Ánh nắng tại Đại lộ Gobelins - Cập nhật - Hà Miz

Hà Miz

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
7/12/13
Bài viết
16
Gạo
0,0
Tên truyện: Ánh nắng tại Đại lộ Gobelins

Tên tác giả: Hà Miz

Trình trạng truyện: Đang sáng tác

Giới hạn độ tuổi đọc: K+

Cảnh báo về nội dung: Đây là truyện kinh dị, phiêu lưu, nên sẽ có nhiều tình tiết rùng rợn.

Các chương trong bản gốc rất dài nên tớ cắt ra từng đoạn một, nếu xem thấy bị hụt cũng thông cảm cho tớ nhé.


Giới thiệu truyện:

Câu chuyện về Nguyễn Nhật Nguyệt Vi, thường được gọi bằng cái tên Sunny. Tình cờ tới Paris cùng cô bạn thân Nam – Angel, cô phát hiện ra nhiều điều kì lạ. Từ những phát hiện mới mẻ và rùng rợn, quá khứ của Sunny bắt đầu hiện ra. Mối tình kỳ lạ giữa cô và chàng trai có tên Ryan cũng dần dần được hé lộ.



- Anh đã nói rằng anh rất yêu em mà, phải không?


- Dù sau này em biến thành gì, dù sau này em không còn là em nữa, anh vẫn sẽ yêu em, yêu em mãi mãi.


- Làm gì có chuyện một người yêu một người cả thế kỉ, dù con người của thế kỷ sau hoàn toàn khác.


- Em có tin không? Anh sẽ làm vậy đấy, tin không?


- Anh nói thật?


- Đồ ngốc, anh yêu em mà!




- Chỉ là vài chuyện bà nội kể, không biết anh có dính dáng gì không. Anh không phải người bị mất tích trên ti vi sao, sao anh lại hỏi?

- Có người bảo tôi đi tìm cô, cô có liên quan đến một bí mật. Bí mật này đã hại chết cả làng tôi. Cô không thể không biết.



Mục lục

Chương 1-----Chương 2
Chương 3-----Chương 4
Chương 5-----Chương 6
Chương 7-----Chương 8
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Hà Miz

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
7/12/13
Bài viết
16
Gạo
0,0
PHẦN I: NẮNG

Em là nắng mùa đông đến bên anh, mang theo những cung nhạc dịu ngọt

∞ ∞


Câu chuyện được bà và mẹ kể khi tôi còn nhỏ. Tôi không biết tường thuật như thế nào, đành kể theo cách tự nhiên vậy

Câu chuyện bắt đầu bằng những tia nắng












Paris thập niên 90

Anh bước sang bên kia đường. Trời nắng, những ánh nắng xuyên qua cửa kính của các cửa hàng ở Galleries Lafayette, đập vào mắt. Anh đưa tay lên che. Anh thấy nhức đầu, một cảm giác thật lạ.

Anh cầm túi xách, nhẹ nhàng nới lỏng cổ áo lông, lắc lắc đầu. Anh vừa từ văn phòng xuống, thay vì ra ga tàu, hôm nay anh ngẫu hứng đi bộ. Gọi là ngẫu hứng vì anh vốn không quen với khói xám và bụi bặm, xe ngựa thì… anh không quen, vả lại anh vẫn thích đi tàu. Nhưng hôm nay tâm trạng anh bỗng diễn biến kỳ lạ, anh quyết định về sớm, mua một bó hoa, tặng bất kì người đi đường nào mà anh gặp. Hôm qua bác sĩ người Anh đã khuyên: “Anh trơ cảm xúc quá, thoải mái đi, nói lời yêu thương với bất kì ai cũng được, anh chỉ còn ít thời gian thôi. Hãy sống như những người hạnh phúc nhất”

Vậy là… hôm nay anh đến cửa hàng hoa, chọn một bó.

Anh định chọn hoa hồng đỏ nhưng chợt nhớ màu đỏ tượng trưng cho tình yêu, anh không thể tặng một người không quen bó hoa tình yêu. Anh xoay qua chọn hoa hồng trắng. Trong lúc anh yên lặng thì một bé trai bước vào hàng hoa, trông cậu bé khắc khổ nhưng khuôn mặt bừng sáng:

- Cho em một bó “màu của nắng”

Cô bán hàng cười tươi đưa cho bé một bó hoa bách hợp. Cậu bé mỉm cười, trả tiền rồi ôm hoa quay đi. Anh lạ lùng bước theo, hỏi

- Sao em gọi hoa bách hợp là “màu của nắng”

- Chị em có thể làm những thứ màu sáng thành rực nắng.

- Nhưng sao lại chọn hoa bách hợp?

- Đó là bí mật.

Cậu bé mỉm cười rồi quay đi, để mặc anh đứng chơ vơ.

Hình như trái tim anh cũng lóe lên tia nắng



Anh là Việt Kiều đến Paris, và đang mắc một chứng bệnh nghiêm trọng.

Anh gặp việc mua hàng lạ lùng ấy vào sáu tháng sau. Lúc ấy là mùa đông tháng mười hai, tuyết rơi đầy tạo thành những con đường trắng xóa. Một cô gái mặc áo dạ, xuýt xoa bước vào cửa hàng hoa trong khu Marche Des Puces:

- Cho em một bó “màu của nắng”

Cô bán hàng cười, lại đưa cho cô gái một bó hoa bách hợp, y như lần trước. Anh hơi bất ngờ, nhưng thay vì hỏi dò, anh cũng mua một bó, đi theo cô gái kia.

Cô gái đi lòng vòng qua những con đường lớn, đôi lúc xuýt xoa vì gió tuyết thổi mạnh, tới con đường dài và hẹp dẫn đến một ngôi nhà gỗ nhỏ dưới chân đồi. Từng khóm hoa mọc thành những búp nhỏ trên tuyết được trồng hai bên lối đi. Cổng vào màu trắng có dàn hoa ti gôn hồng nhạt leo quấn quít. Có điều gì đó quen thuộc le lói trong anh:

- Thật tuyệt.

Hôm sau, rồi nhiều hôm sau nữa anh lại đến căn nhà ấy. Anh rất hứng thú với ngôi nhà gỗ tinh tế nhỏ nhắn. Lần nào vẫy xe tới, anh cũng cầm một bó hoa đặt trước cửa. “Mình sẽ mua hoa tặng cô gái kia, dù sao cô ấy cũng cần bó “màu của nắng”- anh nghĩ.

Hôm nay cũng vậy, anh đặt bó hoa trước cổng rồi đi. Được vài bước, một cô gái bước ra, anh nhận ra cô gái mình gặp ở hàng hoa lần trước:

- Cảm ơn anh vì bó “màu của nắng”



Thùy Dương được thông báo ngày nào cũng có một người đàn ông đứng trước cửa, đặt dưới cửa nhà cô bó “màu của nắng”. Dương là cô gái Việt Nam đang sinh sống tại Pháp. Génie, bạn thân của cô đã kể lại:

- Anh ta rất đẹp trai, lại nam tính khỏe khoắn, tớ đã gặp anh ta trong cửa hàng hoa trong khu Marche Des Puces. Nhưng khi tiếp xúc thì trong đôi mắt anh ta có gì đó u buồn mà tớ không giải thích được.

Génie là nhà tâm lý học tốt nghiệp tại Lille 1 University – một trong những trường Đại học Khoa học tốt nhất ở Pháp. Dương bật cười:

- Cậu có chàng fan hâm mộ “hay ho” thật.

Génie lắc đầu:

- Người mà anh ấy muốn gửi gắm bó hoa chỉ có thể là cậu. Dương à, cậu gặp anh ta ở đâu chưa?

Dương nhớ là từ ngày mắc bệnh, cô chưa hề gặp ai ngoài Génie. Năm cuối đại học, Dương bị một chứng bệnh lạ, cứ ra nắng là ngất. Đây là căn bệnh cực kỳ hiếm gặp. Cũng may đã hoàn thành bài thi tốt nghiệp nên không quá ảnh hưởng đến việc học. Dương nhận may đo, thiết kế ở Paris. Nhớ ánh nắng, cô mua hoa bách hợp cho sáng sủa, Dương gọi đó là “màu của nắng”.

- Cậu biết đấy, tớ không gặp ai đã lâu lắm rồi. Thôi kệ đi, mấy bữa nữa chắc việc tặng hoa sẽ chấm dứt.

Buổi nói chuyện hôm ấy diễn ra như thế. Sau này, người nhận hoa là Génie. Bận bịu với đống vải vóc thiết kế, Dương mau chóng cho câu chuyện vào quên lãng.



Dương sang Pháp từ năm 12 tuổi. Việt Nam ngày đó rất nghèo, nhưng cô vẫn đau đáu nhớ về cánh đồng xanh, những cô hàng xén nhuộm răng đen, về Hà Nội thơ mộng. Vì ở nhà buồn, cô hay mở đài nghe tin tức. Một ngày, đài radio mở chuyên mục làm quen. Cô nghe thấy một giọng nói đàn ông đậm chất Việt.

- Chào các bạn, tôi là Đông, người Việt Nam. Tôi muốn làm quen với những người nước ngoài đang sinh sống tại Pháp.

Người Việt Nam! Dương thốt lên, nỗi nhớ quê hương trào dâng trong cô. Ngập ngừng một lúc, Dương cũng nhấc máy kết nói với radio

- Tôi là Dương, đồng hương của anh hiện đang sống ở Paris. Cùng làm quen nhé!

- Chào Dương, tôi cũng ở Paris, rất hân hạnh được quen biết cô.

- Tôi rất nhớ tiếng Việt. Đây là số điện thoại của tôi.

Họ liên lạc và trao đổi thông tin cho nhau. Một ngày Dương gửi ảnh cho Đông, đó là bức ảnh khi Dương đang học trong trường Nghệ thuật, cô đang múa một điệu múa truyền thống, những ngón tay khum khum tạo hình thiên nga.

Nhận được bức ảnh, Đông hơi ngỡ ngàng. Hình bóng của người phụ nữ Việt với mái tóc đen dài vô cùng thanh thuần và thu hút. Mái tóc ấy hòa cùng với thân thể mảnh mai như thiên nga, nụ cười như ánh mặt trời. Anh gọi điện cho Dương, thành thật:

- Cám ơn Dương, cô thực là tác phẩm đẹp của tạo hóa.

...

Paris – 3 tháng sau đó

- Chà, có vẻ anh đã biết mở lòng vì tôi trông thần sắc anh không tệ - Ông bác sĩ ở ngoại ô Paris niềm nở.

Đông gượng cười:

- Tôi muốn hỏi, tôi còn sống được bao lâu?

Bác sĩ lấy dụng cụ soi cho anh, một lúc ông nói:

- Bệnh đã bước đầu ăn vào nội tạng rồi. Anh chỉ còn một năm nữa thôi.

- Bác sĩ yên tâm, tôi sẽ sống trọn vẹn những năm tháng cuối cùng này.

Bác sĩ chỉ thở dài.



Đông và Dương ngày ngày trò chuyện với nhau, một ngày họ quyết định gặp mặt:

- Anh có thể gặp em không?

Dương hơi bất ngờ:

- Anh có chuyện gì sao?

- Anh muốn chúng ta tạo nên những ngày tháng ý nghĩa. Anh muốn gặp em.

- Có điều này em chưa nói với anh- Dương cắn môi – Em… không thể ra nắng. Bác sĩ nói đây là bệnh hiếm.

- Anh hiểu rồi. Vậy anh và em đi xem phim tối nay được không?

Dương cắn môi một lúc, cô nhận lời.

- Vậy 8h30 gặp em trước cửa rạp Gaumont Gobelins

Đúng 8h30 hôm đó, Đông gặp Dương tại Đại lộ Gobelins. Dù đã chuẩn bị tinh thần từ trước, anh mau chóng bị thu hút bởi vẻ đẹp đậm chất Việt của cô gái bên cạnh. Còn Dương, cô cũng yêu anh từ cái nhìn đầu tiên.

Tình cảm giữa họ nảy nở mạnh mẽ. Dẫu mỗi người biết rằng những năm tháng này không được lâu dài, trong lòng đôi bên đều có những cảm xúc phức tạp, nhưng họ không thể kiểm soát được trái tim đang bùng cháy của mình. Thấm thoắt đã hết một năm.

...

Bệnh tình của Đông ngày càng trầm trọng, anh gặp bác sĩ thường xuyên hơn, thậm chí chuyển hẳn vào bệnh viện. Họ ít gặp nhau nhưng trong tim Đông vẫn có Dương, và họ vẫn trò chuyện qua điện thoại. Một ngày, Đông chuyển một bức thư cho Dương. Bức thư được đánh máy trước khi Đông hấp hối:

Gửi Dương

Cám ơn em đã cho anh những phút giây tuyệt vời. Không có em, anh không hiểu thế nào là tình yêu, cuộc sống. Cám ơn em đã cho anh biết yêu, biết mở lòng mình. Dương, anh rất muốn bên cạnh em nhưng không thể được nữa. Ngay lúc này đây khi em đang đọc những dòng này, anh sắp ra đi, và đây là những cố gắng cuối cùng của anh

Dương à,

Gia đình anh đã mất, cuộc sống lang bạt ở Pháp khiến anh không thể mở lòng mình. Khi biết tin mình bệnh, anh đã đặt trước cửa nhà một cô gái lạ những bó hoa bách hợp, mỗi ngày một bó, và…tập mở lòng với em. Gặp và yêu em là quyết định đúng đắn nhất đời anh. Ngàn lần yêu thương em.

Anh muốn chuyển cho em chiếc nhẫn của anh như một lời cầu hôn chân thành. Em hãy sống thật tốt. Cám ơn em, yêu em.

Đông của em

Dương nghẹn ngào. Cô nhận ra đây chính là người đàn ông kì lạ. Nỗi nhớ thương giày vò khiến cô đổ bệnh.

Một tuần sau, chiếc nhẫn và một bó hoa bách hợp được gửi tới địa chỉ nhà Dương. Một bức thư rơi ra, trong thư có dòng chữ:

Dương à, trong những phút giây cuối cùng, anh ấy đã nhận ra cô chính là chủ nhân của những bó hoa “màu của nắng” mà anh ấy tặng. Đông rất vui vì mang niềm vui đến cho người anh yêu. Đông ra đi nhẹ nhàng, trên môi nở nụ cười. Cám ơn cô vì đã mang ánh nắng đến với tâm hồn anh ấy.

Kí tên

Bác sĩ của Đông.



Câu chuyện này được ghi trong cuốn nhật kí mà bà và mẹ tôi giữ. Hồi bé, tôi thường thắc mắc: Câu chuyện tình yêu này có gì mà bà và mẹ rất trân trọng. Lớn lên tôi chỉ ngầm đoán: Chắc câu chuyện có liên quan gì đó đến gia đình mình nên hai người ấy mới nâng niu như vậy.

Tôi nghĩ đó là lí do mẹ đặt tên tôi là Nắng.

Thật ra không phải tên tôi là Nắng. Tôi là Nguyễn Nhật Nguyệt Vi, Nắng là tên ở nhà. Tôi sống ở Hà Nội, đang học Đại học. Và đây là thứ được ghi trong profile của tôi:

Nguyễn Nhật Nguyệt Vi- 18 tuổi, sinh ngày 18/12/1999, hiện đang học năm nhất Đại học Ngoại Ngữ.

Thích đi dạo, ăn khoai tây chiên và đọc truyện của Mac Levy. Muốn có một tình yêu đẹp, trải qua bao sóng gió rồi kết thúc có hậu. Tin vào định mệnh…

Tôi có một con bạn thân, tên là Nam. Tên nước ngoài của nó là Angel nên tôi phiên âm luôn thành …En giồ khiến con bé tủi thân, quyết tâm lấy tên tiếng Việt, chọn đi chọn lại ra tên Nam. Tôi vẫn thường nói: Thoát khỏi kiếp hâm dở, mày lại thành đàn ông, thiên thần nào xuống đất cũng hóa phái mạnh như vậy thì phí lắm. Nó đáp: Tao thích tên này, Nam nghe rất men, tao muốn là soái ca nam thần. Tôi chọc nó: Từ thiên đường xuống mặt đất đã như vậy, nếu xuống địa ngục, không biết sẽ thành giới tính nào nữa.

Tôi không muốn kể dài dòng về Nam nhưng nó là một con bạn rất được. Khuôn mặt nó sẽ xinh xắn nếu không có mái tóc cắt ngắn đầu đinh và kiểu ăn mặc ngang tàng bụi bặm. Cá tính mạnh mẽ, nó thường xuyên bảo vệ tôi những khi người khác chòng ghẹo. Chỉ cần ai đó động tay chân, nó sẽ dùng võ công đè đầu người ta ra dọa: Từ sau cấm bắt nạt con gái, hiểu chưa?

Nhà Nam rất giàu, nên nó hay rủ tôi đi ăn hay chơi ké. Tiêu biểu như lần này:

- Tao có hai vé đi Disneyland Paris, muốn đi cùng không?

Tôi ngáp một cái rồi xoay ra chỗ nó:

- Nghe hấp dẫn đấy, nhưng chi phí ở đấy đắt đỏ lắm.

Nó cười ré lên:

- Tao bao tất. Mày về xin phụ mẫu đi. Cuối tuần thông báo nhé.

Tối đó, tôi lò dò xuống phòng khách. Phòng khách nhà tôi rộng. Khoảng 8, 9h, cả nhà hay kéo nhau ra đó xem phim. Nhìn thấy tôi, mẹ hèm hèm:

- Hôm nay mặt trời lặn đằng đông hả con, sao hôm nay có hứng xuống đây vậy?

Tôi nói:

- Cái Nam bạn con có hai vé đi Pháp vào cuối tuần. Mẹ cho con đi nhé.

Mẹ lắc đầu: Không! Hai đứa con gái đi du lịch nguy hiểm lắm.

Tôi lý sự:

- Con lớn rồi, mẹ yên tâm đi. Con là dân Ngoại Ngữ, ra nước ngoài để tập giao tiếp và rèn giũa khả năng thích nghi sẽ rất tốt.

Mẹ suy nghĩ một lát rồi hỏi:

- Con lên nhà đi. Mẹ và bà xem xét đã.

Tôi ôm con gấu bông ở phòng khách lên. Mẹ và bà luôn thế, động đến đi chơi là suy nghĩ.Việc đi du lịch với bạn thân với lứa tuổi tôi là hấp dẫn, nên dù phụ huynh không cho tôi cũng cứ sắp xếp hành lý. Nam là đứa tử tế, tôi đi phượt với nó được 1/4 mảnh đất của Tổ Quốc rồi. Vé máy bay sẵn có, không đi thì quá phí.

Giờ là 9h, loa máy tính phát Festival Kpop. Các nhóm nhạc SNSD, T-ara, 4 minutes… hội ngộ. Ngồi lắc lư theo điệu nhạc, tôi chợt nhớ ra một thứ liên quan đến việc đi Pháp, bèn lấy điện thoại nhắn tin cho Nam

- Mày đã book vé máy bay chưa?

- Không phải lo. Đã bảo tao bao tất. Hẹn gặp lại vào cuối tuần.

Thế à? Tôi gửi cho nó hình mặt cười toe rồi bỏ điện thoại ngồi cười ở góc giường. Đi xa hơi mạo hiểm, nhưng tuổi trẻ nên nắm bắt cơ hội để khám phá bản thân. Tôi có ít tiền tiết kiệm, rút ra đủ để tiêu pha. Vụ khác có thể bỏ chứ lần này tôi quyết định đi thật sự.

Tôi nhớ đến cảnh gặp Nam hồi vào trường làm hồ sơ nhập học. Con bé tóc vàng, mắt nâu đứng im không nhúc nhích ngoài cửa. Tôi chạy đến làm quen, nó gãi đầu gãi tai, mãi mới nặn ra một câu nghe được.

- Đây… là… phòng Đào tạo… Đại học Quốc Gia… phải không?

- Đúng rồi. Đến nộp hồ sơ à? Đi bên này nè.

Nó gãi đầu gãi tai: Việt Nam… Lạ!

Tôi dẫn con bé ra nộp rồi nói mấy câu gợi chuyện, nhưng hỏi từ đâu đến thì nó nhất quyết không nói. Kiểu phát âm giống Châu Âu, chắc là người Ý, Pháp Đức hay mấy nước gần đó. Chơi lâu thấy nó khá tình nghĩa, hay giúp đỡ bạn bè, thỉnh thoảng tổ chức party theo kiểu phương tây lạ lẫm, nên tôi thấy quý mến rồi dần chơi thân lúc nào không hay.

Mấy ngày rồi không thấy cả nhà đả động gì, tôi sợ không được nên tự động lấy hộ chiếu và vali rồi gọi taxi. Nam nhắn tin đã đến cửa sân bay. Tôi kéo vali ra khỏi phòng thì gặp mẹ nên nhanh tay giấu vào trong góc. Mẹ nhìn tôi hỏi:

- Nắng, con thật sự muốn đi à?

Tôi đáp:

- Vâng

Tiếng bà ở tầng dưới nói to:

- Con không cản được nó đâu. Là số mệnh, muốn cản cũng không được.

Mẹ không đồng tình nhưng đành gật đầu:

- Thôi được, mẹ đồng ý. Đi ra ngoài đắt đỏ, mẹ đưa con ít tiền ăn tiêu vặt. Có gì phải báo với mẹ ngay, biết chưa?

- Dạ. Tôi thở phào cầm tiền bỏ vào túi. Điện thoại báo taxi đã đến. Tôi vác vali xuống tầng một rồi nhanh chóng ra cửa leo lên xe. Mẹ và bà đứng nhìn theo, hai người đều thở dài.

Từ nhà tôi đến sân bay mất 20 phút. Đến cửa sân bay, tôi vác đồ ra rồi gọi cho Nam. Nó chạy ra xách phụ, nhân tiện trách móc:

- Để người ta chờ hơi lâu đấy nhé.

- Mày đến sớm ý. Một tiếng nữa mới tới giờ bay cơ mà.

- Đợi để đi ăn ơ kìa. Vé đây nhé, giữ kỹ tí nữa check in.

...

Chuyến bay từ Hà Nội sang Paris bắt đầu lúc 23h30. Sân bay đầy người. Đèn sáng choang. Kéo hành lý lên máy bay đặt lên trên rồi ngồi xong, tôi ngó ra ngoài. Đêm khuya khoắt, đèn đường chiếu lên đồng cỏ thành chỗ sáng chỗ tối mờ mờ. Nhìn chán, tôi giở mấy cuốn tạp chí ra đọc, vẻ hứng thú không giấu được.Nam cầm lon nước ngọt mới mua ngồi xuống cạnh tôi.

- Lần đầu mày đi máy bay à? Ngắm nghía gì nhiều thế.

- Tao thích thì ngắm thôi.

- Mày chưa đặt vé máy bay đi nước ngoài hay đi nội địa bao giờ à?

- Tao chỉ đi bằng ô tô tàu hỏa thôi, mà lần này được đi là nhờ công của Nam công tử. Cảm ơn nhé, hihi.

Máy bay cất cánh, chỗ ngồi long xòng xọc, nhưng cảm giác bay lên không trung thật sự phấn khích. Nam ngồi một lúc đã ngáp ngáp rồi gục đầu ngủ, còn tôi lấy máy ra selfie liên tục. Tôi còn ghi âm cả tiếng ngáy của nó.

Nam cựa quậy, nói bằng giọng nửa mê nửa tỉnh:

- Mày mà dìm hàng là tao cho… nhừ đòn.

- Tao chỉ post lên youtube thôi, há há.



Đặt chân xuống sân bay Paris đã quá trưa. Tôi ngồi nghịch mười mấy tiếng đồng hồ nên giờ mệt lử. Nam thì ngược lại, vươn vai liên tục:

- Ngủ sảng khoái quá.

Tôi uể oải

- Mày sảng khoái, còn tao nhừ cả người. Hình như tao say máy bay rồi.

Nam sờ lên trán tôi, thấy trán hâm hấp sốt. Mặt mũi nó nghiêm lại:

- Ai bảo nghịch khỏe. Thôi mình lên taxi về khách sạn.

Nó đưa tôi ra điểm đỗ taxi, một lát đã có xe đến, chúng tôi lục đục đặt vali ra sau xe rồi mở cửa ngồi lên. Taxi dừng lại một khách sạn khá sang, chúng tôi lấy đồ rồi vào trong làm thủ tục check in. Đi bộ quanh các hành lang mỏi chết, đến lúc mở được cửa phòng, tôi lao vào giường ngủ lăn lóc, quên cả tháo dỡ hành lý.



Tỉnh dậy thấy trời tối om, đồng hồ đeo tay chỉ 4h30 sáng Chủ Nhật. Nhìn quanh không thấy Nam đâu, tôi ra phòng tắm rửa mặt đánh răng rồi thay đồ ra ngoài. Đèn mờ hiu hắt ở hành lang khiến cho không gian tràn ngập nét âm u vắng lặng. Tôi ngó xuống tầng dưới tìm lễ tân.

- Có ai ở đây không?

Không ai trả lời, mọi người đều chìm trong giấc ngủ.

Khách sạn không có nhân viên ca đêm à? Tôi đi qua mấy căn phòng đều không có người. Tiếng chuông đồng hồ từ đâu réo rắt. Tôi theo tiếng chuông đến phòng 130 gần cuối, mở cửa ra, phòng trống, chỉ vọng ra tiếng kêu ting ting từ chiếc đồng hồ kiểu cũ. Kim đồng hồ làm tôi hơi hoang mang:

- Mười hai giờ đêm rồi à?

Tiếng người thì thào, tiếng xả nước ở bồn cầu ngay cạnh. Tôi nhìn vào phòng vệ sinh không thấy ai. Tôi la lên:

-Ai đó, đừng làm tôi sợ.

Tôi không thấy trả lời bèn đóng cửa ra ngoài. Cửa tự động mở nhanh chóng, một tiếng nói đuổi theo đằng sau, tôi nghe rõ từ “ensoleillement”. Tôi xanh mặt chạy, miệng kêu rầm rĩ.

Tiếng nói bỗng im bặt, có tiếng chân chạy tới, rồi tiếng Nam bừng lên:

- Nắng ơi, ở đâu thế?

- Cứu cứu.

Nam chạy ra chỗ tôi:

- Ai bắt nạt mà cứu? Người ốm ra đây làm gì?

Tôi túm tay áo nó, nói:

- Ma.

Trán nó nhíu lại:

- Ma?

Tôi dẫn nó tới phòng 130. Nam đẩy cửa, một căn phòng bình thường. Tôi chỉ tay vào đồng hồ, đồng hồ chỉ 11h30.

- Nãy giờ đồng hồ 12h. Có tiếng xả nước ở bồn cầu, tiếng người nói chuyện lầm rầm. Cửa tự mở. Tiếng nói đi theo làm tao run lẩy bẩy.

- Tao nghi mày ốm nên hoa mắt lắm. Thời đại nào rồi, làm gì có ma.

- Tao cam đoan là không nhìn nhầm.

- Mày không biết tiếng Pháp, đi một mình không tốt. Lần sau không thấy tao thì gọi điện nhé, tao đến dẫn mày đi.

Nam đưa tôi đi quanh mấy hành lang để về phòng. Nhớ lại tiếng nói vừa nãy, tôi kể:

- Vừa nãy tao nghe thấy mấy câu tiếng Pháp, không hiểu lắm, nhưng tiếng cuối cùng nghe như “ensoleillement”, mày có dịch được không?

Nam nói:

- Ensoleillement trong tiếng Pháp nghĩa là ánh nắng. Hay ai đó biết tên mày là Nắng nhỉ?

...

Tôi nhìn đồng hồ, giờ là 1h30 sáng, mắt tôi vẫn mở thao láo. Nhìn sang Nam, nó đang hí hoáy nghịch điện thoại. Tôi bèn gọi Nam dậy. Chúng tôi dắt nhau đi tham quan Paris vào đêm.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà Paris được gọi là “Kinh đô ánh sáng”. Khi ánh mặt trời tắt hẳn, thành phố khoác một tấm áo sáng lòa, đẹp kiêu kỳ, sang trọng.

Đèn đường phủ lên những con đường đi qua màu ánh bạc rực rỡ. Đường phố vẫn nhộn nhịp, ô tô đi theo những tuyến đường thẳng được quy hoạch đẹp mắt, hai bên là các khối nhà cao tầng với lối kiến trúc Pháp tiện nghi và lãng mạn. Cầm cuốn cẩm nang du lịch, tôi đọc to những kinh nghiệm khi tham quan Paris:

Thứ nhất: nên đi xe bus

Thứ hai: Nếu quyết định trèo lên cả tháp Eiffel và Khải Hoàn Môn thì nên chọn một cái lên buổi đêm, một cái lên ban ngày

Thứ ba: Đi thăm Louvre thì nên xem trước là những khu nào mình thích vì bảo tàng Louvre quá rộng.

Thứ tư: Nếu định thuê vẽ chân dung hay biếm họa ở trên đồi Montmart thì phải nhìn ông họa sĩ nào đang vẽ, thấy đẹp thì chọn và đứng chờ, nếu đông người cùng vẽ thì cũng giảm giá được đến …10EUR.

Thứ năm….EEy, mày ơi….

Nam đã tót lên xe bus từ lúc nào. Tôi luống cuống chạy theo rồi háo hức nhìn quang cảnh hai bên đường. Xe dừng, Nam kéo tôi xuống, mắt hấp háy:

- Giới thiệu với mày, đây là Đại lộ Gobelins.

Trước mắt tôi là một khu phố nhỏ, không khác mấy so với những khu phố trước. Tôi ngắm nghía một lúc rồi keó Nam vào một quán cafe gọi đồ ăn. Xì xồ một lúc, phục vụ bàn mang ra cho chúng tôi một bánh mì nướng và một Steak Tartare.

Tôi nhìn món thịt bò đỏ au cùng với hành, hạt tiêu, và một quả trứng sống, nhăn mặt. Nam cầm dĩa, ăn từ tốn trong khi tôi lấy thìa gẩy gẩy mấy cọng hành. Nó nhìn tôi, phán:

- Mày cứ như nhà quê.

- Món này sống này mày.

Nó giới thiệu một tràng về Steak Tartare. Sau một hồi tôi cũng chấp nhận lấy dĩa chọc một cái rồi cho vào miệng. Thực ra ăn thịt bò sống cũng không đến nỗi tệ.

Nó kêu tính tiền rồi kéo tôi ra ngoài.



Gaumont Les Gobelins là rạp chiếu phim lâu đời tại Pháp. Có khá nhiều rạp xây lên rồi hạ xuống nhưng rạp chiếu phim nổi tiếng này vẫn tồn tại đến ngày nay.

Trước mắt tôi là những tấm poster film tiếng Pháp treo lơ lửng. Nam kéo tôi vào khu đồ ăn, kiếm cho tôi một chỗ ngồi rồi chạy đi mua vé xem film Titanic. Ngồi chưa ấm chỗ, bụng tôi bắt đầu dở chứng, nó nhức nhối âm ỉ rồi chuyển sang đau tợn. Chắc tại ăn đồ Pháp không quen. Nó mang cho tôi một cốc ca cao nóng rồi nói:

- Mày yếu thế, biết thế bảo ở nhà cho khỏe.

- Do sáng ăn đồ sống nên lạnh bụng đấy, uống đồ ấm chắc đỡ.

Tôi cầm cốc ca cao uống. Lúc vào phòng chiếu, cái bụng vẫn không để tôi yên. Đến khi chỉ còn 5 phút rạp chiếu tắt đèn, tôi không chịu nổi nữa, quay qua Nam.

- Mày ngồi đây tao đi WC tí nhé.

- Ờ, thế nhớ đi cẩn thận.

Tôi đi ngang qua các hàng ghế, tìm đường ra ngoài. Ra cửa đi ngang dọc không thấy quầy lễ tân đâu, tôi đành đi lòng vòng hỏi đường. Gặp một người đàn ông cao to, có vẻ là khách du lịch nước ngoài, tôi giơ tay ra hiệu rồi duyên dáng hết sức có thể:

- Could you tell me where toilet is?

- No english. Ông ta lắc đầu. I’m Rusian. But…toilet…maybe…there.

Ông ta nhìn quanh rồi chỉ vào môt con đường vắng đi ra sau rạp. Tôi nghi hoặc nhìn ông ta rồi lại nhìn vào con đường nọ, nói “thank you”. Đường này hơi vắng vẻ. Tôi định không đi, nhưng cái bụng đau rền rĩ, không kịp suy nghĩ đành chạy vội vào.

Con đường dẫn tới một căn phòng tối, treo biển xộc xệch. Hình như cái WC này lâu lắm không có người dùng. Bồn cầu kiểu cũ vàng khè, bên trên có cả mạng nhện. Tôi nhắm mắt nhắm mũi đi bừa: “May mà mình mang giấy, hic”. Tôi bỗng thấy nhức đầu, cái gì đó u u chạy trong óc.

Có tiếng động nhẹ, tôi mau chóng chỉnh áo quần rồi lấm lét đi ra. Tiếng động nhẹ kéo dài rồi biến mất .“Chắc là gió”- tôi nhủ thầm. Nhìn xung quanh thấy phòng khá kín, không có ai. Vậy tiếng động đến từ đâu? Xem xét các ngóc ngách nơi có tiếng động vẫn chưa tìm thấy nguồn gốc.

Gió bất chợt ùa vào khiến tôi thấm lạnh, lặng lẽ lấy tay so vai. Tôi ra vòi nước rửa tay và mặt, mắt đỏ hoe vì gió mang theo bụi. Trên vòi có gương, tôi vừa mở van cho nước chảy, một giọng nói nhẹ như gió khiến tôi giật mình:

- Thùy Dương

Theo phản xạ, tôi nhìn lên gương. Một khuôn mặt biến dạng chập chờn sau gáy. Tóc tôi dựng lên.

- Thùy Dương, đừng sợ.

Cái bóng biến dạng chập chờn trước mặt. Bàn tay đưa lên người tôi, tôi hét lên, cái bóng rụt tay lại.

- Ma.

- Anh chỉ muốn lau nước mắt cho em. Mắt em đỏ hoe rồi.

Cái bóng ngượng ngùng. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ma thật nên cả người lẫn miệng cứng ngắc không kịp động đậy. Cái bóng ngập ngừng:

- Anh là Đông đây! Em thật sự không nhớ Đông của em sao?

Cái bóng áp sát. Tôi nhắm mắt chờ đón cái chết. Nhưng không, có cái gì đó ấm áp trước mặt. Một nụ hôn trên môi. Sau cùng, cái bóng rút ra sợi dây vẫn đeo trước ngực tôi, mỉm cười.

- Em vẫn giữ nó.

Tôi mở mắt nhìn chiếc nhẫn mẹ đeo cho tôi từ hồi tôi còn nhỏ bị lấy đi. Ê, không được! Tôi níu chặt. Cái đó là của gia truyền nhà tôi. Tôi giơ tay đấm loạn xạ vào cái bóng. Xung quanh bỗng dưng tối sầm…

...

- Nắng ơi!

Tiếng ai như Nam phảng phất xung quanh. Làn da ấm áp. Tôi từ từ mở mắt.

Tôi đang nằm trên giường, xung quanh là những người Pháp. Họ đổ xô đến thăm, thấy tôi đã tỉnh thì líu lo. Nam ở ngay trước mặt, nó đỡ tôi dậy rồi hỏi:

- Mày thấy sao rồi?

- Tao không sao. Tôi gượng dậy. Đám đông Pháp thấy tôi ổn nên ra ngoài. Nam đỡ tôi nằm lên thành giường.

- Mày làm tao lo quá, đến giờ chiếu phim rồi vẫn chưa thấy mày đâu. Tao bỏ phim chạy ra ngoài tìm. Đi mãi không thấy, rồi gặp một ông người Nga bảo có một cô gái Châu Á đi về phía sau rạp. Đến nơi thấy mày đã xỉu, tao phải nhờ ông ấy khiêng mày ra ngoài.

Nam đưa cho tôi cốc ca cao nóng rồi tự trách:

- Mày uống đi cho lại sức. Tao đi cùng mày thì đâu đến nỗi.

Mặt tôi ngẩn ngơ. Nó thắc mắc:

- Mày làm sao thế?

- Tao lại vừa gặp ma ở phòng vệ sinh mày ạ. Con ma màu trắng. Nó vừa lấy chiếc vòng cổ gia truyền nhà tao. Cả nhà tao mà biết sẽ thịt sống.

Giọng tôi thều thào. Nam bối rối, nhìn cái cổ trống không rồi nói:

- Mày có vòng cổ gia truyền mà tao không biết.

- Đó là vòng cổ từ thời cụ cố, mẹ đeo cho tao từ hồi mới sinh. Vòng chỉ có một sợi dây xuyên qua một chiếc nhẫn có khắc chữ “sunbrilo”

Mặt Nam hiện lên chữ ‘thắc mắc” Nó bật Google translate tra rồi nói:

- Nhà mày lạ nhỉ, không viết tiếng Việt Nam lên vòng mà lại ghi chữ ở nước Esperanto xa lắc xa lơ. “Sunbrilo” trong tiếng Esperanto có nghĩa là “ánh nắng”.



Nam đỡ tôi ra ngoài rồi vẫy một chiếc taxi.Nửa tiếng sau, chúng tôi có mặt ở khách sạn, check in và đi lên phòng. Nam đỡ tôi lên giường, chừng như chưa yên tâm, nó đắp cả đống chăn cho tôi, sao cho thật ấm rồi mới đứng dậy. Tôi níu tay, nó thở dài:

- Tao đi lấy cho mày cốc trà gừng và khăn nóng lau mặt. Mày nghỉ ngơi cho tốt đi. Mai còn đi Disneyland Paris và hãng Walt Disney.

- Walt Disney á, tao hâm mộ hãng đó lắm.

- Ừ, nên mày phải nghỉ ngơi cho tốt và đừng nghĩ đến những chuyện kia. Ngủ một lát đi, tí tao đem đồ vào cho.

- Ừ

Tôi nằm yên để Nam ra ngoài. Hình ảnh cái bóng chập chờn trong đầu. Một lúc sau Nam đem trà vào. Tôi không kịp nói cảm ơn, chỉ đón lấy cốc nước uống ừng ực rồi nằm xuống nhắm mắt, một lúc đã ngủ say.

...

Hôm sau, sáng dậy cơ thể đã khỏe mạnh, tâm trạng cũng thoải mái hơn. Bỏ qua chuyện hôm trước, tôi cùng Nam đi tham quan Disneyland.

Trong số các điểm tham quan ở Paris, công viên Disneyland là một địa chỉ hấp dẫn. Giá vé vui chơi một ngày ở đây là 49 euro/người (bao gồm cả vé vào Studio Walt Disney), Được khánh thành vào ngày 12/04/1992, nơi đây tiếp đón hàng triệu người mỗi năm. Có 5 thứ tiếng được sử dụng phổ biến là: Anh, Đức, Ý, Tây Ban Nha và Pháp. Có năm khu vực chính là Disneyland Park, Walt Disney Studios, Disney Village Goft, Disneyland và khách sạn Disney Hotel.

Sau khi nghiên cứu lịch biểu diễn, chúng tôi quyết định vào Studio trước vì công viên này đóng cửa sớm hơn Disneyland hai tiếng. Hai trò được chờ đón nhiều nhất ở đây là Moto hành động và Ngày tận thế.

Dù được đóng dấu “Có thể làm một số du khách sợ” nhưng vì đối tượng khách hàng chính là thiếu nhi, nên những màn biểu diễn này không quá ghê rợn mà ngược lại bổ ích. Nó cung cấp kiến thức thực tế về cách sản xuất một bộ phim với kỹ xảo, ánh sáng, âm thanh kết hợp khói màu.

Tôi và Nam đi khám phá được kha khá khu hay ho. Dù cuộc du ngoạn khá vui vẻ, nhưng tôi cứ có cảm giác ánh mắt dõi theo đằng sau. Khi tôi đi chốn đông người, ánh mắt ấy cũng đọng lại. Tôi cứ quay lại rồi quay đi. Nam thấy thế khó hiểu:

- Làm sao thế?

- Tao có cảm giác có ai đó đang theo dõi.

Nó nhíu mặt, rồi nó ngoắc tôi vào một căn nhà, vẻ ranh mãnh:

- Tại mày xinh quá đấy mà. Thôi vào đây đi. Cắt đuôi nó cho an toàn.

Tôi và Nam chạy vào căn nhà có ghi tiếng Pháp dài ngoằng, bên trong có kiến trúc kì lạ.

Một quả bí ngô to đùng đứng chềnh ềnh trước mặt, còn thơm mùi máu. Máu từ quả bí rỉ ra, làm đỏ cả nền nhà. Nam lẩm bẩm:

- Nhà ma mày ạ. Cái này nhìn như máu thật.

- Tao đang nghĩ đây là máu gà hay máu người.

- Chắc là máu động vật thôi. Cái mùi tanh tanh này ghê thật.

Nó tiếp tục kéo tôi đi. Đi được một quãng, một cái đầu lâu từ đâu rơi bộp xuống mặt. Nam lại sờ sẩm rồi bảo:

- Đầu lâu như thật. Quay lại thôi. Tao thấy sợ rồi.

Tôi và Nam đi theo đường lúc nãy. Đến một đoạn cách xa cửa, nó để tôi ở đấy, bảo:

- Máu với đầu lâu dính ở tay làm tao hơi khó chịu, tao đi toilet cái. Mày đứng im đây đợi tao.

Nó nói rồi tới chỗ cái biển đề toilet. Tôi đi theo đến ghế đá trước cửa nhà vệ sinh rồi ngồi nghịch điện thoại. Có tiếng gió lùa mạnh kéo theo không khí ảm đạm, tôi bắt đầu run:

Một tràng tiếng Pháp xổ tứ tung, rồi tiếng rên rỉ từ xa vọng lại. Tôi kinh hãi, cầm điện thoại định chạy vào chỗ Nam. Gió lùa tợn.

- Nắng ơi

Tiếng ai như tiếng Nam gọi. Tôi đi ra phía ấy. Quái lạ, tiếng gọi vang ra từ một cánh cửa khác.

- Nắng

Tôi vừa bước đến gần, gió đập mạnh kéo tôi vào bên trong, một vùng tối tăm. Người tôi đông cứng lại

- Em đây rồi.

Cái bóng lờ mờ hiện rồi rõ hẳn. Một người đàn ông, rất điển trai, mặc quần tây, áo măng tô kiểu cũ. Tôi ngạc nhiên đến mức không nói thành lời:

- Dương, em thật sự không nhớ anh sao?

- Ông theo dõi tôi từ hôm qua đúng không?

Cái bóng thở dài:

- Em đã quên Đông. Em thật sự không nhớ về mối tình một trăm năm trước.

- Ông nhầm người rồi. Tôi chưa có người yêu.

- Anh và em đã đính hôn cách đây một trăm năm. Em đã hứa với anh sẽ quay trở lại. Linh hồn anh đã lai vãng ở đây suốt thời gian ấy.

Tôi cứng người: Cái gì mà “đính hôn cách đây một trăm năm”? Cái bóng sà lại, lại một nụ hôn cháy bỏng. Nụ hôn kéo dài hai phút, tôi thậm chí còn nghe thấy tiếng thở hổn hển và nhịp tim đập thình thịch.

- Anh yêu em, Thùy Dương.

- Nắng ơi

Tiếng của Nam. Cái bóng giật mình, rồi nó tan ra, biến hẳn.

Nam đứng sau cánh cửa, càu nhàu:

- Bảo đợi tao chỗ đấy lại đi vào đây. Tao hỏi bảo vệ rồi, chỗ vừa nãy là rạp Switherland. Trong đó đúng là máu, nhưng là máu nhân tạo.

Nó kéo tôi ra, không để ý mặt tôi đen ngòm. Đi được một lúc, nó dừng lại, lẩm bẩm:

- Người ta bảo rạp đấy đã lâu không ai dùng mày ạ, chắc phải bỏ hoang từ những năm chin mươi.

...

Chuyến bay về Hà Nội khởi hành lúc 6h30p. Hành khách đã lên đông đủ. Tôi và Nam yên vị trên hàng ghế. Lần này tôi không hào hứng quay phim chụp ảnh mà chỉ ngồi im. Nam quay sang.

- Mày không quay phim nữa à?

- Ừ

- Cười một cái đi xem nào.

- Không.

Im lặng một lúc, tôi đột ngột quay sang hỏi nó:

- Mày có tin vào duyên âm không?

- Đệch, sao lại hỏi thế?

- Thì mày có tin vào duyên âm không? Lại còn hôn người cõi âm.

- Không, mày nói cái gì thế?

- Tao chỉ hỏi vậy thôi.

Nó bối rối:

- Mày chưa gần gũi ai cơ mà. Hứa đừng làm tao lo nhé. Từ lúc đến đây thật lắm chuyện lạ.



-Từ ngày sinh ra, anh đã biết mình sẽ lấy một cô gái có tên là Nắng

Hôm nào tôi cũng có một giấc mơ y như vậy. Cùng một giọng nói, cùng một dáng hình. Đêm nào tôi cũng run bần bật.

- Con làm sao thế?

Mẹ đẩy cửa bước vào. Tôi vừa ngủ dậy, mồ hôi vã ra.

- Có gì kể mẹ nghe xem nào. Từ hồi từ Pháp về trông con lạ lắm

- Không sao đâu mẹ.

Mẹ thấy tôi cau mày thì đứng dậy, vẻ mặt cố bình tĩnh nhưng vẫn không giấu nổi vẻ lo lắng

- Mẹ để cho con cốc sữa nóng, khi nào khát thì uống. Ngủ ngon mai còn đi học.

- Mẹ ơi, mẹ có tin vào … ma không?

Tôi hỏi khi mẹ sắp bước ra ngoài. Mẹ quay lại:

- Có chuyện gì xảy ra hả con?

- Bạn con, cái Nam ấy, không tin.

- Thế con thấy sao?

- Con không biết.

...

-Anh đã nghĩ, nếu anh không mắc bệnh, anh và em có thể sống bên nhau suốt đời, phải không?

Tôi đột ngột tỉnh dậy. Một tiếng cạch cửa, cái bóng hiện ra.

- Anh đến đây làm gì?

- Anh đến thăm em. Anh đã theo em từ Paris về Hà Nội.

- Tôi là Vi, không phải Dương. Anh đừng bám riết lấy tôi như thế.

Cái bóng cười hiền:

- Không nhầm được, đúng là em. Anh vẫn nghĩ em sẽ không quên, nhưng rồi em cũng thế.

Có tiếng mở cửa, cái bóng tản đi. Bà nội đi vào với khuôn mặt âu sầu:

- Để bà ngồi với cháu.

Bà để tôi ngồi tựa vào gối rồi ngồi trước mặt nắm tay tôi

- Có phải cháu vừa nói chuyện với một người tên Đông?

- Sao bà biết ạ?

Bà nộ quay đi, hơi thở khó nhọc.

- Cháu còn nhớ câu chuyện bà kể cho cháu không? Đó là câu chuyện có thật. Đông là người yêu của mẹ bà, tức cụ nội cháu.

Bà lấy tay lau nước mắt

- Bà sinh ra trong cuộc hôn nhân không hạnh phúc của cha mẹ. Năm năm sau chuyện đó, Thùy Dương - bà nội cháu lấy chồng, nhưng vẫn nhớ người đàn ông ấy. Đêm đêm bà vấn thấy cụ thầm thì trong góc phòng. Có lẽ linh hồn ông ấy vẫn bám riết cụ. Hai người đã hẹn ước với nhau điều gì đó rồi một thời gian sau, cụ ra đi.

- Cụ mất hả bà?

- Ừ, nhưng cụ mất với dáng vẻ rất thanh thản. Khi nhà mình mời thầy về xem, thầy cúng nói cụ sẽ nhập vào một trong những đứa chắt để tiếp tục chuyện tình dang dở. Đó là đứa con do mẹ cháu sinh ra, là cháu.

Lo lắng lời tiên tri hiệu nghiệm, cả nhà ta đã mời rất nhiều người đến giải, nhưng mọi chuyện vẫn xảy ra theo hướng ngày càng linh nghiệm. Từ ngày cháu sinh ra đã có người lạ vào nhà bắt cóc. Sau khi mời thầy cao tay về, mọi chuyện rồi cũng yên, nhưng bà và mẹ cháu vẫn lo lắng cho sự an toàn của cháu.

Nhưng giờ bà nghĩ lại, nếu tình yêu của cụ với người đó là quá lớn, càng ngăn cản sẽ càng xảy ra. Cháu phải tự làm chủ cuộc đời cháu.

- Đó là lí do cả nhà không muốn cháu đi chơi xa phải không?

- Ừ, nên tên cháu mới là Nắng. Ngay cả cái tên Nguyễn Nhật Nguyệt Vi trong chữ Hán, Nhật và Nguyệt hợp vào nhau thành chữ Minh, nghĩa là Ánh nắng.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Hà Miz

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
7/12/13
Bài viết
16
Gạo
0,0
PHẦN II. CÂU CHUYỆN TỪ MỘT TRĂM NĂM TRƯỚC

Ga Arts et Métiers

Người đứng đầu già cỗi, áo khoác đen trùm kín mặt bước xuống đường hầm. Đường hầm tối, rộng. Ông đi thẳng thừng, vị trợ lý cầm cặp da, áo khoác đen theo sát gót. Một lúc, sau khi đã xuống dưới hầm, cảm thấy yên ổn, hai người thầm thì:

- Ngươi đã gọi cho Henry?

- Thưa vâng

- Hắn ta nói sao?

- Bọn Fog dùng chất độc hóa học. Nếu không tìm ra nguồn gốc, chúng ta sẽ thua chỉ trong vài ngày.

- Phía hắn ta không tìm ra được nguồn gốc?

- Ông ta bảo đó là việc của tình báo kỹ thuật.

- Gọi cho Ryan Devile - Trương Thành Đông.

Tàu đến. Hai người thoắt ẩn trên tàu. Một cuộc triệu tập diễn ra. Một lát sau, cũng tại ga Arts et Métiers, có người đàn ông tay mang cặp, mặc áo bành tô bước lên, trông có vẻ hệ trọng.

- Ông gọi tôi, thưa ông Merden?

- Phải.

- Ông biết tên tiếng Việt của tôi, chứng tỏ đã điều tra rất nhiều. Ông muốn gì?

- Ta muốn nhờ ngươi giúp một việc. Liên quan đến cuộc chiến giữa chúng ta và bọn Fog

- Ông muốn tôi lấy cắp vũ khí bí mậ từ Phrit de Habell?

- Ta luôn đánh giá anh là người thông minh.

Người đứng đầu trải một tờ mật báo lên mặt bàn, tờ báo có tít: 22/4- Quân Natar thua thảm hại.

Trận chiến tại thành phố Hannover, ngày 22/4, hầu hết quân Natar đều gục, một số chưa chết hẳn khi vào nhà thương mắt vẫn nhắm nghiền, nước mắt chảy giàn giụa, mạch máu căng, da người nào cũng đỏ rộp do tác dụng của hơi độc. Chúng ta chưa rõ bọn Fog sáng chế hơi độc này như thế nào. Henry đã chỉ đích danh ngươi. Hắn ta nói chỉ ngươi mới tìm được nguồn gốc.

- Ông ta biết tôi quen thân với Phrit de Habell?

Chàng thanh niên cười. Người đứng đầu nhăn mặt:

- Ryan, đây là việc rất hệ trọng, liên quan đến lợi ích của toàn bộ Đảng dân chủ Natar. Ngươi là sát nhân chuyên nghiệp, ta tin ngươi có thể làm được.

- Tôi sẽ không phản bội bạn bè mình.

Người đứng đầu nhăn mặt:

- Ngươi có thấy mặt hại của chất độc hóa học? Rồi đây, khi thắng Natar, Fog sẽ rải chất độc khắp nơi, hàng trăm nghìn người sẽ chết. Đây là chiến tranh, Fog là tập hợp những phần tử rất có tham vọng

- Chính quân đội Natar mới tàn sát dân chúng, rải bom mìn đi khắp nơi. Tôi sẽ không giúp các ông.

- Ta có thể thỏa mãn được điều kiện, dĩ nhiên không phải việc ngừng đánh.

Anh ta nghĩ một lúc rôì nói:

- Được, vậy ông hãy giết Charles Denivil.

- Không thể! Charles Denivil là tướng giỏi…

- Ông ta đã giết cả dòng tộc của tôi ở Việt Nam, cưỡng bức chị gái tôi. Đây là thỏa thuận cuối cùng. Nếu ông không nhận, hãy mời người khác.

Người đứng đầu thở dài:

- Thôi được, ta chấp nhận.

- Tôi chỉ làm khi nghe tin tên khốn ấy bị giết.

- Yêu cầu sẽ được thực hiện. Nhưng ngay ngày mai, ngươi phải lên đường. Đây là ba ngàn phrăng, còn đây là địa chỉ nhà Henry

Người đứng đầu đứng lên và mất hút phía dưới tàu. Đông yên lặng. Một lát sau, anh đứng dậy, bước xuống sân ga, hai bàn tay nắm chặt:

- Phản bội bạn bè ư? Tất nhiên ta không làm. Sẽ phải có cách khác.

...

Trên khắp các tuần báo tràn ngập tin tức về vụ thảm sát bằng chất độc. Vụ việc thu hút các phóng viên cùng các nhà phân tích chất độc nhưng chưa ai tìm ra. Đông đang ở khách sạn Mumbai, uống xong một ngụm cà phê nóng. Anh cầm tờ báo lên xem, đập vào mắt anh là bản tin vắn tắt về cái chết của gia đình một viên tướng bằng chất độc.

CharlesDevinil, số nhà số mười bốn phố Lumapart, chết vì ngấm chất độc. Gia đình anh gồm một vợ, hai con, cùng những người họ hàng, thân nhân cũng chịu số phận y như vậy. Vụ thảm sát đã giết chết cả thảy mười bốn người. Bác sĩ Pháp y khám nghiệm cho biết nạn nhân chết vì bị đầu độc.

Vài năm trước, vẫn tờ báo đó, đã viết: Charles Devinil, vị tướng tình báo về hưu, được phát hiện là người đứng sau vụ tàn sát dòng họ Devile và cưỡng bức cháu gái họ. Đây là vụ việc rúng động dư luận mười năm trước. Devile là dòng họ lâu đời và cô gái là kết quả của cuộc hôn nhân giữa ông Lenxi Devile với một phụ nữ Việt Nam. Cô có một em trai hai mươi bảy tuổi hiện đang làm ở cục không quân, nhưng tung tích người này rất mờ mịt. Dòng họ xấu số hiện đã được an táng tại nghĩa trang quân đội Pháp

- Bố, mẹ, chị, con đã trả thù rửa hận.

Có tiếng chuông điện thoại reo. Giọng người đứng đầu Đảng Natar:

- Có vẻ ngươi đang rất hài lòng?

- Ông theo dõi tôi à? Đông cười khẩy. Chẳng việc gì phải làm thế, đằng nào tôi cũng đã nhận lời.

- Chỉ để khẳng định thôi mà, Natar chúng ta luôn làm ăn cẩn thận.

- Tôi luôn hiểu thế nào là “làm ăn cẩn thận” của phía các ông.

- Vậy thì làm đi, chàng trai trẻ. Natar chờ tin tức tốt lành của ngươi. Lát nữa sẽ có vé máy bay đưa ngươi đến địa bàn Fog. Còn nữa, 5h chiều ngươi sẽ có mặt tại nhà riêng của Henry.

- Tôi hiểu.

- Ngày mới tốt lành.



Tại căn nhà số 15 phố Teutons

Một chàng trai trẻ măng đội mũ lưỡi trai, mang một bao to đến trước căn nhà. Trong bao đầy sắn, khoai tây, bắp cải và mấy thứ đồ hộp dùng trong thời chiến. Thấy chủ căn nhà, anh ta khúm núm đặt bao xuống, giơ tay chào. Họ nói chuyện đôi ba câu rồi chừng như đến lúc, chủ căn nhà nhờ chàng trai mang bao vào, sau khi chi cho anh ta ít tiền khuân vác. Các tay kéo xe cùng phu xe ngựa nhếch mép: Ôi dào, ở Teutons này, lúc nào chả có những việc như thế, mấy ông nhà giàu sợ lính chiến bắt bớ nên chẳng mấy khi ra khỏi nhà, toàn mua cả đống thức ăn rồi dự trữ. Chỉ lợi cho bọn bán hàng và phu khuân vác. Hay mình đổi nghề đi khuân cho nhiều tiền – Một người nói. Cả bọn cùng cười ồ.

Vào đến cửa, chàng trao bỏ mũ. Đó là một chàng trai thông minh với đôi mắt sáng trong lanh lợi. Nhà có người đợi sẵn. Chàng trai để bịch chiếc bao xuống nền phòng:

- Ông chờ tôi lâu chưa, ông Henry?

- Anh đến đúng giờ lắm, Henry niềm nở. Thoáng thấy anh ngắm nghía bộ thí nghiệm trong phòng, ông nói thêm: Tôi đang bào chế chất đicloetyl sunfua

- Chất để chế taọ hơi độc à?

- Phải, Henry gật đầu, nhưng hiện giờ không phải để bào chế hơi độc, tôi chỉ đang thí nghiệm nó với than hoạt tính.

Ngừng một lúc, ông kéo anh ta đến bàn dụng cụ hóa học.

- Phần lớn các chất độc trong điều kiện nhiệt độ thường ở dạng chất lỏng hoặc chất rắn có nhiệt độ sôi khá cao. Trong khi đó thì oxy cần cho quá trình hô hấp lại có nhiệt độ sôi rất thấp (- 183°C). Oxy có nhiệt độ sôi thấp nên lực hấp dẫn giữa các phân tử của chúng rất bé, còn các chất có nhiệt độ sôi cao thì lực hấp dẫn giữa các phân tử của chúng sẽ lớn hơn. Có một cách tách biệt hữu hiệu giữa oxy và các chất độc đó, là dùng than hoạt tính. Than hoạt tính được chế tạo bằng cách dùng các vật liệu chứa nhiều cacbon như gỗ hoặc tốt hơn là vỏ hạt hồ đào, vỏ dừa đem đốt ở nhiệt độ cao trong điều kiện thiếu không khí để biến thành than gỗ. Sau đó cho than gỗ xử lý bằng hơi nước quá nhiệt để loại bỏ lớp dầu trong các lỗ trong than gỗ, làm cho các lỗ trong than gỗ trở thành các lỗ trống liên thông với nhau và diện tích bề mặt của than gỗ sẽ trở nên rất lớn. Than gỗ qua quá trình xử lý như trên sẽ trở thành than hoạt tính.

Than hoạt tính thường có dạng những hạt nhỏ hoặc bột có màu đen. Diện tích bề mặt của than hoạt tính rất lớn. Trung bình một lượng than hoạt tính có diện tích bề mặt hơn l000m2. Khi than hoạt tính tiếp xúc với các chất khí hoặc chất lỏng, do có diện tích bề mặt rất lớn nên than hoạt tính có thể hấp thụ lên bề mặt nhiều loại phân tử. Đặc biệt với các phân tử có lực hấp dẫn giữa chúng lớn. Nhờ đó một loại biện pháp có thể đối phó với đại đa số các chất độc đã được tìm ra, đó chính là các mặt nạ chống độc.

Nghe đến đây, Đông gật gù

- Vậy ra ông đang chế tạo mặt nạ chống độc, và bào chế chất độc để thử.

- Phải.

Đột nhiên ông nghiêm mặt lại, kéo anh ta đến một nơi. Đó là một căn phòng trông giống thư viện chứa đầy sách. Đẩy anh ta ngồi xuống trước mặt, ông bắt đầu giở một cuốn sách, đặt trên bàn cho chàng thanh niên:

- Tôi biết anh quen thân với Phrit de Habel, nhưng tôi nghĩ anh vẫn nên đọc.

Anh nhìn xuống, những dòng chữ in đậm:

- Phrit de Habel, một thiên tài của Fog. Trong năm qua, nhờ phương pháp của ông mà Fog đã sản xuất ra được 7.500 tấn NH3 tổng hợp. Đó là con số khiến bất kỳ tổ chức nào khác phải chào thua. Dự báo trong vài năm nữa, Fog có thể chế tạo lên tới 100.000 tấn. Ngoài ra ông này cũng là thiên tài trong nghiên cứu hơi độc.- Anh quen thân với Habel, nhưng tôi nghĩ không nên coi những điểm này là thừa.

- Sao ông không tập trung chế tạo mặt nạ hơi độc mà muốn tôi đánh cắp chất độc từ Phrit de Habel?

Ông ta nhăn mặt

- Anh hỏi thật hay giả vờ thế? Tôi có thể chế tạo mặt nạ chống độc, nhưng chưa chắc nó đã hiệu nghiệm với hóa chất theo phương pháp của Phrit de Habel. Chúng ta chưa biết nguồn gốc chất độc.

- Tôi đang nghĩ nó liên quan đến một mặt hàng “hiền lành” nào đó trong đời sống.

- Cái này anh nên hỏi thẳng Habel, nhưng với tôi thì anh nghĩ đúng rồi đấy. Ngay từ năm 431 trước Công nguyên, những người dân thành Athens ở Hy Lạp đã bao vây bằng cách làm cho đối phương chảy nước mắt, nước mũi, ngạt thở phải đầu hàng với củi có tẩm lưu huỳnh và nhựa cây đem đốt lên. Rồi sang thế kỷ thứ 3, những người La mã: Shakestuys, abramanark, africanus… đã nghĩ ra cách đầu độc các nguồn nước sông ngòi và không khí làm cho quân thù uống nước cũng chết mà thở cũng chết?

Mới cách đây 200 năm thôi, trong chiến tranh hễ tin thứ gì có thể giết người được là người ta đem dùng tất: Aconite, anemone, xigua…Những chất độc này lấy từ thực vật hay khoáng vật như thủy ngân, chì, thạch tín… Động vật cũng có rãi chó dại, óc chuột, máu dơi…rồi một số bộ phận khác của sinh vật.

Tôi biết anh là người trượng nghĩa, không muốn phản bội bạn bè. Thế này đi, chỉ cần anh đem tới đầu đạn kèm hơi độc, chúng tôi sẽ tiến hành thí nghiệm

Chàng trai gật đầu:

- Vậy được, tôi sẽ đến các xưởng chuyên chế tạo chất hóa học.

- Hẹn anh năm ngày sau, nên nhớ là càng nhanh càng tốt.

- Tôi biết

...

Xưởng Navis mấy hôm nay liên tục có những dấu hiệu lạ. Những đoàn xe nối tiếp nhau thành hàng dài, đem theo những thứ gì đó trong thùng xe, nối đuôi vào xưởng trong khoảng 4-5h sáng. Giật chiếc mũ xuống, một bác đánh xe đến gần cửa xưởng, trong khi một bác xe ngựa khác đang quay vòng xe ngược trở lại.

- Ông bạn có khách chưa?

- Chưa. Mới sáng người còn vắng thì lấy đâu ra khách.

- Tui thấy hôm nào giờ này ông bạn cũng chở khách vào đây còn gì?

Hai bác vừa đánh xe vừa nói chuyện, thoắt cái đã ra khỏi khu vực xưởng.

- Ông bạn tinh đấy, nhưng không phải khách, đó là thằng cháu tui đi làm sớm, tui cho đi nhờ. Nó hứa nếu trong xưởng có khách cần đi, nó giới thiệu.

- Công nhân vệ sinh đi làm sớm thật?

- Nó nói trong xưởng thay đổi lịch trình làm việc.

- Nghe đâu Fog đang chế tạo vũ khí gì đó…hủy diệt hay hóa học…

Rồi lát sau, chừng như thân mật, hai ông vứt xe ở ngoài, xuề xòa:

- Nhân dịp mới gặp nhau, mình vào làm chén rượu.

30 phút sau, tại quán rượu”

- Cám ơn vì bữa sáng. À cũng cám ơn vì chở giúp tui thằng cháu. Dạo này vì nó mà mất hết cả ngủ.

- Không có gì, hề hề

- Danke

...

Xưởng Navis ở ngay trước mặt, gạt xác người đã tắt thở ra khỏi, ông đánh xe lột mặt nạ, thoắt biến thành chàng trai trẻ.

- Xin lỗi anh giai.

Rồi giật từng cúc áo, lột trần cái xác, anh ta cũng cởi đồ, mặc bộ công nhân vệ sinh có chiếc mác “Xưởng Navis”. Lục trong túi các giấy tờ cần thiết, vẽ vài nhát lên mặt, anh ta đường hoàng bước ra ngoài, tiến đến gần cửa.

- Cho xin tên.

- Belido Amate, công nhân quét dọn.

- Vào.

...

Xưởng Navis nổi tiếng với những loại đại bác bắn tầm xa, những chiếc xe tăng, tàu ngầm nổi tiếng và nhiều vũ khí bí mật. Nơi đây không thiếu những loại thợ bậc thầy. Từ những tảng quặng xấu xí bẩn thỉu, họ có thể đúc thành những nòng súng xanh biếc ánh thép. Và giờ đây: Vũ khí hóa học. Nhưng điều anh băn khoăn, cùng là hơi độc, nhưng tại sao hơi độc của Fog lại chế tạo thành công đến đặc biệt. Khi thả hơi độc, thông thường hơi bay theo chiều gió, có nghĩa là nếu gió bay theo hướng Fog, thả hơi độc là giết chết quân mình, nhưng ở đây lại ngược lại. Đạn được bắn từ phía Fog, nhưng dù gió bay theo chiều nào, quân Natar vẫn dính đạn. Còn nữa, khi bắn thông thường đầu đạn phải toác ra, nghĩa là người bắn phải dính hơi độc. Nhưng đạn này được tính toán rất cẩn thận sao cho đạn bay về phía kẻ địch mới nứt toác, địch dính độc.

Tất nhiên những thứ này chỉ có người trong nghề mới phát hiện, ngoài ra, không ai biết nơi này chế tạo chất độc và là trường bắn. Nó chỉ là một trong hàng ngàn hạng vạn xưởng bí mật Fog lập ra trong chiến tranh, bên ngoài mở lặt vặt để trá hình, thực chất cùng một mục tiêu: Chế tạo vũ khí.

Những khu vực này có một hệ thống an ninh khắt khe một cách đặc biệt, nếu không cẩn thận sẽ dễ dàng đụng phải màng lưới dày đặc để bảo vệ nhà máy.

- Anh kia đi đâu?

Có tiếng nói, anh chìa thẻ tên: Belido Amate, nhân viên quét dọn.

- Vào phòng dụng cụ sao lại đi hướng đấy?

- Đi vệ sinh ấy mà, anh bạn căng thế.

Người kia nghiêm mặt.

- Cấm lảng vảng. Đây là nội quy Fog, không ai được trái lệnh.

- Phu vệ sinh làm việc theo khu vực à?

Anh lẩm bẩm rồi đi về phía khu dành cho phu vệ sinh. Một bàn tay đặt lên vai làm anh giật mình ngoái lại:

- Belido, đi làm sớm thế?

Một ông bạn già râu dài xách cái xô đứng trước mặt, trông thấy anh, ông ta gọi giật.

- Không có gì, chăm chỉ đột xuất thôi mà.

- Vậy thì mang giúp cái này.

Ông ta đặt cái xô vào tay anh. Anh đang ngơ ngác không hiểu thì ông nháy mắt, khẽ rỉ thầm:

- Vào trường bắn, chỗ này chỉ dành cho cơ quan cao cấp thôi nên hơi ngại, anh bạn vào dọn đi. Hôm nay bắn thử nghiệm chất độc, có quan chức chính trị đặc biệt đến thăm viếng.

- Ồ kê, nhưng phải một chầu bia mới được.

- Yên tâm, hề hề, có đi có lại mà.

Anh cầm chiếc xô, trên môi khẽ nở nụ cười mãn nguyện, không ngờ ông trời lại giúp mình như vậy.

...

Trường bắn đặt sẵn mấy khẩu súng hải quân. Phía trước là một lễ đài cắm cờ đuôi nheo xanh đỏ. Phía trước mặt chợt thấy bụi mù. Một đoàn xe ô tô, đúng loại xe quân sự từ từ lăn bánh vào bãi. Một chiếc xe lộng lẫy, xung quanh có mấy chiếc khác như đang hộ tống cũng đi vào. Chiếc ô tô này vừa đỗ lại đã có một sĩ quan bước tới mở cửa, giơ tay chào. Từ trong xe bước ra một người cao lớn dáng bệ vệ, ngực đeo đầy huân chương. Anh thốt lên:

- Micheal Dorand – người đứng đầu Fog

Dàn nhạc kèn đồng bóng loáng chực sẵn từ lúc nào, giờ vang vang bài ca. Khi bản nhạc hùng tráng vừa dứt, viên sĩ quan mở cửa xe lúc nãy tiến lại gần, trịnh trọng báo cáo điều gì. Sau đó, viên sĩ quan này cầm một lá cờ lệnh bước ra.

Đứng sau những khẩu súng hải quân là mấy tên lính pháo binh ở tư thế sẵn sàng nhả đạn. Phía xa xa xuất hiện một nhóm người tay bị trói, chân đeo xiềng xích, như vừa được thả ra trong nhà tù. Họ hăm hở bước từng bước dài đến phía có ánh sáng. Một vài người khựng lại khi thấy trước mặt là đông đủ sĩ quan cùng chỉ huy quân đội. Nhóm người bắt đầu hoang mang, một số người kéo xích giật lùi trở lại…

Viên sĩ quan khẽ quất mạnh lá cờ, một loạt đại bác vang lên giòn giã. Phía giữa nhóm người bắt đầu bốc lên những đám khói. Chỉ loáng một cái, đám khói phủ kín như một chiếc chăn khổng lồ. Đám tù nhân nhốn nháo rối loạn. Có người chết, có người gục xuống giãy giụa, có người rên rỉ rồi nằm vật ra…chỉ lát sau nhóm người chết gần hết, chỉ một số tù nhân khỏe nhất đang nằm quằn quại vật vã. Những ngọn cỏ quanh đấy cũng bị chất độc làm úa vàng.

- Dùng tù nhân chính trị để thử nghiệm chất độc.

Có tiếng kêu quanh quất đâu đây. Michel Dorand vẻ hài lòng, giơ tay ra dấu ngừng tập, các đoàn quan chức lui về. Những người còn lại làm nhiệm vụ vứt xác người chết. Một lát, trường bắn lại yên tĩnh.

Anh được ra lệnh đến gỡ các lá cờ và dọn dẹp những chiếc vỏ, không để ý đến cảnh tượng ghê rợn trước mặt. Trong lúc không ai nhìn thấy, anh lấy vài mẩu đạn chưa phát nổ - bản mẫu của vũ khí hóa học. Cẩn thận cho vào ống tay áo, anh lặng lẽ đi ra.

...

Trên chuyến bay từ Fog về gần biên giới, một đôi vợ chồng trẻ, ăn mặc rất sang, ngồi ở khoang hạng nhất. Hành lý họ mang trên người rất gọn: chỉ có độc một chiếc cặp da. Chuyến bay cất cánh lúc mộth. Đông quay sang nói nhỏ:

- Maria, báo trước cho Henry, 3h chúng ta sẽ tới gặp.

Trong đêm tối, chiếc máy bay lao đi rất nhanh. Xuống dưới sân bay, khi những người khác hồ hởi xuống gặp người nhà. Hai vợ chồng trẻ chỉ cầm chiếc cặp da trong khoang hành lý, đi mất hút.

Một chiếc xe ngựa chờ sẵn họ trước cửa. Người coi xe bước ra, chào hỏi cẩn thận:

- Ông là Ryan Devile.

- Đúng vậy.

- Mời ông

20 phút sau, tính từ khi rời sân bay, cỗ xe ngựa có mặt trước cửa nhà bác học. Mặc xong chiếc áo trắng, Henry run run cầm mảnh đạn từ tay Đông, lẩm bẩm:

- Natar ngàn lần biết ơn anh



Trong báo cáo tới quân đội Natar, Henry nhấn mạnh:

- Thứ hơi nhạt bọn Fog sáng chế đe dọa chúng ta là “vua chất độc” thực chất là chất sunfua. Natar chúng ta không cần nao núng, vì Natar đã chế tạo ra được mặt nạ chống độc, lọc được sunfua. Dù sao, phát hiện được bí mật này là một công lao rất lớn và người tiến hành việc đó không ai khác ngoài nhân viên tình báo Ryan Devile
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Hà Miz

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
7/12/13
Bài viết
16
Gạo
0,0


Hai tháng sau đó.

Tiếng súng nổ giòn giã bên trong căn nhà. Đông với tay lấy khẩu súng, nhảy thoắt xuống cửa sổ. Với tay trèo sang khu nhà bên cạnh, anh cắn môi đến bật máu:

- Chết tiệt, bọn chúng giết người diệt khẩu.

Ngày hôm qua, tờ báo đã đăng những tin chết người: Bí mật vụ đánh cắp chất độc của Fog, thiên tài Phrit de Habel chết vì nhiễm độc. Trong bài báo kể toàn bộ sự tình diễn ra từ hai tháng trước, và có ghi thêm: Natar và Fog là hai đảng phái cực kỳ quyền lực, có mạng lưới tình báo khắp nơi, thậm chí trà trộn vào chính phủ nước sở tại. Rất có thể tên giết người là một nhân viên tình báo phía Natar

- Habel đã chết rồi!

Đông bặm môi. Chúng muốn anh lấy cắp bí mật rồi giết chết Habel để đổ tôị cho anh. Vậy là anh cùng lúc phải trốn khỏi sự truy đuổi của bọn Natar và Fog. Phải làm gì đây? Khốn nạn!

Một viên đạn sượt qua đầu anh. Anh quay lại bắn một phát, tên Natar bật ngửa đầu ra sau, tóe máu. Những tên lính khác thấy tiếng súng, vội vã nhả đạn theo hướng đã nghe, nhưng vô vọng. Đằng trước cây cối mịt mùng. Đông thoát nạn.

Anh chạy đến Saint-Aubin, qua Dunkerque rồi lại quay trở lại Paris, nhưng vô vọng. Một tháng sống trong sự truy đuổi của cả hai tổ chức dường như vắt kiệt sức lực của anh.

Đặt khẩu súng xuống đất, Đông mệt nhoài. Anh đang ở Paris, bãi Briet. Không có người, anh nằm yên trên bãi, thở hổn hển.

Trụ sở phía Natar

- Anh đã tìm thấy tung tích của Trương Thành Đông?

- Phải, hắn ta trốn trong bãi Briet, là bãi đỗ xe dành riêng cho bọn khố rách áo ôm. Hắn ta sống vật vờ, chỉ ra ngoài vào bạn đêm để kiếm thức ăn. Ông Merden, ông có cần xử…

- Gượm đã, ta có cách khác.

- Fog sẽ tới đây báo thù. Thủ đoạn của Fog rất tàn nhẫn. Ngài Merden, thực lực chúng ta chưa đủ.

- Phản bội Fog là việc của hắn. Còn nữa, hắn ta không dễ bị bắt. Dù hắn có khai do Natar sai khiến thì có sao?

- Ngài thật thông minh.

- Dù cho quân đến bây giờ, cũng không giết được hắn đâu. Tốt nhất cứ để hắn sống, rồi hắn sẽ phải chết, chết dần chết mòn…

- Dạ thưa ngài


Một thời gian sau, tại Neunkirch

Một bác sĩ bước đến nhà một thương nhân, tay cầm một lọ dung dịch hóa học.

- Thuốc của ngài đây, thưa ngài. Bệnh chỉ mới chớm nhưng cũng nên ăn uống điều độ và uống thuốc đúng giờ.

- Cảm ơn ông, bác sĩ Benen – chàng trai thở khó nhọc- nếu không có ông trong những ngày qua, chắc tôi cũng không biết phải làm thế nào.

- Đây là bổn phận của tôi, thưa ngài. Ngài nằm nghỉ, tôi sẽ ra ngoài.

- Chào ông Benen.

Đông nằm thở khó nhọc. Từ ngày trốn sang Neunkirch, bác sĩ Benen là người duy nhất giúp đỡ anh, kiếm cho anh một căn nhà và ngày ngày chăm sóc anh. Cả vết thương hồi mới đến cũng được bác sĩ chăm chút cẩn thận. Còn nhớ hồi tháng chín, anh từ Paris trốn chạy sang, trên người còn đầm đìa vết máu. Anh trốn bên trong toa chở hàng của tàu, bị nhân viên thuế quan phát hiện, đánh đập rồi đuổi ra. May nhờ bác sĩ Benen, anh mới có một nơi ăn chốn ở. Bác sĩ Benen là người tốt hay không anh không biết , nhưng anh đang ở trong thế tiến thoái lưỡng nan, chỉ cần một nơi chăm sóc là tốt lắm rồi. Bác sĩ còn đưa anh về nhà, đối đãi tử tế và đưa anh tới một căn hộ.

- Ông còn việc gì nữa không?

Một dáng người bí hiểm in trên góc phòng, giọng nói vừa quen vừa lạ lẫm:

- Anh làm tốt lắm, bệnh tình của tên Việt Nam đó thế nào?

- Sắp phát tác, tôi nghe lời ông, hôm nào cũng đem đến cho anh ta một ít chất độc.

- Ông rất giỏi, đây là tiền của ông.

- Còn tiền ăn ở mà tôi phải chu cấp cho anh ta…?

- Lát nữa sẽ có, ông làm việc cho Natar, Natar sẽ không để ông thiệt.

- Dạ, thưa ông Merden.


2 tháng sau, tại căn nhà số 16 Neunkirch

- Bác sĩ Benen, ông đã đầu độc…

- Bệnh của anh sắp phát tác rồi, không có cách gì chữa được đâu. Đây không chỉ là chất độc, mà còn là một chất độc rất đặc biệt.

- Nhưng tại sao?

- Tại sao à? Tôi làm việc cho quân đội.

- Cho Fog?

- Fog quá tàn bạo, tôi không thể làm việc cho những người mà tôi chắc rằng khi xong việc sẽ bị họ xử tử.

- Vậy là Natar, Merden?

- Phải, ông Merden luôn đánh giá cao anh, ông ấy nói anh là người rất thông minh và hiểu chuyện.

- Ông bán rẻ lương y nghề nghiệp chỉ để nhận những đồng tiền nhơ bẩn?

- Anh cũng mang danh phản bội đó thôi. Trong thời kì như thế này, làm việc cho một tổ chức chính trị có thế lực là cách kiếm sống dễ nhất. Tôi không muốn phải ra chiến trường.

- Xong việc rồi, ông nghĩ chúng sẽ để ông ở lại?

- Đối với tôi, tiếp xúc với những tổ chức bí mật có ý nghĩa hơn ra ngoài mặt trận chữa bệnh cho quân đội. Tôi là bác sĩ quân y, nhưng tôi không thích phục vụ cho thương binh. Đừng làm gì tôi, chất độc sắp bào mòn cơ thể anh rồi.

- Ông tưởng tôi không dám?

Đông cười khẩy, gạt chiếc gối, lôi ra khẩu súng dưới gầm giường, một loạt đạn vang lên. Bác sĩ Benen gục xuống, chỉ kịp ú ớ:

- Ryan…

- Khốn kiếp.

Đông nhổ bãi nước bọt, mau chóng ra khỏi phòng. Một loạt đạn khác vang lên từ phía sau.

- Chết tiệt, lại bị bao vây rồi.

...

Bác sĩ Audrey là một bác sĩ người Anh. Tốt nghiệp khoa Y Dược, ông sang Paris, vừa giảng dạy vừa nghiên cứu. Trận chiến ngầm đang diễn ra khiến ông phải suy nghĩ. Trong cái vỏ bọc một thế giới thanh bình, ban đêm luôn có hành động của những đảng phái bí mật. Natar và Fog có trụ sở ở khắp mọi nơi và thường xuyên tổ chức những cuộc thảm sát đẫm máu. Ông đã chứng kiến vụ thảm sát đầu tiên tại thủ đô London nước Anh, lần thứ hai tại Saint Petersburg và lần thứ ba ở Hannover – Đức. Thay vì làm việc cho chính phủ, ông tự thành lập phòng thí nghiệm. Ban ngày đi dạy, ban đêm ngồi xem xét các mẫu hóa chất. Ông đặc biệt chú ý đến hơi độc. Sau vụ 22/4, ông tìm đến Neunkirch – nơi xảy ra trận chiến ác liệt tiếp theo giữa Natar và Fog, kiên trì lấy từng mẫu đất, thậm chí cả máu và cả các bộ phận thân thể của lính chiến tại mặt trận. Xem xét kỹ, ông nhận ra đó là chất sunfua. Từ đó trở đi, qua tờ mật báo – tờ báo lưu hành riêng cho những người có vai vế trong chính trị, ông biết được dân Natar và Fog thường xuyên sử dụng các chất hóa học. Người ta đã sử dụng rất nhiều loại chất độc. Ngoài khí clo, người ta còn dùng khí độc gây tổn tại thần kinh như sarin, soman (C7H1602PF), có chất độc làm bỏng da, có chất độc gây ngạt (như phosgen) v.v…

Chiến tranh hóa học sẽ gây tổn hại đến bao người vô tội. Ông không phải chưa từng gặp các em bé dị dạng vì ngấm chất độc, mặt xanh, môi tái lại, tóc đổi màu. Ông cũng thấy thảm cảnh của bà con sống gần những nơi có trận chiến. Cả làng, cả khu vực sau đó đều nhiễm chất hóa học. Chiến tranh không chỉ gây hại cho quân đội mà còn dấy lên nỗi đau với người già, em nhỏ…

Ngày đầu tiên gặp Đông, nhận ra anh chàng ngấm chất độc, ông rất xót xa. Đông là một chàng trai trẻ, nhưng anh hầu như không tin vào con người. Có lẽ anh là nhân viên của đảng phái nào đó đang thất thế. Ông thấy Đông nằm trên nền đất, người đầy máu, bèn đưa chàng trai về nhà.

Ngày đầu tiên ở nhà ông, Đông không chịu uống thuốc. Anh nghi ngờ ông là nhân viên của Natar. Ông rất buồn lòng. Bằng sự nhẫn nại hết sức, ông băng bó vết thương, tiêm thuốc vào người anh để tinh thần ổn định. Có lẽ anh vừa trải qua những thứ khủng khiếp lắm. Ông nhủ thầm rồi đặt chàng trai lên giường, đắp chăn ngay ngắn, ra khỏi phòng.

Trong suốt một năm ở đây, ông chưa bao giờ đồng tình với chiến tranh hóa học. Chiến tranh là tội ác, nhưng chiến tranh hóa học lại là một điều cực kì tàn độc. Nó còn hơn cả tội ác, hơn cả tử thần. Nó ngấm vào máu, khiến con người ta sống không nổi, chết không xong. Những người chết chết trong hoàn cảnh toàn thân ngấm độc, đến nỗi vùng đất chôn anh ta cây cối sinh vật đều không sống được. Những người sống chịu cảnh dị dạng, con trong bụng mới sinh đã chịu cảnh tang thương… Tất cả những điều đó đều nói lên sự phi lý của cuộc chiến hóa chất. Nhưng sao người ta vẫn chưa chịu dừng lại? Phải chăng…? Còn chàng trai trẻ này, anh ta chỉ là một nạn nhân, một trong rất nhiều nạn nhân chịu sự tàn ác của chất độc và sự bất công của chinh trị. Nhưng tại sao, tại sao? Hàng trăm câu hỏi diễn ra trong đầu vị bác sĩ.

- Cốc sữa này có độc?

- Ta là giáo sư Audrey, đến từ nước Anh, không liên quan đến hai tổ chức trên. Trong người con đang có chất độc. Nếu muốn hại con, ta sẽ chờ cho chất độc phát tác chứ không phải làm vậy.

- Ông đã cứu tôi.

- Phải, ở Neunkirch, ta đã nhìn thấy con nằm ở cửa.

Ông nhìn chàng trai bằng niềm xúc động. Ngoài 50 tuổi, ông không có con, bà xã ông đã mất khi hai người lấy nhau được 8 tuần. Nếu có, chắc con ông cũng bằng tuổi chàng trai trẻ này. Trong lòng ông cháy lên sự xót thương.

- Ông đã đưa tôi về.

- Đúng vậy.

- Đây là đâu?

- Paris

- Paris, chàng trai tròn mắt. Ông gật đầu:

- Phải, Paris, con nên nằm yên, chớ để xúc động mạnh.

- Tôi phải đi.

- Con đang nhiễm độc. Con nên ở lại đây để ta điều trị.

- Bọn chúng sẽ đánh hơi thấy.

- Con trai, ta không biết con gặp chuyện gì – Bác sĩ ôn tồn- nhưng theo ta, nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn nhất. Ta không biết con đã gặp những gì, nhưng con cứ yên tâm nghỉ lại. Ta là bác sĩ, và là giáo sư của Đại học Công lập Paris. Sẽ không ai đến quấy rối con đâu.


Bốn năm sau

Chiến tranh đã đến hồi kết. .Nhờ sự trợ giúp của dân chúng, Đảng cầm quyền đã bao vây và dọn sạch bè phái của Fog và Natar. Đông thay đổi lí lịch, trở thành Việt Kiều đến Pháp làm ăn. Nhờ sự thông minh và nắm bắt tình thế, công ty xuất nhập khẩu ở Marche Des Puces, St. Ouen De Clignacourt của anh nhanh chóng có được một chỗ đứng nhất định. Tại đây, trong năm tháng cuối đời mình, anh gặp cô gái Việt Nam Thùy Dương

Dương là sinh viên trường Nghệ Thuật. Cô tốt nghiệp khoa múa ở Học Viện Nghệ Thuật Quốc Gia tại một thành phố ở Pháp. Năm cuối đại học, cô bị một chứng bệnh lạ, không thể ra nắng. Căn bệnh hiếm gặp khiến các bác sĩ phải làm thủ tục chuyển bệnh nhân đến Paris để theo dõi và điều trị. Hiện tại, cô sống cùng người bạn thân Génie.

Lần đầu tiên gặp Đông, cô đã có một cảm giác lạ. Cô biết mình yêu Đông ngay từ đầu, nhìn vào mắt người đối diện, cô cũng biết Đông yêu mình y như thế, và cảm xúc nhiều khi còn nồng nàn, cháy bỏng hơn cô. Nhưng cô không dám hy vọng. Nhìn vào ánh mắt ấy, cô thấy một tình yêu vừa thiết tha mãnh liệt, vừa đau khổ tuyệt vọng. Cô không dám hỏi tại sao.

Một ngày, Đông hẹn gặp gấp Dương, cô không biết anh có chuyện gì. Anh dẫn cô vào rạp Gaumont Gobelins nhưng không xem phim. Anh nắm tay cô đi qua một con đường nhỏ.

- Dương, nếu anh ra đi, em có nhớ đến anh không?

- Anh sẽ không bao giờ ra đi.

- Trả lời câu hỏi của anh, nếu anh ra đi, em có nhớ đến anh không?

- Em sẽ yêu anh đến chết.

- Vậy khi anh chết rồi?

- Em vẫn yêu anh, chỉ cần em còn một hơi thở, em sẽ vẫn yêu anh, yêu anh mãi mãi. Chuyện tình của chúng ta sẽ không bao giờ dừng lại.

- Anh yêu em, Thùy Dương.

Anh ôm cô vào lòng, đặt lên môi cô một nụ hôn nồng đượm. Nụ hôn ấm áp đến nỗi Dương thấy cháy lòng.

- Em cũng yêu anh…


Ba tháng sau.

Nỗi nhớ thương giày xéo khiến cơ thể Dương cạn khô. Gạt nước mắt, cô tìm đến địa chỉ bức thư đã nhận. Bấm chuông cửa, người đứng trước mặt cô là bác sĩ Audrey.

- Phải chăng cô là cô gái Việt Nam Đông vẫn thường nhắc đến?

- Tôi là Thùy Dương, tôi muốn nhờ ông một việc.

- Cô vào đi.

Nhà bác sĩ Audrey là một căn hộ rộng, rất sạch sẽ, thoáng mát. Trong nhà có nhiều vật dụng gợi nhắc đến Đông. Cô gạt nước mắt, ngồi đối diện bác sĩ.

- Tôi có thể giúp gì?

- Tôi đến vì việc của Trương Thành Đông.

- Tôi biết, tôi rất đau lòng. Đông đã sống với tôi bốn năm, đối với tôi Đông như một người con.

- Tôi không thể sống thiếu anh ấy.

- Cô Dương, Đông đã đi rồi.

- Anh ấy chưa đi, linh hồn anh ấy vẫn ở lại. Chúng tôi vẫn nói chuyện với nhau hàng đêm. Nhưng tôi sợ rằng khi tôi mất đi, anh ấy sẽ sống cô đơn. Tôi biết ông học nhiều biết rộng, ông hãy sáng chế cho tôi một lời nguyền.

Bác sĩ tròn mắt.

- Tôi không biết việc cô đang kể là giả hay thật, nhưng cô biết trên đời này không hề có lời nguyền.

- Có, Dương quả quyết. Cô đưa cho ông một tờ báo, trong đó ghi một loạt những cái chết.


Lời nguyền Tippecanoe

Vào năm một840, William Henry Harrison lên nắm chức tổng thống Mỹ với khẩu hiệu “Tippecanoe và Tyler Too” (ám chỉ việc ông tham gia vào Trận chiến Tippecanoe năm một8mộtmột). Một năm sau, W Harrison qua đời. Kể từ đó, mỗi tổng thống được bầu lên đều ra đi khi vẫn đang ở trong nhiệm kỳ của mình.

Dưới đây là năm mất và nguyên nhân cái chết của các vị tổng thống: một840 (W Harrison - chết tự nhiên), một8sáu0 (Lincoln - bị bắn chết), một880 (Garfield - bị bắn chết), một900 (McKinley - bị bắn chết)

Hòn đá Björketorp

Đây là một trong số những hòn đá được tìm thấy tại tỉnh Blekinge, Thụy Điển có từ thế kỷ thứ sáu sau công nguyên. Chúng cao đến 4,hai m. Một số hòn xếp thành vòng tròn, trong khi những hòn khác đứng một mình. Trên hòn đá Björketorp có khắc dòng chữ:

“Ta, chủ nhân của những hòn đá che dấu sức mạnh của chúng tại đây. Anh ta sẽ ngập tràn trong tội lỗi xấu xa, phải chịu cái chết âm thầm nếu là người phá vỡ tấm bia mộ này. Ta tiên đoán được sự hủy diệt”.

Một câu chuyện được người dân địa phương lưu truyền có liên quan tới lời nguyền này đã từng được kiểm chứng và chứng minh là có thật. Cách đây rất lâu rồi, có một người đàn ông muốn dịch chuyển hòn đá để có thêm đất canh tác. Anh ta chất đống củi xung quanh để đun nóng, sau đó dội nước để làm vỡ hòn đá.

Tuy nhiên, không khí lúc đó cực kỳ lặng gió. Anh ta chỉ vừa kịp châm lửa thì một cơn gió đột nhiên xuất hiện chuyển hướng ngọn lửa khiến cho tóc của người đàn ông bốc cháy. Anh ta lăn lộn trên mặt đất để dập tắt lửa, nhưng nó đã lan ra quần áo và người đàn ông tội nghiệp đã chết trong đau đớn tột cùng.

Lời nguyền Pharaon

Nhắc tới lời nguyền trong các lăng mộ của Pharaon Ai Cập, người ta nghĩ đến những câu nói hàm ý sâu xa, cũng là những dự ngôn về tương lai xui xẻo, bất hạnh của bất kỳ ai dám xâm phạm, phá hoại lăng mộ. Lời nguyền không trừ một ai, phàm là những người từng động chạm, trộm cắp, làm hư hỏng lăng mộ và xác ướp đều có thể phải hứng chịu lời nguyền. Mọi xui xẻo sẽ xảy ra, từ chuyện rủi ro trong cuộc sống, tới những bệnh tật, ốm đau, thậm chí là mất mạng.

Lời nguyền của Pharaon thực sự bùng nổ khi mọi chuyện liên quan tới hầm mộ của vị vua trẻ nhất Ai Cập Tutankhamun được phát hiện, khám phá. Vị vua này lên ngôi vào năm một33hai trước CN khi mới lên 9 tuổi và băng hà vào năm một8 tuổi.

Cho đến nay, những lời nguyền trong lăng mộ của vị “ấu chúa” Tutankhamun vẫn luôn được hậu thế đem ra ngẫm nghĩ, phân tích, giải mã: “Kẻ nào dám quấy rối giấc ngủ của Pharaon, thần chết sẽ sà xuống đầu kẻ ấy” và: “Bất cứ kẻ nào vào mộ với tâm hồn đen tối, ta sẽ bóp cổ hắn như bóp một con chim”.


Đọc đến đây, bác sĩ đặt tờ báo xuống, nhìn sang người đối diện.

- Tôi không đủ hiểu biết để chế tạo lời nguyền, tôi chỉ là một bác sĩ và người giảng dạy.

- Ông có đủ, Dương khẳng định, những lời nguyền này đều làm từ hóa học. Ông đã nghiên cứu chất độc khá lâu, chỉ cần một chút tâm linh nữa.

- Vậy cô muốn làm lời nguyền gì?

- Một trăm năm sau, đứa chắt thứ nhất của tôi sẽ trở lại đây. Ông hãy cho linh hồn tôi nhập vào cô ấy để tiếp tục chuyện tình dang dở. Chúng tôi sẽ gặp nhau.

- Cô điên rồi

- Đông vẫn còn linh hồn. Anh ấy sẽ đến tìm ông, rồi ông sẽ biết.

Hôm sau, tại nhà Dương.

Có tiếng chuông cửa, giọng bác sĩ Audrey:

- Cô Dương, tôi đồng ý việc cô yêu cầu.

- Ông đã gặp Đông?

- Phải, Đông thật sự rất yêu cô. Tôi chưa thấy tình yêu nào mãnh liệt đến như vậy. Tôi sẽ cố gắng hết sức vì tình yêu của hai người. Cô cũng như con dâu tôi, cô Dương.

- Cám ơn bác sĩ.

...

Sau ba năm tiến hành thí nghiệm, dung dịch dần hình thành. Cầm lọ dung dịch, bác sĩ Audrey lặng lẽ đi qua các con đường trong khu Sean Villas. Ông kiểm tra rất cẩn thận sao cho không bị ai phát hiện, rồi mới rẽ ngoặt.

Một bóng đen đứng trước mặt ông, rồi hai, ba bóng nữa dần xuất hiện. Bác sĩ lùi dần. Đằng sau ông lại một bóng đen nữa. Bác sĩ quay ngoắt lại.

- Tay chân của Natar vẫn còn ư?

Những gương mặt nhìn ông gườm gườm. Bác sĩ hốt hoảng, ông cầm chặt lọ dung dịch, cắm đầu định chạy. Một bàn tay bóp chặt lấy cổ ông.

- Đưa cho chúng tôi lọ thuốc, bác sĩ Audrey.

- Anh là ai?

- Binh lính trung thành của Natar, chúng tôi biết ông đang điều chế lời nguyền cho gã Ryan.

- Các ông muốn gì?

- Muốn giết Thùy Dương và để linh hồn tên đó mãi mãi không yên ổn.

- Các ông giết tôi đi, đừng làm như thế.

Một làn hơi thoảng qua trên chiếc khăn bịt mặt, bác sĩ Audrey ngất lịm. Trong gió thoảng qua tiếng người đanh thép:

- Chúng ta giết hắn đi.

- Hắn vẫn còn cần dùng, cứ để hắn toàn mạng.

...

- Dương, Dương ơi.

Một giờ đêm, có tiếng gọi nhỏ. Dương đi ra, bóng bác sĩ Audrey in trước cửa.

- Thùy Dương, cô phải trốn đi.

- Có chuyện gì vậy?

- Bọn Natar đã lần ra cô, cô phải đi ngay, và uống cái này vào. Thật may là tôi đã đoán ra tình thế và chuẩn bị hai lọ thuốc. Nếu không, giờ này chúng ta nguy to rồi.

Dương khó hiểu:

- Người Natar là ai? Bác sĩ…

- Là một trong hai đảng phái bí mật đã bại trận. Mười năm trước, Natar và Fog – tên hai tổ chức, thường xuyên đối đầu nhau và gây ra những vụ thảm sát bằng chất độc hóa học rất tàn độc. Đông từng làm việc cho quân đội Natar, chính Natar đã xử tử Đông để bịt miệng.

- Trời đất!

- Tình báo Natar đã lần ra chỗ chúng ta. Bọn chúng vừa lấy lọ lời nguyền có độc dược. Uống vào, chúng sẽ trở thành những con quỷ xấu xí. Với Fog, cô không phải lo, vì bọn chúng chưa điều tra được gì cả.

- Bác sĩ, chuyện này rất nguy hiểm.

- Cô yên tâm. Một trăm năm sau thân thể cô vẫn sẽ trở lại đây và gặp Đông. Lời nguyền sẽ hoàn thành tác dụng. Nhưng giờ cô phải đi ngay.

- Nhưng…

Rút trong túi một tấm giấy, ông nhét vào tay Dương:

- Đây là địa chỉ một người thân thích của tôi ở Việt Nam. Viên thuốc này có thể bảo vệ cô an toàn nhưng vẫn nên tránh xa những con quỷ đói đó. Hãy cẩn trọng.

Đợi Dương uống thuốc xong và cửa đóng lại, bác sĩ Audrey tần ngần. Gạt nước mắt, quay lại nhìn lần cuối cùng. Ông vớ lấy chiếc súng, lẩm bẩm lần cuối trước khi giương súng lên, tự sát.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Hà Miz

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
7/12/13
Bài viết
16
Gạo
0,0
PHẦN III. TRỘM CỔ VẬT

Minh Nguyệt Hội là băng nhóm trộm mộ, đã từng tổ chức các vụ trộm từ thành phố đến bang Y. Nơi đâu có cổ vật, nơi ấy chắc chắn là địa bàn để Minh Nguyệt càn quét.

Nhận được cuộc gọi của ông Khiên, A Tung bồn chồn. Anh biết lại sắp có chuyện. Có lẽ ngôi mộ cổ nào đó vừa được báo chí khai quật hay kho báu nào đó đã được phát giác. Ông Khiên là chủ tiệm buôn đồ cổ, rất có uy tín và là người đứng đầu Minh Nguyệt Hội. Từng chiếc tách, chiếc ấm uống trà có niên đại hàng trăm năm xuất hiện ở tiệm, là do ông cầm đầu Minh Nguyệt đi trộm được. Đây là một trong ba nhóm trộm mộ cổ có tiếng trong cả nước, hai hội còn lại là Đông Thanh Hội và Tây Nam Hội, địa bàn ở phía Đông và phía Tây Nam. Giống như Đông Thanh Hội và Tây Nam Hội, Minh Nguyệt cũng thường tổ chức những chuyến đi xa để dò tìm cổ vật, nhưng cách thức tổ chức và địa bàn hoạt động có chút khác. Bởi là Minh Nguyệt, nên chỉ làm việc khi có trăng sáng. Bề ngoài là dân phượt, nhưng bên trong âm thầm mang theo các dụng cụ đào đất, xới huyệt. Chủ nhóm, ông Khiên là thủ lĩnh nhạy bén nhất trong ba nhóm, có biệt tài đánh hơi cổ vật từ xa. Gọi vào thời điểm này tất có chuyện.

A Tung cầm điện thoại, lặng lẽ đi vào nhà. Điện thoại rung bần bật, vang lên tiếng tin nhắn: 7 giờ tối mai ở địa điểm cũ, không được đến muộn.

A Tung lặng lẽ thở dài. Lão Gia – Người già nhất bản đem đôi mắt lạnh sắc nhìn chòng chọc: Có chuyện gì à?

Con mụ điên cười ré lên: Đi, lại đi. Ha ha ha, đi hết, cút hết, chết hết.

Lão Gia giương đôi mắt lờ đờ, tiếp tục hỏi: Có đúng là lại đi?

A Tung gật đầu. Lão Gia lặng lẽ thở dài, chắp hai bàn tay gân guốc khấn phật. Một hồi lâu mới ngẩng lên, nói nhỏ:

- Bản đã không thể cho anh cái ăn, cái mặc, âu cũng là cái lỗi của chúng ta. Nhưng đừng quên, ác giả ác báo. Tội ác anh làm, em gái anh phải gánh. Đừng để thêm người thay anh chịu phạt nữa.

- Giết người. Ta đã sống dậy. Quân giết người.

Căn nhà vang lên tiếng loảng xoảng của dao chém. Cô em gái đầu tóc lòa xòa, cầm dao chặt củi chém thật mạnh vào bình sứ. Bình nứt toác ra, bên trong còn vương vài giọt máu. Máu chảy xuống thành bình, rồi theo vết vỡ lan ra sàn. Chỉ một loáng, mặt sàn nhuốm đỏ.

Nhìn cảnh tượng đó, Lão Gia thất kinh. Ông hổn hển gọi: A Bang, đưa con bé xuống hầm trói lại. Thu dọn hết các mảnh vỡ và lau sạch vết máu, đừng để sót một giọt nào trên sàn.

Một chàng trai trẻ đen đúa, đóng khố dân tộc khúm núm bước vào. Lão Gia cúi xuống nhìn những mảnh vỡ, tay bắt đầu run rẩy…

Quay sang A Tung, Lão Gia như cầu xin: Anh có thể không đi được không? Bình vỡ là điềm gở, lại có máu rơi vãi, chắc chắn có cảnh máu chảy đầu rơi. Ta có linh cảm, việc này liên quan đến vụ một trăm năm về trước. Cái bình này là cụ cố anh để lại. Chúng ta chịu khổ một chút cũng không sao. A Tung, lần này không đi có được không?

A Tung ngạc nhiên hỏi: Tộc trưởng, thế nào là vụ một trăm năm về trước? Ông chưa hề kể cho cháu.

Lão Gia nhìn vết máu đã được lau sạch, giọng run run: Là chuyện của đời cụ cố anh. Một trăm năm về trước, ông ấy cứu sống một cô gái tên là Dương. Từ lúc cô ấy về những chuyện kì lạ liên tiếp diễn ra, rồi bản ta gặp hiểm họa.

Chỗ chúng ta vốn là một bản nhỏ trên núi Kmư Yang. Đây là ngọn núi có nhiều động thực vật quý hiếm. Đường lên núi khá khó khăn nên chỉ dân leo núi chuyên nghiệp mới dám thử. Chúng ta sống ở lưng chừng núi. Một ngày âm u, khi đi hái thuốc, cụ anh- cũng là bạn chí thân của cha ta, gặp một cô gái tóc đen vô cùng diễm lệ, ngất bên khe núi. Cô ta bị thương, váy áo cũng rách tơi tả. Tay chân xây xát, máu chảy thành ròng, như thể vừa bị đánh đập rồi chạy trốn từ nơi xa lắm.

Lúc đầu, cụ ấy tưởng cô ấy leo núi lên đây, kiệt sức mới ngã ở nơi này. Nhưng nhìn cô gái chân yếu tay mềm không có vẻ gì là người leo núi, lại không trang bị đồ dùng dự phòng. Nhìn sang bên cạnh mới biết cô ta nhảy dù xuống. Trước có mấy anh bộ đội cũng nhảy dù kiểu này nên nhìn qua cụ đã hiểu. Cô ta rất can đảm. Chắc máy bay gặp sự cố nên mới dùng cách bất đắc dĩ này. Chân tay xước xát thế kia, chắc chắn nhảy từ độ cao khủng khiếp lắm. May có rừng cây làm lá chắn, nên mới không nguy hiểm tính mạng.

Cụ đưa cô ta về. Chăm sóc tử tế, một tháng sau dần dần bình phục, cô ta chỉ nói được chữ Dương, chắc tên cô ta là vậy. Sau rồi mọi người đặt cho cô ấy cái tên A San, nghe cũng từa tựa như tên cũ. Cô ấy có vẻ hài lòng.

A San không biết ngôn ngữ của bản, nhưng giao tiếp bằng tay rất tốt. Cô ấy nhanh nhẹn hoạt bát, khuôn mặt khả ái, dáng vẻ diễm lệ, nên biết bao trai bản ngẩn ngơ, trong đó có cụ anh. Mặc dù đã có vợ và con trai- là ông anh, nhưng cụ ấy vẫn âm thầm quan tâm A San. A San không thể ra nắng, nhất là nắng to, hàng ngày cô ấy chỉ ở loanh quanh lều, chăm lo cơm nước. May chúng ta sống giữa rừng, có cây lá chắn, nên việc này không ảnh hưởng. Nhưng từ khi cô ấy đến, bản ta bắt đầu có sự thay đổi. Rất nhiều chuyện kì dị diễn ra, những bóng đen quỷ quái từ đâu xuất hiện, tất cả đều liên quan đến một cái bình. Một buổi tối, khi A San ra ngoài, những bóng đen bỗng dưng tiến đến, chúng ép cô ấy giao chiếc bình đó ra…

Giọng Lão Gia gia run rẩy, dường như mất hết sức lực:

Đó là một cái bình nhỏ, cầm tay được. Hoa văn, họa tiết rất cầu kì. Bên trong đựng gì ta không rõ, nhưng chiếc bình vỡ này được tạc y nguyên bình nhỏ ấy, chỉ kích thước lớn hơn thôi. Nó chắc chắn đã rơi vào tay cụ nội anh. Để bảo vệ A San, ông đã giúp cô ấy giấu nó. Cô ấy ra đi, cụ ấy cũng đi theo, từ đó mất tích.

Cha ta và mọi người đã tốn rất nhiều công sức để tìm người bạn chí thân, kể cả xuống xuôi dò hỏi, nhưng vô ích. Rồi ông anh lớn lên, bản ta rơi vào bàn tay thần Lửa, cháy rụi. Cha ta, ông anh và một vài người chạy thoát xuống xuôi, đem theo cái bình này. Không hiểu sao, lúc ấy ta cứ cảm giác cái bình này chứa rất nhiều điều bí mật, nên sống chết mang đi. Rồi ta lớn lên, ông anh lấy vợ, sinh con, cuộc sống lại tiếp diễn. Cha anh vì không có tiền nuôi con nên đi làm thuê, bị đánh đập đến chết. Mẹ anh đau đớn, ít lâu sau cũng từ giã cõi đời. Ta cùng một vài người còn lại nuôi các anh lớn lên.

Tuy chuyện xảy ra đã lâu, nhưng những hình ảnh ấy, ta không sao quên được. Mọi thứ đều liên quan đến cái bình. Đó là cái bình nhỏ mà cụ ấy mang đi, rồi mất tích.

Giọng Lão Gia khản đặc, A Tung sững người, nhìn theo mảnh vỡ của chiếc bình đã được đem đi, lòng có những dự cảm không lành. Điện thoại lại rung lên tiếng tin nhắn: Bảy giờ tối mai ở chỗ cũ, nhớ mang theo dụng cụ.

- Anh cứ suy nghĩ cho kĩ. Việc lần này không thể làm bừa. Em gái anh đã vậy, anh là giọt máu duy nhất của bản Ktu, không thể gặp nguy hiểm.

Lão Gia nén xúc động hồi lâu rồi đi vào phòng, để mặc A Tung đứng nhìn điện thoại đang lóe sang, bần thần

Dù thế nào anh cũng phải đi. Đây là số mệnh, không được phép ngăn cản.

A Tung nhớ những ngày đầu đến Minh Nguyệt, anh chỉ là kẻ đi khuân vác thuê. Chính ông Khiên – chủ hội Minh Nguyệt là người đã thu nhận anh. Ông Khiên có một tiệm buôn đồ cổ. Ban đầu, nhiệm vụ của A Tung chỉ là tháo dỡ các đồ quý giá ông Khiên đem tới. Qua các lần nghe ông Khiên bàn bạc, anh mới biết đó là đồ trộm cắp và ông Khiên là tay trộm mộ lão luyện. Rồi dần dần, anh đi theo, trở thành một phần của Minh Nguyệt Hội. Công việc chính là đánh hơi, thám thính công an, chờ đồng bọn cạy mộ và mang vác cổ vật an toàn trở về.

Anh đã làm việc này tròn năm năm, đã vác trên vai vô số cổ vật, tiếp xúc với không ít máu và xác chết, nhưng chưa lần nào thấy sợ như lần này.

Có thể có điềm báo gì chăng? Lẽ nào chuyện Lão Gia kể là đúng. Nếu vậy thì, cụ nội đã đi đâu? Việc trộm mộ lần này liệu có liên quan đến chuyện một trăm năm trước? A San là ai?

Phía trong vẫn còn tiếng lầm rầm, mụ điên không la hét nữa mà cất tiếng khóc nỉ non: Trời sinh núi, người sinh tình. Qua sông qua núi, lịch sử mở ra, số mạng chấm dứt.

Oan nghiệt! Thật oan nghiệt!

A Tung lắc lắc đầu, đi vào bên trong chuẩn bị. Trong nhà kho nằm sâu dưới hầm ngầm, đồ đạc đào mộ và một vài cổ vật lấy từ những phi vụ trước theo bàn tay dần dần hiện ra. Trong đó có một chiếc gương. A Tung lựa đồ đạc cần thiết cho vào túi, còn chiếc gương, anh chỉ soi một chút rồi để lại như cũ. Chiếc gương này lấy từ mộ của một vị quan Thái Sư giàu có thời xưa, nghe đồn soi được cả ma quỷ. Anh đóng nắp rương đựng đồ, ra phía ngoài khóa cửa nhà kho, không để ý mặt gương từ từ rịn ra đầy máu.

...

- Tránh xa nơi đó! Tránh xa nơi đó!

- Ông nội – A Tung hốt hoảng kêu lên. Trong bóng tối mờ mờ, một người đàn ông đóng khố dân tộc Ktu, tay cầm cái bình nhỏ, mặt mũi trang nghiêm hệt cha anh xuất hiện. Thân thể người ấy đầy máu. Người đàn ông lầm bầm một câu rồi trút hơi thở cuối cùng. Chiếc bình trong tay được thả lỏng, rơi xuống sông. Dòng nước vừa trôi đi thì những bóng đen từ đâu xuất hiện. Chúng dùng cái móc sắt xiên qua xác, moi hết gan ruột, kiểm tra gì đó rồi đẩy xuống dòng thác lạnh.

- Mẹ kiếp! Không thấy thuốc giải.

Chúng chửi thề nhìn xác chìm dần, ánh trăng rọi xuống làn máu loang đỏ. Cái bình bị dòng nước cuốn đi, trong bóng tối mờ đục đã mất dạng, dẫu có soi đèn cũng tìm không thấy. Một lát, chúng bỏ lại hiện trường, kéo nhau đi.

Chiếc bình theo dòng nước chảy xiết, trôi ra khúc sông lớn, rồi lững lờ, lững lờ đi đến một vùng đất trống, ngoài đề biển: Nghĩa trang Nam Thi.

A Tung ngồi dậy thở hổn hển. Giấc mơ quái đản khiến đầu anh đau như búa bổ. Anh đang đọc báo, không hiểu sao lại ngủ luôn giữa chiều thế này. Mọi khi đây là giờ anh đi làm, hoặc không cũng ở nhà cùng A Bang chuẩn bị cơm nước. A Bang là một cậu bé đáng thương. Cha mẹ mất sớm, phải xin ăn qua ngày. A Tung cùng tộc trưởng giữ cậu bé lại trông coi việc nhà và chăm nom em gái.

Em gái sinh đôi của anh - Lam Lan - vốn là cô gái khỏe mạnh. Hồi nhỏ con bé rất ngoan, biết nấu cơm, chẻ củi, đun nước, quét nhà chờ anh A Tung về. Miệng nó líu lo khiến cả nhà vui lây. Từ khi anh đi trộm cổ vật, nói đúng hơn, là từ khi anh mang chiếc gương cùng một vài cổ vật từ mộ về. Lúc đầu Lam Lan thích lắm, nó lấy gương soi suốt ngày, để cả trên giường lúc ngủ. Nhưng một ngày, không hiểu do ma trêu quỷ ám gì, nó bỗng dưng bần thần, nói lảm nhảm như người điên. Bất cứ cổ vật nào đem về đều bị nó dùng dao chặt củi chém cho bằng hết, phải dồn lại giấu trong rương ở nhà kho dưới hầm ngầm. Rồi nó xé quần áo, để tóc tai rũ rượi, thỉnh thoảng lại đóng vai người xưa sống dậy. A Tung phải giấu hết dao cùng các đồ nhọn, không cho con bé động vào. Vậy mà không hiểu tại sao nó tìm được, chém vỡ bình sứ từ đời cụ nội.

Nhưng việc Lão Gia nói là thế nào? Chẳng lẽ việc chém vỡ bình sứ thật sự là điềm báo? Sự việc hôm nay sẽ mở ra những bí mật gì? Dương là ai?

A Tung nhìn đồng hồ. Sắp đến giờ! Anh với lấy cái túi chuẩn bị sẵn, mặc quần áo nghiêm chỉnh như người Kinh. Vào phòng trong thấy Lam Lan bị trói đứng trên cột, tóc tai xõa xuống, miệng không ngừng khóc than rên rỉ. Ngừng lại một lúc, anh trấn tĩnh tinh thần rồi đóng cửa ra ngoài.

Tiếng khóc vẫn nỉ non như oán như than: Trời sinh núi, người sinh tình. Qua sông qua núi, lịch sử mở ra, số mạng chấm dứt…

...

Mấy hôm nay thôn Uông có dấu hiệu lạ. Một đoàn khách thập phương đến thuê trọ bao hết lầu hai. Họ đi không đông, khoảng mươi người, trong số đó có cả người dân tộc, hành động mờ mờ ám ám. Người ta hỏi, họ bảo là dân khuân vác, thấy đồ ở đây rẻ nên mua về bán lại cho mấy người ở quê. Nhưng theo tin tức từ ông chủ nhà trọ, lúc mới đến, họ hỏi rất kỹ đường đến nghĩa trang Nam Thi. Lạ ở chỗ, nghĩa trang Nam Thi là địa bàn ma quỷ. Cả thôn này lẫn các thôn lân cận ai cũng biết, chui đầu vào đó là vào hiểm họa.

Lão chủ trọ đã trố mắt khi nghe thấy họ bàn tán đến nghĩa trang Nam Thi. Lão run rẩy nhớ lại một năm về trước, trong số người thuê trọ nhà này, có một người cả gan mò đường đến nghĩa trang Nam Thi tìm tư liệu. Đó là một nhà báo. Có lẽ hay tin nơi này có ma, vì nửa tin nửa ngờ, nên mới xông pha vào nguy hiểm, kết cục là khùng khùng điên điên, da dẻ lúc trở về tái xanh, mặt cắt không còn giọt máu, một thời gian sau thì chết. Ông lão định khuyên mấy người lầu trên, vì trong số họ, cũng thấy mấy người dáng vẻ hiền lành, ông không muốn họ chuốc họa vào thân, nhưng cứ đề cập đến là họ kiếm cớ lảng đi, hoặc người đứng đầu nhăn mặt không hài lòng. Ông hơi sợ. Nói là dân lao động, nhưng những người này phân theo thứ bậc. Người bậc cao ngồi trên, bậc thấp ngồi dưới; hoạt động, ăn nói rất có tôn ti, tổ chức. Ông không dám động vào. Hơn nữa, họ bao hết lầu hai, lên đó là chạm vào địa bàn của bọn họ. Mà thuê hai tuần. Giờ mới năm ngày, họ đã rục rịch đóng cửa, có lẽ sắp đi đến nơi ma trêu quỷ ám ấy.

Sang ngày thứ sáu, đúng sáu giờ chiều, họ họp nhau lại, mang hết xẻng cuốc, đi về hướng nghĩa trang Nam Thi. Sự “thấy” này là tình cờ, bởi chỉ mình ông lão bỏ công suy đoán mục đích của bọn họ, nên mới để ý đường đi nước bước. Lối sống, hành tung kì quái thế này, không buôn hàng cấm thì cũng trộm mộ. Nhưng trộm mộ đến nghĩa trang Nam Thi làm gì? Chỗ quỷ ám này có vật báu gì mà khiến bọn trộm để tâm? Hay bọn họ cũng chỉ như anh phóng viên kia, đến đó để tìm kiếm tin tức?

Ông nghĩ mãi không tìm được câu trả lời. Lúc định qua hỏi, thì họ đã đem hêt đồ đạc, cả mươi người dẫn nhau đi. Lúc đó là sáu giờ chiều, trong phòng trống trơn, không để lại người trông coi phòng. Đứng trên tầng cao ngó ra ngoài, họ đi con đường đến nghĩa trang Nam Thi. Nơi nguy hiểm thế mà họ coi như đi lao động, không biết lúc trở về có bị gì không? Ông lão thở dài: Họa may thì được một người lành lặn; tất cả những người đến đó, tuyệt hiếm người nào sống sót.

...

- Tránh xa nơi đó, tránh xa nơi đó.

- A Tung! Lão trưởng Khiên gọi. Trong ráng chiều mờ mờ, A Tung đi như người mất hồn, miệng lảm nhảm “không, không”. Lảo trưởng phải gọi mãi, rồi đập tay vào đầu mới tỉnh. Bị chạm vào đầu, A Tung giật mình: Lão trưởng đang nhìn chòng chọc. Anh lắc lắc đầu, tự véo tai để thôi nghe những lời trong mơ vọng tới, nhưng vẫn không sao dứt. Anh tự tát vào mặt, lại véo tai thật đau. Một lúc, tiếng nói mới nhỏ dần, lát sau im hẳn.

Anh cố chen lên hàng người đi đầu, đi giữa con đường đầy sỏi đá, hai bên là hàng cây xanh xanh. Đường đi uốn lượn, gấp khúc, ngày càng lùi sâu vào rừng. A Tung nhìn quanh quất: Không một tiếng chim kêu, cả lũ côn trùng rả rích thường thấy trong những cánh rừng vắng cũng câm bặt. Cảm thấy điều gì không ổn, anh quay ra bảo với lão trưởng. Ông Khiên cũng nhận thấy dấu hiệu lạ nhưng vẫn khoát tay, tỏ vẻ bình thường. Cả đoàn người lại dẫn nhau đi.

Đoàn đi chừng hai tiếng thì đến chân một ngọn đồi cao, địa thế hiểm trở. Nơi đây càng có vẻ hoang vu, vắng lặng. Nghĩa trang Nam Thi nằm cách mặt đất một trăm năm mươi mét. Đường đi gập ghềnh, khúc khuỷu và dốc, phải bám vào dây leo chằng chịt ven đường. Không biết ai đã xây nên nghĩa trang mà đặt nó ở nơi quỷ không hay, người không biết, và cũng không hiểu nghĩa trang này chôn những ai mà đặt ở vị trí vô cùng hoang sơ này. Đó là đỉnh một ngọn đồi, bên trên còn có một dãy núi, xen giữa là dòng thác nhỏ lượn từ đỉnh núi xuống chân đồi. Nghe người dân nói là núi Kmư Yang – ngọn núi huyền thoại. Nếu là người tốt sẽ được thần linh cứu giúp, người xấu sẽ bị quỷ bắt đi. Ngày thường không ai dám đi qua cánh rừng chứ đừng nói đến lên đỉnh đồi và leo lên núi. Số ít những người có gan đến đó, tất cả đều gặp tai họa.

A Tung nghe hết những điều này từ ông chủ quán trọ và cả người dân quanh làng. Anh dám chắc rằng lão trưởng Khiên và mọi người không thể không biết: Chuyến đi này nguy hiểm hơn họ tưởng. Không hiểu những thứ đồ quý giá kia có làm vơi đi nỗi đau mất sinh mạng của các anh em? Ông Khiên là người đào mộ giỏi. Nếu làm nhà khảo cổ học, ông có thể sẽ tìm thấy hàng ngàn báu vật cho quốc gia, tiếc là trở thành cầm đầu băng nhóm trộm mộ. Nhưng tài năng và thính nhạy như ông Khiên, dám bất chấp nguy hiểm để đi vào nơi khỉ ho cò gáy, mặc lời cảnh báo của mọi người, ắt hẳn ở đây phải có báu vật hay thứ gì ghê gớm lắm. Anh hơi tò mò, thứ đó là thứ gì? Liệu nó có liên quan đến câu chuyện từ trăm năm kia?

Càng nghĩ A Tung càng thấy khó thở. Linh cảm mảnh đất hoang vu kia sẽ lật tung một điều gì đó kinh khủng, anh hơi chân chừ nửa đi nửa muốn quay lại. Báu vật rất quý giá, nhưng những giấc mơ và lời cảnh báo của tộc trưởng cũng không thể xem thường. Có thể sẽ xới tung một quá khứ đã ngủ yên, động chạm đến những điều không nên thấy. Nhưng đã chót đến đây, dù cùng đường cũng không thể quay lại. Nơi đây cách làng quá xa, trời đã tối, ánh trăng rọi khắp đường đồi, một thân một mình đi lúc này còn nguy hiểm hơn. Họ có khoảng mươi người, dù gì vẫn có thể bảo vệ nhau. Ở đây còn có lão trưởng Khiên. Một người dày dạn như lão, việc xảy ra dù là gì, tất có đối sách. Vả lại, nếu có thể tìm ra tung tích của ông nội, dấn thân vào hiểm nguy cũng là điều nên làm. Đã rất nhiều năm trôi qua, dù ông nội còn sống hay đã mất, xương cốt của ông cũng nên về với dòng họ. Kia là ngọn núi Kmư Yang. Nếu đúng như tộc trưởng nói, A Tung sắp về với làng, về với nguồn cội.

Nghĩ đến đó, A Tung bắt đầu hít thật sâu để hơi lạnh tràn đầy lồng ngực. Anh quyết định tiến sâu, không chỉ lên đỉnh đồi mà còn lên cao nữa. Đây là quê hương anh, nơi đây có một thời kỉ niệm của tộc trưởng. Anh sẽ thu nhặt lại tàn tích của ngôi làng xưa cũ, sẽ tìm lại hài cốt người thân. Dù năm tháng qua đi, trong lòng tộc trưởng có lẽ vẫn đau đáu nhớ nhung những kỉ niệm. Anh biết điều đó không chỉ qua ánh mắt, giọng nói, mà còn từ cừ chỉ âu yếm thân thương của tộc trưởng mỗi khi mở lại kỉ vật, đôi lúc ngây lại khi thấy dáng dấp A Tung có nét giống hệt người bạn chí thân. Nếu mang được, dù chỉ một mảnh tàn tích trở về, tộc trưởng hẳn sẽ vui lắm.

Anh xăng xái đi cùng tốp dẫn đầu đoàn người. Được ánh trăng dẫn lối, họ đi rất nhanh, thoáng chốc đã ra khỏi đường không người. Lúc này, đường đi khúc khuỷu ngày càng mở ra, đưa tới con đường mòn thẳng tắp có dấu chân. Ánh sáng trên cao đưa lối khoảng mươi con người, ngày càng tiến sâu vào. Đá dưới chân lạo xạo. Chừng năm phút sau đi tới chân một con dốc. Con dốc không quá thẳng đứng, nhưng cao. Đất bên trên bao trọn. Có lẽ là con đê bao quanh khu mộ. Xem chừng lần này đã tới!

A Tung cùng mọi người bám vào nhau leo lên để không bị tuột. Khi lên phía trên, lần lượt phủi bụi áo quần, chiếm trọn tầm nhìn của họ là cảnh tượng trước mắt:

Ánh trăng rọi xuống làm nghĩa trang rộng thênh thang, và bừng lên vẻ kì ảo. Từng phần mộ nhô lên được ánh sáng bên trên phản chiếu trông như những cây thánh giá ngàn năm đang phát ra ánh hào quang rực rỡ, sáng lòa. Tất cả những thứ này được thu gọn trong một khu đất rộng cạnh sông, phía trên là dòng thác sừng sững đổ xuống, trên nữa là ngọn núi Kmư Yang oai hùng. Cả đoàn sững sờ. Lâu lắm rồi mới thấy một cảnh tượng đẹp hùng vĩ đến vậy. Lão trưởng Khiên cũng ngây người. Sau đó bọn họ đồng loạt dụi mắt, kéo nhau đi.

Cả đoàn bước xuống chân đê, đi vào con đường đất dẫn đến cánh cổng. Từ xa đã thấy cánh cửa ghỗ màu nâu ọp ẹp. Khi bọn họ nắm lấy cửa mở ra thì ánh hào quang vụt tắt.

Vầng trăng sáng lung linh thu mình trong đám mây đen kịt, chỉ thấy vài tia sáng hắt ra le lói. Xung quanh tối đen, lặng như tờ. Lũ dơi nãy giờ ẩn mình trong lùm cây được dịp bay loạn xạ, phát ra những âm thanh đinh tai nhức óc. Nhìn từ xa đầy ắp cảnh huy hoàng, nhưng càng tới gần càng thấy đầy tà khí. Có thể ngửi thấy mùi xác chết, mùi máu tanh nồng bốc lên từ đám đất. Phải kìm chế lắm mới không há miệng nôn ra. Đất bị xới tung, quả thật rất kì lạ. Nghĩa trang là nơi chứa xác người, xác người dù mới chết cũng phải được chôn cất cẩn thận, ở đây lại có mùi máu tươi. Hơn nữa nhìn sơ qua thì nơi này gần như không có người. Xác để lâu cũng thối rữa ra mới phải. Mà sao mùi trong đám đất vẫn tươi mới, hệt như vừa có bữa tiệc máu người giữa đêm vậy.

Mọi người vừa giữ chắc nút đèn pin, vừa chậm rãi đi vào. Đám dơi vây quanh bay toán loạn như chắn lối. Trời tối om không thấy rõ mặt người, nên cứ chầm chậm soi đèn bước đi. A Tung cũng không nhận ra được lão trưởng Khiên ở đâu trong đoàn người thậm thụt này. Anh cẩn thận nhắm hướng trước mặt mà tới. Nghĩa trang quá rộng, lại nhiều khu mộ, nhiều ngã rẽ, nên chẳng mấy chốc bọn họ dần bước xa nhau. Sương đêm bao phủ. Không khí lạnh bỗng chốc ùa về. A Tung chợt run lên.

Đột nhiên có tiếng nói lào xào, tiếng gào thét của ai đó bỗng xé lên, tiếng lão trưởng Khiên vang lớn:

- Mọi người cẩn thận, tập hợp lại.

A Tung vội vã đi ngược trở lại con đường cũ. Tiếng thở phì phò gấp gáp vang lên mỗi lúc một gần. Cho đến khi ba, bốn cái lưng đập vào nhau thì cảnh tượng kinh hãi hiện lên trước mắt.

Trong thứ ánh sáng mờ mờ, ba, bốn chục cái bóng thi nhau bay qua bay lại. Những cái bóng rách rưới lộ xương xẩu dài ngoằng, đen đúa. Tóc dài xõa xuống, tung bay. Đôi mắt trắng dã. Một vài giọt nước từ trên rơi xuống, trong làn ánh sáng mờ mờ thấy nhòe nhoẹt những máu.

Đoàn người túm lấy nhau, tay ai cũng toát mồ hôi hột, răng lập cập nói không ra tiếng. Trong lúc nguy cấp không thấy lão trưởng Khiên, còn những bóng ma kia sau khi bay ngang dọa nạt đã đồng loạt hạ xuống, giơ bàn tay đen đúa tiến gần, một số đứa thậm chí còn đưa tay quệt ngang miệng tỏ vẻ thèm muốn. Máu và nước dãi từ miệng chúng rỉ ra. Nhìn kĩ trong miệng và tay vẫn còn sót lại những mảnh hôi thối của tử thi. A Tung bỗng nhớ ra vài dấu chân người đáng ngờ trên con đường nọ. Chỉ có dấu chân, không có xác, là chết mất xác, là bị ăn thịt.

A Tung ôm đầu day dứt: Là mình không nhận ra sớm khi đến đây. Những dấu chân vào rất nhiều, nhưng không hề có dấu vết quay ra. Lại nữa, rõ ràng có đường vào, nhưng cả khu im phắc không một bóng người. Biết là đi tìm cổ vật, nhưng không cần phải liều lĩnh đến thế. Mình có thể không nhận biết được, nhưng lão trưởng Khiên… Lão trưởng! Anh gọi to. Nhưng ngoài những bóng ma, bóng dáng lão trưởng tuyệt nhiên không xuất hiện.

Lão trưởng! A Tung tiếp tục gọi, nhưng lần này muộn mất. Cái bóng trắng dã vươn ngón tay đen xì móc vào người anh em bên cạnh. Nó nâng cả cơ thể khỏe mạnh cường tráng dễ dàng như lấy một chiếc đũa, rồi cứ thế thọc miệng nhai từng bộ phận, ngon lành như ăn một bữa tươi. Xong xuôi, nó hướng đôi mắt đỏ ngầu tới A Tung, trong khi bọn ma bên cạnh tiếp tục xử lý những người còn lại. Từng khẩu xương xẩu dần tiến đến, nhưng khi A Tung nhắm mắt, chấp nhận một cái chết kinh hoàng thì ngón tay bỗng rụt lại. Con ma bỗng lóa mắt, mất đà, loạng choạng bay lên cao, rồi biến mất.

...

A Tung mở mắt, chưa kịp định thần thì nghe tiếng cười chói tai vọng lại: Ha ha ha

A Tung nổi da gà, quay đầu về hướng có âm thanh thì nhận thấy có những vệt trăng trắng từ đâu đột ngột phát ra. Vệt sáng chiếu đến đâu, lũ ma buông người ăn dở, loạng choạng chạy đi đến đấy. A Tung dụi mắt, chưa hết ngờ vực thì đằng xa, một cô gái váy trắng cùng mái tóc xõa tung đang cầm gương tiến lại. Cô gái vừa cười điên dại, vừa cầm gương hắt ánh sáng làm chói mắt lũ ma. Ánh sáng chói lòa chợt hắt lên mặt cô gái, hiện rõ đôi mắt trắng đờ đẫn và khuôn miệng dài dại. A Tung hốt hoảng nhận ra: Lam Lan. Nó mang chiếc gương cổ của vị quan Thái Sư giàu có, một mình đi vào rừng. Rõ ràng trước lúc đi, anh đã trói nó chắc chắn trên cột. Nhưng đôi mắt ấy, khuôn miệng ấy, có gì đó không bình thường, như bị quỷ ám. Chiếc gương đã dẫn con bé về đây? Lam Lan! A Tung luôn miệng gọi nhưng con bé dường như không nghe thấy. Nó bị một sức mạnh vô hình nào đó kéo đi, vừa bước qua các tử thi bị ăn dở, vừa cười như điên dại. A Tung vừa đuổi theo, vừa chú ý đến một loạt tiếng sột soạt. Theo dấu chân Lam Lan, bóng lão trưởng Khiên hiện dần từ xa, cạnh thác nước. Lão đang đào bới gì đó. Lam Lan bước đến, đẩy ngã lão trưởng Khiên, rồi dùng sức mạnh đang điều khiển mình vục tay xuống, đào bới từng nắm đất cát.

A Tung băn khoăn không hiểu hai người tìm gì, thì mắt Lam Lan chợt lóe lên. Chiếc gương cổ động đậy liên hồi. Nó hùng hục đào xới, trong khi chiếc gương càng ngày càng phát sáng dần. Đôi mắt A Tung mở to, bên kia lão trưởng Khiên vừa bị đẩy ngã cũng há hốc miệng đứng im như pho tượng. Đất bị xới lên thành một cái hố rộng, trong đống đất dần hiện ra từng đường nét hoa văn nhỏ. Đào bới nữa, thì ra rõ một cái bình, giống hệt như cái ở nhà anh đã bị vỡ. Lúc này chiếc gương xoay chuyển dữ dội. Cả làn ánh sáng của nó hắt lên thành bình tạo thành một vùng sáng ghê rợn. Lam Lan cười tươi trong ngây dại, cô đưa chiếc bình quý lên, khẽ hôn vào từng đường nét. Trong khi làn ánh sáng vẫn tiếp tục bao quanh như muốn nuốt chửng.

- Tránh xa chúng ra, Lam Lan!

Một tiếng gọi thảng thốt vang lên. Lam Lan giật mình, vứt cả bình cả gương ra bên cạnh. Nhưng muộn rồi, làn ánh sáng bao phủ chúng đã nuốt trọn thân thể Lam Lan, từ tóc, thân thể, đến tay chân. A Tung hốt hoảng từ chỗ nấp chạy lại kéo áo em nhưng không kịp nữa. Chiếc gương động đậy kịch liệt, chẳng mấy chốc đã hoàn thành sứ mệnh dẫn người đi tìm bình rồi nuốt lấy trong tiếng la thảng thốt của A Tung và sự sững sờ đến tột độ của lão trưởng.

Lão Gia sững người, vội vàng chạy nhanh đến nắm đất Lam Lan vừa đứng, hai tay bưng lấy mặt. Ông theo Lam Lan từ xa đến đây, không ngờ đã tới muộn. Chiếc gương rơi xuống lại trở thành một chiếc gương cổ, thoạt nhìn rất tầm thường nhưng vương lại một sợi tóc đen dài vấn vít. Lão Gia gia ôm mặt khóc. A Tung không tin nổi mắt mình. Lão trưởng Khiên sững sờ đến ngây dại. Ba người duy trì tư thế một lúc thì có tiếng sột soạt. Những bóng ma dường như ý thức được không còn ánh sáng, chúng rục rịch ra khỏi ổ. Từng tốp từng tốp tiến dần đến chỗ A Tung và lão trưởng Khiên.

Chạy đi! A Tung hét trong đau khổ. Lão Gia vẫn ôm mặt không nhúc nhích. Lão trưởng Khiên vội vàng cầm lấy chiếc bình, chạy bán sống bán chết ra khỏi khu mộ. A Tung kéo áo Lão Gia nhưng ông cụ đứng im, anh đành phải vác ông lên mà chạy. Ông cụ hơn trăm tuổi nằm ngây trên vai A Tung trong khi bước chạy của anh càng lúc càng yếu dần. Trong lúc nguy cấp, cảm xúc đau khổ chưa qua, cảm giác sợ hãi đã đến, thấy có điều gì không ổn, A Tung vội vã quay mặt lại, cơ thể Lão Gia lạnh ngắt, miệng há ra như muốn nói. A Tung buông Lão Gia xuống thì phát hiện ông rất yếu, như chuẩn bị buông lời cuối cùng. Lão Gia dùng sức yếu ớt còn lại cho tay vào túi áo, lần ra một bức ảnh, trong ảnh là một cô gái rất đẹp, miệng thều thào:

- Đi tìm.. Thùy Dương.

- Người nói gì, Lão Gia?

A Tung hốt hoảng, lo lắng tột độ. Bàn tay cầm tay Lão Gia, tim như có ai bóp nghẹt lại, thính giác căng lên theo tiếng gào rú ngày càng tiến gần. Mắt Lão Gia gần nhắm lại, cơ thể cạn kiệt sức lực, tiếng nói đứt quãng trong hơi thở cuối:

- Cái bình… Thùy Dương.

Lão Gia! A Tung gọi to, nước mắt chảy trong tim ướt đẫm. Lão Gia trao bức ảnh cho A Tung rồi trút hơi thở cuối cùng. Mắt A Tung mờ dần đi, từng giọt nước mắt không ngăn được mà rơi xuống. Anh cố kéo xác tộc trưởng lê đi nhưng không kịp nữa, những bóng ma đã nhảy xổ ra. A Tung khóc to, vừa cố lấy tay gạt nước mắt vừa ôm tim không đành lòng mà cố chạy. Đằng sau những bóng quỷ thấy xác con mồi, không đuổi theo mà túm tụm lại phanh thây cái xác…

A Tung chạy đến chân đồi, tay vẫn cầm chặt bức ảnh. Anh dừng lại - những giọt nước mắt đã bị gió lau khô, từ từ mở bức ảnh bị nắm đến mức nhàu nát. Trong ảnh là một cô gái đẹp tóc đen như thiên sứ đang cười thật tươi. Anh lại nắm lại: Cái chết của Lão Gia vẫn hiện rõ trong đầu. Cảm nhận rõ mối nguy hiểm đang diễn ra, anh mím chặt môi, cố gắng bước:

- Lão Gia, con sẽ đi tìm cô ấy. Thùy Dương, chỉ có cô mới chấm dứt được chuyện này.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Ryan Nguyễn

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/1/14
Bài viết
683
Gạo
198,0
Tên nam chính là Ryan mới sầu chứ.
 

Hà Miz

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
7/12/13
Bài viết
16
Gạo
0,0
Cho chị xin cái ảnh để làm bài giới thiệu trên Thư viện thì mới xóa bài đọc trực tuyến được, chứ không xóa là xóa hết đấy.
Lúc e post lên alobooks chưa làm ảnh nên chưa có. Chị lấy tạm cái này vậy ạ.
Còn giới thiệu là phần trên.
Em cám ơn chị
 

Đính kèm

  • 03.jpg
    03.jpg
    941,6 KB · Xem: 180
Bên trên