05. Trước bình minh (a)
1. Đêm trắng
Trăng treo lơ lửng trên đỉnh trời, ánh sáng nhẹ nhàng len qua kẽ lá, rải trên mặt đất những mảnh vụn vỡ màu ngà. Bờ cỏ mềm ngậm ánh trăng tan, lan lan như dải sóng bạc, thoang thoảng nghe mùi hoa cỏ đồng nội vương vấn ở khắp nơi. Ngọn gió buổi đêm khẽ trườn qua sườn đồi, thổi phất phơ dải áo của một người đàn ông đang chắp tay đứng đó.
Gương mặt gầy gò hốc hác, nước da lại nhợt nhạt tái xanh như người bị chứng cớm nắng lâu ngày, thoạt trông ông ta có dáng vẻ của một con bệnh vừa khỏi. Thế nhưng dưới đôi mày liễu thanh thoát lại là một ánh mắt tĩnh lặng và thâm trầm, mênh mông như biển như hồ, sâu rộng tới mức tựa hồ có thể dung nạp hết thảy những sóng gió bể dâu của cuộc đời. Người đàn ông đó đứng giữa vùng ánh sáng dịu dàng, ngẩng mặt lên ngắm trăng, dáng vẻ vừa cô độc vừa cao quý.
“Bác Thành” - Bên cạnh ông chợt vang lên tiếng gọi của Gia Tuyên - “Nước chè đã pha xong rồi đây ạ.”
Lúc quay người lại Trần Thành suýt nữa phì cười. Thật không hiểu gã tướng quân thô hào ấy tìm ở đâu nơi vùng biên này mấy loại chè như cỏ dại thế này nữa. Nước thắng chắc là nước suối múc đại bên đường, thậm chí còn pha một cách nửa sống nửa chín, khiến cho kẻ thích thưởng chè như ông vừa ngửi đã nhăn mũi lại. Thức ăn kèm chỉ là mấy bánh lương khô cắt nhỏ thành miếng, bát đĩa là túi da đựng nước vốn thường dùng trong quân.
Hiếm ai có thể mường tượng ra cảnh đại quan đầu triều uy thế hiển hách đối ẩm cùng vị thiên tướng danh tiếng lẫy lừng bốn phương, lại bằng một cuộc chè đơn sơ nghèo nàn đến như thế. Trong quân vốn cấm rượu, trừ khi phải hành quân trong mùa đông rét lạnh. Vả lại Trần Thành cũng không thích uống rượu, thế là Gia Tuyên đã xoay xở tìm ra cách pha chè, một việc gã chưa bao giờ làm trước đây.
Cho đến khi Hổ tướng quân lóng ngóng rót chè ra hai cái chén hạt mít sứt sẹo không biết lôi từ đâu ra, sau đó nhăn mặt uống ực một phát thì Trần Thành không nhịn được nữa, bật cười ha hả:
- Ha ha, cái thằng này, đừng có bày đặt nữa, cả đời đã đụng đến chén chè nào chưa. Có đâu lại uống như phường ăn cướp thế.
Mắng dứt lời bèn thò tay giật lấy ấm chè và cái chén, tự rót tự uống. Tuyên cười cười, cũng không lấy gì làm ngượng ngùng lắm:
- Bác bảy thông cảm, lính tráng bọn cháu ăn bờ uống bụi quen rồi, bộ ấm chén này cháu phải cướp của gã hàng rượu ven đường ban sáng đấy.
Trần Thành xoay xoay chén trà nóng hổi trong tay, muốn mượn nhiệt khí của nó để xua bớt cái lạnh giá đầu đông vùng Đông Bắc, cất tiếng hỏi:
- Hồi chiều chúng ta thiệt hại bao nhiêu người, đã lo cho thương binh chưa.
Tuyên thở dài, ngồi xuống:
- Anh em chết trận hơn ba mươi người, bị thương nặng mười mấy người. Về cơ bản chúng ta thiệt hại một nửa binh sĩ. Đặc biệt chiêu Vẫn Lạc Lưu Quang cuối cùng ấy đã sát hại tại chỗ mười người.
Trấn Thành than một tiếng:
- Suy cho cùng họ cũng vì muốn giúp đỡ ta, chỉ là họ không hiểu câu chuyện bên trong mà thôi. Có cách nào để họ tự rút lui mà không phải chiến đấu không?
Hổ tướng quân thản nhiên trả lời:
- Châu Trì và anh em họ Phạm đúng là những kẻ xả thân vì nghĩa. Có điều chúng ta cũng không còn cách nào khác, nếu họ lại đến một lần nữa thì cháu phải giết chết tất cả. Kế hoạch của chúng ta không thể nói rõ ràng cho bọn họ biết, lại càng không thể thất bại vì những tay tự cho mình là nghĩa sĩ giang hồ ấy.
“Không thể thất bại” – Vị tướng quân nhắc lại, quyết liệt và kiên định.
Câu nói mang dáng vẻ quyết liệt này, ba năm trước y cũng đã một lần nói ra, ở trước đầu long xa. Tướng quân trước ngựa cười cười nói nói, mắt thấy vạn binh vẫn như không. Lúc ấy tuyệt nhiên chẳng có một ai dám coi thường y, hay cho rằng y là kẻ khoác lác. Ngay cả vị quân vương thường ngày vốn quyết liệt háo sát, cũng không có lập tức hạ lệnh chém đầu y.
Vì rằng câu nói ấy kết hợp cùng với bộ dáng ngạo nghễ coi thường cả trời đất của viên hiệu úy khi ấy, khiến cho người ta bất giác nảy sinh một sự tin tưởng vững vàng, khiến cho người ta chợt muốn đánh liều một phen.
Trần Thành nhìn sâu vào đôi mắt của Tuyến, liền có thể thấy được tia lửa vừa hung tàn vừa đáng sợ lóe lên. Lăn lộn trong quan trường mười mấy năm, trải qua không biết bao nhiêu biến động thời cuộc, ông biết rằng tia lửa ấy có thể thiêu cháy bất kỳ trở ngại nào chắn ngang đường.
Đó không phải âm mưu hiểm độc của giang hồ. Đó cũng không phải thủ đoạn lắt léo mà đám quan lại hay chơi. Đó là phong thái của một vị bá tướng ngang dọc chiến trường. Vỏn vẹn chỉ có bốn chữ đơn giản khơi khơi vậy đó, mà lại mang theo thứ quyết tâm vô tình và tàn nhẫn, đến mức không còn phải uý kị chuyện gì.
Đến mức, không hề sợ phải mang tội với thiên hạ.
Loại người như thế, liệu rằng có mấy ai can đảm chặn đầu y. Trần Thành thậm chí ngờ rằng, nếu có phải tàn sát hết sạch cả nghĩa sĩ vùng Mộc Sơn này trong trường hợp cần thiết, Hổ tướng quân cũng sẽ không cau mày lấy một cái.
Đến lúc này ông mới chân chính hiểu được cảm giác của đức vua khi hạ lệnh đem cả cả ngàn cấm vệ quân của hoàng thành chém chết một lượt trong trận binh biến năm Ứng Thiên thứ nhất.
Có những người vì nhân đạo có thể bỏ qua mục đích của mình, nhưng cũng có những người vì mục đích của mình mà sẳn sàng vứt bỏ sang một bên lòng nhân đạo. Đời sau hay lịch sử có thể ghi chép về họ như những tên bạo chúa, những kẻ giết người không ghê tay, có thể lưu danh họ là tội nhân của đạo lý luân thường, nhưng có ai dám chắc rằng vào thời điểm đó, làm như thế, thật sự là đúng hay là sai.
Hổ tướng quân, là loại người như thế.
Trần Thành, là loại người như thế.
Lê Long Đĩnh, cũng là loại người như thế.
Trần Thành nhón lấy một miếng lương khô, vừa ăn vừa hỏi chuyện. Ông là văn quan, không có thể lực và thân thể mạnh khỏe như đám võ tướng, một đường bôn ba đến đây đã hết sức mệt mỏi rồi.
- Ngày mai chúng ta sẽ gặp người của ngục Bát Quái. Ta nghe nói viên ngục trưởng là Diệp Mân, hàm tứ phẩm, vốn là người gốc Trung Nguyên sang nước ta đã mấy đời, tiếng tăm cũng không tốt đẹp gì.
“Vâng, thưa bác” - Tuyên gật đầu, tư liệu quan lại vùng đông bắc y nắm rõ trong lòng bàn tay - “Diệp Mân bản tính tham lam, thích nhận hối lộ, ỷ vào nơi đây là vùng biên viễn, trời cao hoàng đế xa, hoành hành không cố kỵ gì. Tại Mộc Sơn không có quan viên nào lớn hơn y hai cấp, nên không ai có quyền xen vào công việc của ngục Bát Quái. Có điều, y thật sự là kẻ có tài năng.”
“Có tài năng ư” – Trần Thành nhíu mày – “Về phương diện nào?”
“Gác ngục” – Tuyên thản nhiên – “Ngục Bát Quái vốn là một tòa thành kiên cố có tám cửa, xây theo sơ đồ bát quái. Cách đây năm năm, khi có mấy đợt xung đột biên giới với người Tống, nơi đây đã bị hư hại nặng. Diệp Mân khi ấy nhận lệnh nhậm chức ngục trưởng, đã tự tay xây dựng Bát Quái ngục còn đáng sợ hơn trước đây nhiều lần. Theo như những gì cháu biết thì từ ấy đến nay chưa một ai có thể đào thoát ra khỏi nhà ngục này, dù là những tay kiêu dũng tế thế như họ Cử ở cửa Thần Phù, hay họ Chu ở bên mạn châu Hoan đi nữa. Nghe đồn họ Diệp thông thạo thuật ngũ hành, bắt nguồn từ một phái phong thủy cổ xưa từ Trung Nguyên.”
“Có khả năng thuyết phục y ngả về phía ta hay không, tiền tài hay quyền thế?” - Trần Thành hỏi.
“Chừng sáu phần thành công” – Hổ tướng quân cân nhắc, tay ngục trưởng là một kẻ cứng cựa khó bề doạ nạt – Thám báo của chúng ta báo về, bên ngoài họ Diệp tỏ ra tham lam tài phú, thế nhưng đó chỉ là tầm bình phong mà y dựng lên để che mắt thiên hạ mà thôi. Nếu dựa vào tiền tài để y trung thành, căn bản là chuyện viển vông.”
- Nếu tâm thuật y bất chính, vậy thì giết. Chúng ta phải nắm lấy ngục Bát Quái, tiếp xúc với trại Anh Hùng.”
“Bác bảy” – Tuyên ngập ngừng một lúc, nhưng vẫn quyết định nói thẳng ra – “Vì sao phải sử dụng người của trại Anh Hùng, chỉ cần nắm được hai nghìn ngục vệ, giao cho bọn tướng lĩnh của cháu chỉ huy, có cái gì mà không làm được.”
Trần Thành lắc đầu:
- Có những chuyện quân đội không thể nhúng tay vào, vì sẽ thành chuyện hai nước binh đao. Vả lại mấy người đang ở trong trại Anh Hùng đều là phường nghĩa sĩ. Ánh mắt của ta và họ có bất đồng, nhưng suy cho cùng thì ai cũng muốn báo đền nợ nước mà thôi.”
“Nhưng mà…” – Tuyên còn muốn nói nữa nhưng Trần Thành đã khoát tay:
- Chuyện của cháu ta còn không biết hay sao. Ở đây tranh cường cái gì. Cầm lấy.
Dứt lời ông thò tay lấy trong ngực áo ra một lọ sứ nhỏ, thẩy nhẹ vào tay vị tướng quân:
- Có ít mật gấu đây, cháu lấy mà dùng.
Hổ tướng quân đón lấy lọ mật gấu, mấp máy môi định nói gì đó nhưng lại thôi, chỉ cúi xuống chăm chú chiết mật gấu ra chén nhỏ. Trần Thành hỏi tiếp:
- Gã thích khách hồi chiều lợi hại lắm đúng không, ta thấy cháu trúng thương không nhẹ.
- Hắn là thích khách từ Đại Tống. Lộ số vũ công ấy là vũ học của Trung Nguyên. Nội lực hắn rất mạnh, chỉ giao đấu một đòn mà có thể chấn động cả kinh mạch của cháu, ngay cả nước ta cũng không có mấy người. Nhưng vũ công có cao hơn nữa cũng không đáng sợ, đáng sợ ở chỗ là hắn có thể giả trang vào đám binh lính mà không ai nhận ra. Có thể làm được như thế chứng tỏ hắn rất thông thạo nội tình của chúng ta. Hiện giờ gã thích khách ấy như con rắn độc ẩn nấp trong bóng tối, chờ cơ hội tiếp theo. Có điều trong khoảng thời gian từ đây đến ngục Bát Quái y cũng không thể ra tay nữa.
- Là ý gì?
“Chấn động kinh mạch của cháu” – Tuyên ngạo nghễ - “Cũng phải trả một giá không nhỏ đi, trong vòng một tuần y sẽ phải dưỡng thương cẩn thận, nếu không ngay cả Kiệt cũng có thể giết y.”
“Như vậy, Đại Tống đã nhúng tay vào chuyện này rồi” – Trần Thành trầm ngâm – “Tri châu Quảng Tây quả thật nhạy bén, chỉ từ vài tin tức trong nước mà có thể suy đoán đến bực này. Điều quan trọng là hiện giờ họ đã phái bao nhiêu sát thủ vào nước ta.”
- Vào bao nhiêu, giết bấy nhiêu, là xong chứ gì.
“Cái thằng lỗ mãng này” – Trần Thành mắng – “Ngày mai khoan hãy gặp người của Diệp Mân đã, cháu truyền tin cho y nói rằng ta bị kinh sợ nên tạm nghỉ ngơi một ngày. Phái cho ta bốn người hộ tống, ta cần phải gặp một người bạn cũ trước.”
- Bác bảy, vậy nguy hiểm lắm. Chi bằng chúng ta đưa cả đội quân đi, có gì còn ứng phó được.
“Không cần, cháu ở đây thu hút sự chú ý của họ, bên ta ít người đi nhanh về nhanh” – Trần Thành khoát tay – “Từ lúc bước chân ra khỏi đế đô, có nơi nào không là chỗ tranh chấp sinh tử, còn lo cái gì chứ.”
- Vậy để cháu cho Kiệt đi theo chú. Thằng nhóc mới mười bảy thôi, nhưng trong quân Bạch Hổ không ai vượt qua nó được đâu.
Trần Thành gật gật đầu, trong đầu lại hiện lên hình ảnh viên tướng áo đỏ, tay cầm thương bạc, tựa như một ngọn lửa hồng hoang rực cháy.
Đêm trắng như sương rơi. Gió lạnh như sương rơi. Lòng người như sương rơi.
Những đợt sóng của vận mệnh đã nổi lên ở đằng xa. Ầm ì ầm ì, muốn cuốn đi tất cả. Nên cương ngạnh chống lại hay là bỏ mặc xuôi tay.
Trăng vẫn loang loáng như nước, phủ ngập cả một vùng. Hai người bọn họ tắm mình trong làn ánh sáng huyền diệu thanh tao ấy, cứ ngồi đó trò chuyện vu vơ, cho đến tận lúc hừng đông nhuộm hồng phía chân trời.
1. Đêm trắng
Trăng treo lơ lửng trên đỉnh trời, ánh sáng nhẹ nhàng len qua kẽ lá, rải trên mặt đất những mảnh vụn vỡ màu ngà. Bờ cỏ mềm ngậm ánh trăng tan, lan lan như dải sóng bạc, thoang thoảng nghe mùi hoa cỏ đồng nội vương vấn ở khắp nơi. Ngọn gió buổi đêm khẽ trườn qua sườn đồi, thổi phất phơ dải áo của một người đàn ông đang chắp tay đứng đó.
Gương mặt gầy gò hốc hác, nước da lại nhợt nhạt tái xanh như người bị chứng cớm nắng lâu ngày, thoạt trông ông ta có dáng vẻ của một con bệnh vừa khỏi. Thế nhưng dưới đôi mày liễu thanh thoát lại là một ánh mắt tĩnh lặng và thâm trầm, mênh mông như biển như hồ, sâu rộng tới mức tựa hồ có thể dung nạp hết thảy những sóng gió bể dâu của cuộc đời. Người đàn ông đó đứng giữa vùng ánh sáng dịu dàng, ngẩng mặt lên ngắm trăng, dáng vẻ vừa cô độc vừa cao quý.
“Bác Thành” - Bên cạnh ông chợt vang lên tiếng gọi của Gia Tuyên - “Nước chè đã pha xong rồi đây ạ.”
Lúc quay người lại Trần Thành suýt nữa phì cười. Thật không hiểu gã tướng quân thô hào ấy tìm ở đâu nơi vùng biên này mấy loại chè như cỏ dại thế này nữa. Nước thắng chắc là nước suối múc đại bên đường, thậm chí còn pha một cách nửa sống nửa chín, khiến cho kẻ thích thưởng chè như ông vừa ngửi đã nhăn mũi lại. Thức ăn kèm chỉ là mấy bánh lương khô cắt nhỏ thành miếng, bát đĩa là túi da đựng nước vốn thường dùng trong quân.
Hiếm ai có thể mường tượng ra cảnh đại quan đầu triều uy thế hiển hách đối ẩm cùng vị thiên tướng danh tiếng lẫy lừng bốn phương, lại bằng một cuộc chè đơn sơ nghèo nàn đến như thế. Trong quân vốn cấm rượu, trừ khi phải hành quân trong mùa đông rét lạnh. Vả lại Trần Thành cũng không thích uống rượu, thế là Gia Tuyên đã xoay xở tìm ra cách pha chè, một việc gã chưa bao giờ làm trước đây.
Cho đến khi Hổ tướng quân lóng ngóng rót chè ra hai cái chén hạt mít sứt sẹo không biết lôi từ đâu ra, sau đó nhăn mặt uống ực một phát thì Trần Thành không nhịn được nữa, bật cười ha hả:
- Ha ha, cái thằng này, đừng có bày đặt nữa, cả đời đã đụng đến chén chè nào chưa. Có đâu lại uống như phường ăn cướp thế.
Mắng dứt lời bèn thò tay giật lấy ấm chè và cái chén, tự rót tự uống. Tuyên cười cười, cũng không lấy gì làm ngượng ngùng lắm:
- Bác bảy thông cảm, lính tráng bọn cháu ăn bờ uống bụi quen rồi, bộ ấm chén này cháu phải cướp của gã hàng rượu ven đường ban sáng đấy.
Trần Thành xoay xoay chén trà nóng hổi trong tay, muốn mượn nhiệt khí của nó để xua bớt cái lạnh giá đầu đông vùng Đông Bắc, cất tiếng hỏi:
- Hồi chiều chúng ta thiệt hại bao nhiêu người, đã lo cho thương binh chưa.
Tuyên thở dài, ngồi xuống:
- Anh em chết trận hơn ba mươi người, bị thương nặng mười mấy người. Về cơ bản chúng ta thiệt hại một nửa binh sĩ. Đặc biệt chiêu Vẫn Lạc Lưu Quang cuối cùng ấy đã sát hại tại chỗ mười người.
Trấn Thành than một tiếng:
- Suy cho cùng họ cũng vì muốn giúp đỡ ta, chỉ là họ không hiểu câu chuyện bên trong mà thôi. Có cách nào để họ tự rút lui mà không phải chiến đấu không?
Hổ tướng quân thản nhiên trả lời:
- Châu Trì và anh em họ Phạm đúng là những kẻ xả thân vì nghĩa. Có điều chúng ta cũng không còn cách nào khác, nếu họ lại đến một lần nữa thì cháu phải giết chết tất cả. Kế hoạch của chúng ta không thể nói rõ ràng cho bọn họ biết, lại càng không thể thất bại vì những tay tự cho mình là nghĩa sĩ giang hồ ấy.
“Không thể thất bại” – Vị tướng quân nhắc lại, quyết liệt và kiên định.
Câu nói mang dáng vẻ quyết liệt này, ba năm trước y cũng đã một lần nói ra, ở trước đầu long xa. Tướng quân trước ngựa cười cười nói nói, mắt thấy vạn binh vẫn như không. Lúc ấy tuyệt nhiên chẳng có một ai dám coi thường y, hay cho rằng y là kẻ khoác lác. Ngay cả vị quân vương thường ngày vốn quyết liệt háo sát, cũng không có lập tức hạ lệnh chém đầu y.
Vì rằng câu nói ấy kết hợp cùng với bộ dáng ngạo nghễ coi thường cả trời đất của viên hiệu úy khi ấy, khiến cho người ta bất giác nảy sinh một sự tin tưởng vững vàng, khiến cho người ta chợt muốn đánh liều một phen.
Trần Thành nhìn sâu vào đôi mắt của Tuyến, liền có thể thấy được tia lửa vừa hung tàn vừa đáng sợ lóe lên. Lăn lộn trong quan trường mười mấy năm, trải qua không biết bao nhiêu biến động thời cuộc, ông biết rằng tia lửa ấy có thể thiêu cháy bất kỳ trở ngại nào chắn ngang đường.
Đó không phải âm mưu hiểm độc của giang hồ. Đó cũng không phải thủ đoạn lắt léo mà đám quan lại hay chơi. Đó là phong thái của một vị bá tướng ngang dọc chiến trường. Vỏn vẹn chỉ có bốn chữ đơn giản khơi khơi vậy đó, mà lại mang theo thứ quyết tâm vô tình và tàn nhẫn, đến mức không còn phải uý kị chuyện gì.
Đến mức, không hề sợ phải mang tội với thiên hạ.
Loại người như thế, liệu rằng có mấy ai can đảm chặn đầu y. Trần Thành thậm chí ngờ rằng, nếu có phải tàn sát hết sạch cả nghĩa sĩ vùng Mộc Sơn này trong trường hợp cần thiết, Hổ tướng quân cũng sẽ không cau mày lấy một cái.
Đến lúc này ông mới chân chính hiểu được cảm giác của đức vua khi hạ lệnh đem cả cả ngàn cấm vệ quân của hoàng thành chém chết một lượt trong trận binh biến năm Ứng Thiên thứ nhất.
Có những người vì nhân đạo có thể bỏ qua mục đích của mình, nhưng cũng có những người vì mục đích của mình mà sẳn sàng vứt bỏ sang một bên lòng nhân đạo. Đời sau hay lịch sử có thể ghi chép về họ như những tên bạo chúa, những kẻ giết người không ghê tay, có thể lưu danh họ là tội nhân của đạo lý luân thường, nhưng có ai dám chắc rằng vào thời điểm đó, làm như thế, thật sự là đúng hay là sai.
Hổ tướng quân, là loại người như thế.
Trần Thành, là loại người như thế.
Lê Long Đĩnh, cũng là loại người như thế.
ooo
Trần Thành nhón lấy một miếng lương khô, vừa ăn vừa hỏi chuyện. Ông là văn quan, không có thể lực và thân thể mạnh khỏe như đám võ tướng, một đường bôn ba đến đây đã hết sức mệt mỏi rồi.
- Ngày mai chúng ta sẽ gặp người của ngục Bát Quái. Ta nghe nói viên ngục trưởng là Diệp Mân, hàm tứ phẩm, vốn là người gốc Trung Nguyên sang nước ta đã mấy đời, tiếng tăm cũng không tốt đẹp gì.
“Vâng, thưa bác” - Tuyên gật đầu, tư liệu quan lại vùng đông bắc y nắm rõ trong lòng bàn tay - “Diệp Mân bản tính tham lam, thích nhận hối lộ, ỷ vào nơi đây là vùng biên viễn, trời cao hoàng đế xa, hoành hành không cố kỵ gì. Tại Mộc Sơn không có quan viên nào lớn hơn y hai cấp, nên không ai có quyền xen vào công việc của ngục Bát Quái. Có điều, y thật sự là kẻ có tài năng.”
“Có tài năng ư” – Trần Thành nhíu mày – “Về phương diện nào?”
“Gác ngục” – Tuyên thản nhiên – “Ngục Bát Quái vốn là một tòa thành kiên cố có tám cửa, xây theo sơ đồ bát quái. Cách đây năm năm, khi có mấy đợt xung đột biên giới với người Tống, nơi đây đã bị hư hại nặng. Diệp Mân khi ấy nhận lệnh nhậm chức ngục trưởng, đã tự tay xây dựng Bát Quái ngục còn đáng sợ hơn trước đây nhiều lần. Theo như những gì cháu biết thì từ ấy đến nay chưa một ai có thể đào thoát ra khỏi nhà ngục này, dù là những tay kiêu dũng tế thế như họ Cử ở cửa Thần Phù, hay họ Chu ở bên mạn châu Hoan đi nữa. Nghe đồn họ Diệp thông thạo thuật ngũ hành, bắt nguồn từ một phái phong thủy cổ xưa từ Trung Nguyên.”
“Có khả năng thuyết phục y ngả về phía ta hay không, tiền tài hay quyền thế?” - Trần Thành hỏi.
“Chừng sáu phần thành công” – Hổ tướng quân cân nhắc, tay ngục trưởng là một kẻ cứng cựa khó bề doạ nạt – Thám báo của chúng ta báo về, bên ngoài họ Diệp tỏ ra tham lam tài phú, thế nhưng đó chỉ là tầm bình phong mà y dựng lên để che mắt thiên hạ mà thôi. Nếu dựa vào tiền tài để y trung thành, căn bản là chuyện viển vông.”
- Nếu tâm thuật y bất chính, vậy thì giết. Chúng ta phải nắm lấy ngục Bát Quái, tiếp xúc với trại Anh Hùng.”
“Bác bảy” – Tuyên ngập ngừng một lúc, nhưng vẫn quyết định nói thẳng ra – “Vì sao phải sử dụng người của trại Anh Hùng, chỉ cần nắm được hai nghìn ngục vệ, giao cho bọn tướng lĩnh của cháu chỉ huy, có cái gì mà không làm được.”
Trần Thành lắc đầu:
- Có những chuyện quân đội không thể nhúng tay vào, vì sẽ thành chuyện hai nước binh đao. Vả lại mấy người đang ở trong trại Anh Hùng đều là phường nghĩa sĩ. Ánh mắt của ta và họ có bất đồng, nhưng suy cho cùng thì ai cũng muốn báo đền nợ nước mà thôi.”
“Nhưng mà…” – Tuyên còn muốn nói nữa nhưng Trần Thành đã khoát tay:
- Chuyện của cháu ta còn không biết hay sao. Ở đây tranh cường cái gì. Cầm lấy.
Dứt lời ông thò tay lấy trong ngực áo ra một lọ sứ nhỏ, thẩy nhẹ vào tay vị tướng quân:
- Có ít mật gấu đây, cháu lấy mà dùng.
Hổ tướng quân đón lấy lọ mật gấu, mấp máy môi định nói gì đó nhưng lại thôi, chỉ cúi xuống chăm chú chiết mật gấu ra chén nhỏ. Trần Thành hỏi tiếp:
- Gã thích khách hồi chiều lợi hại lắm đúng không, ta thấy cháu trúng thương không nhẹ.
- Hắn là thích khách từ Đại Tống. Lộ số vũ công ấy là vũ học của Trung Nguyên. Nội lực hắn rất mạnh, chỉ giao đấu một đòn mà có thể chấn động cả kinh mạch của cháu, ngay cả nước ta cũng không có mấy người. Nhưng vũ công có cao hơn nữa cũng không đáng sợ, đáng sợ ở chỗ là hắn có thể giả trang vào đám binh lính mà không ai nhận ra. Có thể làm được như thế chứng tỏ hắn rất thông thạo nội tình của chúng ta. Hiện giờ gã thích khách ấy như con rắn độc ẩn nấp trong bóng tối, chờ cơ hội tiếp theo. Có điều trong khoảng thời gian từ đây đến ngục Bát Quái y cũng không thể ra tay nữa.
- Là ý gì?
“Chấn động kinh mạch của cháu” – Tuyên ngạo nghễ - “Cũng phải trả một giá không nhỏ đi, trong vòng một tuần y sẽ phải dưỡng thương cẩn thận, nếu không ngay cả Kiệt cũng có thể giết y.”
“Như vậy, Đại Tống đã nhúng tay vào chuyện này rồi” – Trần Thành trầm ngâm – “Tri châu Quảng Tây quả thật nhạy bén, chỉ từ vài tin tức trong nước mà có thể suy đoán đến bực này. Điều quan trọng là hiện giờ họ đã phái bao nhiêu sát thủ vào nước ta.”
- Vào bao nhiêu, giết bấy nhiêu, là xong chứ gì.
“Cái thằng lỗ mãng này” – Trần Thành mắng – “Ngày mai khoan hãy gặp người của Diệp Mân đã, cháu truyền tin cho y nói rằng ta bị kinh sợ nên tạm nghỉ ngơi một ngày. Phái cho ta bốn người hộ tống, ta cần phải gặp một người bạn cũ trước.”
- Bác bảy, vậy nguy hiểm lắm. Chi bằng chúng ta đưa cả đội quân đi, có gì còn ứng phó được.
“Không cần, cháu ở đây thu hút sự chú ý của họ, bên ta ít người đi nhanh về nhanh” – Trần Thành khoát tay – “Từ lúc bước chân ra khỏi đế đô, có nơi nào không là chỗ tranh chấp sinh tử, còn lo cái gì chứ.”
- Vậy để cháu cho Kiệt đi theo chú. Thằng nhóc mới mười bảy thôi, nhưng trong quân Bạch Hổ không ai vượt qua nó được đâu.
Trần Thành gật gật đầu, trong đầu lại hiện lên hình ảnh viên tướng áo đỏ, tay cầm thương bạc, tựa như một ngọn lửa hồng hoang rực cháy.
Đêm trắng như sương rơi. Gió lạnh như sương rơi. Lòng người như sương rơi.
Những đợt sóng của vận mệnh đã nổi lên ở đằng xa. Ầm ì ầm ì, muốn cuốn đi tất cả. Nên cương ngạnh chống lại hay là bỏ mặc xuôi tay.
Trăng vẫn loang loáng như nước, phủ ngập cả một vùng. Hai người bọn họ tắm mình trong làn ánh sáng huyền diệu thanh tao ấy, cứ ngồi đó trò chuyện vu vơ, cho đến tận lúc hừng đông nhuộm hồng phía chân trời.