Thiên sơn mộ tuyết - Chương 19
Chương 19
Ngờ đâu hắn đưa tôi đi biển, vừa xuống máy bay, tôi đã thấy bàng
hoàng, sợ hãi, lúc dừng trước tòa biệt thự ven biển thì cả người tôi run như
cầy sấy.
So với lần trước, biệt thự không thay đổi nhiều, chỉ có tôi là
không muốn nhớ lại những chuyện đã xảy ra ngay tại nơi đây, tiếng sóng xô bờ
khiến tôi choáng váng, mọi hồi ức về nơi này luôn gợi cho tôi sự khó chịu. Tôi
gắng gượng nói với Mạc Thiệu Khiêm:
- Em ở tầng một được không?
Không ngờ hắn lại nói:
- Tầng dưới không có phòng ngủ.
Tôi căm thù căn phòng ngủ trên tầng hai, kể cả khi đóng cửa, kéo
rèm che kín mít. Vừa đặt chân lên tầng hai, tôi đã muốn quay đầu bỏ chạy.
Biệt thự không có người giúp việc nên mọi thứ phải tự thân vận
động, tôi mở va li, lấy quần áo treo vào tủ. Thu xếp xong, tôi lấy hết can đảm,
kéo rèm cửa ra. Bãi biển qua ô cửa sổ chìm giữa yên ả, bóng hòn đảo phía xa
nhàn nhạt, trải dài, khuất lấp tầm mắt tôi. Bờ biển lác đác vài chú chim hải âu
dạo bộ, con sóng tung bọt trắng xóa, mơn man bờ cát rồi lại cuốn xa. Tôi ngồi
bần thần trên giường, ba năm qua, cứ ngỡ mình không còn đủ can đảm để ngắm cảnh
biển. Có lẽ thời gian chính là liều thuốc hiệu nghiệm, đưa dĩ vãng lùi vào quên
lãng. Nơi đây khởi đầu cho tất cả và nay hắn muốn kết thúc cũng tại nơi này ư?
Có người đẩy cửa, hững hờ gõ vài cái, tôi ngoái đầu, thấy Mạc
Thiệu Khiêm đứng đó. Lúc nào hắn cũng lịch sự, nho nhã như một người quân tử.
Hắn đã mặc trên người một bộ đồ thoải mái hơn, hỏi:
- Tôi ra chợ, em đi cùng không?
Ra chợ? Lần trước sống ở đây một thời gian, hầu như hắn toàn gọi
đồ ăn mang tới tận nhà. Tôi chỉ nhớ mang máng, đoạn ký ức thậm tệ ấy đã bị tôi
phủi sạch khỏi đầu, những gì không vui tôi đều giải quyết bằng cách ném thẳng
nó vào quên lãng. Tôi không muốn ngồi đây một mình, bèn ngoan ngoãn theo hắn ra
chợ.
Không ngờ tên đại gia này lại không có sẵn chiếc xe nào ở đây, à
không, vẫn có một chiếc. Tôi tròn mắt nhìn Mạc Thiệu Khiêm lôi từ kho ra một
chiếc xe đạp.
Hắn lừ mắt nhìn tôi, nói:
- Em có muốn đi không đấy?
Trời đang nóng như đổ lửa, nắng rót xuống đầu, bốc khói... Thôi
đành vậy, tôi leo lên yên sau, hắn đèo tôi chạy dọc theo cung đường xanh ngắt,
hai bên hàng cây thẳng tắp.
Thong dong đạp xe trên con đường rợp bóng mát khi biển trời là một màu
thăm thẳm, nghe thì có vẻ rất tuyệt vời. Chỉ có điều, người đạp xe đèo tôi lại
là Mạc Thiệu Khiêm, ngẫm ra vẫn thật kỳ cục. Đạp chưa được bao xa đã gặp một
con dốc rất dài, tuy không dựng đứng nhưng cũng đủ dốc. Dưới tiết trời tháng Ba
âm lịch, chẳng bao lâu, áo phông của Mạc Thiệu Khiêm đã đầm đìa mồ hôi, dính
sát vào người, tôi còn tưởng hắn không biết đổ mồ hôi, đương nhiên cũng có
trường hợp đặc biệt nào đó. Vậy mà lúc này, lưng áo hắn thấm ướt cả một mảng
to, nhìn giống bức tranh tả ý[34] vẽ bằng bút lông, bình thường chỉn chu, gọn
gàng, giờ thấy hắn thế này, quả thực kỳ quặc vô cùng. Tôi táy máy, khẽ nhấc chỗ
vải bám dính trên lưng hắn cho gió lùa qua cổ áo, chiếc áo no gió căng phồng
như một cánh buồm. Luồnggió biểnmát rượi khiến người ta thấy khoan
khoái, gió mơn man thổi tà váy phập phồng. Một tay giữ váy, tay kia kéo góc áo
Mạc Thiệu Khiêm, tự nhiên tôi thấy tức cười, thoạt đầu còn cố nhịn, nhưng chỉ
được một lúc đã tủm tỉm, dù không hề cười ra tiếng, song cứ như thể Mạc Thiệu
Khiêm mọc cả mắt sau gáy, hắn không hề ngoái đầu lại, vậy mà vẫn biết:
[34] Căn cứ theo thủ pháp
vẽ, tranh Trung Quốc có thể chia thành tranh vẽ chi tiết và tranh tả ý.
- Em cười cái gì?
- Em chưa từng thấy anh đạp xe đạp...
Xe lên tới đỉnh dốc, dường như hắn hơi thả lòng rồi cất giọng
khấp khởi:
- Chuyện em chưa thấy còn nhiều lắm!
Không cho tôi thời gian kịp hiểu, hắn bất ngờ thả tay ghi đông.
Xe lao thẳng xuống dốc theo quán tính, tiếng gió lồng lộng rít bên tai, gọi đến
mùi tanh nồng mặn mòi của biển cả. Xe cứ lao vun vút xuống chân dốc, cây cối
bên đường như chạy vụt về phía sau, tôi giật thót, ghì chặt eo hắn. Mạc Thiệu
Khiêm lại đủng đỉnh huýt sáo, khác hẳn với thường ngày. Lần đầu tiên trong đời
tôi nghe hắn huýt sáo, trước nay, cũng chưa từng thấy hắn thong dong nhường
này. Thảo nào hắn nói chuyện tôi chưa thấy còn nhiều lắm, nghĩ cũng
phải.
Đối với tôi, phần lớn các mặt hàng hải sản bày bán ở chợ đều lạ
lẫm. Đành rằng hai năm sống với Mạc Thiệu Khiêm tôi cũng từng thưởng thức nhiều
của ngon vật lạ trên đời, nhưng tôi chỉ nhận ra chúng khi đã được nấu chín
thôi, mà tôi cũng không hay so sánh lắm. Nhìn Mạc Thiệu Khiêm chọn tôm cá mới
lành nghề làm sao, kiểu trả giá của hắn cũng thật dã man, làm tôi có cảm tưởng
hắn đã vận dụng toàn bộ kỹ năng đàm phán thương mại vào việc đi chợ. Sau cùng,
tài mặc cả của hắn khiến ông chủ cứ luôn miệng gọi hắn là “đại ca”.
Tôi thích chợ vì chợ rẻ hơn siêu thị rất nhiều mà hàng hóa chủ
yếu do ngư dân sống gần đó mang tới nên cũng tươi ngon hơn hẳn. Ngặt nỗi chúng
tôi ở chỗ khuất nẻo, cách chợ phải đến hàng chục cây số.
Lúc về, đương nhiên Mạc Thiệu Khiêm vẫn là người cầm lái, còn
tôi xách đến mấy túi ni lông màu đen, đựng toàn tôm cua cá các loại và một mớ
rau diếp to đùng, xanh mơn mởn. Thêm một túi nặng trĩu các loại muối, dầu,
giấm, tương làm tôi có cảm tưởng mình đang chơi trò gia đình. Nhưng người chơi
cùng lại là Mạc Thiệu Khiêm, tôi lại một lần nữa thấy kỳ cục. Không hiểu sao,
tâm trạng cũng thấy khấp khởi, hay bởi bầu trời nơi đây xanh thăm thẳm, mây
trắng muốt sải mình, nắng rót xuống rạng rỡ mà bầu không khí cũng trong lành
đến lạ, hay bởi lúc lao xuống dốc, gió lướt nhẹ qua gò má, gợn lòng tôi vui
sướng nhẹ nhõm, mong được sải rộng vòng tay.
Khi Mạc Thiệu Khiêm thả xe tuột dốc lần nữa, tôi túm chặt áo
hắn, cười rộ thành tiếng. Lâu rồi tôi mới quẳnghết những gánh nặng
trong lòng để được cười thanh thản nhường này, giữa đất trời mênh
mông, bên biển nước bát ngát, dưới ánh nắng rực rỡ, dường như mọi nỗi băn khoăn
đều đã bốc hơi.
Vừa về đến nhà, cả người không những nhễ nhại mồ hôi mà còn rám
nắng đen nhẻm, tôi quên không xoa kem chống nắng mà đã theo Mạc Thiệu Khiêm đi
chợ. Tắm rửa xong đi ra đã thấy Mạc Thiệu Khiêm đang tất bật trong bếp. Thấy
cảnh đó, tôi cũng không ngạc nhiên, Mạc Thiệu Khiêm quả là con người toàn năng,
biết đạp xe, biết huýt sáo, biết mặc cả thì đương nhiên nấu cơm cũng biết.
Cứ ngồi không ăn sẵn cũng ngại, tôi bèn khệ nệ khiêng một chiếc
bàn mây ra vườn rồi vác thêm hai chiếc ghế, dùng bữa tối ngoài trời cảm giác
thoáng đãng hơn so với ngồi trong phòng điều hòa. Quả nhiên, chỉ một lát sau,
Mạc Thiệu Khiêm ngó nghiêng qua cửa sổ, thấy tôi đang hì hục bên ngoài, dẫu bận
trăm công nghìn việc trong bếp mà hắn vẫn hạ chỉ thị:
- Lấy hương muỗi ra đốt đã.
Xưa nay tôi chỉ nghe bữa tối dưới ánh nến chứ chưa nghe bữa tối
bên hương muỗi bao giờ. Nhưng thực tế đã chứng minh Mạc Thiệu Khiêm thật sáng
suốt, bởi lẽ ngoài vườn đúng là cứ địa của muỗi, dù đã đốt hương muỗi nhưng tôi
vẫn bị chúng đốt.
Tay nghề nấu nướng của Mạc Thiệu Khiêm cũng khá, đương nhiên so
với đầu bếp chuyên nghiệp còn thua xa nhưng so với tôi thì cao tay hơn hẳn. Bữa
cơm này khiến tôi có cảm giác vừa mừng vừa lo, thế mà hắn vẫn ăn ngon lành,
chúng tôi ăn hết hẳn một con cua to, một cân tôm, một đĩa cá Napoleon[35] hấp,
thậm chí đĩa rau diếp xào cũng hết sạch. Ăn xong, Mạc Thiệu Khiêm lại ra lệnh:
[35] Cá Napoleon: còn gọi
cá hàng chài đầu to, được phát hiện ở các vùng nước Indonesia và Phillipines,
rất được ưa chuộng ở Trung Quốc.
- Em lo phần rửa bát!
Tôi lon ton đi rửa bát, việc này thì có gì khó, trong bếp có sẵn
máy rửa bát, chỉ việc nhét vào là xong. Nhưng bếp lại bị hắn bày bừa, nước lênh
láng, rau cỏ vương vãi, buộc tôi phải cầm giẻ, cắm đầu vào dọn dẹp. Đang dở tay
thì Mạc Thiệu Khiêm bước vào, ôm chầm lấy tôi từ phía đằng sau. Cơ thể hắn vừa
tắm xong, còn thoảng mùi hương nhè nhẹ, vòng tay gần gũi dịu dàng ấy khiến tôi
giật nảy mình. Tôi phân vân, không biết nên quay lại chủ động hôn hắn hay cứ để
mặc hắn muốn ôm thì ôm.
Cửa sổ phòng bếp nhìn thẳng ra biển, vầng thái dương khuất dạng
ngoài khơi xa, để lại ráng chiều tim tím cho đêm tối cận kề. Phong cảnh nơi này
thật tuyệt, thậm chí đứng trong bếp mà cũng được ngắm cảnh biển lãng mạn nhường
này. Tôi trân mình đứng đó cho đến khi hắn xoay mặt tôi lại và bờ môi đáp xuống
một nụ hôn dịu dàng.
Ba năm qua, số lần chúng tôi hôn nhau nhiều vô kể, nhưng chưa
bao giờ hắn dịu dàng đến thế, cánh tay choàng qua eo, kéo tôi nép vào lòng, bờ
môi mải miết, quấn quýt như làn nước, thừa sức nhấn chìm một con người. Tôi sực
nhận ra nguyên nhân khiến cả ngày hôm nay tôi thấy phấn chấn là vì Tiêu Sơn.
Tôi và Tiêu Sơn từng có những ngày tháng tương tự, nhưng ở tận thành phố T xa
xôi. Niềm hạnh phúc của chúng tôi ngày đó, tình cảnh của chúng tôi ngày đó,
dường như đang hiện về trong tâm tưởng.
Tôi thấy nghẹt thở. Đôi mắt Mạc Thiệu Khiêm đen lay láy, thậm
chí khi thấy hình ảnh của chính mình phản chiếu qua đôi mắt đen láy ấy, lòng
tôi lạitrỗi dậy một nỗi hoang mang, lạ lẫm khó định nghĩa thành lời, khác hẳn
nỗi sợ hãi thường ngày, như thể có tai ương nào đó sắp cận kề quanh đây. Tôi
không biết nó giống với thứ gì, chỉ cảm thấy vô cùng đáng sợ như thể đó là một hố
đen có thể nuốt gọn mọi thứ, cảm giác ấy khiến tôi chớm hoảng hốt rồi rụt người
lại. Tôi nhắm chặt mắt, cố kiềm chế cơn run rẩy, nhưng xưa nay hắn vốn là con
người vô cùng mẫn cảm, hắn dừng lại ngay lập tức, hỏi:
- Sao thế?
Tôi gắng nặn ra một nụ cười:
- Đâu có gì.
Vẻ mặt hắn sa sầm, chắc bởi nụ cười của tôi rất gượng gạo. Một
lúc lâu sau, hắn mới cười khẩy:
- Không cố được nữa à?
Tôi không muốn giải thích. Tia sáng cuối cùng trong ngày cũng
lụi tắt ngoài khơi xa, bóng tối sụp xuống gian bếp chưa kịp lên đèn, nhấn chìm
cơ thể hắn trong một vùng sáng tối đan xen, song giọng điệu cất lên lại rành
rọt đến lạnh lùng:
- Dù chỉ là đãi bôi thì em cũng nên để tâm vào. À mà quên mất,
con người em vốn vô tâm, em làm gì có trái tim. Chẳng phải sở trường của em là
nhẫn nhịn sao? Mới mấy ngày đã không chịu nổi rồi à? Còn những mười hai ngày
nữa, có khó chịu mấy thì em vẫn phải chịu đựng tiếp mười hai ngày nữa. Tôi biết
em ghét nơi này nhưng tôi vẫn cố tình đưa em tới đây. Chẳng phải bấy lâu nay,
em đã quen nhẫn nhịn, quen ra vẻ đó thôi? Sao, không chịu được nữa à? Hay mất
kiên nhẫn thật rồi? Tôi chưa đặt bút ký mà em đã sốt ruột thế này rồi sao? Nếu
không chịu được nữa thì em biến ngay cho tôi, em muốn đi đâu mặc xác em.
Hắn quay lưng bỏ đi, vứt lại tôi đứng ngây ngốc, nghe tiếng sập
cửa vẳng lại từ đằng xa.
Hắn bỏ đi đâu chẳng rõ, để lại mình tôi giữa căn nhà rộng thênh
thang này. Tôi cũng chẳng hiểu vì đâu ra nông nỗi, thực chất tôi chỉ muốn lấy
lòng hắn nhưng để hắn vui quả thực quá khó. Hôm nay, tôi thật sự thấy vui chứ
đâu có giả vờ, chỉ có điều, đáng lẽ sau đó, tôi không nên nghĩ tới Tiêu Sơn.
Tiêu Sơn đã trở thành chuyện xa xỉ của đời tôi nên tốt nhất đừng nghĩ đến nữa.
Chỉ tại những tình tiết có nét tương đồng khiến tôi mất kiềm chế, giá như Mạc
Thiệu Khiêm đối xử với tôi chẳng ra gì thì có lẽ tôi sẽ tỉnh táo hơn. Vậy mà
hôm nay hắn lại vô cùng dịu dàng khiến tôi có cảm giác hoang mang, sợ sệt.
Tôi đứng một mình trong bóng tối, tự nhiên thấy sợ mà cũng không
dám lên gác, đành lần mò đi bật đèn. Tôi mở toàn bộ đèn trong phòng khách, thậm
chí bật cả ti vi. Đùi bị muỗi đốt sưng vù mấy chỗ, vừa ngứa vừa đau, nãy giờ
làm tôi đứng ngồi không yên. Điều khiến tôi bất an hơn cả, đó là tôi lại chọc
giận Mạc Thiệu Khiêm mất rồi. Đáng lẽ tâm trạng của hắn ngày hôm nay cũng khá vui
vẻ, vậy mà tôi lại đi chọc giận hắn.
Chẳng biết Mạc Thiệu Khiêm bỏ đi đâu. Tiếng sóng xô bờ liên tiếp
dội về, ngoài kia gió giật mỗi lúc một mạnh, hai âm thanh ấy hòa vào nhau, tạo
thành tiếng rít gào của một loài sinh vật không tên. Đầu tôi không thể nghĩ
được chuyện gì khác khi thứ âm thanh kinh khủng ấy cứ xâm chiếm toàn bộ trái
tim. Tôi nép mình vào một góc ghế, thậm chí, tôi không dám nhìn vào ti vi, như
thể sợ một con quái vật nào đó sẽ bò ra từ màn hình. Cả người run lên bần bật
vì khiếp đảm. Tôi có cảm giác căn nhà này ẩn nấp đầy rẫy quái vật, chúng khiến
tôi không thể nào chịu đựng thêm nữa.
Tôi ôm chặt chiếc điện thoại, bắt đầu bấm số của Mạc Thiệu Khiêm
nhưng di động trên bàn lại reo, thì ra hắn quên không mang máy theo. Đến di
động mà hắn còn để ở nhà thì có thể đi đâu được chứ?
Vùng này hoang vu, bốn bề là bãi cát,trống vắng, lưa thưa vài
căn biệt thự, thậm chí nhà hàng xóm cũng chẳng lên đèn. Tôi run rẩy, siết thật
chặt chiếc di động của hắn trong tay rồi chẳng may chạm vào phím mở máy. Danh
mục các cuộc gọi gần đây hiện ra, tôi nhìn chiếc điện thoại, toàn bộ danh bạ
chỉ ghi tên liên lạc của hai người, một đề là “mẹ”, còn cái tên lẻ loi, trơ
trọi kia là của tôi.
Tôi lật tới lật lui mấy trang, cũng chỉ có mỗi mục ấy, tên tôi
được lưu kèm ba số điện thoại, một là số di động, hai là số máy bàn phòng ký
túc xá, sau cùng là số máy bàn khu chung cư. Tôi biết hắn còn một chiếc di động
khác để liên lạc công việc, còn chiếc này là số máy cá nhân. Nhưng tôi không
thể nào tin nổi, bên cạnh số điện thoại của mẹ hắn lại là tên tôi.
Tôi biết mình không nên táy máy, đụng vào điện thoại của hắn,
trước nay, tôi chưa từng đụng chạm đến đồ đạc của hắn. Bây giờ, tôi cũng nên
đặt nó ra xa một chút. Dù sao thì hắn cũng chẳng dính dáng gì đến tôi, việc tôi
quay lại cũng chỉ là một cuộc giao dịch mà thôi. Nhưng tôi không kiềm chế nổi,
lại tò mò sờ vào lần nữa, ba mươi cuộc gọi được liệt kê gần đây nhất gồm: Đồng
Tuyết 1, Đồng Tuyết 2, Đồng Tuyết 3...
Tôi lật đến tận trang cuối cùng mà vẫn chỉ thấy tên mình.
Có khi hắn thuộc lòng số máy của vợ mình rồi nên không nhất
thiết phải lưu vào đây. Tôi hốt hoảng tự nhủ thầm như vậy nhưng trong điện
thoại lại xuất hiện thêm hai bức ảnh, chỉ duy nhất hai bức ảnh ấy: một tấm là
ảnh tôi, tấm kia cũng là ảnh tôi.
Bức ảnh đầu tiên, mắt tôi nhắm nghiền trong cơn say ngủ mà
khoảng cách chụp thì gần kề đến nỗi có thể thấy rõ từng sợi lông mi. Tấm thứ
hai là hình tôi cười tươi rói, khoe lúm đồng tiền hai bên má. Tôi
cũng chẳng nhớ mình đã toe toét thế này trước mặt hắn lúc nào và hắn có cơ hội
ghi lại hình ảnh của mình bao giờ. Hai bức ảnh làm tôi thảng thốt, tất cả mọi
thứ làm tôi sửng sốt, những dấu vết để lại trong chiếc điện thoại này chẳng
khác nào một sự bịa đặt vô căn cứ. Không, chắc chắn mình đang bị ảo giác, mình
không nên xem những thứ này, mà đáng lẽ, hắn cũng không nên lưu chúng lại trong
máy.
Tôi mò mẫm tất cả chức năng của điện thoại. Khi lần mò tới hộp
tin nhắn, hòm thư gửi đến và gửi đi hoàn toàn trống rỗng, trong thùng thư rác
còn sót lại một tin đã xóa, tôi liền mở ra xem.
Thời điểm gửi tin là khoảng vài tháng trước, từng chữ nối tiếp
nhau dàn hàng trên màn hình: “Mạc Thiệu Khiêm ạ, anh không nhận điện thoại của
tôi thì sẽ phải hối hận. Đồng Tuyết có thai rồi nhưng anh đừng mừng vội. Thứ
nhất, tôi biết cô ta và bạn trai bé nhỏ kia tình cũ không rủ cũng đến, chắc đến
tám mươi phần trăm đứa trẻ không phải con anh. Thứ hai, giả sử có là của anh đi
chăng nữa thì anh cũng chẳng có cơ hội cha con đoàn tụ đâu, bởi lẽ cô ta đã kịp
tới bệnh viện xử lý rồi.”
Người gửi không đề tên tuổi mà chỉ hiện một số máy hoàn toàn xa
lạ, chính tôi cũng chưa thấy bao giờ. Tôi chẳng còn sức để đoán người đó là ai,
liền vứt chiếc điện thoại sang một bên như thể mình đang cầm trong tay một củ
khoai nóng giãy. Từ trước tới nay, Mạc Thiệu Khiêm chưa bao giờ đối xử tử tế
với tôi, tôi là con gái của kẻ thù giết cha hắn nên hắn hận tôi, hận đến nỗi
phải bóp nát cuộc đời tôi mới hả. Mộ Vịnh Phi từng kể hắn yêu chị ta nhiều lắm
nên mới bày ra đủ trò. Đối với hắn, tôi cũng chỉ là một quân cờ dễ ăn như Tô
San San mà thôi.
Bấy lâu nay, hắn hận tôi, tôi cũng hận hắn. Tôi cứ nghĩ mãi mà
không lý giải được tại sao tự nhiên hắn lại mò đến khách sạn tôi ở, bây giờ mới
biết thì ra có người mách hắn. Nhưng bây giờ, tôi chẳng còn sức để đoán người
đó là ai. Tôi chỉ muốn rời xa nơi này. Mọi thứ ở đây là nỗi khiếp đảm đối với
tôi, biết đâu hắn cố ý để tôi động vào điện thoại của hắn. Có lẽ hắn cảm thấy
bấy nhiêu giày vò vẫn chưa đủ, bao lần hắn lừa tôi vẫn còn nhẹ nhàng quá. Cuộc
đời tôi bị hắn giẫm đạp chưa đủ thỏa mãn, hắn muốn nhiều hơn thế. Tôi hiểu hắn
hận mình biết chừng nào, bấy lâu nay, tôi luôn hiểu.
Giây phút cuối cùng trong cơn hoảng loạn, dường như tôi đã vắt
chân lên cổ để vùng chạy khỏi căn nhà đó. Tôi cứ lao về phía trước, cho đến khi
đôi chân rệu rã mới dừng lại, thở hổn hển. Xa lắm mới thấy một ngọn đèn đường
lẩn khuất trong lớp sương lãng đãng được gió biển thổi dạt vào, còn những nơi
xa kia đều phủ một màu đen mịt mùng và tiếng sóng rì rào vỗ bên tai. Nỗi sợ hãi
trong lòng càng dâng cao. Mọi vật chìm trong tĩnh mịch, phải đi bộ rất lâu mới
thấy một căn biệt thự nhưng phần lớn đều bỏ không trong tăm tối, cả đường tuyệt
nhiên không một bóng người hay bóng xe.
Tôi thấy sợ hãi ngay với cả tiếng bước chân của chính mình, tôi
nhớ mẹ, nhớ Duyệt Oánh, chỉ mong có người bên cạnh nhưng chẳng thấy bóng dáng
một ai. Tôi loạng choạng tiến về phía trước, như thể đang dấn bước vào cơn ác
mộng, thời khắc này giống như một cơn ác mộng, tôi đã mất phương hướng, chẳng
biết đi đâu, về đâu. Mạc Thiệu Khiêm bỏ tôi bơ vơ nơi này, còn hắn chẳng biết
đã đi đâu. Giá như có hắn ở đây giờ này thì tốt biết mấy, đành rằng hắn cũng
thuộc loại đáng sợ nhưng còn đỡ hơn chỉ có mình tôi lang thang ở đây.
Mặt đất lởm chởm sỏi đá khiến mỗi bước chân đặt xuống lại cộm
đau. Tôi quýnh quáng, mong tìm thấy ai đó, nhưng cũng sợ yêu ma, quỷ quái từ
trong màn sương nhảy bổ ra, tiếng sóng xô bờ càng làm tôi thêm ớn lạnh. Tôi cảm
nhận rõ rệt cảm giác lành lạnh chạy dọc sống lưng, mồ hôi túa ra đầm đìa, thậm
chí không dám bước mạnh chân, bởi tôi luôn có linh cảm, từ tất cả những nơi tối
mù mịt sẽ xồ ra một loài ma quái nào đó.
Mẹ sẽ không đến cứu tôi, Duyệt Oánh cũng không ở đây giờ này,
tôi muốn bật khóc, nơi này chỉ có Mạc Thiệu Khiêm mà thôi. Nhưng không biết hắn
đang ở đâu, tôi đi bộ bao lâu mà chưa thấy ánh đèn nào. Tôi khiếp đảm, đèn
đường hỏng hết rồi sao? Hay mình lạc đường hoặc quanh đây không hề có cột đèn
nào?
Tôi hoảng hốt, ngay cả tiếng bước chân của chính mình cũng khiến
nỗi sợ hãi nhân lên gấp bội. Bỗng thấy trước mặt có vật gì đen thui nhảy bổ ra
từ màn sương mù. Bốn chân nó đạp soàn soạt trên sỏi đá, đôi mắt đỏ ngầu. Tôi
kinh hãi thét lên rồi cắm đầu bỏ chạy. Tôi nghe sau lưng mình có tiếng bước
chân dồn dập của con quái vật đang đuổi theo. Bao suy diễn về những điều bất
trắc ập đến trong đầu càng đẩy tôi rơi vào cơn hoảng loạn, tôi cố chạy nhanh
hơn. Khi chạy tới vùng sáng của ngọn đèn đường, con quái vật đó liền sủa tru
tréo, lúc đó tôi mới nhận ra, đó là một con chó to. Vừa chạy, tôi vừa ngoái lại
nhìn, thấy nó vẫn lao thẳng về phía mình. Ánh đèn đường soi tỏ hàm răng sắc
nhọn cùng thân mình lốm đốm của nó, tôi đoán đó là loài chó hoang, không, một
con chó dại mới đúng.
Tôi khiếp đảm, chực bật khóc, gào rát cổ họng mà không một ai
đến cứu. Tôi chẳng quan tâm con đường đang chạy dẫn về đâu, cũng chẳng rõ mình
đã chạy bao xa, tôi cứ lao đầu về phía trước, sau lưng là con chó dại đuổi theo
ráo riết. Tôi chạy đến bờ biển, trên bãi cát vắng tanh không một bóng người,
chỉ có cát dưới chân là mềm nhũn. Xung quanh là những tảng đá lởm chởm mọc xen
kẽ nhau, ngày qua ngày bị nước biển mài giũa thành những hình thù kỳ dị. Tôi
vừa chạy vừa khóc, hình như dưới dải đá ngầm đằng xa thấp thoáng có bóng người,
trời không ánh trăng, những ngôi sao lẻ loi phản chiếu loang loáng trên mặt
nước biển, tôi không nhìn rõ bóng dáng đó là của con người hay chỉ là một mỏm
đá, nhưng vẫn ôm tia hy vọng mong manh, lao đầu về phía ấy. Tôi la hét thất
thanh, lạc cả giọng, có lẽ lúc đó tôi đang kêu cứu hoặc đang gọi mẹ. Rồi tôi
vấp phải một hòn đá lẫn trong cát, ngã sóng soài xuống đất, đau điếng.
Đầu gối đau rát như xát muối ớt, không cho tôi kịp bò dậy, mà
tôi cũng không dám ngoái đầu nhìn lại, chỉ luôn miệng gào thật to. Bóng đen kia
khẽ động đậy, chứng tỏ đó là một con người thực sự. Người ta hẳn đã nghe thấy
tiếng kêu cứu, liền lao ngay về phía tôi, trong khi con chó dại kia đã đuổi tới
nơi. Tôi cuống cuồng, vơ vội nắm cát ném loạn xạ, nó lùi mấy bước rồi lại xông
lên. Có người chắn ngay trước mặt tôi, tôi chỉ kịp trông thấy người đó vung
chân đá con chó, rồi nhặt một hòn đá đập khiến nó tru lên ăng ẳng.