Re:
Các vấn đề gặp phải khi viết truyện cổ đại thuần Việt
Lại kiếm được link tài liệu có rất nhiều sách sử. https://sachtonghop.wordpress.com/category/lich-su/
Vụ này tớ nghĩ chắc là ví von thay cho mưa gió thôi ấy."Truyền kỳ mạn lục
Chương 11 Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang *(1)
Năm Bính Dần (1386), vua Trần Phế đế đi săn, đỗ lại trên bờ bắc sông Đà, đêm mở bữa tiệc ở trong trướng. Có một con cáo từ dưới chân núi đi về phía nam, gặp một con vượn già, nhân bảo:
- Vua tôi Xương Phù (2) vào rừng săn bắn, để ý vào bọn ta lắm đó. Tính mệnh các loài chim muông, thật là treo ở sợi dây cung. Nếu tuyết chưa xuống, gió chậm về, mình sẽ nguy mất, nếu không vẫy đuôi xin thương thì ắt bị cày sân lấp ổ. Tôi định đến kiếm một lời nói để ngăn cản, bác có vui lòng đi với tôi không?"
Sao ở Việt Nam mà tác giả nhắc đến tuyết kìa. Vậy trong cách ví von có thể dùng dù VN không hề có tuyết?
Cám ơn chị đã chia sẻ,Thảo luận vấn đề 1: Cách xưng hô, xin được trích dẫn bài viết của học giả An Chi mà mình rất thích:
Học giả An Chi:
Bạn cho rằng, “thời đó (đầu đời Lý) chúng ta hoàn toàn dùng chữ Hán”. Thực ra thì không phải như thế vì, nói chung, trong suốt thời kỳ phong kiến tự chủ, ta chỉ sử dụng chữ Hán làm quốc gia văn tự, nói rõ ra là chỉ dùng nó trên văn kiện và trong sách vở mà thôi. Dân ta vẫn nói tiếng Việt với nhau; mà vua quan trong triều đình cũng thế. Nhưng do ảnh hưởng của nhiều thế kỷ bị người Tàu cai trị nên từ vựng của tiếng Việt đã chứa đựng nhiều yếu tố gốc Hán, trong đó có gần như hầu hết những từ chỉ quan hệ thân tộc, như chúng tôi đã chứng minh trong bài “Từ nguyên của những từ chỉ quan hệ thân tộc”, trên Năng lượng Mới số 70 (11/11/2011). Những từ này đã có mặt từ lâu trong từ vựng của tiếng Việt, như có thể thấy trong “Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa” (khoảng thế kỷ XVII). Trong tác phẩm này, “Nhân luân bộ đệ tam” là chương thứ ba, đã dùng nhiều từ quen thuộc mà chúng tôi đã nêu để giảng (đối dịch) các danh từ chỉ quan hệ thân tộc và xã hội bằng tiếng Hán (Xin x. bản phiên âm và chú giải của Trần Xuân Ngọc Lan, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,1985, tr.90-98).
Cảnh trong phim "Huyền sử Thiên đô"
Trong tiếng Việt, nhiều từ chỉ quan hệ thân tộc hoặc xã hội và cả một số danh từ chỉ người, lại được dùng làm từ xưng hô, mà một số tác giả gọi là đại từ nhân xưng, như: ông, bà, bố, mẹ, cô, cậu, dì, thím, v.v… Chúng tôi cho rằng, trong sinh hoạt hằng ngày, dân ta cũng xưng hô với nhau bằng những từ thông thường trên đây. Nhưng trước tiên, xin lưu ý bạn và bạn đọc rằng, ta cần phân biệt từ chỉ quan hệ thân tộc và từ dùng để xưng hô. Đây là hai khái niệm riêng biệt, mặc dù từ xưng hô vốn là từ chỉ quan hệ thân tộc. Vì không phân biệt được hai khái niệm này nên có người đưa hàng loạt từ, ngữ chỉ quan hệ thân tộc ra mà gọi đó là “cách xưng hô thời xưa”, như DevilChild trên trang tukhuc.wordpress.com ngày 11/12/2012:
“(…) Ông nội/ngoại = gia gia; ông nội = nội tổ; bà nội = nội tổ mẫu; ông ngoại = ngoại tổ; bà ngoại = ngoại tổ mẫu; cha = phụ thân; mẹ = mẫu thân; anh trai kết nghĩa = nghĩa huynh; em trai kết nghĩa = nghĩa đệ; chị gái kết nghĩa = nghĩa tỷ; em gái kết nghĩa = nghĩa muội; cha nuôi = nghĩa phụ; mẹ nuôi = nghĩa mẫu; anh họ = biểu ca; chị họ = biểu tỷ; em trai họ = biểu đệ (…)”.
Những từ, ngữ trên đây thực chất là một bảng từ vựng chỉ quan hệ thân tộc bằng tiếng Hán chứ thực ra thì, nói chung, những “nghĩa huynh”, “biểu ca”, “nghĩa tỷ”, “biểu tỷ”, v.v... do DevilChild đưa ra cũng chỉ là những yếu tố dùng trong văn bản bằng Hán văn Việt Nam chứ chẳng phải là những từ, ngữ quen thuộc dùng trong tiếng Việt hằng ngày của dân chúng. Dân chúng thì xưng hô với nhau giản dị và tự nhiên, chẳng hạn giữa vợ chồng, thì chồng có thể gọi vợ là “mình”, “bà nó”, “mẹ nó”, “bu nó”, “bủ nó”, “bầm nó”, “má nó”, “mạ nó”, “mợ nó”. Vợ có thể gọi chồng là “mình”, “ông nó”, “bố nó”, “ba nó”, “cha nó”, “cậu nó”. Còn giữa trai, gái thì “anh” và “em”:
- “Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà…”.
- “Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc;
Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay...”.
- “Em như cục cứt trôi sông
Anh như con chó ngồi trông trên bờ”.
Đấy, “anh” và “em”; thế thôi. Khách sáo và dè dặt hơn một tí thì “mình” với “ta”:
- “Mình nói dối ta mình hãy còn son,
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò.
Con mình những trấu cùng tro,
Ta đi xách nước tắm cho con mình”.
- “Mình về mình có nhớ ta.
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”.
Trang trọng và thơ mộng hơn thì “chàng” và “nàng”, “thiếp”:
- “Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng”.
- “Một mai thiếp có xa chàng
Đôi bông thiếp trả, con chàng thiếp xin”.
Ngay cả văn nhân, thi sĩ cũng xưng hô đúng với tinh thần của tiếng Việt, chẳng hạn Dương Khuê trong bài hát nói “Hồng Hồng Tuyết Tuyết”. Ở hai câu Hán văn trong phần “Nói” thì cụ già Dương dùng từ “quân” để chỉ người con gái và tự xưng là “ngã”:
- “Ngã lãng du thời quân thượng thiếu,
Quân kim hứa giá ngã thành ông”.
Nhưng ở phần “Mưỡu” “toàn Việt” thì Dương Khuê tự xưng là “ông” và gọi thẳng tên của cô đầu là “Tuyết”:
“Ngày xưa Tuyết muốn lấy ông
Ông chê Tuyết bé, Tuyết không biết gì
Bây giờ Tuyết đã đến thì
Ông muốn lấy Tuyết, Tuyết chê ông già”.
Bằng hữu với nhau cũng xưng hô kiểu Việt Nam thuần túy trong văn thơ. Khi Dương Khuê qua đời, Nguyễn Khuyến khóc:
“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời”.
Nhưng điển hình thì có lẽ phải là từ xưng hô và từ chỉ quan hệ thân tộc trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tại đây “cha” được dùng 12 lần, “mẹ” 6 lần, “chị” 13 lần, “em” 14 lần, “cậu” 1 lần, “ông” 15 lần, “bà” 8 lần, danh ngữ đẳng lập “ông bà” 4 lần, danh ngữ “mẹ cha” 2 lần, danh ngữ “chị em” 3 lần, v.v... Cách dùng từ “phi Hán ngữ tính” này đã không mảy may làm giảm giá trị của “Truyện Kiều”. Ngược lại, hiện tượng này cho thấy sức sống mãnh liệt của tiếng Việt bên cạnh một ngôn ngữ “đại gia” là tiếng Hán, mặc dù bản thân nó vẫn thu nhận nhiều từ, ngữ của thứ tiếng này.
Ngay cả khi chuyển cách xưng hô của người Tàu, giữa anh em với nhau, sang tiếng Việt, một số dịch giả cũng giữ đúng tinh thần của tiếng mẹ đẻ mà dùng “em”, “tôi”, v.v…, chứ không dùng “huynh”, “đệ”. Chắc là nhiều bạn đã biết đến “Tam quốc diễn nghĩa”, trong đó có ba anh em kết nghĩa là Lưu Huyền Đức, Quan Công và Trương Phi. Xin đọc mấy câu đối đáp sau đây giữa họ với nhau, khi Trương Phi nổi nóng muốn giết Đổng Trác:
“Huyền Đức, Quan Công vội ngăn mà rằng:
- Không nên, hắn là quan của triều đình, em chớ nên tự tiện giết hắn!
Phi nói:
- Nếu không giết nó, mà lại ở đây làm đầy tớ cho nó sai khiến thì tôi không thể chịu được”.
Huyền Đức và Quan Công gọi Trương Phi là “em” còn Trương Phi thì tự xưng là “tôi”. Mấy câu trên đây nằm trong bản dịch của Phan Kế Bính do Bùi Kỷ hiệu đính, rồi lại do Lê Huy Tiêu và Lê Đức Niệm sửa chữa (tập 1, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1988, tr.47).
Cứ như đã biện luận ở trên thì ta có thể khẳng định rằng, về nguyên tắc, việc xưng hô với nhau bằng “ông - tôi”, “anh - em”, v.v…, trong phim “Huyền sử Thiên đô” cũng không phải là chuyện không thể chấp nhận được.
Cám ơn bài viết của chị,Thấy nhiều người bây giờ chỉ chăm chăm đọc ngôn tình Trung Quốc. Có đứa bạn hỏi mình truyện gì hay, mình giới thiệu truyện về sử Việt Nam thì nó tròn mắt, kiểu không thể tin nổi.
Mình nghĩ lịch sử Việt Nam cũng hoành tráng đâu có kém gì Trung Quốc, sao ai cũng phải lôi Trung Quốc vào nhỉ.
Sau rồi ấp ủ cái kế hoạch viết tiểu thuyết về lịch sử Việt Nam, mãi gần 1 năm rồi mới thực hiện được nhưng gặp nhiều khó khăn ghê đó.
Nhất là vụ xưng hô. Xưng hô ở dân gian thì dễ, nhưng cung đình thì đúng là khó lên giời.
Xưng hô huynh, muội các kiểu thì nghe Tàu quá. Nhưng nếu cho anh, em vào lại cực kỳ không quý xờ tộc.
Còn có một vụ nữa, ví dụ luôn trong truyện của mình đang viết. Có ông thái y tên là Phạm Công Bân, nên gọi là thái y Phạm hay Phạm thái y? Hay là thái y Bân?
À có một quyển sách về lịch sử rất hay, nếu ai muốn có một cái nhìn tổng quát nhất về thời mà muốn viết thì nên đọc.
Quyển sách của giáo sư Lê Thành Khôi viết bằng tiếng Pháp, được dịch sang tiếng Việt.
Lịch sử Việt Nam. Từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX.
![]()
(Đây nè.)
Sách cũng nói khá kỹ về các mảng chính trị, kinh tế và văn hóa từng thời kỳ. ^^
Gác mình có mấy bạn viết cổ đại Việt khá chắc tay, em đọc thử Đóa sen bên hồ tả vọng của Linhduahau, truyện này là xuyên không. Còn thuần cổ đại lấy bối cảnh Việt Nam thì có Vạn Dặm Xuân của Bứt Bí Bông, hoặc em đọc thử Tuyên Phi của chị (Tự PR bản thân tí ^^). Phong Du cũng viết xuyên không nhưng bạn ấy drop rồi nên chị không gắn link.Cám ơn chị đã chia sẻ,
Em là một đứa mới đang tập tành viết lách,
Lại đâm đầu vào viết về thể loại xuyên không về cổ đại Việt Nam, tuy tìm nhiều tư liệu nhưng vẫn không ổn lắm.
Rất cám ơn chị vì bài viết này
Vâng ạ ^^ em mới tham gia Gác sách từ một tiếng trước, còn nhiều chỗ không hiểu. Mong được các chị giúp đỡ ạGác mình có mấy bạn viết cổ đại Việt khá chắc tay, em đọc thử Đóa sen bên hồ tả vọng của Linhduahau, truyện này là xuyên không. Còn thuần cổ đại lấy bối cảnh Việt Nam thì có Vạn Dặm Xuân của Bứt Bí Bông, hoặc em đọc thử Tuyên Phi của chị (Tự PR bản thân tí ^^). Phong Du cũng viết xuyên không nhưng bạn ấy drop rồi nên chị không gắn link.
Xưng hô huynh, muội các kiểu thì nghe Tàu quá. Nhưng nếu cho anh, em vào lại cực kỳ không quý xờ tộc.
Còn có một vụ nữa, ví dụ luôn trong truyện của mình đang viết. Có ông thái y tên là Phạm Công Bân, nên gọi là thái y Phạm hay Phạm thái y? Hay là thái y Bân?
Đây là đoạn trích trong Lục Vân Tiên:trong nhân vật của em có một người là TRẦN DIỆU - chức vị là Bộ thị lang, em không biết nên viết là Trần Bộ thị lang, Bộ thị lang Trần, hay Bộ thị lang Diệu? Thực lúng túng quá