cầu chỉ có dòng nước cuộn chảy, Trần Bàn kéo cô lại, còn Trần Nghịch tháo kiếm tung mình nhảy xuống.
“Trần Nghịch!” Trần Bàn buông Thập ra, gào thét chạy như bay về phía đầu cầu, “Xuống nước, các người mau xuống nước hết cho ta!”
Dưới vầng trăng lạnh, tiếng la hét thảm thiết của Trần Bàn khiến cầu Cố Lương như run lên. Trí Dao bước tới phía sau Thập, áp sát tấm thân nóng bỏng vào lưng cô, “Hay lắm, giờ chỉ còn ta và ngươi thôi. Sư phụ ngươi lừa ta, bé gái mắt xanh xưa nay chỉ có một mình ngươi, chỉ mình ngươi mới có thể giúp ta trường sinh, chỉ có ngươi thôi…” Gã cúi đầu, ghé chóp mũi lại bên tai cô hít hít, mùi máu tanh nồng nặc trên mình cô khiến gã càng thêm phấn khích, gã thở dốc, cắn vào vai cô, “Ngươi có thấy ánh lửa đằng kia không? Ta tự tay nhóm lửa, lại dùng đỉnh lớn năm xưa Bình công ban tặng cho Trí Vũ tử, tổ tiên tộc Trí ta đấy, đỉnh của Vũ tử có xứng mang ra ninh cặp mắt ngươi, hầm nắm xương ngọc của ngươi không?”
“Xứng… xứng lắm.” Thập quay ngoắt lại vít cổ Trí Dao, cắn nghiến vành tai gã.
Cô cắn rất mạnh, chỉ hận không nghiến vỡ được hàm răng. Trí Dao điên cuồng vung tay nện vào đầu vào mặt cô, cơn đau kịch liệt khiến cô choáng váng hết lần này đến lần khác, máu tươi dấp dính chảy dọc theo đuôi mày vào mắt, nhưng cô không nhả, còn tóm ghì tóc gã tới tận khi xé toạc nửa vành tai ra mới thôi. Trí Dao vung tay đấm thẳng vào mặt Thập, cô ngã gục xuống đất, há miệng nhổ ra một bãi thịt vụn bị nhay nát và một cái răng rướm máu.
“Ngươi!!” Trí Dao rút kiếm chĩa vào mặt Thập, mắt cô đã tụ máu sưng vù, không nhìn rõ mặt gã nữa, chỉ nghe tiếng gã hổn hển gầm lên, “Ta không giết ngươi đâu, ta phải luộc sống ngươi! Ta phải rút gân lột da luộc sống ngươi! Người đâu, người đâu cả rồi!” Trí Dao lướt qua bên cạnh cô, vừa đi vừa gọi lớn.
Mặt Thập đau rát, máu ròng ròng chảy từ trán xuống, cô quệt máu trên mắt, mò mẫm bò tới bên cạnh Triệu Tắc. Sờ lên mũi ông, không còn hơi thở, ông đã tắt thở rồi. Sờ lên mắt ông, mắt ông đẫm lệ.
“Cha… cha đợi một lát, con đi tìm anh, tìm con gái, tìm được rồi con sẽ đưa cha đi gặp mẹ.”
Dưới cầu Cố Lương vang lên một loạt tiếng chân, Thập vận sức rút con dao cắm giữa bụng Triệu Tắc ra, quay lại nhìn, thấy có người cầm đuốc hùng hổ chạy về phía mình.
Cô cắn ngang con dao găm đẫm máu cha mình, trèo lên thành cầu.
Gió nổi lên, mặt đất rung chuyển.
Trí Dao kinh ngạc dừng bước ngay trước mặt Thập. Gã ngoái đầu, sau lưng gã, cổng thành Tân Giáng mở toang, một con rồng lửa gầm thét xông thẳng về phía quân doanh.
Doanh trại bốc cháy, ánh lửa ngút trời, tiếng chém giết, tiếng la hét dậy lên hết đợt này đến đợt khác cùng tiếng sóng.
“Khanh tướng, quân nô lệ đã xông ra khỏi thành rồi.” Một tên lính đánh xe phóng tới chân cầu.
“Gióng trống! Điều quân thủ vệ hai cổng Đông Tây đến hợp sức tiêu diệt chúng, không để tên nào sống sót!” Trí Dao nổi khùng.
“Khanh tướng…”
“Làm sao?”
“Đạo Chích bắt giữ bệ hạ, các tướng sĩ không dám lại gần.”
“Giả đấy, bệ hạ ở trong cung có hộ vệ canh giữ, sao lại rơi vào tay Đạo Chích được? Cứ giết đi, giết hết cho ta!”
“Dạ!” Tên lính nọ được lệnh, liền chạy vút đi.
Thập cười nhạt, “Trí Dao, ngươi định giết vua à?”
“Thì sao? Hôm nay chẳng ai cứu nổi ngươi đâu. Ngươi cứ nhảy đi, vớt được xác ngươi ta vẫn mang nấu như thường.”
“Trên đời chẳng ai có thể trường sinh được cả, dù ngươi có nuốt sống ta, cũng không thể nuốt nổi nước Tấn. Trời sinh muôn dân, vật nào phép nấy, dân vốn tính lành, trau dồi đức hạnh. Ngươi coi thường đạo người, tàn ngược bội tín, còn vọng tưởng được mệnh trời ư? Trời đất mênh mang có thần linh cai quản, Trí Dao ngươi kiếp này chắc chắn không được chết tử tế, sau khi ngươi chết, tộc Trí ắt đứt đường hương hỏa, không bao giờ hưng thịnh được nữa!”
“Ngươi… ngươi đừng mượn tiếng thần linh nói xằng bậy!” Trí Dao ngước nhìn Thập, lúc trước gã phấn khích trước bộ đồ đỏ lòm máu me trên mình cô, nhưng giờ chỉ thấy run rẩy, “Tam khanh đã chết, quân chủ sắp vong, nước Tấn còn kẻ nào động được đến ta?”
“Tam khanh đều còn, chẳng ai bị giết cả. Trí Dao, ngươi cũng nên tỉnh mộng đi.”
“Không, ngươi gạt ta, chúng chết cả rồi!”
“Trí khanh, Trí khanh!” Bên bờ sông Phần, một cỗ xe tứ mã thắp đuốc sáng trưng dẫn theo rồng lửa chạy thẳng tới chân cầu Cố Lương, Tấn hầu Cơ Tạc vận lễ phục đen đứng trên xe giơ tay gọi to, “Trí khanh chớ đánh, là quả nhân đây!”
Tướng sĩ dưới trướng Trí Dao tức thì đổ xô tới, tay lăm lăm giáo mác nhưng không dám xông lên, chỉ vây quanh con rồng lửa, tạo thành một quả cầu lửa cực lớn.
Đạo Chích quát lớn rẽ đám đông ra, đánh cỗ xe tứ mã của Tấn hầu chạy thẳng lên cầu, “Trí Dao, Tấn hầu ở đây, còn không bái kiến?”
Trí Dao nhìn Đạo Chích và Cơ Tạc, nghiến răng, “Đạo Chích, ngươi uy hiếp quân chủ nước Tấn ta, tội đáng tru diệt, còn không mau xuống xe chịu chết?”
“Ta có công dẹp loạn, Tấn hầu đã hạ lệnh xá tội chết cho toàn quân ta, còn ban cho ta ngàn mẫu ruộng tốt phía Bắc sông Phần để bọn ta an cư lạc nghiệp. Thằng lỏi tộc Trí kia đừng chắn đường nữa, bọn ta phải đi đây.” Đạo Chích thúc bốn thớt ngựa sấn về phía Trí Dao.
Trí Dao nổi trận lôi đình, giơ kiếm thét to, “Các tướng sĩ nghe lệnh, vây giết Đạo Chích, cứu bệ hạ về, cứ giết được mười tên trở lên sẽ được luận công ban thưởng!” Dứt lời Trí Dao vung kiếm lao thẳng vào Đạo Chích. Tướng sĩ dưới cầu thấy vậy cũng ùn ùn tràn lên như thủy triều, tầng tầng lớp lớp vây lấy xe ngựa của Đạo Chích và Cơ Tạc. Lính nô lệ cũng chẳng chịu lép, hò hét lao vào chém giết.
Giữa lúc hỗn chiến, mũ miện trên đầu Cơ Tạc bị bổ đôi, gã nhảy xuống xe, lăn lộn chen ra khỏi đám người, bỏ chạy thục mạng.
Trí Dao nhân lúc rối loạn chém chết một nô lệ, giật lấy cung trên lưng kẻ nọ rồi giương cung lắp tên nhắm thẳng vào Cơ Tạc.
Cơ Tạc chạy tuột cả giày, chân trần lao về phía đầu cầu. Mũi tên của Trí Dao đuổi sát sau lưng, mắt thấy đầu tên sắp cắm vào lưng Cơ Tạc thì chợt một thớt ngựa xộc ra từ trong bóng tối, người trên ngựa một kiếm chém gãy đôi mũi tên gắn lông chim nọ.
“Vô Tuất tộc Triệu hộ giá chậm trễ!” Người nọ ghìm cương ngựa, nhìn Trí Dao từ đằng xa, cao giọng quát.
“Triệu khanh!!” Cơ Tạc rú lên, toan níu chặt lấy Triệu Vô Tuất.
Triệu Vô Tuất thúc ngựa chạy thẳng về phía Thập, hắn không ghìm cương, để ngựa phi như bay, tới trước mặt cô mới vứt cương nhảy xuống, mặc con ngựa hí vang xông vào đám đông đang chém giết.
“Ta đến muộn rồi…” Triệu Vô Tuất dang tay đứng trước Thập.
Thập đứng trên thành cầu, đổ máu, rơi lệ nhìn hắn chăm chú, nhìn mãi nhìn mãi, linh hồn cô không gắng gượng nổi nữa, bỗng chốc tan tác như khói bụi, tản ra, tan biến, thân thể rơi xuống đâu cũng chẳng hay.
CHƯƠNG CUỐI
Cô muốn mở mắt ra, nhưng mắt trái sưng vù không sao mở nổi, mí mắt phải bị thương, máu đông bết cả hàng mi lại, khiến cô chỉ có thể nhìn qua khe hở hẹp dưới lớp máu đông, thấy một gương mặt sầu thảm giữa ánh lửa.
Triệu Vô Tuất đã trở về, nhưng cô đang chìm trong biển máu sóng gào làm sao tỉnh lại nổi đây? Thế giới tàn nhẫn này đã cướp đi của cô tất cả, cô còn phải tỉnh lại đối mặt với nó lần nữa ư? Đau quá, chỗ nào cũng đau cả, đau đến mức cô muốn làm một kẻ hèn nhát, van vỉ cái chết đem mình đi. Nhưng cô chết rồi hắn sẽ hận cô, hận cô đế mất con của hai người, còn bỏ lại hắn mà hèn nhát ra đi. Cô là người mẹ vô dụng nhất trên đời, sao cô có thể để mất đứa con mình mới sinh được chứ? Cô là đứa con gái vô dụng nhất trên đời, sao cô có thể trơ mắt để cha mình chết ngay trước mặt cơ chứ? Cô là đứa em gái vô dụng nhất, là người bạn vô dụng nhất, nhưng tại sao tất cả bọn họ đều đã chết mà một kẻ vô dụng như cô lại vẫn còn sống…
Giữa lằn ranh của mộng ảo và thực tại, Thập khóc thảm thiết, thấy có người run rẩy nâng mặt mình lên.
“Bé con, đừng khóc nữa…” Y lau nước mắt cho cô, nhưng giọng lại nghẹn ngào.
Cô muốn mở mắt ra, nhưng mắt trái sưng vù không sao mở nổi, mí mắt phải bị thương, máu đông bết cả hàng mi lại, khiến cô chỉ có thể nhìn qua khe hở hẹp dưới lớp máu đông, thấy một gương mặt sầu thảm giữa ánh lửa.
“Tướng quân…” Thập tưởng mình nghe lầm, Ngũ Phong đang ở Tần mà, sao có thể ở đây được? Nhưng y đang ở ngay trước mặt cô, mắt đẫm lệ, cô cứ tưởng cả đời này sẽ chẳng bao giờ thấy y khóc nữa.
“Tỉnh là tốt rồi.” Ngũ Phong lấy tay áo chăm chút lau máu đông dưới mắt cho cô.
“Vô Tuất đâu?” Thập quay cần cổ cứng đờ tìm bóng người trong mộng giữa đồng hoang, rõ ràng hắn đã trở về, sao lại chẳng thấy đâu cả?
“Triệu Vô Tuất và Hàn Hổ, Ngụy Câu hộ vệ Tấn hầu về cung rồi. Bé đã tỉnh thì ăn chút gì đi, ăn xong thì uống thuốc thái sử đưa đến. Ta biết giờ bé có rất nhiều lời muốn nói, nhiều chuyện muốn hỏi, lát nữa ta sẽ nói hết với bé, giờ ăn miếng cháo đi đã.” Ngũ Phong nhíu mày ôm cô ngồi dậy, nhìn những mảng máu vấy đầy vạt dưới tấm áo đơn, tim Thập đau như kim châm dao khoét.
“Bé không ăn uống gì thì bao giờ mới có sức đón anh trai và con về đây?” Ngũ Phong múc một thìa cháo loãng đưa tới miệng Thập, thấy cô kinh ngạc nhìn mình thì gật đầu, “Đứa nhỏ không sao cả, huynh trưởng bé cũng vẫn còn sống. Nghĩa quân tử Trần Nghịch đã sắp xếp ổn thỏa cho họ rồi, chừng nào bé đỡ là có thể gặp họ.”
“Họ vẫn còn sống ư?”
“Còn sống.”
“Còn sống…” Thập nắm vạt áo Ngũ Phong, y thở dài đặt bát cháo xuống ôm lấy cô. Trong vòng tay ấm áp ấy, tiếng khóc tấm tức của cô chuyển thành tiếng thét gào đau đớn, cô càng khóc càng to, còn Ngũ Phong chỉ vỗ nhẹ lưng cô như thuở bé, dịu dàng trấn an, “Được rồi, ổn cả rồi mà, đừng khóc nữa.”
Thập khóc mãi không thôi, tới khi trút hết sợ hãi và tuyệt vọng trong lòng mới lau nước mắt, thổn thức hỏi, “Giờ… họ ở đâu?”
“Ở chỗ bé và Đạo Chích từng ở ấy. Trần thế tử bảo bé không phải lo, mọi thứ đứa nhỏ và huynh trưởng bé cần, y sẽ chuẩn bị đầy đủ.”
“Đạo Chích..”
“Đi rồi. Sau khi bé ngất đi, Tấn hầu đã xá tội cho cả Đạo Chích lẫn các lính nô lệ trước mặt mọi người. Tam khanh đều ở đó, Trí Dao không thể kháng chỉ, đành thả họ đi.”
“Tam khanh à?” Thập ngoái nhìn về phía cầu cố Lương cách đó không xa, dưới nền trời tím sẫm lúc bình minh, trên cầu đã vắng tanh, chẳng một bóng người.
“Đêm qua Triệu Vô Tuất dẫn binh đến cầu Cố Lương cứu Tấn hầu và Đạo Chích, mưu sĩ dưới trướng hắn là Trương Mạnh Đàm vào thành đón Hàn Hổ và Ngụy Câu tới. Tam khanh Triệu, Hàn, Ngụy tề tựu, quân của Trí Dao mới không động đao kiếm với quân tộc Triệu bên sông Phần.”
“Ra vậy, chuyện động trời như thế mà tôi lại bỏ lỡ. Trí Dao chắc tức điên lên rồi nhỉ? Giờ có lột da rút gân, hầm tôi thành canh, gã cũng không nguôi nổi ấy chứ. Ha ha ha, thật tiếc cho đỉnh Vũ tử của gã nổi lửa sôi sùng sục cả đêm, chỉ nấu được một đỉnh toàn gừng với ớt…” Thập vừa ho vừa cười, Ngũ Phong nhíu mày quở, “Bé còn cười được à? Sao bé chẳng kể vói ta về ân oán giữa bé và tộc Trí? Nếu ta biết bé là con gái Triệu Tắc, lại có kẻ ngày đêm lăm le lấy mạng bé thì năm xưa dù bé có hận ta oán ta, ta cũng không để bé đi đâu.”
“Năm xưa…” Năm xưa nếu cô không rời Tần, nếu y bằng lòng để cô ở lại phủ tướng quân bầu bạn bên y cả đời, nếu cô lấy công tử Lợi như y mong muốn thì liệu Tư còn sống không? Chắc chắn vẫn còn sống, chắc chắn vẫn còn sống yên lành. Tư sẽ lấy chồng, sẽ sinh con đẻ cái, có lẽ trong cuộc đời dằng dặc về sau, Tư vẫn sẽ nhớ tới chàng áo xanh của mình, lúc chuyện phiếm cùng cô thỉnh thoảng cũng sẽ nhắc tới thiếu niên trong tuyết nọ, nhưng Tư nhất định sẽ không chết, sẽ không chết đi mà chẳng nói với cô lời nào.
“Tôi muốn vào thành, tôi phải đi tìm con Tư!” Thập bưng bát cháo dưới đất lên húp sạch, gắng gượng định đứng dậy.
Ngũ Phong vội ấn cô xuống, tha thiết, “Triệu Vô Tuất đã cho Trương Mạnh Đàm đi tìm con Tư, Công Sĩ Hy cũng vào thành rồi. Bé mới sinh nở, những thương tích đêm qua đã đủ chịu khổ cả đời rồi. Bé nhìn lại mình xem giờ có còn ra hình người nữa không? Ai dạy bé coi thường mạng sống thế hả, ta à?”
“Không, tướng quân, tôi đã không phải với Tư, giờ không thể để con cô ấy có gì sơ suất được.”
“Ta hiểu, Triệu Vô Tuất cũng hiểu. Nên cứ giao cho bọn ta, giao cho Trương Mạnh Đàm và Công Sĩ Hy đi, họ đều hiểu cả mà.”
“Nhưng…”
“Đâu phải chỉ mình bé lo, Công Sĩ Hy cũng chứng kiến Tư lớn lên từ nhỏ mà.”
Thập vừa buồn bã vừa đau đớn, vung tay đấm mạnh xuống cặp chân tê bì mềm nhũn của mình.
“Uống thuốc đi đã!” Ngũ Phong đưa cho cô một bình nhỏ tai vuông.
“Sư phụ tôi thế nào?” Mấy ngày nay quá nhiều biến cố, Thập chẳng thể lo nổi cho sự sống chết của mọi người xung quanh nữa.
“Thái sử bị thương nhẹ thôi, không đáng ngại.”
“Vậy thì tốt.” Thập ngửa cổ dốc cả bình thuốc đắng ngắt chua lòm vào miệng, thuốc ngấm vào vết thương ở khóe miệng, đau đến nỗi cô run lẩy bẩy. Ngũ Phong không tìm thấy khăn tay, bèn xé luôn nửa ống tay áo xanh trứng sáo của mình ra đưa cho cô.
“Sao tướng quân lại ở đây?” Thập chặm khóe môi, run run hỏi.
“Mấy tháng trước, Vô Tà sang Tần tìm bé. Cậu ta là con trai quân chủ Tiên Ngu; trước đó nghe nói Tề hầu muốn hội họp chư hầu ở Lẫm Khâu đánh Tấn nên muốn sang Tần báo với bé, nhưng bấy giờ bé đâu còn trong cung Tần nữa. Cậu ta lại đến phủ tướng quân tìm ta, ta lo bé xảy ra chuyện, bèn bẩm lên bệ hạ xin cử mình lấy danh nghĩa phúng viếng Triệu Ưởng, sang Tấn đón bé. Nhưng đến Tấn, ta và Vô Tà không gặp được bé, ở lễ tang chỉ gặp được Triệu Vô Tuất đang bị thương nặng. Trương Mạnh Đàm, mưu sĩ của Triệu Vô Tuất âm thầm đến tìm ta, nói với ta âm mưu của người Tề, nhờ ta tới Cao Lang, đến đất Sái giúp tộc Triệu điều binh.”
“Nhờ tướng quân đi điều binh giúp ư? Nhưng tướng quân là tướng Tần mà.”
“Thế mới thấy tộc Triệu nguy ngập nhường nào. Trước khi bệ hạ kế vị từng kết liên minh với tộc Triệu nước Tấn, năm xưa trong trận chiến thành Ung, tộc Triệu cũng từng ra tay giúp đỡ, dĩ nhiên bệ hạ và ta không thể thấy chết không cứu. Ta cầm tín vật tộc Triệu đi Cao Lang, Trương Mạnh Đàm rời Tân Giáng đến đất Sái, Vô Tà quen thành doãn Tấn Dương nên nhận đi Tấn Dương.”
“Vô Tà cũng tới rồi ư?”
“Quân ở Cao Lang và Sái đêm qua đều tới, chỉ không thấy quân Tấn Dương.”
“Sao có thể thế được?” Thập như bị tạt nước lạnh.
“Người Tiên Ngu vẫn luôn tìm kiếm Vô Tà, có lẽ trên đường đến Tấn Dương lại gặp bọn họ nên hơi chậm trễ. Bé khỏi lo, quân chủ Tiên Ngu chỉ muốn đưa cậu ta về thôi, cậu ta không việc gì đâu. Nhân mã Tấn Dương chắc chừng hai ngày nữa cũng sẽ tới.”
Nếu Trương Mạnh Đàm không đọc được thư mật của Tố, nếu Vô Tà không sang Tần tìm cô, nếu Ngũ Phong không tới Tân Giáng, nếu… “Nếu không có các vị giúp đỡ, phen này tộc Triệu đã diệt vong rồi.” Nghĩ tới mọi chuyện xảy ra đằng sau, Thập không khỏi sợ hết hồn.
“Không, bé lầm rồi, tộc Triệu có Triệu Vô Tuất, không diệt vong được đâu.” Nói rồi Ngũ Phong nhìn về phía tòa thành cao lớn đen sẫm phía Đông Nam.
“Hộ tống Tấn hầu về cung”, chỉ một câu nói giản đơn như vậy, nhưng Thập biết lúc này trong cung thành, chắc chắn Triệu Vô Tuất lại đang liều chết chém giết trong một cuộc chiến nguy hiểm khác.
Đống lửa dần tàn, nền trời tím đen đằng Đông rạng lên một tia nắng mai lam sẫm, sương đêm trên đồng cũng dần bốc hơi thành một màn sương mù mênh mang.
Đằng xa, một cỗ xe ngựa lắc lư chạy tới, thoắt ẩn thoắt hiện trong sương. Thập nắm lấy tay Ngũ Phong, gượng đứng dậy. Có người đang vung roi thúc ngựa chạy về phía họ. Tuấn mã xé toang màn sương, Công Sĩ Hy lừng lững như núi giật mạnh cương ngựa, dừng xe lại cách họ chừng ba trượng.
“Thằng bé đâu?” Không thấy Đổng Thạch trên xe, Thập hấp tấp hỏi.
Công Sĩ Hy không đáp, xoay người ôm một cuộn chiếu cỏ từ trên xe xuống.
“Bé ở đây đợi ta.” Ngũ Phong buông tay cô ra, sải bước đi về phía Công Sĩ Hy. Nhưng cô sao đợi nổi, cô nhìn chằm chằm bó chiếu cỏ trong tay Công Sĩ Hy, lê đôi chân gần như không còn cảm giác, khó nhọc bước lên từng bước.
Công Sĩ Hy đang nói chuyện với Ngũ Phong, thấy Thập đi đến thì lúng túng ra mặt.
“Bé đừng sốt ruột, Trương Mạnh Đàm vẫn đang tìm thằng bé.” Ngũ Phong quay lại đỡ cô.
“Vậy trong cuộn chiếu kia là ai?” Cô nhìn cuộn chiếu ngả vàng cũ kỹ trong lòng Công Sĩ Hy không rời mắt.
“Là… Tư.” Công Sĩ Hy nghẹn giọng.
”… Để tôi nhìn cô ấy nào.”
“Đừng nhìn, cứ nhớ dáng vẻ trước kia của Tư là được.” Ngũ Phong chặn đứng bàn tay cứng đờ của cô.
Thập nhìn vào mắt Ngũ Phong, y càng nắm tay cô chặt hơn, “Nghe lời ta, đừng nhìn. Tư chắc hẳn cũng không muốn bé thấy bộ dạng mình bây giờ đâu.”
“Tướng quân?” Công Sĩ Hy đặt bó chiếu quấn xác Tư xuống một vạt cỏ sạch sẽ, rồi lấy trên xe xuống một chiếc xẻng đồng.
Ngũ Phong nhìn Thập chăm chú, nghiêng đầu bảo Công Sĩ Hy, “Làm đi, chôn cao vào, sông Phần tháng Bảy hay ngập lụt, đừng để ngập mộ.”
“Dạ.” Công Sĩ Hy đỏ hoe mắt, đi về phía gò đất bên sông.
“Công Sĩ, Tư ở đây, còn chồng cô ấy đâu?” Thập nhìn theo bóng Công Sĩ Hy, nghẹn ngào hỏi.
Công Sĩ Hy khựng lại, ngoái nhìn Thập và Ngũ Phong, bối rối nói, “Tôi đến chậm, Tấn khanh Trí Dao đêm qua vào thành đã băm thi thể y ra, nấu dâng Tấn hầu rồi.”
“Thập…” Ngũ Phong lo lắng nhìn cô, cô rút tay ra khỏi tay y, đi về phía bờ sông.
“Bé à…”
“Đừng đi theo!” Thập lê bước chân lẩy bẩy đi tới mà chẳng hiểu sao mình lại đi tới. Sương mù bảng lảng trên đồng hoang mênh mông, gió sông lồng lộng thổi suốt đêm dấy lên muôn vàn đợt sóng cỏ tranh dồn dập. Một đợt sóng nổi lên, lại một đợt sóng lắng xuống, Thập nhìn cánh đồng hoang dập dờn sóng cỏ, bâng khuâng như thấy tuyết lất phất rơi, rợp trời ngập đất. Ấy là tuyết thành Ung, trong tuyết có thiếu niên ôn nhuận tay cầm trường kiếm, mải miết độc hành.
Thịt băm, cả một nồi thịt băm.
Nếu hắn biết được, nếu Tư biết được…
“Thập à, cái này có chôn chung luôn không?” Công Sĩ Hy bước đến, đưa cho cô một tráp gỗ sơn đỏ, “Tôi tìm thấy dưới gầm giường Tư, con bé ấy từ nhỏ hễ có gì quý hóa lại giấu xuống dưới giường.”
Thập giơ hai tay đón lấy tráp, nhẹ nhàng mở nắp, gạt vuông lụa đỏ đậy bên trên ra, dưới vuông lụa, ngoài mấy món lặt vặt là một bộ áo cưới thêu dở và một tấm áo xanh bạc màu được gấp vuông vắn. Thuở thiếu thời, Thập từng hứa với Tư sẽ may cho bạn bộ áo cưới đẹp nhất thiên hạ, nhưng áo chưa may xong, Tư đã lấy chồng. Đã vậy Thập vừa lười biếng vừa chẳng giữ lời, còn dày mặt mang bộ áo may dở ra tặng Tư. Thế mà Tư chẳng hề chê bai cô, chưa bao giờ chê bai cô cả… Cô có gì tốt mà đáng được người bạn như Tư ở bên, che chở, còn vì cô mà giết cả người mình…
“Đừng nín lặng thế, bé nói gì đi.” Ngũ Phong nơm nớp nhìn cô.
“Đi thôi.” Thập ôm tráp gỗ đi về phía gò đất, Công Sĩ Hy bế xác Tư theo sau.
Lỗ huyệt trên gò không sâu lắm, đất ven sông, đào sâu quá sợ nước sẽ tràn lên.
Công Sĩ Hy đặt bó chiếu quấn xác Tư xuống hố rồi cúi xuống nhặt xẻng lên.
Ngũ Phong gật đầu, một xẻng đất vàng được hất lên người Tư.
Cơn đau đến ngạt thở từ mọi ngóc ngách trong cơ thể Thập xộc thẳng vào tim, nước mắt cô trào ra như vỡ đê, Ngũ Phong ôm lấy vai cô nhưng cô đã nghiêng mình ôm cả tráp gỗ nhảy xuống huyệt.
“Thập!!”
“Tư…” Thập nghiêng người nằm xuống cạnh Tư, ôm chặt bạn qua lần chiếu cỏ, “Giờ cậu sợ lắm hả? Thế này có thấy đỡ hơn không… Mình biết anh ấy ở đây, cậu sẽ không muốn về Tần, cậu đừng lo nhé, Trí Dao chỉ lôi anh ấy ra dọa Tấn hầu thôi, mình sẽ nhờ Dương trộm lấy xương thịt anh ấy đem ra, cậu cố chờ ở đây ít bữa… Tư à, hình như bọn mình đã cùng ngắm trăng vô số lần, nhưng chưa lúc nào cùng nhau ngắm mặt trời mọc cả, mặt trời hôm nay sắp lên rồi, cậu nhìn xem…” Thập nằm giữa đống đất vàng lạnh lẽo ẩm ướt nhìn lên, mây ráng đỏ thẫm nhuốm thắm cả bầu trời, từng tia từng tia sáng vàng rực từ từ ló ra dưới tầng mây, sơn ca thấy cảnh đẹp thì bay vút lên, dang rộng đôi cánh đỏ son dưới ánh bình minh, những sắc đỏ sắc hồng nhàn nhạt ấy là màu giấc mơ của họ thời thiếu nữ…
“Thập!” Có người tung mình nhảy xuống huyệt, bế xốc cô lên, mày hắn chau lại, áng mây đỏ ở đuôi mày rực lên như lửa, “Ngũ tướng quân, nàng điên rồi, ông cũng mặc cho nàng điên à?”
“Chàng buông thiếp ra!” Cô vùng vẫy thét lên, song hắn chẳng để tâm, cứ thế bế cô nhảy ra khỏi huyệt mộ, đi thẳng xuống chân gò.
“Tư! Triệu Vô Tuất!!”
“Tư chết rồi, cô ấy đã không còn ở đây nữa!”
Công Sĩ Hy tiếp tục hất từng xẻng đất xuống huyệt, Thập gào thét nhảy xuống khỏi tay Triệu Vô Tuất, song hắn một tay ôm eo cô, một tay nắm cằm, ép cô phải xoay mặt lại, “Nàng nhìn ta, nhìn ta đi! Tư chết rồi, Đổng Thư chết rồi, cha nàng cũng chết rồi, nhưng nàng vẫn còn sống!”
“Thà thiếp chết đi cho rồi!”
Triệu Vô Tuất đỏ hoe mắt, trừng trừng nhìn cô, cô nước mắt lã chã, hắn cúi đầu hôn lên môi cô. Rồi mặc cho cô tức giận vùng vẫy, hắn ôm ghì lấy cô, không cho phép cự tuyệt, như muốn dùng hơi thở của mình lấp đầy những vụn vỡ trong lòng cô. Mãi tới khi cô thôi giãy giụa, hắn mới ngẩng lên, áp mặt cô vào hõm vai mình, nghẹn giọng, “Cảm ơn nàng, cảm ơn vì nàng vẫn còn sống…”
Thập nấc lên thảm thiết, hắn vùi gương mặt đầm đìa nước mắt của cô vào ngực mình.
Tư của cô chết rồi, mồ Tư chỉ là một nấm đất nho nhỏ. Vu An là phản thần nên bia gỗ trước mộ chỉ viết mỗi tên Tư. Trí Dao ra lệnh lùng bắt Đổng Thạch khắp thành, nhưng tới tận khi Triệu Vô Tuất rời thành, vẫn chưa ai tìm được nó. Phủ Đổng có phòng ngầm, mà những người biết vị trí phòng ngầm đều đã chết. Nếu Đổng Thạch thực sự đang ở trong phòng ngầm, Thập chỉ mong nó có thể chịu được mấy ngày, tới khi Triệu Vô Tuất tìm được nó, đưa nó rời thành bình an.
“Nàng thay quần áo đi!” Triệu Vô Tuất rắc một nắm đất xuống mộ Tư rồi nắm lấy tay Thập.
“Tiểu Nha nhi…”
“Năm xưa Trần Bàn nợ ta một mạng, y sẽ lo chăm sóc con chúng ta. Nàng theo ta ra đây đã.” Triệu Vô Tuất gật đầu với Ngũ Phong rồi dẫn cô đi về phía bờ sông. Hắn đánh cả cỗ xe ngựa buông màn dày kín tới, mui xe như vảy cá, rèm xe thêu hết thảy tinh tú trên vòm trời nước Tấn, rõ ràng là xe thất hương vẫn đậu ở sân sau phủ thái sử.
“Sao chàng lại mượn xe sư phụ?”
“Đây là… xe của nàng.” Triệu Vô Tuất vuốt nhẹ lên tấm rèm xe đã bạc màu rồi quay lại nhìn cô, “Hai mươi mốt năm trước, nàng đã chào đời trên chính cỗ xe này. Ta là người đầu tiên trên đời được thấy nàng, còn trước cả mẹ nàng nữa.”
“Chàng đang nói gì thế Hồng Vân nhi, thiếp không hiểu.”
“Năm xưa Trí Lịch nhốt mẹ và anh nàng dưới hầm ngầm, Đạo Chích vô tình phát hiện và cứu được mẹ nàng, rồi mẹ nàng lại tình cờ trốn lên xe ngựa của thái sử. Đêm ấy, người đánh xe cho thái sử là ta. Thái sử dùng xe ngựa đưa mẹ nàng ra khỏi thành, trên đường đi, bà ấy đã chuyển dạ sinh nàng. Tấm áo lông chuột nàng giấu dưới đệm giường là ta tự tay may năm lên bảy, nên ta mới biết nàng chính là bé gái chào đời đêm đó. Thập à, ta rất thích lần gặp gỡ đầu tiên ấy, nó khiến mỗi lần đôi ta gặp lại sau này đều trở thành cuộc trùng phùng được số phận định sẵn. Lúc nàng sống chết chưa rõ, ta trọng thương liệt giường, ta thường nhớ lại cảnh tượng đôi mình gặp gỡ trước kia, rồi tự nhủ lòng rằng đây chưa phải kết thúc, ta sẽ không chết, nàng sẽ không chết, chỉ cần chúng ta còn sống, thế nào cũng gặp lại…”
“Chàng biết từ lâu, sao giờ mới kể với thiếp?” Lời Triệu Vô Tuất khiến cô vừa kinh ngạc vừa nghi ngờ, vừa vui mừng vừa buồn bã.
“Ta không nói vì còn muốn tìm cơ hội thích hợp, khi nào nàng vui vẻ nhất hoặc giận ta nhất, ta sẽ kể cho nàng nghe. Nhưng giờ… ta muốn nàng tin ta, tin rằng chúng ta rồi sẽ còn gặp lại.”
“Chàng… chàng muốn đưa thiếp đi ư?” Thập ngạc nhiên, giơ tay vén rèm xe lên. Trong xe chồng ngất nghểu ba chiếc rương gỗ đàn to tướng sơn đen, hắn đã thu dọn luôn hành lý cho cô rồi!
“Đêm qua ta đã bàn bạc với Ngũ tướng quân, hôm nay y sẽ đưa nàng vê Tần. Ít bữa nữa Trần Bàn cũng sẽ đưa Tiểu Nha nhi và huynh trưởng nàng sang Tần đoàn tụ. Tần bá lần này phái Ngũ tướng quân tới, vốn là muốn đón nàng về Tần, đã vậy ắt sẽ có lý do ứng đối với Trí Dao. Trí Dao mới nhậm chức chính khanh, chưa dám đắc tội với Tần đâu.”
“Chàng muốn đưa thiếp sang Tần ư? Vậy chàng định để thiếp ở phủ tướng quân hay cung Tần?” Thập đỏ hoe mắt nhìn Triệu Vô Tuất không chớp.
Hắn cau rúm đôi mày, lặng lẽ nhìn cô, sự im lặng ấy là nỗi đau sâu nặng nhất trong lòng hắn. Hắn là Triệu Vô Tuất, nếu còn lựa chọn khác, hắn sẽ không bao giờ buông tay cô.
Thôi, cô cũng đành thôi, thôi giày vò hắn, cũng thôi giày vò bản thân mình.
“Hồng Vân nhi, đôi ta không còn thời gian nữa, đúng không?”
“Không, ta đã nói rồi mà, đôi ta còn vô vàn sớm tối.”
“Chàng nói dối.” Tân Giáng gặp nạn, tộc Triệu bị tổn hại nặng nề nhất. Ngoài toán lính giáp đen và đám Triệu Quý Phụ chết ở phòng Triệu Ưởng, phần lớn người tộc Triệu có chức quan hoặc chức vụ trong quân đội sống ở kinh thành đều không thoát khỏi tay cha cô và Vu An. Trí Dao nhậm chức chính khanh, Triệu Vô Tuất là á khanh vốn đã như đi trên băng mỏng, sự tồn tại của cô chỉ khiến Trí Dao thêm nóng lòng diệt trừ hắn. Nếu tộc Triệu bị diệt, nếu hắn không sống được thì sao có thể bảo vệ mẹ con cô. Những đạo lý ấy cô đều hiểu cả, nhưng cô…
“Lần này chàng muốn thiếp đợi bao lâu? Đợi tới khi thiếp quên chàng, không yêu chàng nữa, đúng không?” Cô rưng rưng nước mắt nhìn Triệu Vô Tuất.
Triệu Vô Tuất thở dài, ôm lấy cô, “Không sao, ta sẽ lại khiến nàng yêu ta, bất luận nàng quên ta bao nhiêu lần, ta cũng sẽ khiến nàng yêu ta lần nữa.”
“Đúng là điên rồ…” Mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, có lẽ cô chẳng bao giờ gặp lại hắn được nữa. Cô tựa vào ngực hắn, nghiến răng nhắm nghiền mắt lại.
“Thập à, sau khi sang Tần nàng muốn ở đâu cũng được, chỉ xin nàng hứa với ta một chuyện.” Triệu Vô Tuất khẽ rì rầm trên đầu cô.
“Chuyện gì?”
“Đừng xót ta. Bất luận sau này nàng nghe được chuyện gì về ta, cũng đừng xót ta. Nàng phải nhớ rằng chỉ cần nàng và Tiểu Nha nhi yên ổn thì chẳng một ai có thể thực sự làm tổn thương ta cả.”
Nước mắt bị cô kìm nén quá lâu, giờ cuối cùng cũng tràn ra. Cô chạy được, còn hắn lại không thể trốn chạy.
“Hồng Vân nhi, đừng để thiếp đợi lâu quá nhé. Đến khi thiếp già nua xấu xí, thiếp không gặp lại chàng được nữa đâu.”
“Chẳng lẽ đến già nàng còn có thể xấu hơn bây giờ ư?” Triệu Vô Tuất tủm tỉm cười, vuốt ve mặt cô. Trải qua một ngày một đêm sinh nở, lại bị dần cho một trận tơi bời, mặt cô hẳn đã xấu xí khiếp người, vậy mà hắn vẫn đắm đuối ngắm nhìn, như bên bờ hồ Lạc Tinh đêm ấy, không muốn bỏ sót mảy may.
“Phu quân à, cùng sống khó, cùng chết dễ, sao đôi mình cứ phải chọn con đường gian nan nhất thế?”
“Vì ta không bỏ được nàng, nàng cũng không bỏ được ta.”
…
Đoàn tụ chốc lát, sau đó là chia xa đằng đẵng, phải làm sao từ biệt, làm sao dặn một câu giữ gìn sức khỏe đây?
Xe ngựa lộc cộc đưa cô đi về phía Tây, Triệu Vô Tuất cưỡi ngựa theo sát bên cạnh. Họ đi hết dặm này tới dặm khác, cô không khóc, hắn cũng không khóc, cô không nói, hắn cũng lặng thinh, cả hai đều cắn răng làm bộ như ít lâu sau sẽ gặp lại. Nhưng ánh mắt bi thương, vó ngựa lưu luyến lại tiết lộ bí mật của họ: họ đều sợ lần này quay lưng, sẽ là cả một đời.
“Dừng xe.” Công Sĩ Hy dừng xe, Triệu Vô Tuất cũng ghìm cương ngựa lại.
Thập nhìn người trên lưng ngựa, nhẹ giọng, “Chàng về đi, Phật Hất làm loạn, ngày mai chàng còn phải dẫn quân đi dẹp loạn nữa đấy.”
Triệu Ưởng chết, Phật Hất ấp tể Trung Mâu thừa cơ làm loạn. Triệu Vô Tuất vừa nắm quyền tộc Triệu, phen này tộc Triệu gặp nạn, người trong tộc nhất định đều nhìn chằm chằm vào thành Trung Mâu. Kẻ tin hắn, kẻ ngờ hắn, lẫn những kẻ còn đang dao động phân vân đều chờ xem hắn thu phục Trung Mâu thế nào. Từng lời nói cử chỉ của hắn giờ đây đều liên quan đến đại cuộc, không được sai một li, không được mất một lai. Lòng cô đầy những lời muốn dặn dò, lại chẳng biết nói từ đâu nữa.
“Không sao, chuyện ở Trung Mâu ta đã có kế hoạch cả rồi. Nàng vừa sinh nở, lại sẵn bệnh nhức chân, đất Tần đông giá xuân lạnh, không được như Tân Giáng, phải chăm lo cho mình nhiều hơn mới được.” Triệu Vô Tuất thúc ngựa đi tới, cúi xuống kéo chăn lông đắp lên chân cô.
“Trung Mâu là thái ấp tộc Triệu, ấp tể làm loạn, chàng phải đoạt thành nhưng không được đánh thành. Phải vỗ yên lòng gia thần, lại cũng không được đánh mất lòng dân.”
“Ừm.” Triệu Vô Tuất gật đầu, thẳng người dậy ngồi trên lưng ngựa. Trong xe ngoài xe, bốn mắt nhìn nhau, rồi cùng đỏ hoe. Triệu Vô Tuất mím môi quay đi, còn Thập nuốt lại những lời đã ra đến cửa miệng.
Sắp tới lúc chia tay, nhưng họ vẫn có quá nhiều quá nhiều lời căn dặn, quá nhiều quá nhiều vương vấn. Nói câu này lại nảy ra câu khác, một câu, hai câu, ba câu… Nói bao nhiêu cũng không hết những lời ấp ủ trong lòng, nói bao nhiêu cũng vẫn còn vô vàn lưu luyến. Chi bằng không nói, chi bằng chẳng nói gì cả.
“Phu quân, đừng tiễn nữa. Đợi mọi chuyện yên ổn, chàng nhớ tới đón thiếp là được. Hạn trong mười năm, thiếp đợi chàng mười năm, chàng không được muộn ngày nào đâu đấy.”
“Được, hẹn nàng mười năm, không muộn một ngày.” Triệu Vô Tuất chăm chú nhìn vào mắt Thập, trịnh trọng gật đầu.
Cô nhoẻn miệng cười rạng rỡ rồi giơ tay buông rèm xuống.
Cách một bức rèm, từ nay xa cách chân trời, cách hai thế giới và đằng đẵng tuổi hoa.
Tạm biệt, Hồng Vân nhi của thiếp.
Triệu Vô Tuất khàn giọng giục ngựa. Thập ôm chặt cánh tay mình, không nhìn theo bóng hắn quay đi, không nghe tiếng vó ngựa hắn xa dần. Cố nén nước mắt, vờ như mười năm chỉ chớp mắt là qua.
Rời địa phận Tân Giáng, Ngũ Phong vén rèm xe lên, thấy Thập vẫn ôm gối ngồi thu lu bất động trong xe.
“Đằng trước có trạm dịch, có muốn vào nghỉ chân không? Nghỉ ngơi cho khỏe, hai ngày nữa sẽ có người ngựa tới đón bé.”
“Tướng quân… tướng quân bảo cả đời tôi có phải quá mức hoang đường không?” Thập ngẩng lên, ngấn nước mắt trên mặt khô rồi lại ướt, “Hết đi lại đến, tính toán mưu toan, cái gì cũng muốn giữ lấy, song chẳng giữ được gì cả. Đến cuối cùng, người bỏ đi, người ly tán, người thì chết… Nhưng tôi đã cố hết sức, thật sự đã dốc hết sức rồi, tại sao kết cục vẫn thế này? Tôi sai rồi ư? Rốt cuộc tôi sai ở đâu đây?”
“Bé à, những kẻ bị thù hận trói buộc cả đời như ta, như Đổng Thư, như cha bé mới là hoang đường, chẳng khác nào thiêu thân lao vào lửa vậy. Bé không sai, dù có sai thì bé cũng đâu bao giờ tính toán cho bản thân mình? Bé muốn thiên hạ thái bình, không còn chiến tranh, bèn dốc hết sức để thực hiện. Giữa thời loạn lạc, có được mấy ai can đảm và kiên trì như bé chứ?”
“Nhưng tôi không ngăn được chiến loạn, ở Tần, ở Vệ, ở Tề, ở Trịnh, tôi đều đã cố gắng, vậy mà…”
“Ai ai cũng biết rằng thiên hạ này bệnh rồi, nhưng kẻ thì được sao hay vậy, kẻ lại thừa cơ mưu đoạt. Những kẻ tài trí, can trường trong các nước đâu đâu cũng có, nhưng người có lòng muốn chữa trị cho thiên hạ lại cực kỳ ít ỏi. Thầy Khổng của bé có thể coi là một trong số đó, bé cũng vậy. Ông ấy đã thất bại, bé có thể sẽ thất bại, nhưng trong bóng tối lúc nào cũng phải có người luôn nghĩ tới ánh sáng, dù cả đời người ấy không thể thấy ánh sáng. Đừng coi đây là kết cục, bé đâu đã sống hết một đời, biết đâu cuộc đời bé bây giờ mới bắt đầu đấy.”
“Tôi…”
“Ta biết, bé từ lâu đã không còn là bé con của ta nữa, bé có khung trời riêng của mình, một khung trời còn rộng lớn hơn phủ tướng quân. Ta chỉ mong có thể che chờ cho bé bình an, không để kẻ khác bẻ gãy đôi cánh bé. Trước kia bé hay hỏi ta rằng, phía Tây nước Tần là Tây Nhung, vậy đi tiếp về phía Tây nữa là gì? Phía Tây của Tây Nhung là đất của người Tái, là nước Nguyệt Thị, nơi ấy có núi tuyết nghìn năm không tan, có thảo nguyên ngựa phi mỏi vó, có hồ cầm biết hát, có vầng trăng với tay ra là chạm đến. Nếu bé muốn bình tâm nghĩ về con đường tương lai của mình, ta có thể đưa bé đi ngắm cảnh.”
Ngũ Phong nắm lấy tay cô, lời y khiến cô xúc động, bởi y không hề khuyên cô đừng đau buồn, chỉ cho cô một khung trời rộng mở hơn, một điểm cuối xa xôi hơn.
Trị bệnh cho người, trị bệnh cho đời… Một điểm cuối thật xa xôi.
Thập nắm tay Ngũ Phong, ngước nhìn lọn tóc mai đã ngả màu muối tiêu của y. Y là tướng quân cô yêu, là người thân thiết tin cậy nhất của cô, cô rất muốn đi tới vùng trời y nói, rất muốn ở bên y yên ổn đến hết đời, nhưng dù không có Triệu Vô Tuất, cô cũng chẳng thể làm vậy. Cô là một đốm lửa, rơi xuống đâu cũng sẽ thiêu rụi nơi đó thành tro bụi. “Tướng quân, tôi rất muốn đi tới những nơi người nói, muốn lắm ấy. Nhưng tôi không thể đi được, Triệu Vô Tuất nhỏ nhen lắm, nếu tôi đi theo tướng quân, chàng sẽ đau lòng, chàng đau lòng mà chẳng làm gì được, lại càng đau lòng hơn.”
“Bé à…”
“Tướng quân, sau khi đến trạm dịch, đổi cho tôi một chiếc xe khác, để Công Sĩ Hy đưa tôi về nhé!”
“Bé muốn về Tân Giáng ư? Không được!”
“Không, tôi muốn đi đón huynh trưởng và con bé.”
“Bé không muốn theo ta về Tần à? Vậy bé… muốn đi đâu?” Ngũ Phong vươn tay ra định cầm tay cô, nhưng cuối cùng lại siết chặt năm ngón tay.
“Không biết nữa… tôi muốn tự tìm lấy con đường cho mình.”
Chỉ trong một ngày mà hai lần ly biệt, lại đều là với người thân thiết tin yêu nhất. Thập đứng sau cửa sổ buông rèm trong quán dịch, nhìn Ngũ Phong đánh xe thất hương chạy thẳng về phía Tây.
Tướng quân, kiếp này chúng ta còn gặp lại nhau không? Cảm ơn người… không giữ tôi lại, cũng không oán trách tôi.
Không thể đi theo đường cái quan được. Công Sĩ Hy đầu đội nón tre đánh cỗ xe xấu ngựa gầy chở theo Thập đã cải trang, theo đường quê quay lại Tân Giáng.
Xe ngựa tròng trành, bánh xe lắc lư, cô nằm ngửa trong xe, cả người rã rời như bị rút hết gân cốt. Cỏ tranh cao đến thắt lưng hai bên đường bị cuốn vào trục xe, những tua hoa cỏ tranh trắng muốt cưỡi nắng đáp gió bay phất phơ trên đầu. Nhất thời, vô số hồi ức lại hiện lên trong tâm trí cô.
Mười bảy năm, trận hỏa hoạn trong nhà tranh đã trôi qua mười bảy năm rồi. Bé gái lên bốn ấy là ai? Cô không nhớ rõ dáng vẻ nó nữa…
Tiếng Công Sĩ Hy thúc ngựa cứ nhỏ dần, xa dần, Thập nhắm mắt lại, quanh quẩn giữa ranh giới của hồi ức và mộng ảo.
Là lửa hay nắng kia?
“Cô nương, mau chạy đi!” Tiếng thét xé phổi của Công Sĩ Hy khiến cô bừng tỉnh mộng.
Vừa mở mắt, một thanh đoản kích đã đâm về phía cô.
Thập xoay người tránh được, Công Sĩ Hy tức thì lao lên tóm cổ áo kẻ nọ ném xuống xe, “Cô nương, chạy…”
Công Sĩ Hy nhảy lên xe, mặt dính đầy máu, cô chẳng kịp nhìn kỹ sau lưng y còn bao nhiêu thích khách, vội vàng chồm dậy tóm lấy cương, thúc ngựa ra roi.
Trí Dao phát hiện ra cô rồi ư? Kẻ đến là thích khách phủ Trí à?
Đường núi gập ghềnh, đám người phía sau đuổi riết, Công Sĩ Hy chợt hét lên một tiếng, nhảy xuống xe.
“Công Sĩ!!”
“Mau chạy đi!!”
Hoa cỏ tranh vấy máu làm cô hoa cả mắt, cô quát lớn, ra roi giục ngựa chạy như bay. Con đường núi trước mặt cô chao đảo, ánh vàng cùng bóng tối hết đợt này tới đợt khác ập xuống cô.
Hóa ra bay lại đau đớn thế này đây.
Cô thấy con ngựa gầy sùi bọt mép giãy giụa rơi xuống vách núi, cô thấy trời đất quay cuồng trước mắt mình, còn chưa kịp la hét, cũng chưa kịp nghĩ xem là xảy ra chuyện gì, cơn đau buốt nghẹt thở đã dội lên từ sau lưng. Lá thông xanh mướt vây quanh cô, bên tai cô vang lên tiếng lụa rách soàn soạt.
Lần này cô thét lên. Áo lụa rách toạc, thân hình chấp chới rơi xuống, cô cuống quýt tóm lấy một cành cây lớn, hai chân nháy mắt đã lơ lửng giữa không trung. Trên đầu là vách núi cao trăm thước, dưới chân là vực sâu ngàn trượng, gió núi cắt da lướt qua bên cạnh, khiến cô lắc lư, run rẩy.
“Công Sĩ!!!” Cô gọi lớn, nhưng tiếng gọi lập tức bị gió núi thổi bạt đi. Cô toan trở mình trèo lên cây, nhưng hai tay chẳng còn chút sức lực nào, thân hình chao đảo dữ dội, khớp xương lòng bàn tay, cùi chỏ, bả vai, hai tay dường như có thể bị kéo đứt bất cứ lúc nào.
Cô ngẩng lên đau đớn rên rỉ, chợt thấy phía trên vách núi có một quả cầu lửa rơi xuống.
Rồi cô trông thấy gương mặt Công Sĩ Hy bị lửa đốt cháy sém.
Công Sĩ Hy đã chết, cháy bùng bùng rơi xuống vách núi, cô còn chẳng nghe thấy tiếng vọng khi y chạm đất nữa.
“Không!!” Cô phải sống, cô còn phải gặp con gái mình!
Tiếng thét tuyệt vọng buột ra khỏi cổ họng cô, nước mắt lạnh băng theo khóe mắt rơi xuống. Cô không sống nổi nữa, cô sắp chết rồi… Cô nghiêng đầu, thấy vầng mặt trời đỏ ối treo lơ lửng cuối trời thờ ơ nhìn mình, cô nhắm mắt lại, từng ngón tay tê cứng buông rời cành thông.
“Không…”
“Không cần cảm ơn đâu.”
Thập trợn tròn mắt, thấy một người đang kéo tay mình, cười đắc ý, “Cô xem, bất luận cô ở đâu, tôi cũng tìm ra được.”
Trên đời không có cỏ vong ưu, cũng chẳng có bình rượu nào uống vào quên hết chuyện đời.
Những thứ thuở thiếu thời không quên được, không muốn quên, đều sẽ được tháng năm đằng đẵng xóa giùm từng chút một.
Đã nhiều năm cô không còn mơ thấy họ nữa, nhưng đêm qua trong mộng cô lại thấy Công Sĩ Hy đã chết, thân thể y cháy rừng rực, vặn vẹo rơi xuống trước mặt cô, trong khi cô đang lơ lửng trên vách núi, đằng xa vẫn là vầng tịch dương đỏ như máu lạnh lùng.
Trước ngày hôm ấy, cô cứ ngỡ rằng mình đã trải qua tuyệt vọng, nhưng khi từng ngón tay lần lượt rời cành thông, cô mới hiểu thế nào là tuyệt vọng thực sự: không có đường đi, không có lối về, chỉ có cái chết chực chờ.
Nếu không có gốc thông già nọ và không có Vô Tà, cô cũng đã rơi xuống vực thẳm cùng xác Công Sĩ Hy, trở thành một nắm xương gãy dưới đáy vực. Nếu không có cơn mưa xối xả thình lình trút xuống kinh đô, không có Biển Thước tình cờ hái thuốc đi ngang thì cô bệnh nặng như vậy cũng đã nằm trong quan tài bằng thân cây khoét rỗng, say ngủ dưới lòng đất rồi.
Những hẹn thề nửa đời trước đều tan tác theo “cái chết” của cô. Chỉ có lời hứa với hai người là thành sự thật. Cô đau ốm suốt hai năm, trở thành một cái siêu thuốc. Hai năm sau, Vô Tà bỏ cả nước nhà cùng cô tới đầm Vân Mộng gặp cố nhân. Khi tất cả mọi người đều cho rằng cô đã chết, Trần Nghịch lại đưa Lê và Tiểu Nha nhi tới đầm Vân Mộng đợi cô chẵn hai năm ba tháng.
Trong căn nhà treo đầy lồng chim của Minh Di, cuối cùng cô cũng gặp được con gái mình. Dưới ánh dương, Tiểu Nha nhi trắng như cục bột đang đắp từng nắm bùn lên bàn chân trần của Minh Di. Minh Di bước ra khỏi hố đất nó “gieo hạt”, nó bèn níu lấy vạt áo y, bập bẹ gọi, “Minh Di, Minh Di…”
Nó không nhận ra cô, nhưng giọng nó lọt vào tai cô lại như nhạc trời, cô không cách nào rời nó nửa bước.
Xuân qua thu đến, khi Tiểu Nha nhi chịu gọi Thập là mẹ, họ cũng rời khỏi đầm Vân Mộng. Sở miền Nam, Yên miền Bắc, Việt bên Đông, Thục bên Tây… Thập dắt díu cả nhà đi khắp thiên hạ.
Thiên hạ rất đẹp, có rất nhiều nơi đẹp hơn khe núi trước mặt cô nhiều, nhưng cô muốn ở gần người đó thêm một chút, một chút nữa.
Những lời năm đó hứa với hắn lúc chia tay, cô không làm được. Để đoạt đất Đại, hắn đã giết vua nước Đại, Bá Doanh mài trâm đâm cổ mà chết. Lúc đang ốm, Thập từng đánh liều lén đến thăm hắn, thấy hắn một mình ngồi trong phòng Triệu Bá Lỗ, nước mắt như mưa. Hắn không còn người thân, không còn người thân nào nữa. Từ khoảnh khắc ấy trở đi, cô đã biết, bất luận đi tới nơi xa chừng nào, đẹp đến đâu, cuối cùng cô cũng sẽ quay lại nơi này, quay về nước Tấn.
Mấy năm nay tộc Trí như mặt trời chính ngọ, Trí Dao một mình thâu tóm triều chính, vượt lễ xưng bá. Đánh Trung Sơn, diệt Cừu Do, đánh Tề, phạt Trịnh, lửa chiến tranh cháy khắp dải đất Trung Nguyên. Triệu Vô Tuất đã dốc hết sức, hắn nhẫn nhịn đủ thứ mà người thường không thể nhẫn nhịn, chịu đựng những điều mà người thường không sao chịu được, hắn bảo vệ được tộc Triệu, nhưng ngày hai người trùng phùng vẫn xa xăm diệu vợi. Sớm biết thế này, năm xưa cô chẳng nên lén lấy mấy món đồ cũ kia rồi để lại một nút kết hoa mới làm gì. Cứ để hắn ngỡ rằng cô chết rồi cũng tốt, chẳng qua chỉ đau khổ nhất thời mà thôi. Còn hơn phải chịu đựng áp bức mười mấy năm, gánh trên vai kỳ vọng mười mấy năm, là cô đã khiến hắn thêm mệt mỏi đau đớn.
“Sao cô lại đứng đây hóng gió thế này?” Vô Tà bước đến sau lưng cô.
Thập buông ngón tay, để gió núi lồng lộng cuốn sợi tóc bạc bay đi.
“Thằng bé tên Vương Hủ kia lại đến đấy, lại bị vây giữa trướng Mê Hồn cô giăng rồi. Trời sắp tối, có cần đi cứu nó nữa không?”
“Chẳng lẽ nó không biết trong Quỷ cốc có quỷ dữ à? Lại cứ đâm đầu vào tìm cái chết.” Thập xoay mình, để lại một vầng tịch dương đang lặn xuống giữa biển mây.
“Nó bảo chỉ biết trong Quỷ cốc có người hiền mà nó muốn bái sư, chẳng thấy quỷ dữ hay quỷ núi gì cả. Nó không sợ Lê, Lê cũng mến nó lắm, lần trước còn hẹn nó khi nào dâm bụt nở thì tới ngắm hoa.”
“Thôi được, để Tiểu Nha nhi dẫn nó vào đi!”
“À ờm… Con bé ấy đêm qua bỏ thuốc tôi và Lê, để thư lại rồi một mình bỏ đi rồi.”
“Lại tới đầm Vân Mộng tìm Minh Di hả?”
“Không, nó nói là… đi Tấn Dương.” Vô Tà nghiêng đầu quan sát nét mặt cô.
“Tấn Dương.” Thập lẩm bẩm rồi dừng bước. Triệu Vô Tuất bị vây ở Tấn Dương đã hơn một năm, cô kiên nhẫn được, nhưng con gái hai người không kiên nhẫn nổi. Để làm suy yếu tam khanh, Trí Dao đã mượn tiếng Tấn hầu ép tam khanh mỗi người phải dâng ra một tòa thành lớn với vạn hộ dân, còn chỉ rõ tộc Triệu phải cắt nhường đất Sái và Cao Lang. Hai thành này là trọng địa của tộc Triệu, dân đông hơn vạn hộ nhiều, Trí Dao làm vậy là muốn chặt đứt tay chân Triệu Vô Tuất. Hai tộc Hàn, Ngụy bị tộc Trí uy hiếp đành ngoan ngoãn dâng thành trì, nhưng Triệu Vô Tuất xưa nay vốn ẩn nhẫn lại cương quyết cự tuyệt. Hiểu rõ thời thế, thấu triệt mọi sự, hắn luôn biết lúc nào nên nhịn, lúc nào không thể nhường. Trí Dao nổi giận, phát binh đánh Triệu, Triệu Vô Tuất dẫn quân lùi về giữ Tấn Dương. Tấn Dương là tòa thành họ tự mình đắp nên từ từng gánh đất, từng gánh đá. Tấn Dương có Doãn Đạc, Doãn Đạc được lòng dân. Thập vốn vững tâm rằng Triệu Vô Tuất có thể cự tuyệt Trí Dao, hắn đã nghĩ được cách ứng phó. Nhưng tháng trước Đạo Chích ghé thăm lại kể với cô rằng, Trí Dao đã đắp đập ở thượng du sông Phần…
“Vô Tà này, cậu bảo nếu tôi tới chàng có giận không?” Lần trước cô mượn tay tộc Nam nước Vệ hai lần ngăn Trí Dao đánh Vệ, Triệu Vô Tuất bèn cố ý phái người đi khắp các nước tìm “cây đế hưu”. Đế hưu, hoa vàng quả đen, ăn vào không giận*. Bận ấy, hắn đã giận cô rất lâu.
“Mặc kệ hắn giận hay không, nếu thành Tấn Dương bị phá, hắn sẽ chết, người chết chắc chắn không giận được nữa.” Vô Tà lấy cỏ đuôi chó bện thành một vòng cỏ xù lông đội lên đầu cô, “Thập à, tối nay chúng ta ăn gì đây?”
“Đi thôi!” Cô thở hắt ra.
“Đi nấu cơm à?”
“Đi Tấn Dương đón Tiểu Nha nhi về.”
“Hả? Vậy thằng bé trong trướng Mê Hồn thì sao?”
“Mang cả nó theo.”
“Cũng được, vậy chúng ta cùng đi Tấn Dương cười vào mặt Triệu Vô Tuất thôi!” Vô Tà ngửa mặt cười phá lên.
PHIÊN NGOẠI
Tôi tên Vương Hủ, người đời đều gọi tôi là Quỷ Cốc tử. Họ nói tôi tinh thông sở học trăm nhà, hiểu rõ thuật Tung Hoành bãi hạp; họ nói tôi nhận rất nhiều đệ tử giỏi giang, còn nói thiên hạ này chỉ là bàn cờ của Quỷ Cốc tôi. Nhưng bấy giờ tôi vẫn chỉ là một đứa bé, nữ sư phụ tôi mới là chủ nhân Quỷ cốc.
Tôi tên Vương Hủ, người đời đều gọi tôi là Quỷ Cốc tử. Họ nói tôi tinh thông sở học trăm nhà, hiểu rõ thuật Tung Hoành bãi hạp; họ nói tôi nhận rất nhiều đệ tử giỏi giang, còn nói thiên hạ này chỉ là bàn cờ của Quỷ Cốc tôi. Nhưng bấy giờ tôi vẫn chỉ là một đứa bé, nữ sư phụ tôi mới là chủ nhân Quỷ cốc.
Ngày đầu tiên bước vào Quỷ cốc, tôi đã được sư phụ dẫn đến Tấn Dương.
Thành Tấn Dương là thái ấp tộc Triệu nước Tấn, nghe nói người trong thành sống rất sung túc yên ổn nên đẻ ra chỉ biết cười, không biết khóc. Nhưng giờ đây thành Tấn Dương đã bị Trí bá Dao vây hơn một năm, dân trong thành hẳn đã biết khóc rồi.
Tôi hỏi sư phụ, sao chúng ta lại đi Tấn Dương, sư phụ đáp mình tới đó giết người, hoặc là bị giết, thảm hơn thì có lẽ còn bị ăn thịt. Người nói gần đây người gầy giơ xương, nếu trong đỉnh nhiều nước quá, có thể kẻ ăn thịt người sẽ bỏ luôn cả thằng cu béo mập như tôi vào hầm cùng. Nhiều mỡ, nước canh sẽ thơm hơn. Nghe vậy, tôi ngẩn ra, nhưng nửa đêm vẫn không len lén bỏ trốn. Bởi tôi biết chắc sư phụ cố tình dọa mình, người vốn không muốn nhận đứa đệ tử tìm tới tận cửa như tôi lắm.
Từ khi chúng tôi lên đường tới khi ngang qua Thái Cốc, trời mưa dai dẳng. Tuy mùa mưa ắt nhiều mưa, nhưng cứ mưa liên miên cả tháng không thấy nắng thế này thực khiến người ta phát chán. Chú Vô Tà nói, đây là trời muốn diệt Triệu Vô Tuất. Sư phụ tôi nhìn ra màn mưa dầm dề, mặt mày cũng u ám như bầu trời vần vũ mây đen.
Thành Tấn Dương đã bị ngập.
Trí bá Dao đắp đập chứa nước trên sông Phần, lại đào kênh mương thông thẳng đến mặt Tây thành Tấn Dương. Mưa lớn kéo dài, nước sông Phần dâng cao, Trí bá Dao sai người mở đập, nước lũ ngút trời theo kênh mương đổ thẳng về thành Tấn Dương. Nước dâng hơn ba thước. Người trong thành dù chưa bị lũ cuốn trôi, cũng phải ôm con cái trèo lên cây cả.
Sau khi toàn thành ngập nặng, thành Tấn Dương bị phá chỉ còn là chuyện sớm muộn, Trí bá Dao vui mừng hết sức.
Tôi đứng trên triền núi cũng thấy được bóng ông ta vận áo đỏ rực, khoa chân múa tay trong quân doanh trải dài mười dặm. Đàn ông chừng ấy tuổi còn thích mặc áo đỏ, ông ta thích màu đỏ như máu lắm ư?
Đến tối ba ngày sau thì tôi gặp gia tướng tộc Triệu Trương Mạnh Đàm. Vừa trông thấy sư phụ tôi, mắt ông ta đã đỏ hoe.
Nhìn mái tóc hoa râm của ông ta, sư phụ cũng đỏ hoe mắt.
“Trương tiên sinh để chị tôi đợi lâu quá!”
“Chủ mẫu, không phải Mạnh Đàm vô tình mà Trí Dao còn sống thì con cháu tộc Phạm không thể bước vào đất Tấn.”
“Còn tiên sinh cũng không bỏ được Vô Tuất.”
“Lúc này ra đi không phải là bỏ, mà là phản bội. Năm xưa khi gia chủ trọng thương, Ngư và Thủ đều bị giết, Mạnh Đàm từng thề với trời, đời này trừ phi gia chủ không còn gì phải lo, bằng không sẽ không rời tộc Triệu nửa bước.”
“Thế nên nếu muốn tiên sinh và chị Tố, tôi và Vô Tuất đều được tự do…”
“Trí Dao phải chết.”
Đêm ấy, tôi ngồi ngoài hang nhìn mưa đêm tầm tã, nghe sư phụ kể cho Trương Mạnh Đàm một câu chuyện. Ấy là chuyện xưa của người Tấn, tôi cũng từng nghe. Tấn Hiến công đánh nước Quắc, phải mượn đường đi qua nước Ngu. Trong cung nước Ngu có người can gián, nói rằng Quắc và Ngu sống dựa vào nhau, Quắc bị diệt thì tiếp theo sẽ đến lượt Ngu. Quân chủ nước Ngu không tin, cho quân Tấn đi qua biên giới đánh lấy nước Quắc. Nước Quắc bị diệt, quân Tấn vốn chỉ mượn đường giờ quay ngược lại diệt luôn nước Ngu. Sư phụ nói, đây gọi là nương tựa lẫn nhau, môi hở thì răng lạnh. Ngụy Câu, Hàn Hổ đã biết bên ngoài thành Tấn Dương có sông Phần có thể diệt tộc Triệu, thì cũng nên có người nhắc nhở họ rằng bên ngoài Bình Dương, ấp An mà họ ở cũng có sông lớn nhấn chìm được thành. Trí Dao nuốt tộc Triệu xong sẽ quay ra nuốt cả tộc Hàn và tộc Ngụy, sau đó một mình nuốt trọn nước Tấn. Hai tộc kia giữ được yên ổn nhất thời, khó mà giữ được cả đời.
Trương Mạnh Đàm nghe sư phụ kể chuyện xong thì đội mưa như trút mà đi. Sau khi ông ta đi khỏi, sư phụ bắt đầu soi gương trang điểm.
“Này nhóc, thấy ta có già không? Có xấu không?” Người cầm gương Tuyền Châu ngồi dưới ánh nến leo lét, hỏi tôi.
“Không già, cũng không xấu ạ.”
Sư phụ là người đàn bà đẹp nhất trần đời mà tôi thấy, tuy lúc ấy tôi mới lên sáu, những người đàn bà tôi gặp tính ra cũng chỉ đếm mười đầu ngón tay mười đầu ngón chân là hết, nhưng sư phụ rõ ràng là đẹp nhất, còn đẹp hơn cô con gái xinh đẹp mà dữ dằn lạnh lùng trong trướng Mê Hồn.
“Đào tơ mơn mởn đẹp tươi, hoa hồng rực rỡ ngập trời xuân trong. Bây giờ nàng ấy lấy chồng, cửa nhà êm ấm trong lòng an vui. Nếu Ngũ Âm còn sống, chắc chắn sẽ cười ta lại đi đọ sắc với chính mình năm mười lăm tuổi.” Sư phụ nhẹ nhàng vấn tóc, búi mái tóc đen dài thành búi, soi cả hai mặt gương trước sau rồi mới mở tay nải bên cạnh, lấy ra một tấm áo gấm đỏ lóa mắt, “Rồng bay, phượng múa, trăm châu đông con cháu, áo cưới chàng làm cho ta, ta đã may lại một bộ y hệt. Già rồi còn tái giá, hoang đường biết mấy, nhưng nếu đây là lần cuối đôi ta trùng phùng thì cứ việc hoang đường đi!”
Khi bình minh lên, mưa cũng ngừng rơi. Giữa sương mù mờ tối, chú Vô Tà chèo con thuyền nhỏ đưa sư phụ vận áo cưới đỏ rực đi. Sư phụ muốn đi gặp phu quân mình, người nói nếu thành Tấn Dương giữ được thì sẽ mời tôi uống chén rượu nhạt, cho phép tôi dập đầu bái sư, thành đồ đệ Quỷ cốc.
Sư phụ vào thành mấy ngày thì đến một hôm, giữa lúc nửa đêm, cơn mưa như trút nước ập xuống, tôi đang ngủ trong hang cũng bị tiếng mưa đánh thức. Một tiếng động rền vang cất lên như tiếng sấm từ chín tầng trời, lại như đá lớn rơi xuống khe núi. Tôi khoác áo tơi lao ra ngoài, chỉ thấy dưới ánh chớp ngoằn ngoèo, sông Phần đổi dòng, thế nước dâng cao đến trăm thước, sóng dữ cuộn trào, đem theo từng tràng tiếng sấm ì ùng và cơn giận long trời đổ ập về phía doanh trại quân Trí.
Doanh trại trải dài mười dặm ngoài thành Tấn Dương nháy mắt đã hóa thành bọt nước trắng xóa như tuyết trong cơn hồng thủy.
Giữa màn mưa lớn, trên lầu cổng thành, có người tóc đen như thác, áo đỏ rực rỡ. Tôi không nhìn rõ mặt sư phụ, không biết lúc này người cười hay khóc. Lại có một người, tóc đen áo đen, tay cầm trường kiếm đứng sau lưng sư phụ, thẳng tắp như thông, sừng sững tựa núi.
Trí bá Dao đã thua, lại một lần nữa thua ngay trước thắng lợi.
Khi nước lớn rút đi, cuối cùng tôi cũng thấy Trí bá trong truyền thuyết. Nhưng lúc này ông ta đã dở điên dở dại, thế tử Nhan con ông ta đã chết, mấy người con trai theo quân xuất chinh cũng đều bỏ mạng, kẻ chết trong nước lũ, kẻ chết trên mũi giáo của hai nhà Hàn, Ngụy đồng minh.
Trí Dao quỳ dưới đất chửi rủa Triệu Vô Tuất sa sả, tôi trông thấy sư phụ yếu đuối của mình vung thanh kiếm trong tay lên chém bay đầu ông ta. Tôi đứng quá gần, bị máu nóng bắn đầy mặt. Sinh ra giữa thời loạn, đây không phải lần đầu tôi thấy người chết, nhưng là lần đầu thấy người ta rơi đầu.
Triệu Vô Tuất hận Trí Dao, hận đến nỗi lấy đầu lâu ông ta lột da lóc thịt, quét sơn làm thành bát rượu.
Mấy năm sau, tôi vô tình nhìn thấy chuyện không nên nhìn trong phòng ngủ của sư phụ ở Quỷ cốc, bị sư phụ đỏ bừng mặt tịch thu que tính, cỏ thi, đuổi xuống bếp rửa chén bát một tháng với chú Vô Tà cũng đang chịu phạt. Đầu lâu Trí Dao nằm lẫn trong thùng đầy đĩa mỡ bát bẩn, bị chú Vô Tà cầm lên chùi qua loa rồi lại tiện tay ném sang thùng khác, cũng lềnh bềnh váng mỡ.
Sau đó nữa thì sư phụ có mang, chị Nha chuyên ra ngoài gây sự sắp làm chị thật rồi.
Triệu Vô Tuất đường đường tông chủ tộc Triệu lại khăng khăng dọn vào Quỷ cốc, còn dẫn theo một anh chàng tên Đổng Thạch. Nghe nói ấy là thị vệ bên cạnh Triệu Vô Tuất, có tuyệt chiêu Vô Ảnh kiếm. Sư phụ xưa nay nghiêm khắc mà trông thấy anh chàng tuấn tú nọ cứ khóc rồi lại nín, nín rồi lại khóc suốt cả ngày. Mẹ tôi nói rất phải, đàn bà có mang quả là hay khóc.
Sau cuộc chiến ở Tấn Dương, tộc Trí bị diệt, tam khanh chia nhau đất phong tộc Trí, nước Tấn chỉ còn cái tiếng hão.
Bài Sấm truyền thân trúc, thật thật giả giả, người đời đã chẳng ai phân rõ được, chẳng còn ai hiểu nổi, cũng chẳng còn ai biết hát nữa.
Năm thứ hai mươi ba đời Chu Uy Liệt vương, ba nước Triệu, Ngụy, Hàn thành lập, sử gọi là ba nhà chia Tấn.
HẾT
vctve©group