Re:
[Cần giúp đỡ] Thông tin các tác giả yêu thích.
Chế Lan Viên (1920 - 1989):
Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, ông sinh ra tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, sau khi đỗ Thành chung (THCS hiện nay), ông thôi học và bắt đầu đi dạy tự kiếm sống. Chế Lan Viên bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi và xuất bản tập thơ đầu tay có tựa đề "Điêu tàn" năm 17 tuổi. Từ đó, ông trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Những năm sau đó, Chế Lan Viên đi học và làm việc tại Hà Nội, Sài Gòn, Thanh Hóa và một số thành phố khác. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn và bắt đầu chuyển giọng thơ mang màu sắc siêu hình, huyền bí, mang nỗi niềm hoài cổ của mình sang trường phái hiện thực vươn tới khuynh hướng sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự.
Tháng 7 năm 1949, Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và tập kết ra bắc làm biên tập viên báo Văn học từ năm 1954. Những năm về sau, ông làm việc tại Ban Tuyên huấn Trung ương, Ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu quốc hội nhiều khóa và cũng là Ủy viên Ban Văn hóa - Giáo dục của Quốc hội. Năm 1975, ông trở về sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất năm 1989 và đến năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật. Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh cũng là một nhà văn nổi tiếng.
Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lý, mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú. Ông có tài khai thác triệt để các tương quan đối lập và nổi bật nhất là năng lực sáng tạo hình ảnh phong phú, độc đáo nhiều ý nghĩa biểu tượng.
Các tác phẩm tiêu biểu của ông: "Xuân", "Điêu tàn", "Chim báo bão"...
Tháng 7 năm 1949, Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và tập kết ra bắc làm biên tập viên báo Văn học từ năm 1954. Những năm về sau, ông làm việc tại Ban Tuyên huấn Trung ương, Ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu quốc hội nhiều khóa và cũng là Ủy viên Ban Văn hóa - Giáo dục của Quốc hội. Năm 1975, ông trở về sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất năm 1989 và đến năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật. Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh cũng là một nhà văn nổi tiếng.
Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lý, mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú. Ông có tài khai thác triệt để các tương quan đối lập và nổi bật nhất là năng lực sáng tạo hình ảnh phong phú, độc đáo nhiều ý nghĩa biểu tượng.
Các tác phẩm tiêu biểu của ông: "Xuân", "Điêu tàn", "Chim báo bão"...
Chỉnh sửa lần cuối: