Bóng anh hùng quyển đầu: Biên cương - Cập nhật - Banhmitrung

Banhmitrung

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
12/8/14
Bài viết
174
Gạo
0,0
Tên truyện: Bóng anh hùng quyển đầu: Biên cương
Tình trạng sáng tác: Đang chỉnh sửa
Thể loại: Dã sử, vũ hiệp

30007220023_6b8cbf81d2_o.jpg

Lời đầu về nội dung:

Học giả Trần Trọng Kim đã đúc kết trong quyển Việt Nam sử lược: Lê Long Đĩnh là người bạo ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày xưa.

Ngay cả trong những tài liệu sách giáo khoa chúng tôi được học khi ở bậc phổ thông cũng đều gọi Lê Long Đĩnh là vị hôn quân, hoang dâm vô độ, thụy hiệu (hiệu xưng sau khi vua chết) là Ngọa Triều (do ông bị bệnh trĩ không thể ngồi thiết triều được, chỉ có thể nằm).

Thế nhưng sau khi tình cờ tìm được một số tài liệu về triều đại của vì vua cuối cùng của nhà Tiền Lê này, tôi lại cảm thấy sao có quá nhiều mâu thuẫn so với những gì mình đã biết. Vỏn vẹn trong bốn năm trị vì, Lê Long Đĩnh sáu lần đánh dẹp nội chiến trong nước, xây dựng thành công chính quyền trung ương tập quyền, cải tạo thể chế triều đình học theo đường lối của triều Tống ở phương Bắc, mở rộng phạm vi nghiên cứu Phật giáo, thiết lập mối giao thương với nước ngoài, đào kênh lấp đường, đặt nền móng văn hóa sơ khởi cho nước ta.

Những thành tựu của ông trong Đại Việt sử lược đều có ghi lại, chẳng hạn như việc sửa lại thể chế triều đình, bá quan văn võ năm 1007. Hoặc như Đại Việt sử ký toàn thư cũng có ghi chép việc ông đề nghị đặt chợ mua bán giao thương ở Ung Châu, nhưng bị nhà Tống từ chối. Thậm chí những việc như sửa cầu xây đường, dù phần nhiều để tiện việc hành quân nhưng cũng không thể phủ nhận lợi ích của nó cho dân chúng, thì các sách Đại Việt sử lược tiền biên, sử ký đều có ghi chép rõ ràng.

Thế nhưng chẳng hiểu vì sao cả ba cuốn sách lịch sử chính thống của nước ta sau đó đều thống nhất ghi rằng Lê Long Đĩnh tàn ác bạo ngược, cuối cùng chết vì hoang dâm vô độ, bị xưng thụy hiệu nhục nhã là Ngọa Triều.

Đó là riêng về lịch sử.

Trong lược sử Phật Giáo Việt Nam có ghi chép rõ cột mốc vủa Long Đĩnh sai sứ sang Trung Quốc thỉnh về hai bộ Cửu Kinh và Đại Tạng Kinh. Đây là hai bộ kinh văn bao gồm tất cả nền tảng văn minh Trung Hoa và bảo vật vô giá của Phật giáo, lần đầu tiên có mặt tại nước ta. Ấy vậy mà để gièm pha Long Đĩnh, người đời cho rằng ông chẻ mía trên đầu nhà sư, cố tình lỡ tay để chảy máu rồi cười ha hả, thật là một hôn quân vậy.

Thử hỏi một vì vua nhiều lần đích thân đánh đông dẹp bắc, gần như năm nào cũng xuất chinh, có năm xuất chinh hai lần, lại có thể bệnh tật đến mức không ngồi thiết triều được. Mà hầu như bất kỳ vị vua nào bị chú định phải mang tiếng xấu trong dòng lịch sử thì đều gắn liền với hoang dâm vô độ. Kiến thức y học của tôi non nớt, không hiểu vì sao tính hoang dâm lại bị trĩ, mà vô độ lại còn có thể cầm quân đánh nhau khắp nơi. Bí ẩn thay.

Sách sử chép rằng đêm Lê Long Đĩnh giết anh cướp ngôi, điện tiền chỉ huy khi đó là Lý Công Uẩn ngồi ôm xác vua khóc rống lên. Long Đĩnh thấy vậy liền cho rằng đây là kẻ nhân nghĩa, nhất mực trọng dụng. Về sau nhân cơ hội Long Đĩnh bệnh tật, Lý Công Uẩn lén trộn độc vào thức ăn giết chết. Nhà Lý lên ngôi, vua căm ghét Long Đĩnh bạo ngược liền phong tặng thụy hiệu Ngọa Triều. Tôi đọc đoạn này, quả thật không khỏi phì cười. Chuyện giang sơn có lý nào lại như trò đùa con trẻ như thế?

Tôi không có ý định viết một tác phẩm lịch sử, cũng không có khả năng lật lại lịch sử, nhưng tự dưng cảm thấy rất đồng cảm với Lê Long Đĩnh, cũng không biết vì sao. Có lẽ vì cảm thấy ông dường như rất đúng với câu: một mình mang sai lầm thiên cổ, lạnh lùng tự tiêu dao. Đó cũng là lý do Bóng Anh Hùng, một tác phẩm dã sử ra đời.

Bóng Anh Hùng đã định sẵn có ba phần.

Phần đầu tiên: Biên Cương, lấy mốc thời gian năm Cảnh Thụy thứ hai (1009), là năm Lê Long Đĩnh băng hà, triều Tống phương Bắc vừa mới hồi sức sau trận chiến bại năm 981 lại bắt đầu ngo ngoe chỉa giáo về phương Nam, mở ra các cuộc chiến tranh biên giới nhỏ lẻ. Đây cũng là năm Lý Công Uẩn lên ngôi, nhà Tiền Lê được kế tục bởi nhà Lý.

Phần đầu này đã được hoàn thành năm 2009 và dự thi Kim Bút, chỉnh sửa lần đầu tiên năm 2014 và lần thứ 2 năm 2015. Phần chỉnh sửa khoảng 2 vạn chữ, làm rõ hơn về mục đích của truyện cùng các chi tiết về triều đình hai nhà Tiền Lê - Lý. Mời các bạn đọc và góp ý thêm những chỗ thiếu sót, xin cảm ơn.

Mục lục:

Chương 00 - 01
Chương 02
Chương 03
Chương 04 (a)
Chương 04 (b)
Chương 05 (a)
Chương 05 (b)

Chương 06 (a)
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Hà Thái

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
5/3/15
Bài viết
406
Gạo
0,0
Tên truyện: Bóng anh hùng quyển đầu: Biên cương
Tình trạng sáng tác: Đang chỉnh sửa
Thể loại: Dã sử, vũ hiệp

Lời đầu về nội dung:

Học giả Trần Trọng Kim đã đúc kết trong quyển Việt Nam sử lược: Lê Long Đĩnh là người bạo ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày xưa.

Ngay cả trong những tài liệu sách giáo khoa chúng tôi được học khi ở bậc phổ thông cũng đều gọi Lê Long Đĩnh là vị hôn quân, hoang dâm vô độ, thụy hiệu (hiệu xưng sau khi vua chết) là Ngọa Triều (do ông bị bệnh trĩ không thể ngồi thiết triều được, chỉ có thể nằm).

Thế nhưng sau khi tình cờ tìm được một số tài liệu về triều đại của vì vua cuối cùng của nhà Tiền Lê này, tôi lại cảm thấy sao có quá nhiều mâu thuẫn so với những gì mình đã biết. Vỏn vẹn trong bốn năm trị vì, Lê Long Đĩnh sáu lần đánh dẹp nội chiến trong nước, xây dựng thành công chính quyền trung ương tập quyền, cải tạo thể chế triều đình học theo đường lối của triều Tống ở phương Bắc, mở rộng phạm vi nghiên cứu Phật giáo, thiết lập mối giao thương với nước ngoài, đào kênh lấp đường, đặt nền móng văn hóa sơ khởi cho nước ta.

Những thành tựu của ông trong Đại Việt sử lược đều có ghi lại, chẳng hạn như việc sửa lại thể chế triều đình, bá quan văn võ năm 1007. Hoặc như Đại Việt sử ký toàn thư cũng có ghi chép việc ông đề nghị đặt chợ mua bán giao thương ở Ung Châu, nhưng bị nhà Tống từ chối. Thậm chí những việc như sửa cầu xây đường, dù phần nhiều để tiện việc hành quân nhưng cũng không thể phủ nhận lợi ích của nó cho dân chúng, thì các sách Đại Việt sử lược tiền biên, sử ký đều có ghi chép rõ ràng.

Thế nhưng chẳng hiểu vì sao cả ba cuốn sách lịch sử chính thống của nước ta sau đó đều thống nhất ghi rằng Lê Long Đĩnh tàn ác bạo ngược, cuối cùng chết vì hoang dâm vô độ, bị xưng thụy hiệu nhục nhã là Ngọa Triều.

Đó là riêng về lịch sử.

Trong lược sử Phật Giáo Việt Nam có ghi chép rõ cột mốc vủa Long Đĩnh sai sứ sang Trung Quốc thỉnh về hai bộ Cửu Kinh và Đại Tạng Kinh. Đây là hai bộ kinh văn bao gồm tất cả nền tảng văn minh Trung Hoa và bảo vật vô giá của Phật giáo, lần đầu tiên có mặt tại nước ta. Ấy vậy mà để gièm pha Long Đĩnh, người đời cho rằng ông chẻ mía trên đầu nhà sư, cố tình lỡ tay để chảy máu rồi cười ha hả, thật là một hôn quân vậy.

Thử hỏi một vì vua nhiều lần đích thân đánh đông dẹp bắc, gần như năm nào cũng xuất chinh, có năm xuất chinh hai lần, lại có thể bệnh tật đến mức không ngồi thiết triều được. Mà hầu như bất kỳ vị vua nào bị chú định phải mang tiếng xấu trong dòng lịch sử thì đều gắn liền với hoang dâm vô độ. Kiến thức y học của tôi non nớt, không hiểu vì sao tính hoang dâm lại bị trĩ, mà vô độ lại còn có thể cầm quân đánh nhau khắp nơi. Bí ẩn thay.

Sách sử chép rằng đêm Lê Long Đĩnh giết anh cướp ngôi, điện tiền chỉ huy khi đó là Lý Công Uẩn ngồi ôm xác vua khóc rống lên. Long Đĩnh thấy vậy liền cho rằng đây là kẻ nhân nghĩa, nhất mực trọng dụng. Về sau nhân cơ hội Long Đĩnh bệnh tật, Lý Công Uẩn lén trộn độc vào thức ăn giết chết. Nhà Lý lên ngôi, vua căm ghét Long Đĩnh bạo ngược liền phong tặng thụy hiệu Ngọa Triều. Tôi đọc đoạn này, quả thật không khỏi phì cười. Chuyện giang sơn có lý nào lại như trò đùa con trẻ như thế?

Tôi không có ý định viết một tác phẩm lịch sử, cũng không có khả năng lật lại lịch sử, nhưng tự dưng cảm thấy rất đồng cảm với Lê Long Đĩnh, cũng không biết vì sao. Có lẽ vì cảm thấy ông dường như rất đúng với câu: một mình mang sai lầm thiên cổ, lạnh lùng tự tiêu dao. Đó cũng là lý do Bóng Anh Hùng, một tác phẩm dã sử ra đời.

Bóng Anh Hùng đã định sẵn có ba phần.

Phần đầu tiên: Biên Cương, lấy mốc thời gian năm Cảnh Thụy thứ hai (1009), là năm Lê Long Đĩnh băng hà, triều Tống phương Bắc vừa mới hồi sức sau trận chiến bại năm 981 lại bắt đầu ngo ngoe chỉa giáo về phương Nam, mở ra các cuộc chiến tranh biên giới nhỏ lẻ. Đây cũng là năm Lý Công Uẩn lên ngôi, nhà Tiền Lê được kế tục bởi nhà Lý.

Phần đầu này đã được hoàn thành năm 2009 và dự thi Kim Bút, chỉnh sửa lần đầu tiên năm 2014 và lần thứ 2 năm 2015. Phần chỉnh sửa khoảng 2 vạn chữ, làm rõ hơn về mục đích của truyện cùng các chi tiết về triều đình hai nhà Tiền Lê - Lý. Mời các bạn đọc và góp ý thêm những chỗ thiếu sót, xin cảm ơn.

Mục lục:
Trời! Tôi thích ông này lắm. Hồi phim Huyền sử thiên đô cũng xây dựng ông này rất chính trực, oai hùng.
Ủng hộ truyện này của bạn. Đọc đủ chục chương nhất định sẽ viết review. (Review thế nào thì tùy chất lượng truyện. :D)
 

Banhmitrung

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
12/8/14
Bài viết
174
Gạo
0,0
00. Lời dẫn

Đó là một năm đầy biến động. Đức Phó Vương (*) nối ngôi chưa được bao lâu thì dân chúng đã chứng kiến thêm một trận tranh giành hoàng vị gió tanh mưa máu. Triều đình khi ấy chia năm xẻ bảy thành mấy phe mấy phái, các phiên vương hoàng tử dẫn theo tư quân xung đột chém giết khắp nơi. Đại Cồ Việt trở thành mảnh đất vô chủ trong suốt tám tháng ròng rã.

Ấy vậy mà đức Trung Tông (*) vừa đăng cơ được ba ngày đã chết bất đắc kỳ tử ngay trong cung cấm. Giữa tiếng bàn tán của triều đình về tội “thí huynh”, Khai Minh Vương thượng vị, tự xưng Quang Hiếu hoàng đế (*).

Vị tân hoàng này ra tay quả thật tàn nhẫn quyết liệt. Từng đội Tứ Sương quân tỏa đi khắp nơi trong kinh thành Hoa Lư, hễ nghe thấy ai bàn tán phong thanh gì về hoàng đế thì đều tống vào ngục Cấm Vị chờ ngày luận tội. Cả những vị cao tăng vốn đức duyên thâm hậu cũng không tránh thoát được mấy cuộc lùng sục bắt bớ này. Cũng may đức Thống lĩnh quân Tứ Sương khi đó là Công Uẩn, vốn có cảm tình với bọn học trò và giới tăng sư nên đối xử với tù phạm có phần nương nhẹ nhiều.

Vừa lên ghế rồng chưa được bao lâu vua đã lại hạ chỉ cho quan Chi hậu họ Đào tận thu quân lương, đích thân ngự giá đánh dẹp phiên vương bốn phương. Trong nhất thời chướng khí nổi lên mù mịt khắp cả đất nước vốn đang hồi biến động.

Mãi đến bốn năm sau, Quang Hiếu hoàng đế không biết bị bệnh tật gì, nghe nói sau khi chinh phạt đất Hoan, Đường trở về thì nằm liệt giường không dậy nổi. Dân gian râm ran đồn thổi rằng vị con trời ấy hiếu sát thành tính, dẫn đến sự phẫn nộ của trời đất, sắp phải quay về thiên đình chịu tội rồi. Dân chúng kinh thành khi ấy trở nên thu liễm rất nhiều, hồi hộp chờ đợi một cuộc chuyển dời triều đại sắp bắt đầu, trong lòng bọn họ lúc này chỉ cầu mong một điều rằng: Xin đừng để máu đỏ lại nhuộm ghế vàng.
-------------------------------------------------------------------------

(*) Đức Phó Vương: Chức vụ của Lê Hoàn (Lê Đại Hành) trước khi lên ngôi hoàng đế. Ông là vị vua sáng lập triều đại nhà Tiền Lê kéo dài hai mươi chín năm.

(*) Trung Tông hoàng đế: Lê Long Việt, anh trai Lê Long Đĩnh. Kế thừa ngôi vị của Lê Đại Hành được ba ngày thì bị mưu sát. Sử sách chép rằng ông bị chính em trai là Lê Long Đĩnh giết.

(*) Quang Hiếu hoàng đế: Lê Long Đĩnh, vị vua nổi danh tàn bạo nhà Tiền Lê, bị sử sách đặt cho cái tên Lê Ngọa Triều. Trị vì trong bốn năm, là vị hoàng đế cuối cùng nhà Tiền Lê.

01. Đế vương chí

Đêm đã khuya, ánh trăng trong trẻo bàng bạc, tựa như một tấm lụa mỏng ôm ấp lấy kinh thành Hoa Lư. Trời đầu thu không một ngọn gió, cả đế đô chìm trong sự im lặng tĩnh mịch thâm trầm, chỉ thi thoảng bị phá vỡ bởi tiếng mõ cầm canh.

Trong màn đêm thăm thẳm ấy, ngọn đèn Khai Minh ở nội cung hoàng đế vẫn đang tỏa sáng rực rỡ. Đã nửa tháng từ khi ngài trở về từ cuộc chinh phạt đất Hoan, ngọn đèn ấy vẫn chưa hề lụi tắt, ngày cũng như đêm. Đám cấm quân Tùy Long canh giữ trong nội điện bị kỷ luật quân đội sắt thép ước thúc, tịnh không dám phát ra một tiếng động nào trong lúc tuần tra, thế nhưng mỗi khi đi qua trước ngọn đèn ấy đều không kìm được phải thoáng ngước nhìn. Theo đúng quy củ triều đình, khi đèn Khai Minh còn sáng thì có nghĩa là hoàng đế vẫn còn làm việc. Thế nhưng trong lúc này ngọn đèn ấy lại đại biểu cho tánh mạng của vị chí tôn đang ở trong nội điện kia.

Đèn chưa tắt, nghĩa là hoàng đế chưa băng hà.

Hiện nay ngoài đám quan nội thị và vị quý phi được hoàng thượng sủng ái nhất thì chỉ có duy nhất quan Tả thân vệ Lý Công Uẩn là được tự do ra vào nội điện. Theo như lời vị nội thị chuyên lo việc cơm nước hằng ngày cho hoàng đế thì sức khỏe ngài đã yếu lắm rồi, mỗi ngày chỉ ăn được lưng bát cháo, sắc mặt vàng võ đến nỗi hai má hóp lại thấy tận xương. Thậm chí bây giờ ngay cả việc ngồi thẳng lưng cũng hết sức khó khăn và hầu như phải nằm nghiêng để phê duyệt chỉ dụ.

Mấy đội thân vệ thay nhau tuần tra nội điện ấy, không một ai không thầm cầu khẩn trời đất phù hộ cho ngọn đèn Khai Minh kia mãi mãi không bao giờ tắt.

Dân gian gọi ngài là ác đế giết anh đoạt ngôi, giới sĩ phu rêu rao ngài lấy lạm sát làm oai, lấy khổ hình làm vui, không chuyện tàn nhẫn gì mà không làm. Những lời nói ấy đi khắp đất nước, khắc họa thành chân dung một vị hoàng đế ngang tàng bạo ngược. Sức mạnh của ngôn luận bao đời nay vẫn đáng sợ như thế.

Thế nhưng bốn đạo Tùy Long quân, tám đạo Tứ Sương quân vẫn một mực giữ vững lòng trung thành. Bốn năm chinh chiến từ nam ra bắc, ăn gió nằm sương cùng quân vương, đã tạo nên niềm tin bất diệt với đức vua của họ. Niềm tin ấy, thứ được viết bằng máu đỏ, không phải bằng vào mấy lời chót lưỡi đầu môi là có thể thay đổi được.

Các đại thần nội chính, các vương hầu thân gia có đe dọa chèn ép đến thế nào, có lôi kéo dụ dỗ đến thế nào, thì ngay cả một tên hiệu úy nhỏ xíu như hạt mè hạt đậu vẫn ngang nhiên đáp trả rằng: Quân đội là của vua.

ooo
Ánh trăng rải vào khung cửa sổ, chỉ có thể chiếu sáng nửa căn nội điện, hương hoa thơm ngát ngoài sân, lại tràn ngập cả căn phòng. Hoàng đế thích mùi lan ngọc, trong phòng ngài lúc nào cũng phải đặt một giò hoa, kể cả là khi hạ chỉ giết sạch cả nhà quan thủ phụ, hay điều quân bình định người anh em đang nổi loạn phía tây nam.

Người thanh niên khoác trên mình một tấm áo choàng màu dụ thêu rồng, đang ngồi lặng lẽ trong nội điện, trước một tấm sa đồ rộng lớn. Tấm áo choàng này do chính tay quý phi Hoàng Lan may tặng đức vua, vốn rất đỗi vừa vặn với vóc người cao lớn của ngài, thế mà giờ đây rũ xuống bùng nhùng, khiến cho thân hình vốn đã còm cõi ấy lại càng lộ ra vẻ mệt nhọc suy kiệt rõ ràng hơn.

Ánh trắng ánh trên mái tóc đen mun, vuốt ve gương mặt trắng muốt như ngọc tạc của người con gái ngồi chếch phía sau hoàng thượng. Mày nhạt núi xa, mắt huyền vương sương, khóe miệng hơi vểnh lên, dù nét mặt có phần mệt mỏi nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp quốc sắc của vị quý phi họ Hoàng. Có điều tuy đã cố giữ dáng vẻ thật bình tĩnh cho phù hợp với thân phận, thế nhưng hai bàn tay khẽ run đã tố cáo tâm trạng đang xao động của nàng.

Mấy ngày theo sát bên hoàng thượng không rời, nàng biết rằng bệnh tình của ngài đã nguy kịch đến mức nào, đến nỗi ngay cả việc ngồi dậy cũng quá đỗi khó khăn. Ấy vậy mà lúc nãy khi hoàng thượng ra hiệu cho nàng đỡ ngài đến bên bàn, nàng có thể cảm nhận được có một luồng sức mạnh bùng nổ trong thân hình gầy yếu đó, mạnh mẽ đến mức tưởng như nàng có thể nghe thấy nó đang rần rật chảy trong từng đường huyết mạch. Ánh mắt vốn đã mờ đục của ngài bỗng dưng sáng lên một thứ ánh sáng kỳ dị, hừng hực lấp lánh, tựa như ngọn đèn Khai Minh đang bùng cháy ngoài hiên kia vậy.

Biết chút tri thức y lý, trong lòng nàng lúc này chỉ có một ý nghĩ: Hồi quang phản chiếu.

Thế nhưng kể từ khi đỡ hoàng thượng ngồi dậy, ngài chưa từng nhìn nàng lấy một lần. Bàn tay ngài khi vịn vào cánh tay nàng, lạnh đến ghê người. Lạnh đến se tim xé phổi, tựa như những cơn gió gầm thét quanh năm suốt tháng nơi quê nàng. Hoàng Lan bỗng cảm thấy một nỗi tủi thân không tên dâng lên, ép một dòng nước mắt lăn dài, tựa như trân châu rơi trên chiếu vàng. Nàng cúi đầu, cố gắng kềm nén tiếng nấc nghẹn trong lòng.

Hoàng thượng vẫn ngồi đó, kề bên mà xa cách nghìn trùng, đem hết tâm sức còn sót lại của mình nhìn vào tấm sa đồ trước mặt.

Bên trên tấm sa đồ ấy cắm chi chít những lá cờ nhỏ màu đỏ xanh. Nếu là kẻ thông thạo quân sự, ắt chỉ cần liếc qua là sẽ nhận ra ngay địa hình vùng đông bắc Đại Cồ Việt, bao gồm cả lộ Bắc Giang và đạo Quảng Nguyên, vùng chồng lấn tranh chấp bao nhiêu năm nay giữa người Việt và người Nùng. Xa hơn về phía bắc là một vùng xám xịt, vùng đất Quảng Nam Tây Lộ của nhà Tống.

Nơi đó là tâm nguyện, là chí hướng, là nỗi niềm đau đáu hai mươi mấy năm của ba vị hoàng đế. Thế nhưng có lẽ đời này của ngài, vẫn không thể hoàn thành mộng ước đó.

ooo​

- Truyền, Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ vào nội điện.

Lý Công Uẩn vốn túc trực suốt ngày đêm ngoài chánh điện, khi đang ngẩng mặt ngắm nhìn vầng trăng bạc treo trên mái lầu cong vút thì nghe thấy tiếng quan nội thị từ xa vọng tới. Bàn tay sắt đá từng trải trăm trận bất tri bất giác siết chặt chuôi kiếm lễ, vị tướng quân trạc ngoài ba mươi ứng giọng một tiếng, vội vã sải bước vào trong. Đây không phải lần đầu hoàng thượng truyền gặp ông vào ban đêm, thế nhưng không hiểu vì sao lần này trong lòng ông lại cảm thấy bồi hồi lo lắng một cách vô cớ. Nỗi lo này khiến ông bỏ qua lễ nghĩa, đi như chạy, bỏ tên quan nội thị vừa truyền lệnh lại sau lưng.

Khi Công Uẩn bước vào nội điện, gần như trong một thoáng ông tưởng như mình trông thấy hình ảnh của người bạn vong niên ngày xưa. Thứ khí thế ngạo nghễ nắm gọn cả non sông, bao quát cả thiên hạ khi y sải bước trên thảm vàng giữa đại điện, giữa ánh mắt của văn võ bá quan, tựa như đang quay trở lại.

Lê Long Đĩnh nhìn vị tướng quân đang ở độ tuổi sung sức nhất của một người đàn ông, ánh mắt thoáng hiện lên một tia nuối tiếc. Trời đã không cho ngài sức khỏe, không cho ngài cơ hội để chống đỡ đất nước đang hồi rối ren này nữa rồi. Ngài không sợ lẽ sinh tử, chỉ cảm thấy tiếc nuối vì chẳng thể bước hết một đoạn hùng tâm của mình. Ngài vươn tay, khẽ nói:

- Ngồi đi.

Giờ phút này trong nội điện chỉ có ba người bọn họ, đám quan nội thị đã sớm bị hoàng thượng nghiêm lệnh phải tránh xa cửa phòng từ lúc ban chiều rồi. Quý phi Hoàng Lan đứng dậy, khẽ kéo ghế mời vị chỉ huy sứ ngồi, rồi dợm bước ra ngoài. Sống trong cung cấm từ thuở thiếu niên, nàng sớm biết Long Đĩnh vô cùng chán ghét tình trạng nội cung dám xen vào việc triều chính. Ấy vậy mà khi cúi người thi lễ, một bàn tay lạnh giá đã vươn ra, nắm chặt lấy tay nàng. Người đàn ông ấy vẫn ngang ngược mà ấm áp như vậy, khẽ kéo nàng dựa vào người y. Giọng ngài hơi khàn, chậm rãi:

- Công Uẩn, hôm nay, trong căn phòng này, không có vua tôi. Thời gian không còn nhiều nữa, ta muốn nhờ ông ba việc.

Ngập ngừng một chút, ngài lại nói:

- Không, là trao đổi.

Lý Công Uẩn nghe thế thì giật mình, vừa ngồi xuống đã bật dậy, thế nhưng chưa kịp đáp trả thì Long Đĩnh đã khoát tay, nói tiếp:

- Đừng ngắt lời ta. Ta biết ông là người trọng tình nghĩa, thế nhưng ta trao đổi, không phải với người bạn năm xưa mà là những thế lực phía sau ông. Cả hai chúng ta đều đã trưởng thành, không phải lúc nào cũng có thể vì nghĩa quên thân như ngày thiếu niên nữa.

Dứt lời, Long Đĩnh vươn tay, đặt lên bàn một bọc lụa gấm vàng. Đó là thứ mà Công Uẩn nhìn thấy nhiều nhất trong mấy ngày hôm nay, khi hoàng thượng phê duyệt tấu chương, ngọc tỷ truyền quốc. Kèm theo đó là một mặt hổ phù bằng ngọc trắng, rực sáng trong màn đêm. Tấm hổ phù này dùng để điều động mười hai đạo Thiên tử quân, thấy phù như thấy vua.

- Ngọc tỷ là thứ mà bọn họ muốn. Hổ phù là thứ ta trao lại cho ông. Ta đã cho điều Cam Mộc trở lại đế đô, hẳn ông đã biết. Sáu đạo vương phủ quân hàng phục và binh lệnh đều đã đưa đến doanh trại của ông ta. Chỉ cần giao ngọc tỷ cho đại sư Vạn Hạnh cất giữ thì không một phiên vương hay đại thần nào trong triều có thể ngăn cản bước tiến của họ nữa. Điều thứ nhất ta muốn ông làm là hãy bảo vệ cấm vệ quân, đừng mài cùn đi nanh vuốt con hổ này. Kể từ ngày mai họ không còn là Thiên tử quân nữa, nhưng hãy cho họ được chết trên chiến trường, chứ không phải trong ngục Cấm Vị.

Lý Công Uẩn lặng im, không đáp lời, cũng không nhận lấy ngọc tỷ và hổ phù. Lê Long Đĩnh dường như cũng không hề chờ đợi câu trả lời rõ ràng nào từ vị tướng quân trước mặt, rút từ trong ngực áo ra một tờ giấy gấp đặt cạnh túi gấm vàng.

- Điều thứ hai khá dài dòng, ta đã ghi lại trong giấy này, chờ đến sáng mai ông mở ra sẽ rõ ràng tất cả.

“Điều thứ ba” – Long Đĩnh ngừng lại một chút, quay sang nhìn Hoàng Lan – “Điều thứ ba, hãy giúp ta đưa nàng ấy ra khỏi cung”.

Hoàng quý phi giật mình, ngẩng phắt đầu lên nhìn Long Đĩnh:

- Hoàng thượng.

Vị quân vương tiều tụy trước mắt nàng khẽ mỉm cười, tay phải vẫn nắm chặt tay nàng, tay trái đưa lên nhẹ nhàng chùi đi vệt nước mắt trên gương mặt nàng:

- Lan, mấy năm nay cực khổ cho nàng nhiều. Không phải ta không biết, nhưng ta là hoàng đế. Đừng giận ta, cũng đừng vì ta mà chôn thân trong chốn cung đình này nữa. Nơi nàng thuộc về là thế giới ngoài kia, là nơi chốn thỏa sức tự do. Nhớ về ta, đem theo mấy giò lan trong phòng này là đủ.

Vỗ vỗ vào mái tóc đen huyền của người con gái đang sa lệ như mưa, Long Đĩnh nói tiếp:

- Sau này có tặng áo cho ai, thì nhớ học cách may nách áo cho kỹ vào. Cái áo này của nàng ta cử động mấy lần đã sút chỉ rồi, phải nhờ bọn nội thị vá lại đấy.

Lúc này Lý Công Uẩn vốn đang ngồi yên bỗng đứng dậy, tiến lại gần Long Đĩnh. Vị hoàng đế ấy vẫn bình thản ôm lấy người phụ nữ của mình, ngước mắt nhìn viên tướng cấm vệ cao lớn. Ánh mắt ấy hào hùng và trầm tĩnh, tựa như đã nhìn thấu hết mọi lẽ xoay vần của đất trời. Hoàng quý phi trông thấy cử động của vị chỉ huy sứ, thốt nhiên cựa mình, mơ hồ có ý chắn giữa Long Đĩnh và Công Uẩn.

Chỉ thấy Lý Công Uẩn khẽ cúi người, giọng nói nhỏ nhẹ mà kiên quyết:

- Hoàng thượng. Cho đến khi thần gặp lại ngài thì Thiên tử quân sẽ mãi mãi là Thiên tử quân. Ngọc tỷ và hổ phù này, thần nhận, nhận cả sứ mệnh mà ngài đã trao cho thần. Mối nhục tê ngưu năm ấy (*), chúng ta sẽ hoàn trả lại đầy đủ cho bọn họ. Nhưng mà kế hoạch của đại sư và Cam Mộc vốn đã khởi động mấy năm qua, chỉ sợ là không thể dừng lại được.

Long Đĩnh nghe thế thì phất tay, cười dài:

- So với vận nước, thanh danh của một ông vua thì có đáng gì. Họ muốn làm gì thì cứ để họ làm thôi. Ông nhận lời vậy, với ta đã quá đủ rồi. Đến đây, đến đây ngồi cạnh ta. Lan, lấy chén ra đây, lấy cho cả nàng nữa. Đã mấy năm rồi ba người chúng ta không có dịp uống cùng nhau.

Hoàng Lan cúi người rời đi, chỉ một thoáng sau đã đã đem đến ba chung rượu lớn bằng đồng. Rượu này là rượu ngự, ngoài đạo Hải Đông ra không có nơi nào làm được, hàng năm chỉ cống lên triều có mười mấy vò. Ba người bọn họ vốn quen nhau từ thuở thiếu niên, nàng biết rõ Long Đĩnh và Công Uẩn chỉ thích uống chung rượu lớn, mấy loại chén ngọc có kích cỡ theo quy củ triều đình đều bị họ chê là đồ vật tủn mủn, chẳng bao giờ động đến.

ooo​

Uống hết mấy chung rượu, Lý Công Uẩn xin phép lui ra ngoài nội điện. Nhìn khí sắc của hoàng thượng, ông biết rằng Long Đĩnh khó mà qua khỏi đêm nay. Ông muốn giành cho cặp vợ chồng hoàng tộc, vốn vì phép tắc cứng nhắc hàng ngày mà khó mở lòng với nhau, những giây phút riêng tư cuối cùng.

Trời vẫn đứng gió. Trăng ngà đã giấu mình vào rặng mây, thứ ánh sáng trong trẻo ban đầu nay đã hóa thành lờ mờ lẩn quẩn. Rảo bước trong bầu không khí thoáng đãng buổi đêm làm cho Lý Tả vệ cảm thấy lòng mình thanh tĩnh hơn. Ngọc tỷ và hổ phù trĩu nặng trong ngực ông, thế nhưng không nặng bằng một phần vận mệnh của vương triều non trẻ mà ông đã nhận gánh trên vai. Kèm theo đó là một lời hứa ngàn cân, không phải giữa bậc vua tôi mà là với người bạn vong niên thuở xưa kia.

Khi Công Uẩn ra đến thành ngoại Hoa Lư, thì trong màn đêm tối tăm ấy, vang vọng một tiếng kêu thê thiết như xé toạc cả đất trời:

- Hoàng thượng băng hà.

Lý tướng quân quỳ xuống, hướng về phía nội điện dập đầu chín lạy. Sương đêm se sắt, từ khóe mắt dãi dầu rơi xuống nền đất lạnh tanh.

Ông cho tay vào ngực áo, lấy ra tờ giấy mà Long Đĩnh đã trao cho mình ban nãy, mượn nhờ ánh sáng lờ mờ mà đọc qua mấy chữ đầu:

“Bình chương sự Trần Thành, an bài ở ngục Bình Điện”
-------------------------------------------------------------------------

(*) Năm 1007, dưới triều đại Quang Hiếu hoàng đế, Đại Tống muốn xuất binh đánh Đại Cồ Việt. Lúc đó đất nước ta vẫn còn loạn biên cương và các phiên vương vẫn chưa hàng phục. Quang Hiếu hoàng đế phải chịu nhục, cống nạp tê ngưu trắng cho nhà Tống để đổi lấy hòa bình tạm thời và nhận sắc phong.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Hà Thái

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
5/3/15
Bài viết
406
Gạo
0,0
00. Lời dẫn

Đó là một năm đầy biến động. Đức Phó Vương (*) nối ngôi chưa được bao lâu thì dân chúng đã chứng kiến thêm một trận tranh giành hoàng vị gió tanh mưa máu. Triều đình khi ấy chia năm xẻ bảy thành mấy phe mấy phái, các phiên vương hoàng tử dẫn theo tư quân xung đột chém giết khắp nơi. Đại Cồ Việt trở thành mảnh đất vô chủ trong suốt tám tháng ròng rã.

Ấy vậy mà đức Trung Tông (*) vừa đăng cơ được ba ngày đã chết bất đắc kỳ tử ngay trong cung cấm. Giữa tiếng bàn tán của triều đình về tội “thí huynh”, Khai Minh Vương thượng vị, tự xưng Quang Hiếu hoàng đế (*).

Vị tân hoàng này ra tay quả thật tàn nhẫn quyết liệt. Từng đội Tứ Sương quân tỏa đi khắp nơi trong kinh thành Hoa Lư, hễ nghe thấy ai bàn tán phong thanh gì về hoàng đế thì đều tống vào ngục Cấm Vị chờ ngày luận tội. Cả những vị cao tăng vốn đức duyên thâm hậu cũng không tránh thoát được mấy cuộc lùng sục bắt bớ này. Cũng may đức Thống lĩnh quân Tứ Sương khi đó là Công Uẩn, vốn có cảm tình với bọn học trò và giới tăng sư nên đối xử với tù phạm có phần nương nhẹ nhiều.

Vừa lên ghế rồng chưa được bao lâu vua đã lại hạ chỉ cho quan Chi hậu họ Đào tận thu quân lương, đích thân ngự giá đánh dẹp phiên vương bốn phương. Trong nhất thời chướng khí nổi lên mù mịt khắp cả đất nước vốn đang hồi biến động.

Mãi đến bốn năm sau, Quang Hiếu hoàng đế không biết bị bệnh tật gì, nghe nói sau khi chinh phạt đất Hoan, Đường trở về thì nằm liệt giường không dậy nổi. Dân gian râm ran đồn thổi rằng vị con trời ấy hiếu sát thành tính, dẫn đến sự phẫn nộ của trời đất, sắp phải quay về thiên đình chịu tội rồi. Dân chúng kinh thành khi ấy trở nên thu liễm rất nhiều, hồi hộp chờ đợi một cuộc chuyển dời triều đại sắp bắt đầu, trong lòng bọn họ lúc này chỉ cầu mong một điều rằng: Xin đừng để máu đỏ lại nhuộm ghế vàng.
-------------------------------------------------------------------------

(*) Đức Phó Vương: Chức vụ của Lê Hoàn (Lê Đại Hành) trước khi lên ngôi hoàng đế. Ông là vị vua sáng lập triều đại nhà Tiền Lê kéo dài hai mươi chín năm.

(*) Trung Tông hoàng đế: Lê Long Việt, anh trai Lê Long Đĩnh. Kế thừa ngôi vị của Lê Đại Hành được ba ngày thì bị mưu sát. Sử sách chép rằng ông bị chính em trai là Lê Long Đĩnh giết.

(*) Quang Hiếu hoàng đế: Lê Long Đĩnh, vị vua nổi danh tàn bạo nhà Tiền Lê, bị sử sách đặt cho cái tên Lê Ngọa Triều. Trị vì trong bốn năm, là vị hoàng đế cuối cùng nhà Tiền Lê.

01. Đế vương chí

Đêm đã khuya, ánh trăng trong trẻo bàng bạc, tựa như một tấm lụa mỏng ôm ấp lấy kinh thành Hoa Lư. Trời đầu thu không một ngọn gió, cả đế đô chìm trong sự im lặng tĩnh mịch thâm trầm, chỉ thi thoảng bị phá vỡ bởi tiếng mõ cầm canh.

Trong màn đêm thăm thẳm ấy, ngọn đèn Khai Minh ở nội cung hoàng đế vẫn đang tỏa sáng rực rỡ. Đã nửa tháng từ khi ngài trở về từ cuộc chinh phạt đất Hoan, ngọn đèn ấy vẫn chưa hề lụi tắt, ngày cũng như đêm. Đám cấm quân Tùy Long canh giữ trong nội điện bị kỷ luật quân đội sắt thép ước thúc, tịnh không dám phát ra một tiếng động nào trong lúc tuần tra, thế nhưng mỗi khi đi qua trước ngọn đèn ấy đều không kìm được phải thoáng ngước nhìn. Theo đúng quy củ triều đình, khi đèn Khai Minh còn sáng thì có nghĩa là hoàng đế vẫn còn làm việc. Thế nhưng trong lúc này ngọn đèn ấy lại đại biểu cho tánh mạng của vị chí tôn đang ở trong nội điện kia.

Đèn chưa tắt, nghĩa là hoàng đế chưa băng hà.

Hiện nay ngoài đám quan nội thị và vị quý phi được hoàng thượng sủng ái nhất thì chỉ có duy nhất quan Tả thân vệ Lý Công Uẩn là được tự do ra vào nội điện. Theo như lời vị nội thị chuyên lo việc cơm nước hằng ngày cho hoàng đế thì sức khỏe ngài đã yếu lắm rồi, mỗi ngày chỉ ăn được lưng bát cháo, sắc mặt vàng võ đến nỗi hai má hóp lại thấy tận xương. Thậm chí bây giờ ngay cả việc ngồi thẳng lưng cũng hết sức khó khăn và hầu như phải nằm nghiêng để phê duyệt chỉ dụ.

Mấy đội thân vệ thay nhau tuần tra nội điện ấy, không một ai không thầm cầu khẩn trời đất phù hộ cho ngọn đèn Khai Minh kia mãi mãi không bao giờ tắt.

Dân gian gọi ngài là ác đế giết anh đoạt ngôi, giới sĩ phu rêu rao ngài lấy lạm sát làm oai, lấy khổ hình làm vui, không chuyện tàn nhẫn gì mà không làm. Những lời nói ấy đi khắp đất nước, khắc họa thành chân dung một vị hoàng đế ngang tàng bạo ngược. Sức mạnh của ngôn luận bao đời nay vẫn đáng sợ như thế.

Thế nhưng bốn đạo Tùy Long quân, tám đạo Tứ Sương quân vẫn một mực giữ vững lòng trung thành. Bốn năm chinh chiến từ nam ra bắc, ăn gió nằm sương cùng quân vương, đã tạo nên niềm tin bất diệt với đức vua của họ. Niềm tin ấy, thứ được viết bằng máu đỏ, không phải bằng vào mấy lời chót lưỡi đầu môi là có thể thay đổi được.

Các đại thần nội chính, các vương hầu thân gia có đe dọa chèn ép đến thế nào, có lôi kéo dụ dỗ đến thế nào, thì ngay cả một tên hiệu úy nhỏ xíu như hạt mè hạt đậu vẫn ngang nhiên đáp trả rằng: Quân đội là của vua.

ooo
Ánh trăng rải vào khung cửa sổ, chỉ có thể chiếu sáng nửa căn nội điện, hương hoa thơm ngát ngoài sân, lại tràn ngập cả căn phòng. Hoàng đế thích mùi lan ngọc, trong phòng ngài lúc nào cũng phải đặt một giò hoa, kể cả là khi hạ chỉ giết sạch cả nhà quan thủ phụ, hay điều quân bình định người anh em đang nổi loạn phía tây nam.

Người thanh niên khoác trên mình một tấm áo choàng màu dụ thêu rồng, đang ngồi lặng lẽ trong nội điện, trước một tấm sa đồ rộng lớn. Tấm áo choàng này do chính tay quý phi Hoàng Lan may tặng đức vua, vốn rất đỗi vừa vặn với vóc người cao lớn của ngài, thế mà giờ đây rũ xuống bùng nhùng, khiến cho thân hình vốn đã còm cõi ấy lại càng lộ ra vẻ mệt nhọc suy kiệt rõ ràng hơn.

Ánh trắng ánh trên mái tóc đen mun, vuốt ve gương mặt trắng muốt như ngọc tạc của người con gái ngồi chếch phía sau hoàng thượng. Mày nhạt núi xa, mắt huyền vương sương, khóe miệng hơi vểnh lên, dù nét mặt có phần mệt mỏi nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp quốc sắc của vị quý phi họ Hoàng. Có điều tuy đã cố giữ dáng vẻ thật bình tĩnh cho phù hợp với thân phận, thế nhưng hai bàn tay khẽ run đã tố cáo tâm trạng đang xao động của nàng.

Mấy ngày theo sát bên hoàng thượng không rời, nàng biết rằng bệnh tình của ngài đã nguy kịch đến mức nào, đến nỗi ngay cả việc ngồi dậy cũng quá đỗi khó khăn. Ấy vậy mà lúc nãy khi hoàng thượng ra hiệu cho nàng đỡ ngài đến bên bàn, nàng có thể cảm nhận được có một luồng sức mạnh bùng nổ trong thân hình gầy yếu đó, mạnh mẽ đến mức tưởng như nàng có thể nghe thấy nó đang rần rật chảy trong từng đường huyết mạch. Ánh mắt vốn đã mờ đục của ngài bỗng dưng sáng lên một thứ ánh sáng kỳ dị, hừng hực lấp lánh, tựa như ngọn đèn Khai Minh đang bùng cháy ngoài hiên kia vậy.

Biết chút tri thức y lý, trong lòng nàng lúc này chỉ có một ý nghĩ: Hồi quang phản chiếu.

Thế nhưng kể từ khi đỡ hoàng thượng ngồi dậy, ngài chưa từng nhìn nàng lấy một lần. Bàn tay ngài khi vịn vào cánh tay nàng, lạnh đến ghê người. Lạnh đến se tim xé phổi, tựa như những cơn gió gầm thét quanh năm suốt tháng nơi quê nàng. Hoàng Lan bỗng cảm thấy một nỗi tủi thân không tên dâng lên, ép một dòng nước mắt lăn dài, tựa như trân châu rơi trên chiếu vàng. Nàng cúi đầu, cố gắng kềm nén tiếng nấc nghẹn trong lòng.

Hoàng thượng vẫn ngồi đó, kề bên mà xa cách nghìn trùng, đem hết tâm sức còn sót lại của mình nhìn vào tấm sa đồ trước mặt.

Bên trên tấm sa đồ ấy cắm chi chít những lá cờ nhỏ màu đỏ xanh. Nếu là kẻ thông thạo quân sự, ắt chỉ cần liếc qua là sẽ nhận ra ngay địa hình vùng đông bắc Đại Cồ Việt, bao gồm cả lộ Bắc Giang và đạo Quảng Nguyên, vùng chồng lấn tranh chấp bao nhiêu năm nay giữa người Việt và người Nùng. Xa hơn về phía bắc là một vùng xám xịt, vùng đất Quảng Nam Tây Lộ của nhà Tống.

Nơi đó là tâm nguyện, là chí hướng, là nỗi niềm đau đáu hai mươi mấy năm của ba vị hoàng đế. Thế nhưng có lẽ đời này của ngài, vẫn không thể hoàn thành mộng ước đó.

ooo​

- Truyền, Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ vào nội điện.

Lý Công Uẩn vốn túc trực suốt ngày đêm ngoài chánh điện, khi đang ngẩng mặt ngắm nhìn vầng trăng bạc treo trên mái lầu cong vút thì nghe thấy tiếng quan nội thị từ xa vọng tới. Bàn tay sắt đá từng trải trăm trận bất tri bấc giác siết chặt chuôi kiếm lễ, vị tướng quân trạc ngoài ba mươi ứng giọng một tiếng, vội vã sải bước vào trong. Đây không phải lần đầu hoàng thượng truyền gặp ông vào ban đêm, thế nhưng không hiểu vì sao lần này trong lòng ông lại cảm thấy bồi hồi lo lắng một cách vô cớ. Nỗi lo này khiến ông bỏ qua lễ nghĩa, đi như chạy, bỏ tên quan nội thị vừa truyền lệnh lại sau lưng.

Khi Công Uẩn bước vào nội điện, gần như trong một thoáng ông tưởng như mình trông thấy hình ảnh của người bạn vong niên ngày xưa. Thứ khí thế ngạo nghễ nắm gọn cả non sông, bao quát cả thiên hạ khi y sải bước trên thảm vàng giữa đại điện, giữa ánh mắt của văn võ bá quan, tựa như đang quay trở lại.

Lê Long Đĩnh nhìn vị tướng quân đang ở độ tuổi sung sức nhất của một người đàn ông, ánh mắt thoáng hiện lên một tia nuối tiếc. Trời đã không cho ngài sức khỏe, không cho ngài cơ hội để chống đỡ đất nước đang hồi rối ren này nữa rồi. Ngài không sợ lẽ sinh tử, chỉ cảm thấy tiếc nuối vì chẳng thể bước hết một đoạn hùng tâm của mình. Ngài vươn tay, khẽ nói:

- Ngồi đi.

Giờ phút này trong nội điện chỉ có ba người bọn họ, đám quan nội thị đã sớm bị hoàng thượng nghiêm lệnh phải tránh xa cửa phòng từ lúc ban chiều rồi. Quý phi Hoàng Lan đứng dậy, khẽ kéo ghế mời vị chỉ huy sứ ngồi, rồi dợm bước ra ngoài. Sống trong cung cấm từ thuở thiếu niên, nàng sớm biết Long Đĩnh vô cùng chán ghét tình trạng nội cung dám xen vào việc triều chính. Ấy vậy mà khi cúi người thi lễ, một bàn tay lạnh giá đã vươn ra, nắm chặt lấy tay nàng. Người đàn ông ấy vẫn ngang ngược mà ấm áp như vậy, khẽ kéo nàng dựa vào người y. Giọng ngài hơi khàn, chậm rãi:

- Công Uẩn, hôm nay, trong căn phòng này, không có vua tôi. Thời gian không còn nhiều nữa, ta muốn nhờ ông ba việc.

Ngập ngừng một chút, ngài lại nói:

- Không, là trao đổi.

Lý Công Uẩn nghe thế thì giật mình, vừa ngồi xuống đã bật dậy, thế nhưng chưa kịp đáp trả thì Long Đĩnh đã khoát tay, nói tiếp:

- Đừng ngắt lời ta. Ta biết ông là người trọng tình nghĩa, thế nhưng ta trao đổi, không phải với người bạn năm xưa mà là những thế lực phía sau ông. Cả hai chúng ta đều đã trưởng thành, không phải lúc nào cũng có thể vì nghĩa quên thân như ngày thiếu niên nữa.

Dứt lời, Long Đĩnh vươn tay, đặt lên bàn một bọc lụa gấm vàng. Đó là thứ mà Công Uẩn nhìn thấy nhiều nhất trong mấy ngày hôm nay, khi hoàng thượng phê duyệt tấu chương, ngọc tỷ truyền quốc. Kèm theo đó là một mặt hổ phù bằng ngọc trắng, rực sáng trong màn đêm. Tấm hổ phù này dùng để điều động mười hai đạo Thiên tử quân, thấy phù như thấy vua.

- Ngọc tỷ là thứ mà bọn họ muốn. Hổ phù là thứ ta trao lại cho ông. Ta đã cho điều Cam Mộc trở lại đế đô, hẳn ông đã biết. Sáu đạo vương phủ quân hàng phục và binh lệnh đều đã đưa đến doanh trại của ông ta. Chỉ cần giao ngọc tỷ cho đại sư Vạn Hạnh cất giữ thì không một phiên vương hay đại thần nào trong triều có thể ngăn cản bước tiến của họ nữa. Điều thứ nhất ta muốn ông làm là hãy bảo vệ cấm vệ quân, đừng mài cùn đi nanh vuốt con hổ này. Kể từ ngày mai họ không còn là Thiên tử quân nữa, nhưng hãy cho họ được chết trên chiến trường, chứ không phải trong ngục Cấm Vị.

Lý Công Uẩn lặng im, không đáp lời, cũng không nhận lấy ngọc tỷ và hổ phù. Lê Long Đĩnh dường như cũng không hề chờ đợi câu trả lời rõ ràng nào từ vị tướng quân trước mặt, rút từ trong ngực áo ra một tờ giấy gấp đặt cạnh túi gấm vàng.

- Điều thứ hai khá dài dòng, ta đã ghi lại trong giấy này, chờ đến sáng mai ông mở ra sẽ rõ ràng tất cả.

“Điều thứ ba” – Long Đĩnh ngừng lại một chút, quay sang nhìn Hoàng Lan – “Điều thứ ba, hãy giúp ta đưa nàng ấy ra khỏi cung”.

Hoàng quý phi giật mình, ngẩng phắt đầu lên nhìn Long Đĩnh:

- Hoàng thượng.

Vị quân vương tiều tụy trước mắt nàng khẽ mỉm cười, tay phải vẫn nắm chặt tay nàng, tay trái đưa lên nhẹ nhàng chùi đi vệt nước mắt trên gương mặt nàng:

- Lan, mấy năm nay cực khổ cho nàng nhiều. Không phải ta không biết, nhưng ta là hoàng đế. Đừng giận ta, cũng đừng vì ta mà chôn thân trong chốn cung đình này nữa. Nơi nàng thuộc về là thế giới ngoài kia, là nơi chốn thỏa sức tự do. Nhớ về ta, đem theo mấy giò lan trong phòng này là đủ.

Vỗ vỗ vào mái tóc đen huyền của người con gái đang sa lệ như mưa, Long Đĩnh nói tiếp:

- Sau này có tặng áo cho ai, thì nhớ học cách may nách áo cho kỹ vào. Cái áo này của nàng ta cử động mấy lần đã sút chỉ rồi, phải nhờ bọn nội thị vá lại đấy.

Lúc này Lý Công Uẩn vốn đang ngồi yên bỗng đứng dậy, tiến lại gần Long Đĩnh. Vị hoàng đế ấy vẫn bình thản ôm lấy người phụ nữ của mình, ngước mắt nhìn viên tướng cấm vệ cao lớn. Ánh mắt ấy hào hùng và trầm tĩnh, tựa như đã nhìn thấu hết mọi lẽ xoay vần của đất trời. Hoàng quý phi trông thấy cử động của vị chỉ huy sứ, thốt nhiên cựa mình, mơ hồ có ý chắn giữa Long Đĩnh và Công Uẩn.

Chỉ thấy Lý Công Uẩn khẽ cúi người, giọng nói nhỏ nhẹ mà kiên quyết:

- Hoàng thượng. Cho đến khi thần gặp lại ngài thì Thiên tử quân sẽ mãi mãi là Thiên tử quân. Ngọc tỷ và hổ phù này, thần nhận, nhận cả sứ mệnh mà ngài đã trao cho thần. Mối nhục tê ngưu năm ấy (*), chúng ta sẽ hoàn trả lại đầy đủ cho bọn họ. Nhưng mà kế hoạch của đại sư và Cam Mộc vốn đã khởi động mấy năm qua, chỉ sợ là không thể dừng lại được.

Long Đĩnh nghe thế thì phất tay, cười dài:

- So với vận nước, thanh danh của một ông vua thì có đáng gì. Họ muốn làm gì thì cứ để họ làm thôi. Ông nhận lời vậy, với ta đã quá đủ rồi. Đến đây, đến đây ngồi cạnh ta. Lan, lấy chén ra đây, lấy cho cả nàng nữa. Đã mấy năm rồi ba người chúng ta không có dịp uống cùng nhau.

Hoàng Lan cúi người rời đi, chỉ một thoáng sau đã đã đem đến ba chung rượu lớn bằng đồng. Rượu này là rượu ngự, ngoài đạo Hải Đông ra không có nơi nào làm được, hàng năm chỉ cống lên triều có mười mấy vò. Ba người bọn họ vốn quen nhau từ thuở thiếu niên, nàng biết rõ Long Đĩnh và Công Uẩn chỉ thích uống chung rượu lớn, mấy loại chén ngọc có kích cỡ theo quy củ triều đình đều bị họ chê là đồ vật tủn mủn, chẳng bao giờ động đến.

ooo​

Uống hết mấy chung rượu, Lý Công Uẩn xin phép lui ra ngoài nội điện. Nhìn khí sắc của hoàng thượng, ông biết rằng Long Đĩnh khó mà qua khỏi đêm nay. Ông muốn giành cho cặp vợ chồng hoàng tộc, vốn vì phép tắc cứng nhắc hàng ngày mà khó mở lòng với nhau, những giây phút riêng tư cuối cùng.

Trời vẫn đứng gió. Trăng ngà đã giấu mình vào rặng mây, thứ ánh sáng trong trẻo ban đầu nay đã hóa thành lờ mờ lẩn quẩn. Rảo bước trong bầu không khí thoáng đãng buổi đêm làm cho Lý Tả vệ cảm thấy lòng mình thanh tĩnh hơn. Ngọc tỷ và hổ phù trĩu nặng trong ngực ông, thế nhưng không nặng bằng một phần vận mệnh của vương triều non trẻ mà ông đã nhận gánh trên vai. Kèm theo đó là một lời hứa ngàn cân, không phải giữa bậc vua tôi mà là với người bạn vong niên thuở xưa kia.

Khi Công Uẩn ra đến thành ngoại Hoa Lư, thì trong màn đêm tối tăm ấy, vang vọng một tiếng kêu thê thiết như xé toạc cả đất trời:

- Hoàng thượng băng hà.

Lý tướng quân quỳ xuống, hướng về phía nội điện dập đầu chín lạy. Sương đêm se sắt, từ khóe mắt dãi dầu rơi xuống nền đất lạnh tanh.

Ông cho tay vào ngực áo, lấy ra tờ giấy mà Long Đĩnh đã trao cho mình ban nãy, mượn nhờ ánh sáng lờ mờ mà đọc qua mấy chữ đầu:

“Bình chương sự Trần Thành, an bài ở ngục Bình Điện”
-------------------------------------------------------------------------

(*) Năm 1007, dưới triều đại Quang Hiếu hoàng đế, Đại Tống muốn xuất binh đánh Đại Cồ Việt. Lúc đó đất nước ta vẫn còn loạn biên cương và các phiên vương vẫn chưa hàng phục. Quang Hiếu hoàng đế phải chịu nhục, cống nạp tê ngưu trắng cho nhà Tống để đổi lấy hòa bình tạm thời và nhận sắc phong.
Có chỗ "bất tri bấc giác" -> bất giác?
Bạn viết tốt đấy. Tôi tưởng truyện viết về cuộc đời Lê Long Đĩnh mà chương đầu đã chết ngỏm rồi? :(

Với lại một chi tiết nữa. Thực ra tôi không rõ về lịch sử, nhưng tưởng thời Lê này vợ vua cho tất là hoàng hậu chứ không có phi? (Vì thấy Lê Hoàn có tận 5 bà hoàng hậu liền.) Hơ hơ vụ này không rõ lắm nha, thắc mắc vậy thôi, có gì tác giả thông cảm nha. :D
 

Banhmitrung

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
12/8/14
Bài viết
174
Gạo
0,0
Có chỗ "bất tri bấc giác" -> bất giác?
Bạn viết tốt đấy. Tôi tưởng truyện viết về cuộc đời Lê Long Đĩnh mà chương đầu đã chết ngỏm rồi? :(

Với lại một chi tiết nữa. Thực ra tôi không rõ về lịch sử, nhưng tưởng thời Lê này vợ vua cho tất là hoàng hậu chứ không có phi? (Vì thấy Lê Hoàn có tận 5 bà hoàng hậu liền.) Hơ hơ vụ này không rõ lắm nha, thắc mắc vậy thôi, có gì tác giả thông cảm nha. :D

Mình viết sai chính tả, cảm ơn bạn.

Về vụ vợ vua, mình cũng không biết, Đại Việt sử lược không thấy nói, vì hầu như tư liệu về nhà Tiền Lê quá ít. Có điều nếu cho Hoàng quý phi thành hoàng hậu thì sau khi vua băng hà sẽ phải đặt hiệu, tìm hiểu tùm lum thứ, nên mình đơn giản hóa nó đi.

Bóng anh hùng quyển 1 chỉ viết về cuộc chiến phản gián và biên giới giữa Đại Tống và Đại Cồ Việt sau khi nhà Tiền Lê sụp đổ. Đến quyển hai là Triều Dã mới quay ngược về thời thanh xuân và cuộc tranh giành ngôi vị hoàng đế của Lê Long Đĩnh. Cảm ơn bạn đã ủng hộ.
 

Banhmitrung

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
12/8/14
Bài viết
174
Gạo
0,0
02. Thần tử trì (*)

Ngục Bình Điện.

Là nhà ngục chỉ dùng để giam giữ các đại thần sa cơ nên nơi này không có cái không khí nặng mùi và ghê rợn như những nhà ngục khác. Tòa nhà này có mười tám phòng giam, tường cao chỉ bảy thước sơn tuyền một màu xám. Vào cuộc biến động triều chính hai mươi chín năm trước, tại đây có lúc đã giam đến ba mươi bảy vị quan đầu triều.

Ngục Bình Điện chỉ có một cổng ra vào duy nhất, cao lớn mà rạng rỡ. Hai cánh cửa gỗ dày nặng sơn đỏ thếp vàng, bên trên chạm khắc tinh xảo, quả thật không có mấy khí khái trấn áp của ngục môn. Trước cửa ngục có bày sẵn các lệ bộ đầy đủ như chậu than hay bàn ăn cơm, bởi vì không ai dám chắc rằng vị tù phạm hôm nay còn ngồi trong ngục, ngày mai sẽ biến thành đại quan hay phải đi thẳng ra pháp trường.

Bước ra khỏi cửa lớn của ngục Bình Điện, vốn chỉ có hai nơi đó để đi mà thôi.

Thế nhưng không một ai trong số cai ngục Bình Điện tin tưởng rằng quan Bình chương sự Trần Thành(*) có thể trở về triều đình. Là người đứng đầu của các văn quan, cánh tay mặt của hoàng thượng, từng một thời quyền nghiêng triều dã, thế nhưng chỉ trong nửa tháng là đức ông họ Trần đã trở thành chướng ngại vật phải bị kéo đổ đầu tiên của phe cánh quan Chi hậu. Hoàng thượng ngã bệnh, thế lực của văn quan không đủ sức chống đỡ lại sự liên hợp của hai phe phái tăng sư và võ quan, nhanh chóng rã rời như giấy mỏng dưới mưa.

Cho nên khi trông thấy ngôi sao sáng đương thời của giới võ tướng, quan Tả cấm vệ Lý Công Uẩn ghé qua lúc trời còn âm ám, lại chỉ đích danh căn phòng biệt lập đang giam giữ Trần Thành thì bọn cai ngục, vốn nhiều thời gian rảnh rỗi, liền cho ra cả trăm giả thuyết khác nhau.
ooo​

Phòng giam nhỏ ấy không quá tối, không quá bí bức ẩm thấp nhưng cũng chẳng thơm tho khô ráo gì. Thậm chí còn có một ngọn đèn nhỏ trên vách tường, một cái ghế trúc cùng vài cuốn sách tùy thân của quan Bình chương sự. Trước khi có chỉ dụ của hoàng thượng hoặc phe thắng cuộc truyền tới đây, thì không ai dám trở mặt với vị tù nhân danh tiếng lẫy lừng ấy.

Khi quan Tả vệ bước vào thì viên trưởng ngục đã sớm đặt thêm một tấm sàn gỗ lớn vào phòng, thậm chí còn cẩn thận chuẩn bị thêm một lọ hương nghi ngút khói và một mâm trà nóng nhỏ, ngõ hầu làm át đi thứ mùi đặc hữu của trại giam. Hai vị quan đầu triều vốn đã nhiều lần gặp nhau, trên triều đình có, nơi phong nhã có, trong thư phòng có, trong nội điện đế đô có, thậm chí ngay trước ba quân giữa chiến trường cũng có, chỉ có chưa từng đối mặt trong một không gian chật hẹp đến nỗi không khí cơ hồ đặc quánh lại như thế này mà thôi.

Xuyên qua làn sương khói lờ mờ, Trần Thành khẽ đặt quyển sách trên tay xuống, chăm chú nhìn vào ông bạn đồng liêu:

- Ông đến đây, nghĩa là hoàng thượng đã mất rồi sao?

Công Uẩn gật đầu:

- Khuya hôm qua.

Trần Thành khẽ thở dài một tiếng, sau đó đứng dậy, xếp chiếc ghế trúc đưa cho quan Tả vệ:

- Phiền ông.

Lại thu dọn mấy quyển sách nằm vương vãi dưới sàn, bày ra một khoảng trống nho nhỏ rồi quỳ xuống, hướng về phía đế đô dập đầu chín lạy. Đó là lễ tiết cuối cùng ông có thể bày ra dành cho vị chủ thượng cũng là học trò đắc ý nhất của mình.

Chờ cho Trần Thành ngồi lại vào ghế trúc, Công Uẩn mới lấy tờ giấy trong ngực của mình ra, đưa cho vị cựu quan, chậm rãi nói:

- Hôm qua hoàng thượng đã an bài cho tôi vài việc, những cái khác thì không có vấn đề gì, chỉ riêng việc của ông có chút khó khăn. Ông thấy đó, thả ông và tướng quân Hổ không phải là không được, thế nhưng để hai người về lộ Bắc Giang thì lại đi ngược với chính sách của đại sư. Quả thật lúc này chúng ta không nên có hiềm khích gì với người Nùng và người Tống, cho đến khi ổn định được cục diện triều đình. Quan Chi hậu cũng đồng tình với sách lược ấy, thậm chí ngay buổi chiều hôm qua bộ binh đã gửi công hàm rút lui một trăm dặm đến biên quân rồi.

Trần Thành cũng không vội đọc tờ giấy trong tay, chỉ hỏi lại:

- Vậy ý ông thế nào?

Đương kim điện tiền chỉ huy sứ, người đang nắm giữ trong tay mười hai đạo Thiên tử quân, tám đạo Phiên vương quân, trầm ngâm sắp xếp câu chữ một chút, mới trả lời:

- Ý tôi muốn đánh, Nùng Tồn Phúc là kẻ không đáng tin. Thế nhưng mật thám của ta trong triều Tống gửi tin về báo rằng hiện giờ bên nước họ cũng nhiều chuyện rối ren, quyết sách của họ trong tương lai là án binh bất động, hòa hiếu với các nước lân bang. Nếu chúng ta thật sự hưng binh với Tồn Phúc thì sợ rằng nhà Tống sẽ cảm thấy bất an mà phản ứng kịch liệt. Vì thế tôi có phần nghiêng về sách lược của đại sư và Cam Mộc.

Trần Thành mỉm cười:

- Công Uẩn, biên cương nhìn qua thì có vẻ bình yên, thế nhưng có những chuyển động nho nhỏ bên dưới mà có lẽ hệ thống mật thám quân đội chưa để ý. Tháng trước tôi đã tập hợp mấy tin tức này lại, thế nhưng chưa có dịp trình lên hoàng thượng.

- Nguyện nghe.

- Nùng Tồn Phúc muốn xưng đế.

Tin tức này khiến Lý Công Uẩn nhíu mày, dã tâm của đất Nùng không phải là chuyện mới mẻ gì, thế nhưng xưng đế giữa hai bề kềm kẹp của Đại Cồ Việt và Tống, không khác gì đang tìm đường diệt vong. Thế nhưng ông vẫn im lặng, không muốn cắt lời của Trần Thành.

- Hoàng thượng hồi đầu năm đã từng cho sứ sang nước Tống, đề nghị đặt ba chợ lớn ở các nơi dân cư đông đúc cho tiện việc trao đổi. Yêu cầu này bị triều Tống bác đi, chỉ công nhận một vài điểm trung chuyển hàng hóa nhỏ sát biên giới. Lý do chính là bởi tấu chương bác bỏ của trấn phủ Quảng Nam Tây Lộ dâng lên (Quảng Tây sau này, kể từ giờ về sau sẽ dùng chữ Quảng Tây để thay thế). Trong tấu chương có nói bọn thương buôn người Tống phản đối rất dữ, bởi vì nếu đặt chợ thì những chuyến hàng qua lại trên ba đất nước của họ sẽ bị ảnh hưởng nhiều.

Kể từ đó đến nay đội buôn người Tống đi vào đất Nùng liên tục không dứt, theo tính toán thì số lượng nhiều gấp sáu lần lúc bình thường. Người của tôi trong trại Nùng vô tình phát hiện ra một chuyện bí mật. Thật ra nếu xét cho cùng thì chuyện này quả thật không đáng gì, thế nhưng cách hai bên che giấu nó đi lại cho tôi cảm giác không yên tâm. Vì thế tôi đã chỉ thị thủ hạ đào sâu hơn nữa xem có tìm được tin tức gì đáng giá hay không.

Lý Công Uẩn hơi ngã người ra sau, lại càng lắng nghe chăm chú hơn. Ông biết đội thám báo dưới tay Trần Thành là đội ngũ tinh nhuệ nhất của Đại Cồ Việt, do chính tay vị văn quan này tuyển chọn và bồi dưỡng. So với hệ thống thám báo của quân đội mà ông đang nắm trong tay thì tuy bọn họ ít hơn về lượng nhưng lại vượt trội hơn hẳn chất. Chính vì thế họ có khả năng tìm hiểu được những tin tức mà quân đội ở biên giới không thể nắm được.

- Hơn tám tháng trước, một đội buôn người Tống xuất phát từ Quảng Tây đã vào trại Nùng. Đoàn buôn bọn họ lúc vào có mười tám người, lúc trở về tuy vẫn đủ mười tám người nhưng mật thám của ta tình cờ phát hiện họ đã dùng một thành viên trong đoàn để đổi lấy một người trong trại Nùng. Trước tiên nói về người ở lại, đó là một cô em họ xa đằng vợ của tri châu Quảng Tây, hiện giờ đang là vợ thứ bảy của Tồn Phúc. Người theo đoàn buôn trở về đất Tống là con gái của y, sau khi về đến Quảng Tây đã được gả vào nhà của con trai thứ ba của tri châu làm thiếp.

Lúc nhận được tin tức này tôi cảm thấy có chút kỳ lạ. Thông hôn để giữ hòa hiếu không phải là chuyện cần phải giấu kín gì, dù sao đất Nùng muốn tồn tại giữa Tống và Việt thì bắt buộc phải thân cận với cả hai bên. Thế nhưng vì sao họ lại tiến hành rất bí mật, không muốn kẻ bên ngoài biết. Khi ấy tôi có ngờ rằng đây là một lời cam kết giữa đôi bên và việc trao đổi thân thích này giống như đang đặt con tin cho đối phương. Khi người của ta tiếp tục đào sâu hơn nữa thì phát hiện ra trong vòng bốn năm trở lại đây, tức là khi bắt đầu diễn ra biến cố trên triều ta, đất Nùng đã lén lút đưa mười mấy thanh thiếu niên tài trí vào đất Tống, theo học trường người Tống và rèn luyện trong các doanh trại binh Tống.

Công Uẩn nghe tới đó thì gõ ngón tay xuống sàn trúc:

- Bọn họ đang đào tạo lực lượng kế thừa. Tuy nhiên áp vào tính cách quật cường của Tồn Phúc, việc y muốn bộ tộc mình phát triển cũng không lấy gì lạ.

- Tôi biết, thế nên việc này thủy chung vẫn chỉ ở mức theo dõi, chưa hề được trình lên hoàng thượng. Mãi đến đầu mùa thu năm nay, phía Quảng Tây lại bí mật đưa sang trại Nùng khá nhiều sách vở, đều là những cuốn nói về lập quốc và trị quốc. Các đội buôn nhà Tống đã nhận được chỉ thị có thể bắt đầu trao đổi những yếu phẩm như muối và sắt thép. Ngoài ra trong đất Nùng đã dựng lên ba chỗ khai thác sắt thép và lò rèn binh khí, dưới sự hỗ trợ của thợ thủ công người Tống. Tuy người của ta vẫn chưa tìm được chính xác vị trí của mấy lò rèn này, nhưng ý đồ của Nùng Tồn Phúc đã quá rõ ràng rồi.

- Y muốn lập quốc sao. Điều này là bất lợi với chúng ta, nhưng cũng chưa hẳn là thuận lợi với nhà Tống. Chẳng lẽ họ không biết câu nuôi hổ thành hoạn. Hoặc là, hoặc là vị hoàng đế nhà Tống kia sẽ tự tay dựng lên một phiên vương nữa làm vùng đệm cho đất Quảng Tây. Khống chế nhu yếu phẩm và vũ khí, bồi dưỡng tham vọng và dã tâm, buộc người Nùng thành một tay đấm thuê.

“Để đặt sẵn một quân cờ, mở sẵn một bố cục, một khi giải quyết xong chuyện rối ren trong nước” – Trần Thành tiếp lời – “Sẽ là lúc họ tiến về phương nam”.

Hai vị đại quan nhìn nhau, là người tinh thông lịch sử, họ hiểu hơn ai hết về dã tâm của phương bắc, về sự nặng nề của hai chữ “tiến nam”. Đi kèm với hai chữ ấy, là đô hộ nghìn năm, máu và cái chết, sự tan nát của thành trì, sự sụp đổ của vương triều.

“Rất đúng thời điểm” – Lý Công Uẩn nhắm mắt lại – “Chúng ta có quá ít thời gian, nếu như hoàng thượng không… thì ắt hẳn chỉ trong mười năm, đất ấy sẽ là vùng phên dậu của Đại Cồ Việt”.

“Công Uẩn, để tôi về đông bắc” – Trần Thành ngồi thẳng người dậy, vẻ quyết liệt hiếm thấy xuất hiện trên nét mặt vị văn quan tính tình từ tốn điềm đạm ấy – “Lộ Bắc Giang không thể rối loạn, châu Quảng Nguyên không thể biến thành đất người Nùng. Nếu không, cửa ngõ phía bắc của chúng ta khác gì đã mở toang cho nhà Tống rồi”.

- Tôi hiểu tấm lòng của ông.

Lý Công Uẩn thốt lên một câu rồi im lặng. Lăn lộn trong chốn quan trường bao nhiêu năm, Trần Thành làm sao không hiểu, nếu để một vị đại quan đầu triều như ông trở về đông bắc, trong tay lại có binh lực, có thủ hạ có tướng quân, có đất đai vũ khí, khác gì thả một con hổ dữ về rừng. Chỉ e là trong mắt sư Vạn Hạnh và Đào Cam Mộc, thậm chí cả vị Tả vệ chính trực trước mặt đây, sự nguy hiểm của ông còn cao hơn cả Nùng Tốn Phúc.

Một tia bất cam lóe lên trong mắt Trần Thành, ông thả lỏng người, trầm giọng nói:

- Công Uẩn, ông vốn biết tôi không có vợ con. Từ lúc ra làm quan cho đến khi nhận chức Bình chương sự này, tôi chỉ có một học trò là hoàng thượng. Hai tháng trước, khi nhận được tin tức hoàng thượng trúng ám độc không thể chữa trị, tôi đã tự mình yêm hoạn rồi.

Lý Công Uẩn giật nảy mình. Yêm hoạn vốn là con đường tiến thân cho những kẻ dưới đáy xã hội, chấp nhận từ bỏ đường con cháu sau này để có thể vào làm nội thị cho hoàng đế và các vương hầu. Tội không con vốn là tội bất hiếu lớn trong đạo Nho, nếu tin tức này lọt ra ngoài, một người xuất thân sĩ phu như Trần Thành sẽ bị cả giới học trò sỉ nhục, bất kể ông ta có làm quan cao tới đâu.

- Hoàng thượng đã băng hà, đáng lý tôi cũng chẳng có gì phải lưu luyến nữa. Thế nhưng ngài đã tin tưởng giao lại nhiệm vụ này cho tôi, ít nhất tôi cũng phải hoàn thành nó cho xong rồi mới có mặt mũi đi gặp ngài. Công Uẩn, hãy tin tôi, giờ đây ngoài Đại Cồ Việt, tôi chẳng còn gì nữa.

Đó, là một quyết tâm sắt đá đến nhường nào.

Là sự quyết tuyệt đến nhường nào.

Vua đãi ta bằng lễ quốc sĩ, ta đem mạng này trả lại cho vua.

Lý Công Uẩn nhắm mắt lại, quai hàm bạnh ra. Một lát sau, vị quan Tả vệ ấy mới đứng dậy, đặt tay lên vai đối thủ đã tranh đấu với mình hơn mười năm:

- Tôi tin. Chờ tôi.

Dứt lời, ông quay người sải bước ra khỏi phòng giam, bỏ lại Trần Thành đang cúi đầu ngẫm nghĩ sau làn sương khói mờ ảo.
ooo​

Mười bốn ngày sau khi tin tức vua Long Đĩnh băng hà loan truyền cả nước, vị cựu tể tướng triều Tiền Lê ấy bị giáng chức thành quan thủ phụ lộ Bắc Giang, một trong những vùng đất nghèo nàn nhất Đại Cồ Việt. Lệnh ban xuống buộc ông phải rời khỏi đế đô ngay trong đêm, với sự hộ tống của tướng quân Hổ cùng một đạo Phiên vương quân.

Nghe nói rằng khi Trần Thành rời khỏi cổng thành, quan Tả vệ đích thân dẫn theo đội tùy tùng chặn người lại, buộc ông phải cởi bỏ mũ quan, dùng thân phận dân thường đi đến nhậm chức. Lại không thiếu được sỉ nhục một phen, bọn sĩ phu có kẻ chướng mắt liền hợp nhau viết mấy bài cáo phản đối, thế nhưng vị tướng quân quyền nghiêng triều dã ấy chẳng buồn để vào tai.

Khiến người ta chỉ còn biết chép miệng: Lên voi xuống chó mấy khi.
-------------------------------------------------------------------------

(*) Trì: có nghĩa là đảm đương, duy trì. Kiên quyết, cường ngạnh.

(*) Bình chương sự: Khi lên ngôi, Lê Long Đĩnh đã dần dần thay đổi hệ thống quan chức giống như triều Tống, thoát khỏi lề thói dùng binh làm chủ như thời Đinh. Bình chương sự là chức quan tương tự như tể tướng đầu triều sau này, đứng đầu văn quan.

(*) Quảng Nam Tây Lộ: Tên gọi ngày xưa của vùng đất Quảng Tây, giáp biên giới Việt Nam.
 

_TA_

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
7/1/14
Bài viết
760
Gạo
180,0
Ôi chú bánh mỳ già nua :D:D:D.
Phần #1 cháu đọc mục giới thiệu sự ra đời rất cuốn hút nhưng khi vào truyện thì không hay cho lắm chú ạ. Cảm giác truyện toàn thoại. Mặc dù cũng có nhiều chỗ không phải thế. Kỳ lạ!
Cháu chờ truyện của chú nhé. He he.
 

Banhmitrung

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
12/8/14
Bài viết
174
Gạo
0,0
Ôi chú bánh mỳ già nua :D:D:D.
Phần #1 cháu đọc mục giới thiệu sự ra đời rất cuốn hút nhưng khi vào truyện thì không hay cho lắm chú ạ. Cảm giác truyện toàn thoại. Mặc dù cũng có nhiều chỗ không phải thế. Kỳ lạ!
Cháu chờ truyện của chú nhé. He he.

Chào em TA, long time no see, ha ha. Truyện dựa lịch sử nên khúc đầu nó cũng hơi buồn buồn, khúc sau có oánh đấm yêu đương nhiều hơn tý chắc đỡ hơn.
 

_TA_

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
7/1/14
Bài viết
760
Gạo
180,0
Chào em TA, long time no see, ha ha. Truyện dựa lịch sử nên khúc đầu nó cũng hơi buồn buồn, khúc sau có oánh đấm yêu đương nhiều hơn tý chắc đỡ hơn.
Thống nhất chú cháu từ đợt trước rùi mà. Không muốn bị già nên chú kêu em à. Hô hô. Mà có khi ông chú này chả biết mình là ai í =)).
Nói chung là chờ đợi hồi sau của ông chú già lắm.
 

Banhmitrung

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
12/8/14
Bài viết
174
Gạo
0,0
Thống nhất chú cháu từ đợt trước rùi mà. Không muốn bị già nên chú kêu em à. Hô hô. Mà có khi ông chú này chả biết mình là ai í =)).
Nói chung là chờ đợi hồi sau của ông chú già lắm.

10 tuổi chứ mấy :v
 
Bên trên