PHẦN III. TRỘM CỔ VẬT
Minh Nguyệt Hội là băng nhóm trộm mộ, đã từng tổ chức các vụ trộm từ thành phố đến bang Y. Nơi đâu có cổ vật, nơi ấy chắc chắn là địa bàn để Minh Nguyệt càn quét.
Nhận được cuộc gọi của ông Khiên, A Tung bồn chồn. Anh biết lại sắp có chuyện. Có lẽ ngôi mộ cổ nào đó vừa được báo chí khai quật hay kho báu nào đó đã được phát giác. Ông Khiên là chủ tiệm buôn đồ cổ, rất có uy tín và là người đứng đầu Minh Nguyệt Hội. Từng chiếc tách, chiếc ấm uống trà có niên đại hàng trăm năm xuất hiện ở tiệm, là do ông cầm đầu Minh Nguyệt đi trộm được. Đây là một trong ba nhóm trộm mộ cổ có tiếng trong cả nước, hai hội còn lại là Đông Thanh Hội và Tây Nam Hội, địa bàn ở phía Đông và phía Tây Nam. Giống như Đông Thanh Hội và Tây Nam Hội, Minh Nguyệt cũng thường tổ chức những chuyến đi xa để dò tìm cổ vật, nhưng cách thức tổ chức và địa bàn hoạt động có chút khác. Bởi là Minh Nguyệt, nên chỉ làm việc khi có trăng sáng. Bề ngoài là dân phượt, nhưng bên trong âm thầm mang theo các dụng cụ đào đất, xới huyệt. Chủ nhóm, ông Khiên là thủ lĩnh nhạy bén nhất trong ba nhóm, có biệt tài đánh hơi cổ vật từ xa. Gọi vào thời điểm này tất có chuyện.
A Tung cầm điện thoại, lặng lẽ đi vào nhà. Điện thoại rung bần bật, vang lên tiếng tin nhắn: 7 giờ tối mai ở địa điểm cũ, không được đến muộn.
A Tung lặng lẽ thở dài. Lão Gia – Người già nhất bản đem đôi mắt lạnh sắc nhìn chòng chọc: Có chuyện gì à?
Con mụ điên cười ré lên: Đi, lại đi. Ha ha ha, đi hết, cút hết, chết hết.
Lão Gia giương đôi mắt lờ đờ, tiếp tục hỏi: Có đúng là lại đi?
A Tung gật đầu. Lão Gia lặng lẽ thở dài, chắp hai bàn tay gân guốc khấn phật. Một hồi lâu mới ngẩng lên, nói nhỏ:
- Bản đã không thể cho anh cái ăn, cái mặc, âu cũng là cái lỗi của chúng ta. Nhưng đừng quên, ác giả ác báo. Tội ác anh làm, em gái anh phải gánh. Đừng để thêm người thay anh chịu phạt nữa.
- Giết người. Ta đã sống dậy. Quân giết người.
Căn nhà vang lên tiếng loảng xoảng của dao chém. Cô em gái đầu tóc lòa xòa, cầm dao chặt củi chém thật mạnh vào bình sứ. Bình nứt toác ra, bên trong còn vương vài giọt máu. Máu chảy xuống thành bình, rồi theo vết vỡ lan ra sàn. Chỉ một loáng, mặt sàn nhuốm đỏ.
Nhìn cảnh tượng đó, Lão Gia thất kinh. Ông hổn hển gọi: A Bang, đưa con bé xuống hầm trói lại. Thu dọn hết các mảnh vỡ và lau sạch vết máu, đừng để sót một giọt nào trên sàn.
Một chàng trai trẻ đen đúa, đóng khố dân tộc khúm núm bước vào. Lão Gia cúi xuống nhìn những mảnh vỡ, tay bắt đầu run rẩy…
Quay sang A Tung, Lão Gia như cầu xin: Anh có thể không đi được không? Bình vỡ là điềm gở, lại có máu rơi vãi, chắc chắn có cảnh máu chảy đầu rơi. Ta có linh cảm, việc này liên quan đến vụ một trăm năm về trước. Cái bình này là cụ cố anh để lại. Chúng ta chịu khổ một chút cũng không sao. A Tung, lần này không đi có được không?
A Tung ngạc nhiên hỏi: Tộc trưởng, thế nào là vụ một trăm năm về trước? Ông chưa hề kể cho cháu.
Lão Gia nhìn vết máu đã được lau sạch, giọng run run: Là chuyện của đời cụ cố anh. Một trăm năm về trước, ông ấy cứu sống một cô gái tên là Dương. Từ lúc cô ấy về những chuyện kì lạ liên tiếp diễn ra, rồi bản ta gặp hiểm họa.
Chỗ chúng ta vốn là một bản nhỏ trên núi Kmư Yang. Đây là ngọn núi có nhiều động thực vật quý hiếm. Đường lên núi khá khó khăn nên chỉ dân leo núi chuyên nghiệp mới dám thử. Chúng ta sống ở lưng chừng núi. Một ngày âm u, khi đi hái thuốc, cụ anh- cũng là bạn chí thân của cha ta, gặp một cô gái tóc đen vô cùng diễm lệ, ngất bên khe núi. Cô ta bị thương, váy áo cũng rách tơi tả. Tay chân xây xát, máu chảy thành ròng, như thể vừa bị đánh đập rồi chạy trốn từ nơi xa lắm.
Lúc đầu, cụ ấy tưởng cô ấy leo núi lên đây, kiệt sức mới ngã ở nơi này. Nhưng nhìn cô gái chân yếu tay mềm không có vẻ gì là người leo núi, lại không trang bị đồ dùng dự phòng. Nhìn sang bên cạnh mới biết cô ta nhảy dù xuống. Trước có mấy anh bộ đội cũng nhảy dù kiểu này nên nhìn qua cụ đã hiểu. Cô ta rất can đảm. Chắc máy bay gặp sự cố nên mới dùng cách bất đắc dĩ này. Chân tay xước xát thế kia, chắc chắn nhảy từ độ cao khủng khiếp lắm. May có rừng cây làm lá chắn, nên mới không nguy hiểm tính mạng.
Cụ đưa cô ta về. Chăm sóc tử tế, một tháng sau dần dần bình phục, cô ta chỉ nói được chữ Dương, chắc tên cô ta là vậy. Sau rồi mọi người đặt cho cô ấy cái tên A San, nghe cũng từa tựa như tên cũ. Cô ấy có vẻ hài lòng.
A San không biết ngôn ngữ của bản, nhưng giao tiếp bằng tay rất tốt. Cô ấy nhanh nhẹn hoạt bát, khuôn mặt khả ái, dáng vẻ diễm lệ, nên biết bao trai bản ngẩn ngơ, trong đó có cụ anh. Mặc dù đã có vợ và con trai- là ông anh, nhưng cụ ấy vẫn âm thầm quan tâm A San. A San không thể ra nắng, nhất là nắng to, hàng ngày cô ấy chỉ ở loanh quanh lều, chăm lo cơm nước. May chúng ta sống giữa rừng, có cây lá chắn, nên việc này không ảnh hưởng. Nhưng từ khi cô ấy đến, bản ta bắt đầu có sự thay đổi. Rất nhiều chuyện kì dị diễn ra, những bóng đen quỷ quái từ đâu xuất hiện, tất cả đều liên quan đến một cái bình. Một buổi tối, khi A San ra ngoài, những bóng đen bỗng dưng tiến đến, chúng ép cô ấy giao chiếc bình đó ra…
Giọng Lão Gia gia run rẩy, dường như mất hết sức lực:
Đó là một cái bình nhỏ, cầm tay được. Hoa văn, họa tiết rất cầu kì. Bên trong đựng gì ta không rõ, nhưng chiếc bình vỡ này được tạc y nguyên bình nhỏ ấy, chỉ kích thước lớn hơn thôi. Nó chắc chắn đã rơi vào tay cụ nội anh. Để bảo vệ A San, ông đã giúp cô ấy giấu nó. Cô ấy ra đi, cụ ấy cũng đi theo, từ đó mất tích.
Cha ta và mọi người đã tốn rất nhiều công sức để tìm người bạn chí thân, kể cả xuống xuôi dò hỏi, nhưng vô ích. Rồi ông anh lớn lên, bản ta rơi vào bàn tay thần Lửa, cháy rụi. Cha ta, ông anh và một vài người chạy thoát xuống xuôi, đem theo cái bình này. Không hiểu sao, lúc ấy ta cứ cảm giác cái bình này chứa rất nhiều điều bí mật, nên sống chết mang đi. Rồi ta lớn lên, ông anh lấy vợ, sinh con, cuộc sống lại tiếp diễn. Cha anh vì không có tiền nuôi con nên đi làm thuê, bị đánh đập đến chết. Mẹ anh đau đớn, ít lâu sau cũng từ giã cõi đời. Ta cùng một vài người còn lại nuôi các anh lớn lên.
Tuy chuyện xảy ra đã lâu, nhưng những hình ảnh ấy, ta không sao quên được. Mọi thứ đều liên quan đến cái bình. Đó là cái bình nhỏ mà cụ ấy mang đi, rồi mất tích.
Giọng Lão Gia khản đặc, A Tung sững người, nhìn theo mảnh vỡ của chiếc bình đã được đem đi, lòng có những dự cảm không lành. Điện thoại lại rung lên tiếng tin nhắn: Bảy giờ tối mai ở chỗ cũ, nhớ mang theo dụng cụ.
- Anh cứ suy nghĩ cho kĩ. Việc lần này không thể làm bừa. Em gái anh đã vậy, anh là giọt máu duy nhất của bản Ktu, không thể gặp nguy hiểm.
Lão Gia nén xúc động hồi lâu rồi đi vào phòng, để mặc A Tung đứng nhìn điện thoại đang lóe sang, bần thần
Dù thế nào anh cũng phải đi. Đây là số mệnh, không được phép ngăn cản.
A Tung nhớ những ngày đầu đến Minh Nguyệt, anh chỉ là kẻ đi khuân vác thuê. Chính ông Khiên – chủ hội Minh Nguyệt là người đã thu nhận anh. Ông Khiên có một tiệm buôn đồ cổ. Ban đầu, nhiệm vụ của A Tung chỉ là tháo dỡ các đồ quý giá ông Khiên đem tới. Qua các lần nghe ông Khiên bàn bạc, anh mới biết đó là đồ trộm cắp và ông Khiên là tay trộm mộ lão luyện. Rồi dần dần, anh đi theo, trở thành một phần của Minh Nguyệt Hội. Công việc chính là đánh hơi, thám thính công an, chờ đồng bọn cạy mộ và mang vác cổ vật an toàn trở về.
Anh đã làm việc này tròn năm năm, đã vác trên vai vô số cổ vật, tiếp xúc với không ít máu và xác chết, nhưng chưa lần nào thấy sợ như lần này.
Có thể có điềm báo gì chăng? Lẽ nào chuyện Lão Gia kể là đúng. Nếu vậy thì, cụ nội đã đi đâu? Việc trộm mộ lần này liệu có liên quan đến chuyện một trăm năm trước? A San là ai?
Phía trong vẫn còn tiếng lầm rầm, mụ điên không la hét nữa mà cất tiếng khóc nỉ non: Trời sinh núi, người sinh tình. Qua sông qua núi, lịch sử mở ra, số mạng chấm dứt.
Oan nghiệt! Thật oan nghiệt!
A Tung lắc lắc đầu, đi vào bên trong chuẩn bị. Trong nhà kho nằm sâu dưới hầm ngầm, đồ đạc đào mộ và một vài cổ vật lấy từ những phi vụ trước theo bàn tay dần dần hiện ra. Trong đó có một chiếc gương. A Tung lựa đồ đạc cần thiết cho vào túi, còn chiếc gương, anh chỉ soi một chút rồi để lại như cũ. Chiếc gương này lấy từ mộ của một vị quan Thái Sư giàu có thời xưa, nghe đồn soi được cả ma quỷ. Anh đóng nắp rương đựng đồ, ra phía ngoài khóa cửa nhà kho, không để ý mặt gương từ từ rịn ra đầy máu.
...
- Tránh xa nơi đó! Tránh xa nơi đó!
- Ông nội – A Tung hốt hoảng kêu lên. Trong bóng tối mờ mờ, một người đàn ông đóng khố dân tộc Ktu, tay cầm cái bình nhỏ, mặt mũi trang nghiêm hệt cha anh xuất hiện. Thân thể người ấy đầy máu. Người đàn ông lầm bầm một câu rồi trút hơi thở cuối cùng. Chiếc bình trong tay được thả lỏng, rơi xuống sông. Dòng nước vừa trôi đi thì những bóng đen từ đâu xuất hiện. Chúng dùng cái móc sắt xiên qua xác, moi hết gan ruột, kiểm tra gì đó rồi đẩy xuống dòng thác lạnh.
- Mẹ kiếp! Không thấy thuốc giải.
Chúng chửi thề nhìn xác chìm dần, ánh trăng rọi xuống làn máu loang đỏ. Cái bình bị dòng nước cuốn đi, trong bóng tối mờ đục đã mất dạng, dẫu có soi đèn cũng tìm không thấy. Một lát, chúng bỏ lại hiện trường, kéo nhau đi.
Chiếc bình theo dòng nước chảy xiết, trôi ra khúc sông lớn, rồi lững lờ, lững lờ đi đến một vùng đất trống, ngoài đề biển: Nghĩa trang Nam Thi.
A Tung ngồi dậy thở hổn hển. Giấc mơ quái đản khiến đầu anh đau như búa bổ. Anh đang đọc báo, không hiểu sao lại ngủ luôn giữa chiều thế này. Mọi khi đây là giờ anh đi làm, hoặc không cũng ở nhà cùng A Bang chuẩn bị cơm nước. A Bang là một cậu bé đáng thương. Cha mẹ mất sớm, phải xin ăn qua ngày. A Tung cùng tộc trưởng giữ cậu bé lại trông coi việc nhà và chăm nom em gái.
Em gái sinh đôi của anh - Lam Lan - vốn là cô gái khỏe mạnh. Hồi nhỏ con bé rất ngoan, biết nấu cơm, chẻ củi, đun nước, quét nhà chờ anh A Tung về. Miệng nó líu lo khiến cả nhà vui lây. Từ khi anh đi trộm cổ vật, nói đúng hơn, là từ khi anh mang chiếc gương cùng một vài cổ vật từ mộ về. Lúc đầu Lam Lan thích lắm, nó lấy gương soi suốt ngày, để cả trên giường lúc ngủ. Nhưng một ngày, không hiểu do ma trêu quỷ ám gì, nó bỗng dưng bần thần, nói lảm nhảm như người điên. Bất cứ cổ vật nào đem về đều bị nó dùng dao chặt củi chém cho bằng hết, phải dồn lại giấu trong rương ở nhà kho dưới hầm ngầm. Rồi nó xé quần áo, để tóc tai rũ rượi, thỉnh thoảng lại đóng vai người xưa sống dậy. A Tung phải giấu hết dao cùng các đồ nhọn, không cho con bé động vào. Vậy mà không hiểu tại sao nó tìm được, chém vỡ bình sứ từ đời cụ nội.
Nhưng việc Lão Gia nói là thế nào? Chẳng lẽ việc chém vỡ bình sứ thật sự là điềm báo? Sự việc hôm nay sẽ mở ra những bí mật gì? Dương là ai?
A Tung nhìn đồng hồ. Sắp đến giờ! Anh với lấy cái túi chuẩn bị sẵn, mặc quần áo nghiêm chỉnh như người Kinh. Vào phòng trong thấy Lam Lan bị trói đứng trên cột, tóc tai xõa xuống, miệng không ngừng khóc than rên rỉ. Ngừng lại một lúc, anh trấn tĩnh tinh thần rồi đóng cửa ra ngoài.
Tiếng khóc vẫn nỉ non như oán như than: Trời sinh núi, người sinh tình. Qua sông qua núi, lịch sử mở ra, số mạng chấm dứt…
...
Mấy hôm nay thôn Uông có dấu hiệu lạ. Một đoàn khách thập phương đến thuê trọ bao hết lầu hai. Họ đi không đông, khoảng mươi người, trong số đó có cả người dân tộc, hành động mờ mờ ám ám. Người ta hỏi, họ bảo là dân khuân vác, thấy đồ ở đây rẻ nên mua về bán lại cho mấy người ở quê. Nhưng theo tin tức từ ông chủ nhà trọ, lúc mới đến, họ hỏi rất kỹ đường đến nghĩa trang Nam Thi. Lạ ở chỗ, nghĩa trang Nam Thi là địa bàn ma quỷ. Cả thôn này lẫn các thôn lân cận ai cũng biết, chui đầu vào đó là vào hiểm họa.
Lão chủ trọ đã trố mắt khi nghe thấy họ bàn tán đến nghĩa trang Nam Thi. Lão run rẩy nhớ lại một năm về trước, trong số người thuê trọ nhà này, có một người cả gan mò đường đến nghĩa trang Nam Thi tìm tư liệu. Đó là một nhà báo. Có lẽ hay tin nơi này có ma, vì nửa tin nửa ngờ, nên mới xông pha vào nguy hiểm, kết cục là khùng khùng điên điên, da dẻ lúc trở về tái xanh, mặt cắt không còn giọt máu, một thời gian sau thì chết. Ông lão định khuyên mấy người lầu trên, vì trong số họ, cũng thấy mấy người dáng vẻ hiền lành, ông không muốn họ chuốc họa vào thân, nhưng cứ đề cập đến là họ kiếm cớ lảng đi, hoặc người đứng đầu nhăn mặt không hài lòng. Ông hơi sợ. Nói là dân lao động, nhưng những người này phân theo thứ bậc. Người bậc cao ngồi trên, bậc thấp ngồi dưới; hoạt động, ăn nói rất có tôn ti, tổ chức. Ông không dám động vào. Hơn nữa, họ bao hết lầu hai, lên đó là chạm vào địa bàn của bọn họ. Mà thuê hai tuần. Giờ mới năm ngày, họ đã rục rịch đóng cửa, có lẽ sắp đi đến nơi ma trêu quỷ ám ấy.
Sang ngày thứ sáu, đúng sáu giờ chiều, họ họp nhau lại, mang hết xẻng cuốc, đi về hướng nghĩa trang Nam Thi. Sự “thấy” này là tình cờ, bởi chỉ mình ông lão bỏ công suy đoán mục đích của bọn họ, nên mới để ý đường đi nước bước. Lối sống, hành tung kì quái thế này, không buôn hàng cấm thì cũng trộm mộ. Nhưng trộm mộ đến nghĩa trang Nam Thi làm gì? Chỗ quỷ ám này có vật báu gì mà khiến bọn trộm để tâm? Hay bọn họ cũng chỉ như anh phóng viên kia, đến đó để tìm kiếm tin tức?
Ông nghĩ mãi không tìm được câu trả lời. Lúc định qua hỏi, thì họ đã đem hêt đồ đạc, cả mươi người dẫn nhau đi. Lúc đó là sáu giờ chiều, trong phòng trống trơn, không để lại người trông coi phòng. Đứng trên tầng cao ngó ra ngoài, họ đi con đường đến nghĩa trang Nam Thi. Nơi nguy hiểm thế mà họ coi như đi lao động, không biết lúc trở về có bị gì không? Ông lão thở dài: Họa may thì được một người lành lặn; tất cả những người đến đó, tuyệt hiếm người nào sống sót.
...
- Tránh xa nơi đó, tránh xa nơi đó.
- A Tung! Lão trưởng Khiên gọi. Trong ráng chiều mờ mờ, A Tung đi như người mất hồn, miệng lảm nhảm “không, không”. Lảo trưởng phải gọi mãi, rồi đập tay vào đầu mới tỉnh. Bị chạm vào đầu, A Tung giật mình: Lão trưởng đang nhìn chòng chọc. Anh lắc lắc đầu, tự véo tai để thôi nghe những lời trong mơ vọng tới, nhưng vẫn không sao dứt. Anh tự tát vào mặt, lại véo tai thật đau. Một lúc, tiếng nói mới nhỏ dần, lát sau im hẳn.
Anh cố chen lên hàng người đi đầu, đi giữa con đường đầy sỏi đá, hai bên là hàng cây xanh xanh. Đường đi uốn lượn, gấp khúc, ngày càng lùi sâu vào rừng. A Tung nhìn quanh quất: Không một tiếng chim kêu, cả lũ côn trùng rả rích thường thấy trong những cánh rừng vắng cũng câm bặt. Cảm thấy điều gì không ổn, anh quay ra bảo với lão trưởng. Ông Khiên cũng nhận thấy dấu hiệu lạ nhưng vẫn khoát tay, tỏ vẻ bình thường. Cả đoàn người lại dẫn nhau đi.
Đoàn đi chừng hai tiếng thì đến chân một ngọn đồi cao, địa thế hiểm trở. Nơi đây càng có vẻ hoang vu, vắng lặng. Nghĩa trang Nam Thi nằm cách mặt đất một trăm năm mươi mét. Đường đi gập ghềnh, khúc khuỷu và dốc, phải bám vào dây leo chằng chịt ven đường. Không biết ai đã xây nên nghĩa trang mà đặt nó ở nơi quỷ không hay, người không biết, và cũng không hiểu nghĩa trang này chôn những ai mà đặt ở vị trí vô cùng hoang sơ này. Đó là đỉnh một ngọn đồi, bên trên còn có một dãy núi, xen giữa là dòng thác nhỏ lượn từ đỉnh núi xuống chân đồi. Nghe người dân nói là núi Kmư Yang – ngọn núi huyền thoại. Nếu là người tốt sẽ được thần linh cứu giúp, người xấu sẽ bị quỷ bắt đi. Ngày thường không ai dám đi qua cánh rừng chứ đừng nói đến lên đỉnh đồi và leo lên núi. Số ít những người có gan đến đó, tất cả đều gặp tai họa.
A Tung nghe hết những điều này từ ông chủ quán trọ và cả người dân quanh làng. Anh dám chắc rằng lão trưởng Khiên và mọi người không thể không biết: Chuyến đi này nguy hiểm hơn họ tưởng. Không hiểu những thứ đồ quý giá kia có làm vơi đi nỗi đau mất sinh mạng của các anh em? Ông Khiên là người đào mộ giỏi. Nếu làm nhà khảo cổ học, ông có thể sẽ tìm thấy hàng ngàn báu vật cho quốc gia, tiếc là trở thành cầm đầu băng nhóm trộm mộ. Nhưng tài năng và thính nhạy như ông Khiên, dám bất chấp nguy hiểm để đi vào nơi khỉ ho cò gáy, mặc lời cảnh báo của mọi người, ắt hẳn ở đây phải có báu vật hay thứ gì ghê gớm lắm. Anh hơi tò mò, thứ đó là thứ gì? Liệu nó có liên quan đến câu chuyện từ trăm năm kia?
Càng nghĩ A Tung càng thấy khó thở. Linh cảm mảnh đất hoang vu kia sẽ lật tung một điều gì đó kinh khủng, anh hơi chân chừ nửa đi nửa muốn quay lại. Báu vật rất quý giá, nhưng những giấc mơ và lời cảnh báo của tộc trưởng cũng không thể xem thường. Có thể sẽ xới tung một quá khứ đã ngủ yên, động chạm đến những điều không nên thấy. Nhưng đã chót đến đây, dù cùng đường cũng không thể quay lại. Nơi đây cách làng quá xa, trời đã tối, ánh trăng rọi khắp đường đồi, một thân một mình đi lúc này còn nguy hiểm hơn. Họ có khoảng mươi người, dù gì vẫn có thể bảo vệ nhau. Ở đây còn có lão trưởng Khiên. Một người dày dạn như lão, việc xảy ra dù là gì, tất có đối sách. Vả lại, nếu có thể tìm ra tung tích của ông nội, dấn thân vào hiểm nguy cũng là điều nên làm. Đã rất nhiều năm trôi qua, dù ông nội còn sống hay đã mất, xương cốt của ông cũng nên về với dòng họ. Kia là ngọn núi Kmư Yang. Nếu đúng như tộc trưởng nói, A Tung sắp về với làng, về với nguồn cội.
Nghĩ đến đó, A Tung bắt đầu hít thật sâu để hơi lạnh tràn đầy lồng ngực. Anh quyết định tiến sâu, không chỉ lên đỉnh đồi mà còn lên cao nữa. Đây là quê hương anh, nơi đây có một thời kỉ niệm của tộc trưởng. Anh sẽ thu nhặt lại tàn tích của ngôi làng xưa cũ, sẽ tìm lại hài cốt người thân. Dù năm tháng qua đi, trong lòng tộc trưởng có lẽ vẫn đau đáu nhớ nhung những kỉ niệm. Anh biết điều đó không chỉ qua ánh mắt, giọng nói, mà còn từ cừ chỉ âu yếm thân thương của tộc trưởng mỗi khi mở lại kỉ vật, đôi lúc ngây lại khi thấy dáng dấp A Tung có nét giống hệt người bạn chí thân. Nếu mang được, dù chỉ một mảnh tàn tích trở về, tộc trưởng hẳn sẽ vui lắm.
Anh xăng xái đi cùng tốp dẫn đầu đoàn người. Được ánh trăng dẫn lối, họ đi rất nhanh, thoáng chốc đã ra khỏi đường không người. Lúc này, đường đi khúc khuỷu ngày càng mở ra, đưa tới con đường mòn thẳng tắp có dấu chân. Ánh sáng trên cao đưa lối khoảng mươi con người, ngày càng tiến sâu vào. Đá dưới chân lạo xạo. Chừng năm phút sau đi tới chân một con dốc. Con dốc không quá thẳng đứng, nhưng cao. Đất bên trên bao trọn. Có lẽ là con đê bao quanh khu mộ. Xem chừng lần này đã tới!
A Tung cùng mọi người bám vào nhau leo lên để không bị tuột. Khi lên phía trên, lần lượt phủi bụi áo quần, chiếm trọn tầm nhìn của họ là cảnh tượng trước mắt:
Ánh trăng rọi xuống làm nghĩa trang rộng thênh thang, và bừng lên vẻ kì ảo. Từng phần mộ nhô lên được ánh sáng bên trên phản chiếu trông như những cây thánh giá ngàn năm đang phát ra ánh hào quang rực rỡ, sáng lòa. Tất cả những thứ này được thu gọn trong một khu đất rộng cạnh sông, phía trên là dòng thác sừng sững đổ xuống, trên nữa là ngọn núi Kmư Yang oai hùng. Cả đoàn sững sờ. Lâu lắm rồi mới thấy một cảnh tượng đẹp hùng vĩ đến vậy. Lão trưởng Khiên cũng ngây người. Sau đó bọn họ đồng loạt dụi mắt, kéo nhau đi.
Cả đoàn bước xuống chân đê, đi vào con đường đất dẫn đến cánh cổng. Từ xa đã thấy cánh cửa ghỗ màu nâu ọp ẹp. Khi bọn họ nắm lấy cửa mở ra thì ánh hào quang vụt tắt.
Vầng trăng sáng lung linh thu mình trong đám mây đen kịt, chỉ thấy vài tia sáng hắt ra le lói. Xung quanh tối đen, lặng như tờ. Lũ dơi nãy giờ ẩn mình trong lùm cây được dịp bay loạn xạ, phát ra những âm thanh đinh tai nhức óc. Nhìn từ xa đầy ắp cảnh huy hoàng, nhưng càng tới gần càng thấy đầy tà khí. Có thể ngửi thấy mùi xác chết, mùi máu tanh nồng bốc lên từ đám đất. Phải kìm chế lắm mới không há miệng nôn ra. Đất bị xới tung, quả thật rất kì lạ. Nghĩa trang là nơi chứa xác người, xác người dù mới chết cũng phải được chôn cất cẩn thận, ở đây lại có mùi máu tươi. Hơn nữa nhìn sơ qua thì nơi này gần như không có người. Xác để lâu cũng thối rữa ra mới phải. Mà sao mùi trong đám đất vẫn tươi mới, hệt như vừa có bữa tiệc máu người giữa đêm vậy.
Mọi người vừa giữ chắc nút đèn pin, vừa chậm rãi đi vào. Đám dơi vây quanh bay toán loạn như chắn lối. Trời tối om không thấy rõ mặt người, nên cứ chầm chậm soi đèn bước đi. A Tung cũng không nhận ra được lão trưởng Khiên ở đâu trong đoàn người thậm thụt này. Anh cẩn thận nhắm hướng trước mặt mà tới. Nghĩa trang quá rộng, lại nhiều khu mộ, nhiều ngã rẽ, nên chẳng mấy chốc bọn họ dần bước xa nhau. Sương đêm bao phủ. Không khí lạnh bỗng chốc ùa về. A Tung chợt run lên.
Đột nhiên có tiếng nói lào xào, tiếng gào thét của ai đó bỗng xé lên, tiếng lão trưởng Khiên vang lớn:
- Mọi người cẩn thận, tập hợp lại.
A Tung vội vã đi ngược trở lại con đường cũ. Tiếng thở phì phò gấp gáp vang lên mỗi lúc một gần. Cho đến khi ba, bốn cái lưng đập vào nhau thì cảnh tượng kinh hãi hiện lên trước mắt.
Trong thứ ánh sáng mờ mờ, ba, bốn chục cái bóng thi nhau bay qua bay lại. Những cái bóng rách rưới lộ xương xẩu dài ngoằng, đen đúa. Tóc dài xõa xuống, tung bay. Đôi mắt trắng dã. Một vài giọt nước từ trên rơi xuống, trong làn ánh sáng mờ mờ thấy nhòe nhoẹt những máu.
Đoàn người túm lấy nhau, tay ai cũng toát mồ hôi hột, răng lập cập nói không ra tiếng. Trong lúc nguy cấp không thấy lão trưởng Khiên, còn những bóng ma kia sau khi bay ngang dọa nạt đã đồng loạt hạ xuống, giơ bàn tay đen đúa tiến gần, một số đứa thậm chí còn đưa tay quệt ngang miệng tỏ vẻ thèm muốn. Máu và nước dãi từ miệng chúng rỉ ra. Nhìn kĩ trong miệng và tay vẫn còn sót lại những mảnh hôi thối của tử thi. A Tung bỗng nhớ ra vài dấu chân người đáng ngờ trên con đường nọ. Chỉ có dấu chân, không có xác, là chết mất xác, là bị ăn thịt.
A Tung ôm đầu day dứt: Là mình không nhận ra sớm khi đến đây. Những dấu chân vào rất nhiều, nhưng không hề có dấu vết quay ra. Lại nữa, rõ ràng có đường vào, nhưng cả khu im phắc không một bóng người. Biết là đi tìm cổ vật, nhưng không cần phải liều lĩnh đến thế. Mình có thể không nhận biết được, nhưng lão trưởng Khiên… Lão trưởng! Anh gọi to. Nhưng ngoài những bóng ma, bóng dáng lão trưởng tuyệt nhiên không xuất hiện.
Lão trưởng! A Tung tiếp tục gọi, nhưng lần này muộn mất. Cái bóng trắng dã vươn ngón tay đen xì móc vào người anh em bên cạnh. Nó nâng cả cơ thể khỏe mạnh cường tráng dễ dàng như lấy một chiếc đũa, rồi cứ thế thọc miệng nhai từng bộ phận, ngon lành như ăn một bữa tươi. Xong xuôi, nó hướng đôi mắt đỏ ngầu tới A Tung, trong khi bọn ma bên cạnh tiếp tục xử lý những người còn lại. Từng khẩu xương xẩu dần tiến đến, nhưng khi A Tung nhắm mắt, chấp nhận một cái chết kinh hoàng thì ngón tay bỗng rụt lại. Con ma bỗng lóa mắt, mất đà, loạng choạng bay lên cao, rồi biến mất.
...
A Tung mở mắt, chưa kịp định thần thì nghe tiếng cười chói tai vọng lại: Ha ha ha
A Tung nổi da gà, quay đầu về hướng có âm thanh thì nhận thấy có những vệt trăng trắng từ đâu đột ngột phát ra. Vệt sáng chiếu đến đâu, lũ ma buông người ăn dở, loạng choạng chạy đi đến đấy. A Tung dụi mắt, chưa hết ngờ vực thì đằng xa, một cô gái váy trắng cùng mái tóc xõa tung đang cầm gương tiến lại. Cô gái vừa cười điên dại, vừa cầm gương hắt ánh sáng làm chói mắt lũ ma. Ánh sáng chói lòa chợt hắt lên mặt cô gái, hiện rõ đôi mắt trắng đờ đẫn và khuôn miệng dài dại. A Tung hốt hoảng nhận ra: Lam Lan. Nó mang chiếc gương cổ của vị quan Thái Sư giàu có, một mình đi vào rừng. Rõ ràng trước lúc đi, anh đã trói nó chắc chắn trên cột. Nhưng đôi mắt ấy, khuôn miệng ấy, có gì đó không bình thường, như bị quỷ ám. Chiếc gương đã dẫn con bé về đây? Lam Lan! A Tung luôn miệng gọi nhưng con bé dường như không nghe thấy. Nó bị một sức mạnh vô hình nào đó kéo đi, vừa bước qua các tử thi bị ăn dở, vừa cười như điên dại. A Tung vừa đuổi theo, vừa chú ý đến một loạt tiếng sột soạt. Theo dấu chân Lam Lan, bóng lão trưởng Khiên hiện dần từ xa, cạnh thác nước. Lão đang đào bới gì đó. Lam Lan bước đến, đẩy ngã lão trưởng Khiên, rồi dùng sức mạnh đang điều khiển mình vục tay xuống, đào bới từng nắm đất cát.
A Tung băn khoăn không hiểu hai người tìm gì, thì mắt Lam Lan chợt lóe lên. Chiếc gương cổ động đậy liên hồi. Nó hùng hục đào xới, trong khi chiếc gương càng ngày càng phát sáng dần. Đôi mắt A Tung mở to, bên kia lão trưởng Khiên vừa bị đẩy ngã cũng há hốc miệng đứng im như pho tượng. Đất bị xới lên thành một cái hố rộng, trong đống đất dần hiện ra từng đường nét hoa văn nhỏ. Đào bới nữa, thì ra rõ một cái bình, giống hệt như cái ở nhà anh đã bị vỡ. Lúc này chiếc gương xoay chuyển dữ dội. Cả làn ánh sáng của nó hắt lên thành bình tạo thành một vùng sáng ghê rợn. Lam Lan cười tươi trong ngây dại, cô đưa chiếc bình quý lên, khẽ hôn vào từng đường nét. Trong khi làn ánh sáng vẫn tiếp tục bao quanh như muốn nuốt chửng.
- Tránh xa chúng ra, Lam Lan!
Một tiếng gọi thảng thốt vang lên. Lam Lan giật mình, vứt cả bình cả gương ra bên cạnh. Nhưng muộn rồi, làn ánh sáng bao phủ chúng đã nuốt trọn thân thể Lam Lan, từ tóc, thân thể, đến tay chân. A Tung hốt hoảng từ chỗ nấp chạy lại kéo áo em nhưng không kịp nữa. Chiếc gương động đậy kịch liệt, chẳng mấy chốc đã hoàn thành sứ mệnh dẫn người đi tìm bình rồi nuốt lấy trong tiếng la thảng thốt của A Tung và sự sững sờ đến tột độ của lão trưởng.
Lão Gia sững người, vội vàng chạy nhanh đến nắm đất Lam Lan vừa đứng, hai tay bưng lấy mặt. Ông theo Lam Lan từ xa đến đây, không ngờ đã tới muộn. Chiếc gương rơi xuống lại trở thành một chiếc gương cổ, thoạt nhìn rất tầm thường nhưng vương lại một sợi tóc đen dài vấn vít. Lão Gia gia ôm mặt khóc. A Tung không tin nổi mắt mình. Lão trưởng Khiên sững sờ đến ngây dại. Ba người duy trì tư thế một lúc thì có tiếng sột soạt. Những bóng ma dường như ý thức được không còn ánh sáng, chúng rục rịch ra khỏi ổ. Từng tốp từng tốp tiến dần đến chỗ A Tung và lão trưởng Khiên.
Chạy đi! A Tung hét trong đau khổ. Lão Gia vẫn ôm mặt không nhúc nhích. Lão trưởng Khiên vội vàng cầm lấy chiếc bình, chạy bán sống bán chết ra khỏi khu mộ. A Tung kéo áo Lão Gia nhưng ông cụ đứng im, anh đành phải vác ông lên mà chạy. Ông cụ hơn trăm tuổi nằm ngây trên vai A Tung trong khi bước chạy của anh càng lúc càng yếu dần. Trong lúc nguy cấp, cảm xúc đau khổ chưa qua, cảm giác sợ hãi đã đến, thấy có điều gì không ổn, A Tung vội vã quay mặt lại, cơ thể Lão Gia lạnh ngắt, miệng há ra như muốn nói. A Tung buông Lão Gia xuống thì phát hiện ông rất yếu, như chuẩn bị buông lời cuối cùng. Lão Gia dùng sức yếu ớt còn lại cho tay vào túi áo, lần ra một bức ảnh, trong ảnh là một cô gái rất đẹp, miệng thều thào:
- Đi tìm.. Thùy Dương.
- Người nói gì, Lão Gia?
A Tung hốt hoảng, lo lắng tột độ. Bàn tay cầm tay Lão Gia, tim như có ai bóp nghẹt lại, thính giác căng lên theo tiếng gào rú ngày càng tiến gần. Mắt Lão Gia gần nhắm lại, cơ thể cạn kiệt sức lực, tiếng nói đứt quãng trong hơi thở cuối:
- Cái bình… Thùy Dương.
Lão Gia! A Tung gọi to, nước mắt chảy trong tim ướt đẫm. Lão Gia trao bức ảnh cho A Tung rồi trút hơi thở cuối cùng. Mắt A Tung mờ dần đi, từng giọt nước mắt không ngăn được mà rơi xuống. Anh cố kéo xác tộc trưởng lê đi nhưng không kịp nữa, những bóng ma đã nhảy xổ ra. A Tung khóc to, vừa cố lấy tay gạt nước mắt vừa ôm tim không đành lòng mà cố chạy. Đằng sau những bóng quỷ thấy xác con mồi, không đuổi theo mà túm tụm lại phanh thây cái xác…
A Tung chạy đến chân đồi, tay vẫn cầm chặt bức ảnh. Anh dừng lại - những giọt nước mắt đã bị gió lau khô, từ từ mở bức ảnh bị nắm đến mức nhàu nát. Trong ảnh là một cô gái đẹp tóc đen như thiên sứ đang cười thật tươi. Anh lại nắm lại: Cái chết của Lão Gia vẫn hiện rõ trong đầu. Cảm nhận rõ mối nguy hiểm đang diễn ra, anh mím chặt môi, cố gắng bước:
- Lão Gia, con sẽ đi tìm cô ấy. Thùy Dương, chỉ có cô mới chấm dứt được chuyện này.