Hai Vạn Dặm Dưới Biển - Chương 13 - 14

Chương 13

Vài Con Số

Một lát sau, chúng tôi đã ngồi trên đi-văng phòng khách, miệng ngậm
xì-gà. Thuyền trưởng trải ra trước mặt tôi những bản sơ đồ tàu
Nau-ti-lúx cắt ngang và cắt dọc. ông ta nói:
-Thưa ngài, đây là những
bản vẽ con tàu của chúng ta. Tàu có dáng một hình trụ dài, hai đầu hình
nón. Nó giống một điếu xì gà, và ở Luân Đôn người ta cho rằng hình đó
là thích hợp nhất đối với loại tàu này. Tàu dài bảy mươi mét, chỗ rộng
nhất là tám mét. Nó không được đóng theo tỷ lệ chiều rộng bằng một phần
mười chiều dài như cái tàu chạy hơi nước của các ngài. Tuy vậy, với kích
thước đó, tàu vẫn rẽ nước một cách dễ dàng và không bị ảnh hưởng gì đến
tốc độ. Kích thước đó cho phép tính ra diện tích và thể tích tàu
Nau-ti-lúx. Diện tích nó là một ngàn mười một mét vuông, thể tích là một
ngàn năm trăm mét khối. Tóm lại khi tàu lặn hẳn xuống nước, nó đẩy đi
một ngàn năm trăm mét khối nước hay một ngàn năm trăm tấn nước. Khi
thiết kế chiếc tàu ngầm này, tôi tính toán rằng lúc cho tàu xuống nước,
chín phần mười thể tích nó sẽ chìm, còn một phần mười sẽ nổi. Trong
những điều kiện đó, con tàu sẽ chỉ đẩy đi một lượng nước bằng chín phần
mười thể tích của nó, nghĩa là một ngàn ba trăm năm sáu mét khối, hay
một ngàn ba trăm năm sáu tấn nước. Như vậy, cấu tạo con tàu không cho
phép một trọng lượng vượt quá con số đó. Tàu Nau-ti-lúx có hai vỏ: một
vỏ ngoài, một vỏ trong, được nối với nhau bằng những xà bằng sắt, khiến
tàu có sức bền đặc biệt. Nhờ cấu tạo như vậy, tàu trở thành một khối
vững chắc có thể chống lại mọi áp lực bên ngoài. Tàu vững chắc không
phải do những đinh tán ở vỏ ngoài mà nhờ được hàn liền và tính đồng nhất
của vật liệu. Do đó, tàu có thể chống chọi được với những vùng biển
hung dữ nhất. Hai vỏ tàu được làm bằng thép tấm có tỷ trọng bảy phẩy
tám. Vỏ ngoài dày ít nhất năm cen-ti-mét, nặng ba trăm chín tư phẩy chín
sáu tấn. Vỏ trong lòng tàu: sống, cao năm mươi cen-ti-mét, rộng hăm
nhăm cen-ti-mét, nặng sáu hai tấn. Máy móc, đồ đạc, thiết bị các loại
tổng cộng nặng chín trăm sáu mốt phẩy sáu hai tấn. Như vậy, trọng lượng
cả tàu là một ngàn ba trăm năm sáu phẩy năm tám tấn, ngài rõ chứ ạ?

-Rất rõ, -tôi trả lời. Thuyền trưởng nói tiếp:
-Khi chạy trên mặt
đại dương, tàu nổi lên một phần mười. Nếu muốn tàu chìm hẳn xuống thì
cần có những bể chứa được một lượng nước bằng một phần mười thể tích của
nó, hay là một trăm năm mươi phẩy bảy hai tấn nước. Lúc này trọng lượng
tàu sẽ là khoảng một ngàn năm trăm linh bảy tấn, và nó sẽ chìm hẳn
xuống. Thưa giáo sư, trên thực tế đúng là như vậy! Trong tàu Nau-ti-lúx
có những bể chứa, chỉ cần mở vòi là nước sẽ vào, tàu sẽ chìm xuống ngang
mặt biển.
-Thưa thuyền trưởng, ở đây nảy ra một khó khăn chính. Cứ
cho rằng tàu của ngài có thể chìm xuống ngang mặt biển. Nhưng xuống tới
các lớp nước sâu, lẽ nào nó không phải chịu một áp lực rất cao của các
lớp nước phía trên? Lẽ nào lớp áp lực đó lại không đẩy tàu từ dưới lên
bằng một lực khoảng một át-mốt-phe ở độ sâu mười mét, nghĩa là khoảng
một ki-lô-gam trên một cen-ti-mét vuông?
-Hoàn toàn đúng như vậy.
-Thế là muốn tàu Nau-ti-lúx lặn xuống biển sâu, ngài phải cho nước vào đầy các bể chứa?
-Thưa
giáo sư, chẳng cần tốn nhiều công sức lắm mới cho tàu lặn được sâu, vì
vỏ tàu có khuynh hướng "chìm" trong nước... Tôi có những bể chứa dự trữ
chứa được một trăm tấn nước. Nhờ đó, tôi có thể cho tàu lặn xuống rất
sâu. Nếu muốn tàu nổi lên ngang mặt biển, tôi chỉ cần bơm nước ra khỏi
bể chứa phụ. Nếu muốn tàu nổi lên khỏi mặt nước một phần mười thể tích,
tôi phải bơm hết nước ra khỏi tất cả các bể chứa.
-Thưa thuyền
trưởng, tôi phải thừa nhận là ngài đã tính toán rất đúng, tranh cãi với
ngài thật vô ích, hơn nữa những tính toán đó hàng ngày được chứng minh
là chính xác. Nhưng lại nảy sinh ra một nghi ngờ...
-Nghi ngờ gì, thưa ngài?

-Ở độ sâu một ngàn mét, vỏ tàu Nau-ti-lúx phải chịu một áp suất là
một trăm át-mốt-phe, phải không ạ? Nhưng nếu ngài muốn bơm hết nước ra
khỏi các bể chứa để tàu nổi lên mặt nước thì các máy bơm của ngài phải
thắng được áp suất một trăm át-mốt-phe, phải không ạ? Mà áp suất đó là
một trăm ki-lô-gam trên một cen-ti-mét vuông! Thế thì máy bơm phải mạnh
lắm...
-Và chỉ có thể chạy bằng điện, -Nê-mô vội nói nốt.
-Thưa
ngài, tôi xin nhắc lại rằng những khả năng của tàu Nau-ti-lúx hầu như
không bị hạn chế. Những máy bơm trên tàu rất mạnh. Ngài đã thấy điều đó
khi cả một cột nước lớn do những máy bơm đó giội lên boong tàu Lin-côn.
Vả lại, tôi chỉ dùng những bể chứa dự trữ trong trường hợp hãn hữu,
nghĩa là khi cần cho tàu lặn xuống sâu từ một ngàn năm trăm mét đến hai
ngàn mét. Chỉ khi cần lắm tôi mới bắt ắc-Quy làm việc nhiều. Và nếu tôi
hứng lên muốn cho tàu lặn xuống đáy biển, dưới độ sâu hai ba hải lý, tôi
sẽ dùng một phương pháp phức tạp hơn nhưng không kém bảo đảm hơn.
-Phương pháp gì vậy, thưa thuyền trưởng?

-Tôi hỏi.
-Trước hết, tôi cần kể ngài nghe về cách lái con tàu.
-Thưa thuyền trưởng, tôi rất nóng lòng muốn nghe!
-Muốn
lái con tàu sang trái, sang phải hay chạy vòng, tóm lại, muốn lái tàu
trên mặt phẳng nằm ngang, tôi sử dụng tay lái bình thường. Nhưng tôi có
thể lái tàu theo chiều thẳng đứng, từ trên xuống và từ dưới lên, bằng
hai mặt phẳng nằm nghiêng, gắn ở thành tàu chỗ mực nước. Hai mặt phẳng
đó không cố định, từ trong tàu có thể thay đổi vị trí của chúng bằng
những đòn bẩy rất mạnh. Nếu chúng nằm song song với lòng tàu thì tàu
chạy trên mặt phẳng nằm ngang. Nếu nó nghiêng đi thì tùy theo độ nghiêng
mà tôi biết tàu đang lặn xuống theo một đường chéo có thể kéo dài tùy
ý, hay đang nổi lên cũng theo đường chéo đó. Ngoài ra, còn có thể cho
tàu nổi lên nhanh hơn bằng cách cho chân vịt ngừng hoạt động. Dưới áp
lực nước, tàu Nau-ti-lúx sẽ nổi phình lên mặt biển theo chiều thẳng
đứng, như một quả khí cầu được bơm căng khinh khí.
-Thuyền trưởng cừ lắm!
-Tôi reo lên.
-Nhưng làm thế nào lái được tàu một cách mò mẫm như vậy?
-Buồng lái của tàu nhô lên khỏi thân tàu và được lắp một loại kính dày.

-Kính chịu sao được áp suất lớn như vậy?
-Chịu được rất tốt! Pha
lê rơi xuống đất dễ vỡ, nhưng lại chịu được áp lực nước rất lớn! Năm
1864, ở biển Bắc đã tiến hành đánh cá thử bằng ánh sáng điện. Kết quả ra
sao? Những đĩa nhỏ bằng pha lê dày bảy mi-li-met đã chịu được áp suất
mười sáu át-mốt-phe! Ngoài ra còn có thêm một dòng điện mạnh nữa. Còn
những tấm kính tôi đang dùng thì dày ít nhất hai mươi mốt cen-ti-mét,
nghĩa là dày hơn những đĩa pha lê nói trên ba mươi lần.
-Thưa thuyền trưởng, tôi đã rõ! Nhưng muốn định hướng trên đường đi thì phải có ánh sáng, mà dưới biển thì tối đen...
-Phía sau buồng lái có một đèn pha cực mạnh chiếu xa tới nửa hải lý.
-Thưa
thuyền trưởng, thật là giỏi, giỏi lắm! Bây giờ tôi đã hiểu vì sao biển
lại sáng rực một vùng, làm các nhà bác học phải lúng túng... Nhân tiện
xin ngài cho biết thêm, vụ tàu Nau-ti-lúx và Xcốt-len đâm vào nhau gây
ra bao dư luận ồn ào, phải chăng chỉ là chuyện ngẫu nhiên?
-Thưa giáo
sư, hoàn toàn ngẫu nhiên! Tàu tôi đang chạy dưới mặt biển hai mét thì
xảy ra tai nạn. Nhưng tôi cũng thấy ngay là hậu quả không nghiêm trọng
lắm.

-Thưa ngài, không sao! Nhưng còn việc ngài chạm trán với tàu Lin-côn...
-Thưa
giáo sư, rất tiếc là một trong những chiến hạm tốt nhất của hạm đội Mỹ
đã bị nạn. Nhưng người ta đã tấn công tôi, buộc tôi phải tự vệ. Tuy vậy,
tôi cũng chỉ làm nó mất khả năng tấn công thôi. Nó chỉ cần sửa chữa qua
loa ở một cảng gần nhất.
-Thưa thuyền trưởng, tàu Nau-ti-lúx của ngài quả là một con tàu tuyệt diệu.
-Thưa
giáo sư, vâng, -Nê-mô xúc động, -tôi yêu nó như máu thịt mình! Nếu tàu
bè của các ngài phải chịu đựng mọi bất ngờ khi đi biển và gặp hiểm nguy ở
khắp nơi, nếu ấn tượng đầu tiên mà biển gây ra cho các ngài là sự khiếp
sợ vực thẳm, thì ở trên tàu Nau-ti-lúx này, con người có thể yên tâm. ở
đây chẳng sợ thân tàu bị bẹp vì hai vỏ tàu còn rắn hơn sắt; ở đây chẳng
có buồm mà sợ gió làm rách, chẳng có nồi hơi mà sợ bị nổ, chẳng sợ cháy
vì không có vật gì bằng gỗ, chẳng có than mà sợ hết, vì tàu hoàn toàn
chạy bằng điện; chẳng sợ đâm vào tàu khác vì chỉ có mình nó dưới biển
sâu; ở đây chẳng sợ bão táp vì chỉ dưới mặt nước vài mét, biển rất lặng!
Thưa giáo sư, chiếc tàu ngầm này hoàn hảo như vậy đó! Và nếu đúng là
người phát minh tin ở con tàu của mình hơn người chế tạo, và người chế
tạo lại tin hơn thuyền trưởng, thì ngài hiểu là tôi tin tưởng ở tàu
Nau-ti-lúx đến mức nào, vì tôi vừa là người phát minh, vừa trực tiếp chế
tạo, vừa là thuyền trưởng con tàu đó. Nê-mô nói rất hào hứng. Cái nhìn
bốc lửa, những động tác mạnh mẽ làm ông ta khác hẳn lúc thường. Đúng,
ông ta yêu quý con tàu của mình như cha yêu con. Một câu hỏi, có thể là
sỗ sàng, bật khỏi miệng tôi:

-Thưa ngài Nê-mô, ngài là kỹ sư ạ?
-Thưa giáo sư, vâng. Tôi đã theo học ở Luân Đôn, Pa-ri và Niu I-oóc khi còn là người của mặt đất.
-Nhưng sao ngài có thể giữ được bí mật việc đóng chiếc tàu ngầm kỳ diệu này?
-Thưa
ngài, mỗi bộ phận của tàu tôi đặt làm ở một nước. Công dụng của mỗi thứ
hàng đặt làm tôi đều bịa ra. Thân tàu được đóng ở Crơ-dô (Pháp), trục
quay làm ở Luân Đôn, vỏ tàu ở Li-vớc-pun (Anh) chân vịt ở Gla-dơ-gâu
(Anh), bể chứa ở Pa-ri, mũi nhọn của tàu đặt làm ở Thụy Điển, máy móc
chế tạo ở Phổ, các máy đo làm ở Niu I-oóc, vân vân. Họ nhận được những
bản vẽ của tôi dưới những tên khác nhau.
-Nhưng sau khi nhận được những bộ phận riêng lẻ, ngài phải lắp ráp lại chứ ạ?
-Xưởng
đóng tàu của tôi ở trên một hòn đảo vắng giữa đại dương. ở đó anh em
công nhân do tôi đào tạo, những đồng chí dũng cảm của tôi đã lắp ráp tàu
Nau-ti-lúx dưới sự điều khiển của tôi. Khi tàu đóng xong, chúng tôi đã
đốt cháy mọi vết tích của mình trên đảo, và nếu có thể, tôi còn cho nổ
tung cả đảo lên nữa!
-Có lẽ chiếc tàu đã làm ngài tốn khá nhiều tiền?

-Thưa giáo sư, mỗi tấn tốn một ngàn một trăm hăm nhăm Phrăng. Tàu
Nau-ti-lúx nặng một ngàn năm trăm tấn. Như vậy, đóng nó tốn chừng hai
triệu Phrăng, nếu chỉ tính tiền thiết bị. Cộng thêm ít nhất bốn
-năm triệu Phrăng nữa là giá trị các bộ sưu tập và các tác phẩm mỹ thuật được bảo tồn trên tàu.
-Xin thuyền trưởng cho tôi hỏi một câu cuối cùng!
-Xin ngài cứ hỏi.
-Thuyền trưởng giàu lắm, phải không ạ?
-Tôi
giàu có vô tận. Tôi có thể trả hộ nước Pháp món nợ mười tỷ Phrăng một
cách dễ dàng! Tôi đăm đăm nhìn Nê-mô. Chẳng biết ông ta có lạm dụng lòng
tin của tôi không? Thời gian sẽ trả lời.


Chương 14

Dòng "Sông Đen"

Nước chiếm một diện tích hơn ba mươi tám triệu héc-ta trên mặt đất.
Thể tích khối nước đó là hai tỷ hai trăm năm mươi triệu hải lý khối. Nếu
hình dung khối nước đó là hình cầu thì đường kính của nó là sáu mươi
dặm, nặng ba tỷ tấn. Nói một cách hình tượng thì đó là lượng nước của
tất cả các dòng sông đều chảy liền trong bốn vạn năm!... Tương quan giữa
đất và nước trên địa cầu đã nhiều lần thay đổi và cuối cùng địa hình có
cái diện mạo như chúng ta thấy trên các bản đồ địa lý hiện nay. Đất
liền đã lấn được của nước ba mươi bảy triệu sáu trăm năm bảy hải lý
vuông, hay là mười hai tỷ chín trăm mười sáu triệu héc-ta. Hình dáng các
lục địa cho phép chúng ta chia biển ra làm năm khu vực chính: Bắc Băng
Dương, Nam Băng Dương, ấn Độ Dương, Đại Tây Dương, Thái Bình Dương. Thái
Bình Dương chạy suốt từ bắc xuống nam, chiếm cả khoảng không gian giữa
hai cực, và chạy từ tây sang đông, nằm giữa châu á và châu Mỹ, chiếm một
trăm bốn nhăm độ kinh. Đó là đại dương yên lặng nhất, luồng nước rộng
và không chảy xiết, nước triều lên xuống vừa phải, mưa nhiều. Đó là đại
dương mà tôi bắt đầu cuộc hành trình trong những điều kiện đặc biệt
nhất. Thuyền trưởng Nê-mô nói:

-Thưa giáo sư, nếu ngài muốn ta sẽ xác định đúng nơi chúng ta đang ở,
xác định đúng điểm xuất phát của cuộc hành trình của chúng ta. Bây giờ
là mười một giờ bốn nhăm phút. Tôi sẽ ra lệnh cho tàu nổi lên mặt biển.
Thuyền trưởng bấm chuông điện ba lần. Lập tức các máy bơm bắt đầu bơm
nước ra khỏi các bể chứa. Kim trên áp kế nhích dần lên trên, cho biết áp
suất ngày càng giảm. Cuối cùng, kim đứng yên.
-Chúng ta đã lên tới
mặt biển, -Nê-mô nói. Tôi đi về phía chiếc thang ở trung tâm. Sau khi
trèo lên thang, tôi chui qua một cái nắp rồi lên boong tàu. Tàu nổi lên
khỏi mặt nước không quá tám mươi cen-ti-mét. Thân tàu tròn và dài giống
hệt một điếu xì gà. Tôi chú ý tới vỏ tàu bằng thép tấm ghép lại, trông
tựa vẩy của loài bò sát. Và tôi hiểu vì sao người ta tuy có những kính
viễn vọng mạnh nhất, nhưng vẫn tưởng lầm con tàu là một con cá biển.
Chiếc xuồng được giấu một nửa trong thân tàu, tạo nên một chỗ lồi nhỏ ở
giữa boong. Phía mũi và phía lái có hai buồng nhỏ, thấp, một phần được
lắp kính dày: phía trước là buồng lái, phía sau có một đèn pha rất mạnh
để soi đường.
Biển rất đẹp, trời quang. Thân tàu hình thoi chỉ hơi
bập bềnh trên sóng. Ngọn gió đông thổi nhẹ làm mặt biển lăn tăn. Sương
mù không che phủ chân trời nên có thể quan sát một cách rất chính xác.
Tầm mắt nhìn xa không bị vướng một vật gì. Chẳng có một hòn đảo nhỏ, một
mỏm đá, chẳng còn một vết tích gì của tàu Lin-côn... Chỉ có trời nước
mênh mông! Thuyền trưởng Nê-mô lấy máy chuẩn bị đo độ cao của mặt trời
để xác định tàu đang ở độ vĩ nào. Khi quan sát, không một thớ thịt nào
của tay ông ta rung lên, tựa như cái máy đang nằm trong tay một pho
tượng vậy.
-Đúng giữa trưa, -Nê-mô nói, -thưa giáo sư, mời ngài...
Tôi đưa mắt nhìn lần cuối cùng mặt nước màu hơi vàng, chắc là gần bờ
biển Nhật Bản, rồi theo Nê-mô xuống phòng khách. Nê-mô dùng đồng hồ tính
toán, xác định độ kinh của nơi đó rồi kiểm tra lại. ông ta nói:

-Thưa ngài A-rô-nắc, chúng ta đang ở 137,15 độ kinh tây.
-Theo kinh tuyến nào?
-Tôi hỏi ngay và hy vọng rằng câu trả lời sẽ làm sáng tỏ hơn vấn đề quốc tịch của Nê-mô.
-Thưa
ngài, tôi có nhiều loại đồng hồ để theo kinh tuyến Pa-ri, kinh tuyến
Grin-uýt và kinh tuyến Oa-sinh-tơn. Nhưng để tỏ lòng kính trọng ngài,
tôi đã chọn kinh tuyến Pa-ri. Câu trả lời này chẳng giải đáp được vấn đề
gì. Tôi nghiêng mình cảm ơn. Nê-mô nói tiếp:
-Chúng ta đang ở 137,15
độ kinh tây thuộc kinh tuyến Pa-ri và 30,7 độ vĩ bắc, nghĩa là cách bờ
biển Nhật Bản ba trăm hải lý. Hôm nay, mùng 8 tháng 11, đúng 12 giờ
trưa, chúng ta bắt đầu cuộc hành trình vòng quanh trái đất ngầm dưới
biển.
-Cầu chúa che chở cho chúng ta!
-Tôi nói.

-Bây giờ, xin giáo sư tiếp tục công việc của mình. Tôi đã ra lệnh cho tàu chạy theo hướng đông
-đông
bắc ở độ sâu năm mươi mét. Trên bản đồ sẽ đánh dấu đường đi của tàu.
Phòng khách thuộc quyền ngài sử dụng. Xin tạm biệt ngài. Thuyền trưởng
Nê-mô cáo từ rồi đi ra. Tôi ở lại với những ý nghĩ của mình. Tôi nghĩ về
Nê-mô. Liệu sau này tôi có biết được quốc tịch của con người bí ẩn đã
từ bỏ Tổ quốc mình không? Cái gì đã khiến ông ta căm ghét loài người,
một lòng căm ghét, khao khát trả thù? Phải chăng ông ta là một trong
những nhà bác học không được thừa nhận, là một thiên tài "bị người đời
hắt hủi", như Công-xây nói? Chẳng ai biết! Số phận đã ném tôi lên tàu
ông ta, tính mệnh tôi nằm trong tay ông ta. ông ta tiếp đón chúng tôi
một cách lạ lùng nhưng vẫn chu đáo. Đưa tay cho tôi bắt!

Tôi suy nghĩ liên miên suốt một tiếng đồng hồ và cố gắng đi sâu vào
bí mật của con người ấy. Mắt tôi vô tình dừng lại nơi tấm bản đồ thế
giới trải trên bàn. Tôi lần ngón tay trên bản đồ và tìm thấy giao điểm
độ kinh và độ vĩ mà thuyền trưởng Nê-mô đã chỉ. Các đại dương cũng như
các lục địa đều có những dòng sông của riêng mình. Đó là những hải lưu
rất dễ nhận ra theo màu sắc và nhiệt độ. Hải lưu đáng kể nhất là
Gơn-xtơ-rim. Khoa học đã ghi vào bản đồ trái đất năm hải lưu lớn nhất:
hải lưu thứ nhất ở phía bắc Đại Tây Dương, thứ hai ở Phía nam Đại Tây
Dương, thứ ba ở phía bắc Thái Bình Dương, thứ tư ở phía nam Thái Bình
Dương, hải lưu cuối cùng là phía nam ấn Độ Dương. Rất có thể hải lưu thứ
sáu đã tồn tại vào thời kỳ mà Lý Hải, biển A-ran và những hồ lớn của
châu á còn nối liền với nhau làm một. Tàu Nau-ti-lúx chạy theo một hải
lưu kể trên, có cái tên Nhật Bản là Cu-rô-xi-vô, nghĩa là "Sông đen". Ra
khỏi vịnh Băng-gan, được những tia thẳng đứng của mặt trời sưởi nóng,
hải lưu này chảy qua eo Ma-lắc-ca, dọc theo bờ biển châu á rồi vòng theo
bờ biển phía bắc Thái Bình Dương, tới quần đảo A-lê-út. Nó cuốn theo
những thân cây long não, những thực vật nhiệt đới, màu xanh thẳm của hải
lưu ấm áp khác hẳn với nước đại dương xanh ngắt. Tôi nghiên cứu đường
đi của hải lưu trên bản đồ và thấy nó bị mất hút giữa Thái Bình Dương
mênh mông. óc tưởng tượng đã làm tôi say sưa đến nỗi Nét Len và Công-xây
vào phòng khách lúc nào không hay. Nét và Công-xây sững sờ trước cảnh
huyền diệu đang hiện ra trước mắt.
-Chúng ta đang ở đâu thế này? ở đâu?
-Nét kêu lên.
-Có phải ở Viện bảo tàng Quê-bếch không?
-Các
bạn của tôi ơi, -tôi mời họ xích lại gần, -không phải các bạn đang ở
Ca-na-đa hay ở Pháp đâu, mà đang ở trên tàu Nau-ti-lúx dưới mặt biển năm
mươi mét.
-Giáo sư đã nói vậy thì phải tin thôi, -Công-xây đáp,
-nhưng xin thú thật rằng phòng khách này có thể làm cho một người
phơ-la-măng như tôi cũng phải ngạc nhiên.

-Anh bạn ơi, bạn cứ ngạc nhiên đi và hãy xem kỹ những tủ kính này. ở
đấy bạn sẽ thấy nhiều điều kỳ lạ đối với một người chuyên phân loại như
bạn. Công-xây thì chẳng cần phải cổ vũ nhiều. Anh ta cúi xuống xem xét
và lẩm bẩm những thuật ngữ sinh vật học. Trong khi đó, Nét Len, vì không
thạo về nhuyễn thể học, nên hỏi han tôi về cuộc gặp gỡ vừa qua với
thuyền trưởng Nê-mô, về lai lịch ông ta, về ý đồ của ông ta. Tóm lại,
anh ta hỏi tôi liên miên làm tôi không kịp trả lời. Tôi nói lại với Nét
tất cả những gì tôi biết, đúng hơn là những gì tôi không biết. Rồi tôi
lại hỏi Nét về những điều anh ta nghe thấy được.
-Tôi chẳng nghe, chẳng nhìn thấy gì cả.
-Nét trả lời.
-Thậm chí chẳng thấy một bóng thủy thủ nào. Chẳng lẽ thủy thủ cũng bằng điện?
-Bằng điện sao được!
-Ấy
ấy, có thể bằng điện lắm chứ! Nhưng thưa ngài A-rô-nắc, -Nét bị ý nghĩ
của mình ám ảnh, -ngài có thể cho tôi biết số người trên tàu này không?
Mười người, hai mươi người, năm mươi người, một trăm người?

-Ông Nét ơi, tôi không thể trả lời ông được đâu! ông hãy nghe tôi,
hãy bỏ ngay cái ý định đoạt tàu Nau-ti-lúx hay bỏ trốn đi. Chiếc tàu này
là một kỳ công của kỹ thuật hiện đại và tôi sẽ rất ân hận nếu không
được tìm hiểu nó kỹ càng. Có lẽ nhiều người mong được ở vào địa vị chúng
ta để được ngó những kỳ quan này! Vì vậy, ông hãy bình tĩnh lại. Chúng
ta sẽ cùng quan sát những gì đang xảy ra xung quanh.
-Quan sát những cái gì?
-Nét hét lên.
-Trong
cái ngục tù bằng sắt này thì còn thấy gì nữa mà quan sát! Chúng ta đang
đi như những thằng mù... Nét chưa kịp nói hết câu thì phòng khách bỗng
tối sầm, khiến mắt tôi nhức nhối như khi từ trong bóng tối bước ra chỗ
sáng gay gắt. Chúng tôi đứng sững tại chỗ và chẳng biết sau đó sẽ là
điều hay, hay dở. Nhưng bỗng có tiếng rì rầm, tựa như vỏ tàu bằng sắt
bắt đầu tách ra.
-Thôi chết rồi!
-Nét nói.
-Bộ sứa thủy tức!

Công-xây lẩm bẩm. Phòng khách đột nhiên lại sáng lên. ánh sáng từ hai
phía dọi vào phòng qua những ô kính hình bầu dục lớn ở tường. Nước biển
chan hòa ánh điện. ạ cửa bằng pha lê ngăn cách chúng tôi với đại dương.
Thoạt tiên tôi rùng mình khi nghĩ tới chuyện những tấm kính mỏng manh
kia có thể vỡ. Nhưng khung kính vững vàng bằng đồng khiến ô cửa có độ
bền không gì phá vỡ nổi. Biển sâu được chiếu sáng một hải lý. Quang cảnh
trước mắt tôi đẹp tuyệt vời, không bút nào tả xiết. Chẳng bàn tay họa
sĩ nào vẽ được tất cả cái dịu dàng của màu sắc, của ánh sáng lung linh
trong nước biển trong vắt từ đáy lên. Ai cũng biết nước biển rất trong.
Người ta đã xác định rằng nước biển sạch hơn nước suối nhiều. Những chất
khoáng và chất hữu cơ trong nước biển chỉ làm cho nó trong hơn. ở một
số nơi ngoài đại dương, gần quần đảo †ng-ti, qua lớp nước sâu một trăm
bốn nhăm mét có thể thấy rất rõ đáy biển phủ cát, còn tia sáng mặt trời
có thể xuyên sâu tới ba trăm mét...

Những ô cửa ở hai bên phòng khách nhìn ra đáy biển mênh mông. Bóng
tối trong phòng càng tăng thêm ánh sáng rực rỡ bên ngoài. Nhìn qua ô
cửa, ta có cảm tưởng như đứng trước một bể nuôi cá khổng lồ. Tàu
Nau-ti-lúx dường như đứng yên một chỗ, vì xung quanh chẳng thấy một điểm
nào động đậy. Tuy nhiên nước biển do mũi tàu rẽ ra hai bên đôi khi lao
qua vun vút trước mắt chúng tôi. Say mê cảnh đẹp biển sâu, chúng tôi tựa
vào khung cửa, dán mắt nhìn qua ô kính, mãi chẳng nói nên lời. Cuối
cùng, Công-xây bảo Nét:
-Anh Nét thân mến ơi! Anh vẫn muốn được xem, bây giờ hãy xem đi cho thỏa!
-Kỳ diệu thật! Kỳ diệu thật!
-Nét phấn khởi. Anh ta đã quên cả sự giận dữ lẫn những kế hoạch chạy trốn của mình.
-Từ xa đến đây để ngắm cảnh thần tiên này cũng đáng! Tôi nói:
-Đúng,
bây giờ tôi đã hiểu được cuộc sống của con người này. ông ta đã đi sâu
vào một thế giới đặc biệt, và thế giới đó đã mở ra trước mắt ông ta
những bí mật thầm kín nhất của nó!
-Nhưng cá đi đâu cả rồi nhỉ?
-Nét hỏi.

-Tôi chẳng thấy con cá nào.
-Anh muốn thấy cá để làm gì, anh bạn?
-Công-xây trả lời.
-Anh có hiểu gì về cá đâu!
-Tôi
ấy à? Tôi là dân chài mà không hiểu về cá à? Thế là giữa hai người nổ
ra một cuộc tranh luận. Cả hai đều hiểu biết về cá, nhưng mỗi người theo
cách riêng của mình. Công-xây nói:
-Anh Nét thân mến ơi, anh đánh cá rất cừ. Nhưng tôi cam đoan với anh rằng anh chẳng có một khái niệm gì về cách phân loại cá cả.
-Phân loại chúng ấy à?
-Nét nghiêm chỉnh trả lời. Phân chúng ra làm hai loại: loại chén được và loại không chén được.
-Đó là xếp loại theo kiểu thực phẩm!
-Công-xây bỗng reo lên.
-Kìa cá! Có thể nói trước mắt chúng ta là một bể nuôi cá!
-Không đúng!
-Tôi nói.
-Bể nuôi cá dù sao cũng chỉ là một cái chậu, còn những con cá này tự do thoải mái như chim trên trời...

Đàn cá hộ tống tàu Nau-ti-lúx suốt hai tiếng đồng hồ. Chúng tôi ngây
người ra vì thích thú. Nét gọi tên từng loại cá. Công-xây phân loại
chúng, còn tôi thì say sưa nhìn chúng tung tăng. Tôi chưa từng được thấy
những con cá đẹp thế này trong môi trường tự nhiên của chúng. Phòng
khách bỗng lại bật đèn sáng. Những cánh cửa sổ bằng sắt khép lại. Cảnh
thần tiên biến mất. Có lẽ tôi sẽ còn bị mê đi lâu nữa nếu mắt tôi không
vô tình trông thấy những dụng cụ treo trên tường. Kim địa bàn vẫn chỉ
hướng đông bắc, áp kế chỉ năm át-mốt-phe, cho biết độ sâu là năm mươi
mét, đồng hồ điện chỉ tốc độ mười lăm hải lý một giờ. Tôi chờ thuyền
trưởng Nê-mô, nhưng ông ta không đến. Đồng hồ chỉ năm giờ chiều. Nét Len
và Công-xây đã trở về phòng mình. Tôi cũng về phòng riêng. Bữa ăn đã
dọn sẵn trên bàn. Tối hôm đó, tôi đọc, viết và suy nghĩ. Khi thấy buồn
ngủ, tôi nằm xuống giường và thiếp đi trong lúc tàu Nau-ti-lúx băng theo
dòng "Sông đen" chảy xiết.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3