Hoàn thành Én Liệng Truông Mây, Tiểu Thuyết Võ Hiệp Lịch Sử VN, Tập I - Hoàn thành - Vũ Thanh

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Tên truyện: Én Liệng Truông Mây
Tập I
TRUYỀN QUỐC Ô LONG ĐAO
Tác giả: Vũ Thanh

Tình trạng sáng tác: Hoàn tất
Tình trạng đăng: Cập nhật
Lịch đăng: 1 tập/tháng
Thể loại: Tiểu thuyết, Lịch sử, Võ hiệp
Độ dài: 4 tập, mỗi tập khoảng 11 hồi
Giới hạn độ tuổi đọc: không
Cảnh báo về nội dung: không


Giới Thiệu

Tây Sơn Tam Kiệt là bộ trường thiên tiểu thuyết võ hiệp lịch sử gồm ba phần: Én Liệng Truông Mây, Nhất Thống Sơn Hà, Gia Định Tam Hùng kéo dài suốt giai đoạn lịch sử nước nhà từ năm 1738 đến 1802, tức giai đoạn cuối thời Nam – Bắc phân tranh đời Hậu Lê, với Chúa Trịnh Giang ở Đàng Ngoài, Chúa Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong, rồi nhà Tây Sơn thống nhất đất nước cho đến khi Gia Long lên ngôi.

Khoảng thời gian hơn sáu mươi năm đó, tuy rất ngắn ngủi trong dòng lịch sử bốn ngàn năm, nhưng lại là một giai đoạn lịch sử oai hùng và sáng chói nhất của dân tộc, đưa tên tuổi của nước Đại Việt vang khắp năm châu. Và vị anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ đã được liệt vào hàng vĩ nhân, một danh tướng bậc nhất của nhân loại, một vị tướng bách chiến bách thắng, chưa một lần chiến bại, do đó mà trong bài trống trận Tây Sơn không có hồi trống thu quân và cũng do đó mà nhân gian truyền tụng hai câu thơ:

Cổ kim bách thắng Long Nhương Tướng

Nhất thống sơn hà Bắc Bình Vương

Dù vậy cũng không thể phủ nhận đó là một giai đoạn bi thương nhất của dân tộc và có không ít những sự kiện bị gạt bỏ ra ngoài dòng chảy lịch sử nước nhà.

Một trong những vị anh hùng bị lãng quên trong lịch sử đó là chú Lía, người hiệp sĩ đã lãnh đạo cuộc đấu tranh của những người nghèo khó chống lại sự thối nát, bóc lột, bất công, quan quyền của triều đình Chúa Nguyễn. Ngày nay, cuộc đấu tranh oai hùng ấy chỉ còn được lưu lại qua hai câu thơ đầy thương cảm:

Chiều chiều én liệng Truông Mây

Cảm thương chú Lía bị vây trong thành

và một bài vè “Chàng Lía” mà dân chúng yêu thương đã lén lút truyền miệng nhau.

Cuộc khởi nghĩa Truông Mây của chú Lía tuy thất bại nhưng đã khơi dậy trong lòng người dân Việt khốn khổ sức mạnh và ý chí đấu tranh chống lại áp bức, bất công của bọn vua chúa, cường quyền, từ đó mở rộng con đường đấu tranh dẫn đến sự xuất hiện của ba anh em Tây Sơn với công cuộc thống nhất đất nước, làm nên những thắng lợi rực rỡ trong cuộc chiến chống ngoại xâm như đánh tan năm vạn quân Xiêm La và hơn hai mươi vạn quân Thanh xâm lược.

Là người con của quê hương Bình Định đang lưu lạc xứ người, giở lại trang sử xưa, chúng tôi mong mỏi xới tìm những viên ngọc bỏ sót đã bị vùi lấp, đánh bóng lên, trả ánh sáng huy hoàng xưa cho họ. Việc làm này vừa như để vơi đi niềm trắc ẩn, vừa như để mua vui cho độc giả, nhất là lớp độc giả trẻ của nước nhà.

Mùa Giáng sinh 2013 – Florida, Hoa Kỳ

Vũ Thanh
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0

PHI LỘ

Một buổi chiều thu khi ánh dương quang vừa tắt, mảnh trăng thượng huyền như chiếc lưỡi liềm treo lơ lửng trên hàng tre bao bọc ngôi làng Liên Chiểu, huyện Mộ Hoa[1], phủ Quảng Ngãi. Vài tia chớp lóe lên trên bầu trời âm u phía biển Đông báo hiệu cơn mưa sắp tới. Rồi chỉ phút chốc sau, mây đen ùn ùn kéo đến, phủ kín bầu trời, bao trùm vạn vật, gió mạnh từ biển thổi vào mang theo hơi nước mát lạnh. Chớp giật liên hồi và sấm động từ biển khơi tiến dần vào đất liền. Sau những tiếng nổ vang trời, mưa bắt đầu trút nước. Gió trở mạnh hơn, giật từng hồi khiến cơn mưa càng lúc càng trở nên dữ dội. Những hạt mưa tạt mạnh vào cỏ cây cuốn theo hàng ngàn chiếc lá. Cảnh tượng khiến người ta kinh hãi và dự cảm sẽ có điều gì đó không lành sắp xảy ra. Mọi nhà đều đóng kín cửa, không ai dám ra ngoài vì sợ tai bay vạ gió khi trời đang nổi cơn cuồng nộ thế này. Tuy vậy cũng có kẻ lớn gan hé cửa lén nhìn ra bên ngoài. Và những gì đang diễn ra trong đêm bão tố qua ánh chớp đã làm họ kinh hồn bạt vía, tay chân rụng rời.

Tại nông trang bên bờ nam Liên Trì cách núi Long Cốt không xa bỗng xuất hiện nhiều bóng đen như những bóng ma, nhanh chóng bao vây trang trại. Bọn họ đều mặc đồ dạ hành, mặt bịt kín, trên tay đao kiếm sáng ngời. Hòa trong tiếng gió loạn sấm cuồng là những tiếng reo hò, gào thét và tiếng đao kiếm chạm nhau chan chát. Đao ảnh, kiếm quang lấp loáng dưới ánh sáng của những tia chớp. Rồi những tiếng rú thảm thiết vang lên không ngớt. Cuộc chém giết kéo dài không bao lâu thì trong đám hỗn loạn bỗng có tiếng la lớn:

– Anh cả chạy mau đi! Trần gia chúng ta dù chết hết cũng phải bảo vệ thanh Ô Long đao, đừng để bọn giặc Tàu cướp đoạt.

Ngay sau đó là tiếng huýt gió, tiếng vó ngựa dồn dập vang lên. Dưới ánh chớp người ta nhìn thấy một người đàn ông tay cầm đao nằm rạp trên lưng ngựa phóng như bay vào vùng núi Long Cốt. Lại có tiếng người đang đuổi theo sát phía sau:

– Muốn sống sót hãy để bảo đao Ô Long lại cho ta!

Hai con ngựa lao đi mất hút trong màn đêm. Cuộc thảm sát vẫn tiếp diễn cho đến khi cơn mưa nhẹ hạt dần. Lúc này, không gian quanh vùng Liên Trì bỗng bừng sáng bởi ánh lửa bốc lên từ những ngôi nhà ở Trần gia trang. Cảnh vật im ắng sau cơn hoảng loạn, chỉ còn tiếng nổ lách tách của ngọn lửa đang bùng cháy mỗi lúc một mạnh hơn. Người ta nhìn thấy ánh lửa bên Liên Trì nhưng không một ai dám đến xem vì họ vẫn còn khiếp đảm bởi những thanh âm cuồng nộ vừa qua.

Sáng hôm sau người dân quanh vùng Liên Chiểu bàng hoàng khi biết cả nhà Trần gia, vốn là những người nhân đức nhất vùng, đã bị giết sạch không còn một ai. Tất cả xác chết bị bọn sát nhân mang bỏ vào trong nhà rồi nổi lửa đốt. Trong một đêm, cả nông trang rộng lớn bị thiêu rụi chỉ còn lại một đống tro tàn. Cái tin hãi hùng đó lan nhanh làm chấn động cả phủ Quảng Ngãi. Ai cũng thắc mắc lẫn ngạc nhiên vì một gia đình nhân đức, tốt bụng như Trần gia sao lại có thể lâm vào cảnh thảm sát bi thương như vậy. Suốt bao đời kể từ lúc rời bỏ Đàng Ngoài vào cư trú tại Liên Trì, họ đã không ngừng tu nhơn tích đức, giúp đỡ mọi người trong vùng bất kể thân sơ thì làm sao có thể gây thù chuốc oán với ai được? Còn thanh bảo đao Ô Long là vật quí giá thế nào mà dù cho toàn gia bị tiêu diệt, họ vẫn cương quyết bảo vệ nó đến cùng?

Trong khi bao nhiêu nghi vấn đặt ra còn chưa có lời giải đáp thì ngay trưa hôm đó từ núi Bích Khê ở huyện Phù Ly lại có một tin hãi hùng không kém lan đến. Gia đình của một người tên Võ Trụ cũng lâm cảnh toàn gia thảm sát và trang trại ngựa của họ dưới chân núi Bích Khê gần đầm Trà Ô cũng bị thiêu rụi trong cùng một đêm giống như Trần gia tại Liên Trì. Người ta kháo nhau rằng, đó là một cuộc chém giết vô cùng tàn ác nhưng may mắn là nhà họ Võ có hai người thoát nạn. Một con bạch mã chở trên lưng một người đàn bà và một đứa bé phóng nước đại trong đêm, thoát khỏi vòng vây của bọn sát nhân. Mọi người suy đoán người chạy thoát là vợ và đứa con trai duy nhất khoảng sáu, bảy tuổi của Võ Trụ.

Hai vụ đại huyết án xảy ra cùng một lúc mà không để lại một dấu tích khả nghi nào, chứng tỏ hung thủ đã tính toán kỹ lưỡng và sắp đặt kế hoạch từ lâu. Tất cả mọi cố gắng điều tra của nhà cầm quyền thuộc ba phủ của dinh Quảng Nam đều vô vọng. Hung thủ là ai? Chúng có âm mưu gì khi thực hiện hai cuộc thảm sát vào cùng một thời điểm? Vì tư thù hay vì quyền lợi của mỏ vàng Kim Sơn mà Võ gia bị diệt vong? Thanh Ô Long bảo đao của Trần gia hiện lọt vào tay ai? Bí mật vẫn hoàn toàn bí mật.

Vào một đêm sau vụ huyết án, dưới ánh trăng, người ta thấy có bốn chàng thanh niên khoảng ba mươi tuổi và một cô gái độ chừng mười tám, bày hương án trước ngôi mộ tập thể của Trần gia ở chân núi Long Cốt lễ bái. Họ dùng rượu rưới xuống đất trước bàn thờ thay lời tiễn đưa những người quá cố, mà cũng có lẽ, đó là lời thề trước những vong linh bị chết một cách thảm thương, oan ức. Sau đó, họ ngồi uống rượu với nhau. Người cao tuổi nhất trong bốn chàng thanh niên cao giọng ngâm:

Hồi vấn cố tri thiên lý mưu

Bàng hoàng tặc loạn một thiên vưu

Phương liên thẩm thẩm Liên Trì hận

Thanh thảo thê thê Long Cốt cừu


Phủ khốc hàn tinh xuy vạn ảnh

Ngưỡng hào oán khí phún thiên ưu

Phiêu phiêu ma ảnh uất triêm lệ

Túy thệ truy thù tế vĩ lưu.

Tạm dịch:

Ta quay về hỏi cố tri về mưu ngàn dặm

Bàng hoàng thấy giặc loạn làm mất của quý trời đất

Sen thơm gãy chìm khắp gây nên hận Liên Trì

Cỏ xanh thảm thiết in mối thù núi Long Cốt

Cúi xuống khóc, những điểm hàn tinh thổi vạn ảnh

Ngửa lên la to oán khí phun ngàn mối lo

Ma ảnh bay bay đẫm lệ tức uất

Say, thề đuổi giết quân thù tế dòng tộc lớn.

Giọng ngâm chan chứa niềm bi hận. Một người trong bọn nói:

- Tuyệt tác! Bài thơ nghe thống hận tận tâm can.

Một người khác tiếp lời, giọng cương quyết:

- Ta thề sẽ tìm cho ra tên hung thủ chính đứng sau hai vụ án này, phanh thây hắn ra trăm ngàn mảnh để trả thù cho gần bốn mươi nhân mạng của Võ gia và Trần gia.

Cô gái nhỏ nói, giọng uất nghẹn:

- Bài thơ này Bằng huynh nên đặt cho nó một cái tên chứ?

Người được gọi là “Bằng huynh” gật gù:

- Đặt là Liên Trì – Long Cốt hận tạm vậy!

Người nãy giờ chưa lên tiếng xen vào:

- Hay lắm! Mối hận ở Liên Trì và núi Long Cốt này chúng ta không trả được thề không làm người!

Cả bốn người bưng bốn chung rượu vừa rót xuống đất vừa đồng thanh nói:

- Không trả được thù, thề không làm người!!!

Bốn chàng thanh niên và người thiếu nữ dưới trăng ấy là ai? Họ có vén được bức màn bí mật đang phủ kín hai vụ huyết án kia và tìm ra chân dung hung thủ được hay không? Muốn biết rõ sự việc, hãy theo chân của họ trở lại thời kỳ nước Đại Việt rơi vào cảnh Nam Bắc phân tranh vào cuối nhà Hậu Lê với chúa Trịnh Giang ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong.


***


Hồi thứ nhất

Đất Phù Ly, song hùng đồng xuất thế
Thành Phú Xuân, hào kiệt ngộ anh tài

*​
Kim Sơn - Núi Vàng!!!
Đó là một tập hợp những ngọn núi thuộc dãy Trường Sơn, nối liền với dãy núi An Lão nằm trong địa phận huyện Bồng Sơn, phủ Quy Nhơn, phía chính Tây trị sở Lại Khánh, nơi khởi nguồn của dòng Lại Dương Giang, một trong ba con sông lớn ở phủ Quy Nhơn.

Dãy Kim Sơn trập trùng hiểm trở, cổ thụ ngàn năm cao lớn rậm rạp, nhiều nơi mây mọc chằng chịt, gai góc um tùm tạo thành những truông mây bạt ngàn. Núi có tên Kim Sơn vì trong núi có nhiều vàng. Vàng ở đây đã được triều đình nhà Lê khai thác để đúc người vàng cống cho nhà Minh. Lệ cống người vàng thâm độc này có từ đầu đời nhà Hậu Lê. Nguyên do vì nhà Minh đòi vua Lê Thái Tổ phải đền mạng cho tướng Liễu Thăng đã bị tướng Lê Sát của ta chém đầu ở ải Chi Lăng năm 1427. Suốt mấy trăm năm, lượng vàng khắp nơi trong nước Đại Việt bị cống dần sang Trung Hoa.

Vùng Lại Khánh và Bồng Sơn có nhiều người giàu lên nhờ thu mua, tinh lọc, chế biến vàng nữ trang. Trong số đó phải kể đến họ Trần ở Hoàng Kim Môn gần thành Lại Khánh. Họ Trần đã có mặt ở núi vàng từ lúc nơi đây được phát hiện và khai thác. Họ làm nghề thu mua và chế biến vàng từ thuở khai thiên đến thời Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi vào năm 1738 đã truyền được năm đời. Người nối dõi đời thứ năm là Trần Đại Chí. Đại Chí vốn là người khôn ngoan, sống kín đáo nhưng lại kết giao rất rộng với những nhà giàu, có thế lực, các quan chức phủ, huyện của chính quyền sở tại... Một trong những gia tộc có mối giao tình mật thiết với ông ta là Châu gia trang của Châu Doãn Thành ở mặt nam núi Bích Khê, thuộc địa phận Phù Ly. Trần Đại Chí và Châu Doãn Thành tuy không kết nghĩa sinh tử chi giao nhưng tình như thủ túc, luôn tương trợ nhau trong công việc kinh doanh.

Châu gia trang là trang trại nuôi ngựa lớn nhất nhì phủ Quy Nhơn, với hàng trăm giống ngựa quí hiếm. Dòng họ Châu không ai rõ gốc tích nhưng đã nhiều đời cư ngụ tại Phù Ly. Châu Doãn Trí nối dòng đời thứ ba, là người ham thích võ nghệ. Ông theo học nhiều thầy và vốn cơ trí hơn người, ông đã tinh lọc tuyệt chiêu võ học nhiều nơi để sáng chế riêng cho Châu gia một bộ bí kíp võ học lấy tên là Châu gia quyền pháp và đao pháp truyền lại cho con cháu. Châu gia cùng Trần gia ở phía bắc tạo thành Châu – Trần nhị trang nổi danh khắp phủ Quy Nhơn.

Doãn Thành cưới Phan thị, sinh được đứa con trai đầu lòng đặt tên là Châu Doãn Chữ. Năm Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi, Phan thị sinh người con trai thứ hai, đặt tên Châu Doãn Ngạnh. Một hôm, thầy tướng Lư Trung Tử vốn nổi tiếng khắp phủ Quy Nhơn ghé thăm Châu gia trang, thấy đứa bé mới sinh có tướng mạo lạ kỳ đã không tiếc lời ngợi khen. Dù vậy, ông cho rằng đứa bé nên có một cái tên khác. Doãn Thành nghe lời thầy liền đặt thêm cho Doãn Ngạnh cái tên Châu Văn Tiếp. Thầy Trung Tử gật gù:

- Đứa bé này mai sau ắt sẽ là tay anh hùng nổi danh khắp thiên hạ, Châu huynh phải lưu tâm đào tạo cho nó. Dòng họ Châu có được lưu danh thiên cổ hay không là nhờ nó đấy.

Châu Doãn Thành mừng rỡ trong bụng nhưng vẫn khiêm tốn nói:

- Lư tiên sinh đã quá khen. Châu gia chúng tôi chỉ cần được sống no đủ, nào dám mơ đến việc lưu danh thiên cổ.

- Tôi không nói quá đâu. Đứa trẻ này ngũ quan đoan chính, còn nhỏ mà chính khí đã lan tỏa khắp toàn thân, gặp buổi loạn lạc ắt sẽ là người “Lương sơn tá quốc” (quân giỏi ở núi rừng lo giúp nước).

- Đa tạ Lư tiên sinh đã có lời khen. Nếu được như thế thì Châu gia chúng tôi sẽ đời đời làm việc nhân đức để đáp tạ ơn trời.

Từ đó Châu Doãn Thành đổi hẳn cung cách sống, ra sức làm việc nghĩa. Ông đem tiền của giúp đỡ người hoạn nạn, bố thí kẻ khó khăn. Hôm thôi nôi của Châu Văn Tiếp, Châu gia trang mở tiệc linh đình, mời tất cả bằng hữu khắp nơi đến dự. Khách khứa ngoài vị quan huyện Phù Ly Bùi Thế Phát còn có mặt người bạn thiết Trần Đại Chí, trại chủ một trại mộc lớn ở huyện Phù Ly Lê Lập, thầy tướng Lư Trung Tử, Võ Trụ ở tiểu trang trại ngựa trong núi Bích Khê gần đầm Trà Ô cùng rất nhiều khách giang hồ khác. Khi mọi người đã yên vị, Châu Doãn Thành vui vẻ lên tiếng:

- Chào tất cả các bạn hữu, cảm ơn mọi người đã nể mặt Châu mỗ mà quá bước đến đây tham dự lễ thôi nôi đứa con thứ của tôi. Thầy Mạnh Tử nói: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (có ba tội bất hiếu, trong đó không có con nối dõi là tội lớn nhất). Châu mỗ nay đã có được hai mụn con trai nối dõi nên tránh được đại tội bất hiếu, do đó trong lòng cao hứng muốn mời mọi người đến cùng uống chung rượu chia vui. Vài chung rượu nhạt, dăm ba món ăn đạm bạc miền quê tỏ chút lòng biết ơn, mong mọi người niệm tình.

Ai nấy nghe xong đều vui vẻ nói:

- Châu huynh đừng quá khách sáo. Là chỗ thân tình cả mà.

Thầy Trung Tử đứng lên góp lời:

- Cá nhân tôi đã có duyên nhìn thấy diện mạo nhị công tử. Lư Trung Tử tôi nói ra e mọi người cho đó là lời ba hoa nhưng quả thật nhị công tử tướng mạo phi phàm, mai sau sẽ là bậc siêu quần “lương sơn tá quốc”.

Không biết Lư Trung Tử tâm đắc điều gì ở đứa bé mà lại luôn dùng bốn chữ “lương sơn tá quốc” để khen nó.

Châu Doãn Thành trong lòng hoan hỉ vô cùng, vội chắp tay vái tạ nói:

- Đa tạ Lư tiên sinh đã có lòng đề cao. Cháu còn bé quá, chưa biết về sau thế nào nên thật không dám nhận.

Quan huyện Bùi Thế Phát ngắt lời:

- Châu huynh không cần nhún nhường. Mau đem cháu ra đây cho mọi người nhìn mặt sẽ biết rõ thực hư chứ gì.

Châu Doãn Thành vui vẻ:

- Được thôi, được thôi!

Sau đó, ông ra hiệu cho gia nhân vào gọi Phan thị bế đứa trẻ ra. Phan thị là một thiếu phụ trẻ, vừa xinh đẹp vừa phúc hậu. Bà cúi chào mọi người, trao đứa bé cho chồng rồi lui lại đứng nép phía sau lưng. Châu Doãn Thành bồng con nói với quan khách:

- Đây là vợ tôi, còn đây là đứa con thứ hai. Hy vọng nó không ngỗ nghịch làm cho Châu gia phải xấu hổ là phước lắm rồi.

Nói xong ông bồng đứa trẻ đi xuống các bàn tiệc để cho bạn bè nhìn mặt. Mọi người đều tấm tắc khen và đồng ý rằng Lư Trung Tử đã không nói quá. Võ Trụ quan sát đứa bé rất kỹ, trong lòng thầm nghĩ: “Năm tháng nữa vợ mình cũng đến kỳ sinh nở. Ước gì cũng sinh được một thằng con trai kháu khỉnh thế này thì hạnh phúc biết bao!”. Suy nghĩ ấy cứ lởn vởn mãi trong đầu Võ Trụ cho đến khi tan tiệc về nhà. Đêm đó ông nói với vợ:

- Hôm nay anh đi dự đám thôi nôi đứa con thứ hai của Châu gia, thằng bé có tướng mạo rất lạ. Thầy Lư Trung Tử đoán sau này nó sẽ lưu danh thiên cổ khiến anh cứ mơ rằng em cũng sẽ sinh được một thằng con trai như họ Châu vậy.

Vừa nói ông vừa âu yếm đưa tay sờ vào bụng vợ. Vợ ông nghe chồng tâm sự thì mỉm cười:

- Châu gia bao đời giàu có, thế lực, con cái người ta có cơ hội tá quốc lương sơn là phải. Còn anh một mình trơ trọi, cực khổ chắt chiu mấy năm nay mới có được một trang trại nhỏ thì so bì sao được với người ta?

- Giàu có chỉ là thứ yếu, nên danh hay không là nhờ vào phước đức ông bà để lại và ơn trời ban cho. Họ Võ nhà ta tuy bao đời nghèo khó nhưng lúc nào cũng lấy chữ đức làm đầu, chữ nhân làm trọng, em lại là người hiền lương, biết đâu trời thương cho chúng ta một mụn con như ý thì sao?

Nguyễn thị nghe chồng nói cho là phải, liền đưa tay vuốt bụng mình khẽ khàng nói:

- Đứa bé này mới bốn tháng mà em thấy nặng nề quá, chắc là con trai rồi. Ước gì con chúng ta được như lời anh nói thì tốt biết bao.

Đêm đó Nguyễn thị mơ thấy có một vị thần to lớn, đen trũi giống hệt vị hộ pháp ở ngôi chùa mà nàng thường đến lễ bái, bỗng nhiên từ trên trời bay xuống chui tọt vào miệng nàng. Nàng kinh hãi la lên. Võ Trụ nằm bên giật mình thức giấc, lay vợ dậy.

- Em làm sao vậy?

Nguyễn thị mở mắt, trán đẫm mồ hôi, hổn hển trả lời:

- Em vừa mới nằm mơ, giấc mơ kỳ lạ lắm.

- Em mơ thấy gì?

Nguyễn thị đưa hai bàn tay ôm lấy ngực, cố dằn nhịp thở xuống:

- Em mơ thấy có một vị thần to lớn, đen trũi như vị hộ pháp trong chùa từ trên trời bay xuống rồi chui thẳng vào miệng khiến em sợ quá.

Võ Trụ trấn an vợ:

- Chắc em nghĩ ngợi chuyện anh nói về con mình nên ngủ mơ thôi, không có việc gì đâu. Thôi ngủ đi, đang có mang phải cẩn thận sức khỏe mới được.

Năm tháng sau, Nguyễn thị hạ sanh một bé trai bụ bẫm, nước da ngăm đen, khỏe mạnh. Võ Trụ đặt tên cho nó là Võ Văn Doan. Khi đứa bé đầy tháng, vợ chồng Võ Trụ bế con lên núi Bích Khê ra mắt thầy mình là Đại Bi thiền sư. Nhìn thấy tướng mạo đứa bé, thiền sư giật mình than:

- Thằng bé này tướng mạo hiếm thấy, sau tất làm nên việc kinh thiên động địa. Chỉ e tính nó cương ngạnh, nếu không khéo dạy dỗ sẽ trở thành mối lo cho thiên hạ. Hai con phải hết sức tu nhân tích đức và đem những điều nhân nghĩa dạy cho nó, được vậy thì thiên hạ sẽ hưởng phước lây.

Võ Trụ nghe thiền sư nói, lo lắng thưa:

- Thưa thầy, hai con vốn ngu muội, không biết có đủ khả năng dạy dỗ cho nó nên người tốt được không. Hay con gởi nó lên đây nhờ thầy giáo huấn để tránh sự đáng tiếc về sau.

- Là họa là phúc, mọi sự đều đã có nhân duyên từ tiền kiếp. Việc các con cần làm bây giờ là phải cố gắng tu tâm hành thiện, đem cái thiện nghiệp của mình làm nhẹ bớt hung nghiệp cho đứa trẻ. Phải ráng dạy cho nó có tâm ngay thẳng, biết thương người. Các con nên nhớ rằng để cải hóa những đứa trẻ ngỗ nghịch không gì bằng tình thương, nhất là tình thương của người mẹ.

Võ Trụ nài nỉ:

- Vài năm nữa đợi nó lớn lên, xin thầy thương chúng con mà nhận nó về dạy dỗ. Như vậy con mới an tâm.

Thiền sư mỉm cười:

- Vợ chồng con đều có tâm lành, thầy chỉ nói xa thế thôi chứ không đến nỗi nào, hai con đừng lo lắng quá.

Nguyễn thị thưa:

- Con xin ghi khắc lời thầy trong tâm để dạy dỗ thằng bé sau này. Mong cho nó có đủ duyên phước để nhận được sự giáo huấn của thầy.

Từ lúc nghe được lời dạy bảo của Đại Bi thiền sư, vợ chồng Võ Trụ càng trì tâm hướng thiện, chí thú làm ăn, mong dành được chút vốn liếng để đào tạo con thành tài.

Năm tháng thoi đưa, giống ngựa quí ở núi Bích Khê cạn dần, Võ Trụ cùng đám đệ tử phải đi xa hơn, vào tận vùng Kim Sơn để tìm bắt, mang về trại nhân giống và thuần hóa trước khi bán cho Châu gia trang. Một hôm đang sục sạo trong núi Kim Sơn, Võ Trụ bỗng phát hiện một con ngựa có bộ lông đỏ như huyết. Biết đó là loài ngựa cực kỳ hiếm, xưa nay chưa từng thấy nên Võ Trụ quyết lòng bắt cho bằng được. Ông cố đuổi theo con vật vào sâu trong vùng rừng rậm Kim Sơn, giáp với Vĩnh Thạnh. Cuối cùng thì ông cũng quăng được vòng dây vào cổ con Huyết mã. Sau một hồi vật lộn, con ngựa hung dữ phải chịu thuần phục. Võ Trụ cột ngựa vào gốc cây rồi xuống con suối nhỏ gần đó rửa mặt. Dưới ánh nắng chiều xuyên qua kẽ lá, những tia sáng từ dòng suối phản chiếu lấp lánh khiến ông không khỏi hiếu kỳ. Ông nhìn xuống đáy dòng suối, với tay nhặt thử vật phát ra ánh sáng ấy lên xem. Bỗng dưng, ông giật mình la lớn:

– Kim Sơn! Vàng! Đúng là vàng ở Kim Sơn rồi! Ha ha... Đúng là vàng ở Kim Sơn rồi!

Quả là “mừng như bắt được vàng”. Và vì quá mừng nên lúc này Võ Trụ đã quên mất sự mệt mỏi, quên cả con ngựa quí đang cột bên gốc cây, ông đi tới đi lui dọc theo con suối tìm nhặt những viên vàng lấp lánh dưới đáy nước. Khi hai túi đã khá nặng thì trời vừa chạng vạng tối, ông trở lên dắt con Huyết mã tìm lối trở ra, dọc đường không quên bẻ cây, đặt đá làm dấu định bụng hôm sau sẽ trở lại tìm kiếm tiếp. Ra đến bìa rừng, đám đệ tử đang chờ bên ngoài mừng rỡ chạy đến đón. Võ Trụ biết việc này hết sức hệ trọng nên dù trong bụng đang mừng vô hạn nhưng vẫn giữ nét mặt bình tĩnh. Đêm đó ông đem số vàng ra cho vợ xem, tay run run vốc nắm vàng thầm thì:

- Em xem này! Vàng đấy, vàng ở Kim Sơn đấy! Chúng ta giàu to rồi. Em xem kỹ đi!

Nguyễn thị cầm mấy viên lên soi dưới ánh đèn. Đúng là vàng ư? Cả đời nàng chưa bao giờ nhìn thấy vàng thỏi nên không biết thật hay giả:

- Anh có chắc là vàng thật không? Nhiều thế này chúng ta phải làm gì với chúng bây giờ?

- Là vàng thật đó, có điều vàng này bị pha tạp, cần phải qua giai đoạn tinh lọc mới có được vàng nguyên chất. Chà! Chúng ta phải làm gì với nó đây? Vả lại, không phải chỉ có bấy nhiêu thôi đâu, anh nghĩ trong vùng núi hoang đó còn nhiều lắm. Làm sao để khai thác hết được đây?

- Chúng ta không thể độc chiếm một mình được đâu.

Võ Trụ trầm ngâm một lát hỏi:

- Theo ý em thì chúng ta làm thế nào?

- Em nghĩ mình nên hỏi ý kiến thầy xem sao rồi cứ theo đó mà hành xử thì an tâm hơn.

- Em nói phải. Nhưng mấy ngày trước thầy đã theo sư bá ở Thập Tháp Di Đà tự đi Phú Xuân để lập đàn cầu siêu giải sấm gì đó. Nghe đâu hai năm nay trong thiên hạ bỗng dưng lan truyền lời sấm kỳ lạ lắm. Theo lời sấm thì phủ Chúa chỉ truyền được đúng tám đời. Lời sấm còn tiên tri sắp tới đất nước sẽ xảy ra nhiều thiên tai kỳ quái khiến Chúa Võ lo sợ đã triệu tất cả những sư thầy đạo hạnh cao thâm về Phú Xuân cúng tế đất trời để giải lời sấm kỳ quái kia.

Nguyễn thị ngạc nhiên:

- Có chuyện lạ thế à? Nếu lời sấm đúng thì thời loạn lạc sắp đến rồi. Doan nhi ắt sẽ phải lớn lên trong cảnh khói lửa binh đao. Em lo quá!

- Vậy nên chúng ta phải có chút của cải phòng thân để lo cho tương lai của nó. Anh sẽ tìm thêm một ít nữa, đợi thầy về chúng ta báo lại sau.

- Như thế cũng được nhưng anh phải cẩn thận.

- Em an tâm!

Hôm sau Võ Trụ cùng người học trò thân tín nhất là Đặng Chí Hiếu mang theo dụng cụ đào đất trở lại Kim Sơn. Đứng bên bờ suối, Võ Trụ nói với Chí Hiếu:

- Thầy có bí mật này muốn chia sẻ với con. Hôm qua thầy đuổi theo con Huyết mã đến đây, vô tình phát hiện ra dưới đáy dòng suối này có vàng. Trong số các đệ tử và gia nhân, thầy biết con là người có tâm địa tốt nên đưa con đến đây để cùng tìm xem lượng vàng ở đây còn nhiều hay ít. Việc này nếu lộ ra ngoài thì cả gia trang chúng ta sẽ mang đại họa diệt vong. Con ghi nhớ kỹ.

Chí Hiếu nghe nói giật mình, cảm động thưa:

- Thầy dạy thế nào con sẽ nghe theo thế ấy, quyết không phụ lòng thương yêu của thầy.

Hai thầy trò xuống suối dò tìm. Họ lần theo con suối lên đến tận đầu nguồn thì thấy con suối chia làm hai ngả rẽ bèn chia nhau mỗi người một ngả tiếp tục tìm kiếm. Hồi lâu bỗng nghe tiếng Chí Hiếu gọi lớn:

- Thầy ơi, mau đến đây xem! Ở đây con tìm thấy nhiều lắm!

Võ Trụ vội vàng tìm đến chỗ của Chí Hiếu thấy hắn đang mê say đào xới, chiếc túi đeo bên hông đã trễ xuống vì sức nặng. Chí Hiếu ngừng tay mừng rỡ nói:

- Chắc là mỏ vàng ở đây rồi thầy ạ. Xem này, chỉ cuốc vài nhát là đã thấy vàng.

Võ Trụ quan sát kỹ một lúc rồi bảo:

- Con tiếp tục đào nữa đi.

Chí Hiếu hì hục đào. Đất vỡ ra, hai thầy trò bóp nát rồi hốt từng bụm nhúng vào dòng nước suối. Nước chảy trôi đất, đọng lại những mẫu vàng nho nhỏ trên tay.

Võ Trụ nói:

- Làm thế này không được. Vàng còn lẫn trong đất sẽ trôi theo dòng suối. Chúng ta phải tìm cách khác để đãi kỹ hơn.

- Ý thầy như thế nào?

- Chúng ta về chuẩn bị đầy đủ dụng cụ đãi vàng rồi quay lại khai thác.

Những ngày sau đó Võ Trụ cùng Chí Hiếu tiếp tục bí mật lẻn vào suối đãi vàng. Khi đã thu được một số vàng khá lớn, Võ Trụ muốn xác định giá trị của chúng nên cùng với Chí Hiếu ăn vận chỉnh tề, mang theo một số vàng thô, ruổi ngựa về phủ Quy Nhơn. Khi qua khỏi huyện Phù Ly đến một nơi đồng trống, Võ Trụ cho ngựa đi chậm lại, đưa tay chỉ về một xóm nhỏ khoảng độ trăm nóc nhà gần chân núi Lý Thạch ở phía tây đường trạm nói:

- Đó là làng Mỹ Hòa, nơi thầy được sinh ra. Tuổi thơ của thầy lớn lên trong khu xóm đó.

Chí Hiếu ngạc nhiên hỏi:

- Vậy ra đó là quê của thầy?

Võ Trụ thở dài:

- Ta được sinh ra ở đó, còn quê hương ở đâu thì ta không biết, chỉ nghe cha ta nói xa lắm, tận ngoài miền Thanh Nghệ.

- Sao thầy không ở đó nữa mà về Bích Khê?

- Cha mẹ ta bỏ quê lưu lạc đến làng này rồi xin làm công cho nhà phú hộ họ Trương. Sau đó sinh ra ta. Nhà họ Trương cũng từ Hải Dương vào đây lúc Chúa Tiên trấn nhậm miền Nam này. Họ Trương ai cũng mình mang tuyệt nghệ. Khi lên mười ta cũng được họ dạy cho một ít quyền cước căn bản.

- Vì sao thầy ra đi?

Võ Trụ im lặng một lúc mới đáp, giọng thoáng chút ngậm ngùi:

- Năm ta lên chín, một cơn dịch bộc phát trong vùng làm chết rất nhiều người, trong đó có cả cha mẹ ta. Từ đó ta sống côi cút trong sự bảo bọc của những người cùng làm công với cha mẹ mình. Ta vốn rất thích võ nghệ nên đêm đêm thấy gia đình họ Trương tập luyện, ta lén học theo. Một hôm, ông chủ bắt gặp ta đang tập bài quyền của họ nên lấy làm lạ bảo ta đi trọn bài quyền cho ông xem thử. Sau biết ta học lén, tự luyện tập một mình, ông đã khen ta thông minh và có căn cơ luyện võ tốt. Từ đó, ông bắt đầu dạy võ cho ta. Ba năm sau, lúc ta tròn mười ba tuổi thì căn bản đã khá vững vàng.

- Ông chủ họ Trương đó thật tốt bụng.

- Ông chủ thì tốt nhưng đứa cháu nội bằng lứa với ta thì chẳng tốt chút nào cả. Hắn từ bé đã bắt nạt và hành hạ ta đủ điều, biết phận mình là con của người làm công nên lúc nào ta cũng nhẫn nhịn. Cho đến một hôm hắn giật món đồ duy nhất mà mẹ ta để lại từ trong tay ta rồi đập vỡ nát, vì quá tức giận nên ta tống cho hắn một quyền trúng huyệt thái dương. Hắn ngã ra, đầu đập vào gốc cây gần đó nằm im bất tỉnh. Ta sợ quá liền cắm đầu bỏ trốn.

Võ Trụ dừng lại, đưa tay chỉ về ngọn núi Lý Thạch xa xăm rồi kể tiếp:

- Đó là ngọn núi mà xưa nay dân chúng quanh đây đều sợ vì trên núi có yêu quái, thỉnh thoảng có tiếng hú dài từng hồi rất ghê rợn. Ta nhắm mắt trốn chạy, quên cả lời dặn của mọi người và lạc trong đó.

- Rồi thầy có gặp yêu quái không?

Võ Trụ cười:

- Có yêu quái gì đâu mà gặp. Ở đó ta chỉ gặp sư tổ của con đang hái thuốc thôi. Thầy thấy ta bơ vơ nên nhận ta làm đệ tử, còn giải thích cho ta hiểu tiếng rú kia là do gió lồng vào hang động trong núi tạo ra.

- Vậy là từ đó thầy theo sư tổ về Bích Khê phải không?

- Đúng vậy. Từ đó ta theo sư tổ về cái am nhỏ trong núi Bích Khê. Vì sư tổ không chịu nói tên nên ta gọi người là Đại Bi thiền sư, bởi lẽ người nhân từ và đại bi như một vị Phật.

Hai thầy trò Võ Trụ vừa thong thả cưỡi ngựa vừa ngắm cảnh quang hai bên đường. Phủ Quy Nhơn mới qui về lãnh thổ của Đại Việt khoảng hơn hai trăm năm. Các đời chúa Nguyễn đã không ngừng khuyến khích những cuộc di dân vào đây nên chỉ trong thời gian ngắn, bộ mặt của vùng đất này đã khôi phục được dáng vẻ phồn thịnh ngày xưa dưới thời của đế chế Chiêm Thành. Trước thủ phủ đóng ở thành Đồ Bàn nhưng vào cuối năm 1743, phủ Chúa lệnh cho dời phủ lỵ ra thôn Châu Thành (thuộc Phù Cát bây giờ) nằm ở phía bắc thành Đồ Bàn, bên kia con sông Cầu Đài và cho xây đắp thành lũy rất kiên cố. Vì phủ lỵ mới đang trong giai đoạn xây dựng nên những phố xá chính phần lớn vẫn còn nằm trong khu thị trấn quanh thành Đồ Bàn cũ.

Dọc theo con đường chính, phố xá san sát với những cửa hàng mua bán của người Việt và người Minh Hương. Ngựa xe qua lại đông đúc, tấp nập, thật là một thị trấn phồn vinh. Thời bấy giờ ở phủ Quy Nhơn ngựa hoang nhiều vô kể, bởi vậy mọi sinh hoạt giao thông đều dùng ngựa làm phương tiện chính. Đàn bà, phụ nữ khi đi chợ xa cũng dùng ngựa. Vì là vùng đất mới, dân xiêu tán tứ phương đổ đến nên phụ nữ ở phủ Quy Nhơn, đại đa số đều học múa roi đi quyền để phòng thân.

Thầy trò Võ Trụ dừng chân ở tiệm kim hoàn Hưng Phát trên lộ chính ở thị trấn Phú Đa. Chủ nhân tiệm này là một người đàn ông tuổi chừng bốn mươi. Thấy có khách lạ ông ta vui vẻ chào hỏi:

- Hai vị chắc không phải người quanh đây? Chúng tôi có thể giúp được gì cho quí khách chăng?

Võ Trụ lấy ra mười viên vàng nhỏ đưa cho ông chủ.

- Tôi có mấy đỉnh vàng nhỏ của ông bà để lại, vì có việc cần nên phải đem đi bán. Của gia bảo nay phải đem ra chợ, thật đáng tiếc.

Ông chủ tiệm cầm lấy số vàng săm soi rồi nói:

- Vàng này còn nhiều tạp chất, chắc là vàng khai thác ở các mỏ ngày xưa. Ông là người Hoài Nhơn, Kim Sơn à?

Võ Trụ thầm phục sự hiểu biết của chủ tiệm, ông mỉm cười:

- Ông chủ thật tinh mắt, mới nhìn đã nhận ra xuất xứ của người và vật. Vâng, tổ tiên tôi ở Bồng Sơn. Thứ này ông thu mua chứ?

Chủ tiệm vồn vã:

- Mua chứ, mua chứ! Chúng tôi mở cửa tiệm này lâu đời lắm rồi. Ngày xưa, ông bà chúng tôi cũng đã mua vào rất nhiều vàng Kim Sơn. Thế ông định bán bao nhiêu?

- Tùy nơi ông chủ cả. Chúng tôi trước nay chưa bao giờ đụng tới việc này nên chẳng rành giá cả. Nghe đồn Hưng Phát là nơi mua bán chắc giá, uy tín nên mới mang đến đây. Ông chủ cứ tùy tiện định giá đi.

- Vậy là ông đến đúng nơi rồi đấy. Ở đây chúng tôi mua bán chắc giá trước giờ. Để tôi cân xem nào. À, cũng khá nặng, những mười lượng đấy. Nhưng ông cũng biết rồi, vàng này phải tinh luyện mới thành vàng ròng. Qua công đoạn tinh luyện, một lượng vàng sẽ bị mất đi một phần mười, thêm công xá của chúng tôi nữa nên vị chi là ba phần mười. Đây còn bảy lượng. Một lượng vàng xưa chỉ đổi được 20 quan, nay được 40 quan, vị chi là 280 quan tất cả. Quí khách có đồng ý không?

Võ Trụ giả bộ trầm ngâm giây lát ra vẻ tiếc rẻ. Đoạn nói:

- Thôi thì đành chịu vậy. Mà này, công tinh chế gì mà những hai phần mười dữ vậy? Hèn chi các nhà buôn kim hoàn như các ông, nhà nào cũng giàu có cả.

- Ậy, nói nghe đơn giản nhưng làm thì khó lắm đấy. Phải có dụng cụ và tay nghề tinh xảo mới làm được chứ không phải chuyện chơi đâu. Chúng tôi làm ăn uy tín mà.

Nói xong chủ tiệm cất vội số vàng vào và đếm tiền giao cho Võ Trụ. Trên đường về, Chí Hiếu thắc mắc:

- Thưa thầy, sao chúng ta không mang vàng sang Hoàng Kim Môn trao đổi? Thầy với họ là chỗ quen biết mà?

- Tuy là chỗ quen biết nhưng Trần Đại Chí là người thâm trầm khó đoán. Thầy không muốn cho họ biết việc này. Các con cũng phải cẩn thận khi giao tiếp với bọn Hoàng Kim Môn. Tốt nhất là không nên dây vào họ.

- Dạ!

Những ngày sau đó, Võ Trụ chọn thêm bốn người học trò thân tín nữa, mang dụng cụ đãi vàng lên Kim Sơn. Cứ hai ba bữa lại âm thầm đi, một nửa tìm ngựa, một nửa còn lại đãi vàng. Chiều đến thầy trò dắt vài con ngựa trở về trại. Thỉnh thoảng ông lại vào Quy Nhơn đổi vàng lấy tiền, có lần còn ra đến tận Quảng Nam để đổi.

Đại Bi thiền sư về, hai vợ chồng Võ Trụ lên thăm và đem việc phát hiện mỏ vàng trình lại. Thiền sư nghe xong thở dài rồi lẩm bẩm một mình:

- À! Thật là nợ trần chưa dứt, vòng tục lụy còn trói lấy ta chăng?

Đoạn, thiền sư nói với vợ chồng Võ Trụ:

- Theo ý thầy, các con nên báo cho quan phủ biết và giao quyền khai thác cho họ thì sẽ tránh được tai họa, không khéo lại là họa sát thân.

Võ Trụ lo lắng:

- Báo cho quan phủ biết, liệu họ có nghi ngờ mình đã tự khai thác quá nhiều rồi hay không, thưa thầy?

- Lòng người lúc nào cũng tham lam nên chắc chắn họ sẽ nghi ngờ. Nhưng chúng ta cứ thành thật và sống theo lẽ tự nhiên, còn thiên hạ nghĩ sao thì đành chịu. Chuyến đi vừa rồi ra Phú Xuân, thầy có diện kiến Chúa Võ, để thầy viết một phong thư trình bày sự việc và xin Chúa cho quan Khâm sai đến đây tiếp nhận việc khai thác có lẽ ổn hơn.

Võ Trụ mừng rỡ thưa:

- Con vốn không ưa lắm bọn quan phủ huyện ở đây. Chúng là những tên tham lam, nếu ta giao cho bọn chúng thế nào số vàng khai thác được cũng chui vào túi chúng hơn phân nửa. Giao cho phủ Chúa thì ít ra dân chúng còn được hưởng phước lây.

- Đêm nay thầy sẽ viết hai phong thư, con mang ra Phú Xuân, đến chùa Thiên Mụ gặp trụ trì Minh Giác sư bá và trao hai bức thư cho ngài. Đọc thư xong ngài sẽ có cách đưa bức thư còn lại đến tay Võ vương.

Nguyễn thị hỏi:

- Chúng ta có nên khai thác một số vàng để xây dựng nơi này thành một ngôi chùa lớn không, thưa thầy?

Thiền sư mỉm cười:

- Thầy ưa thanh tịnh không muốn người đời biết đến. Chùa lớn hay nhỏ không quan trọng, việc của người tu hành là giác ngộ bản thân mình và giúp chúng sanh giải thoát mọi khổ đau. Con không cần bận tâm đến việc đó.

***

Mùa hạ năm Ất Sửu (1745), nước Đại Việt đời vua Lê Hiển Tông thứ năm, Đàng Ngoài chúa Minh Đô Vương Trịnh Doanh năm thứ năm, Đàng Trong chúa Võ Nguyễn Phúc Khoát năm thứ bảy.

Vào những năm đầu thập kỷ 40, trong khi Đàng Ngoài loạn lạc, đói kém thì Đàng Trong lại lan truyền lời sấm: “Chỉ đến tám đời Chúa thì trở về Trung Đô (Đông Kinh)” làm dân chúng hoang mang, phủ Chúa lo sợ. Triều thần nhiều người dâng biểu xin chúa lên ngôi vương để giải trừ ý nghĩa lời sấm trên.

Nhân ở Phú Xuân có chuyện lạ xảy ra: cây sung bỗng dưng nở hoa, gọi là Ưu Đàm khai hoa. Bá quan viện cớ đó đề cử Hương Danh hầu Nguyễn Đăng Thịnh xướng sách, rồi cùng những đại thần phe ủng hộ dâng sách khuyên chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương. Sách có câu:

Chính danh phận vu nhất quốc duy tân chi thủy

Hưng lễ nhạc vu bách niên tích đức chi dư

Tạm dịch:

Bắt đầu cuộc duy tân, phải chính danh phận cho một nước

Hơn trăm năm tích đức, lễ nhạc cần được hưng thịnh.

Sách ấy còn viết:

Dĩ thất thập lý chi cương vũ, tự khai huyền điểu[2] chi cơ

Thẩn tam thiên lý chi dư đồ, thượng tiễn hoàn khuê[3] chi vị.

Nghĩa là:

Chỉ cần bảy mươi dặm biên cương, tự mở nền huyền điểu

Huống chi đã ba nghìn dặm đất hơn, sao chịu vị hoàn khuê.

Do tất cả những nguyên nhân trên, đầu mùa xuân năm Giáp Tý (1744), Chúa Nguyễn Phúc Khoát làm đại điển đăng Vương, cho đúc ấn riêng. Năm sau lại họp quần thần đưa ra kế sách thay đổi toàn bộ cơ cấu hành chánh trong nước, từ những việc lớn như chia lại các dinh, trấn, phủ... cho đến các việc nhỏ như thay đổi cách ăn mặc trong dân chúng. Phú Xuân trở thành kinh đô của một nước, Võ Vương ra sức dựng thêm cung đài, điện ngọc. Sự phồn thịnh sẵn có nay càng nguy nga, sung túc hơn.


***


Mấy ngày sau việc bàn bạc với Đại Bi thiền sư, Võ Trụ mang hai bức thư và dẫn theo một đệ tử tên Doãn Trọng Hào lên đường đi Phú Xuân. Đoạn đường từ phủ Quy Nhơn ra Phú Xuân ước chừng hơn sáu trăm dặm, phải mất hơn hai ngày đường. Hai thầy trò qua đò sông Hương lúc trời chạng vạng tối ngày thứ ba. Họ tìm quán trọ nghỉ ngơi qua đêm, sáng hôm sau lên chùa Thiên Mụ.

Trời hãy còn sớm nên chùa chưa có khách đến viếng. Thầy trò Võ Trụ sau khi vào điện Thiên Vương thắp hương lễ Phật xong liền tìm vị tri khách tăng để xin gặp thiền sư Minh Giác – một trong những cao đồ của thiền sư Nguyên Thiều. Vị tri khách tăng tuổi độ năm mươi chào khách rồi hỏi:

- Xin hỏi hai vị từ đâu đến, gặp sư trụ trì có việc gì?

Võ Trụ chắp tay thưa:

- Bạch thầy, chúng đệ tử ở Phù Ly, phủ Quy Nhơn. Đệ tử vâng lệnh sư phụ ra đây vấn an sư bá Minh Giác thiền sư và trao thư của người.

- Sư phụ của thí chủ là ai?

Võ Trụ ngẩn người vì sư phụ chưa bao giờ nói tên hoặc danh hiệu cho ông biết thì trả lời sao đây? Nghĩ ngợi một lúc ông bèn thưa:

- Bạch thầy, sư phụ của đệ tử không có tên họ hay danh hiệu gì cả. Sư phụ chỉ nói người là sư đệ của Minh Giác thiền sư mà thôi.

Vị tri khách tăng chợt hiểu ra, mỉm cười rằng:

- Ta biết rồi. Là Vô Danh sư thúc đây mà. Sư thúc vừa từ đây về, không biết lại có việc gì gấp mà phải viết thư như thế? Thôi được, hai vị thí chủ ngồi đây dùng trà nhé, tôi sẽ vào thưa cùng sư phụ.

Tri khách tăng đưa hai thầy trò Võ Trụ vào phòng khách, rót hai tách trà sen thơm phức mời họ rồi đi vào phía sau đại điện.

Võ Trụ nhìn quanh thấy trên vách phải có treo bức họa chân dung của một vị sư. Bức họa tuy đơn sơ nhưng nét bút như rồng bay làm nổi bật khí chất người được họa. Không thấy ký tên người họa chỉ thấy dòng chữ:“Tổ Hạnh Đoan thiền sư - Siêu Bạch hoán bích”. Võ Trụ liền ra hiệu cho Trọng Hào cùng cung kính chắp tay vái lạy vị tổ sư của mình. Nhìn sang tường bên trái cũng thấy treo một bức họa chân dung một vị thiền sư khác, bên dưới đề dòng chữ: “Hòa thượng Thạch Liêm - Thích Đại Sán”.

Doãn Trọng Hào hỏi:

- Thưa thầy, hai vị hòa thượng trong tranh này là ai vậy?

- Tổ Hạnh Đoan - Siêu Bạch chính là tổ sư phái thiền Lâm Tế của chúng ta, tức tổ Nguyên Thiều ở Thập Tháp Di Đà tự. Còn Hòa thượng Thạch Liêm - Thích Đại Sán thuộc thiền phái Tào Động ở Quảng Đông, Trung Quốc được chúa Phúc Chu mời sang truyền giáo. Chúa Phúc Chu cũng tu theo Thiền phái Tào Động.

Hai thầy trò đang nói chuyện thì vị tri khách tăng trở lại, ông nói:

- Sư phụ mời hai vị vào trong thiền thất để gặp ngài. Mời hai vị theo tôi.

Họ đi qua hành lang của Đại Hùng bửu điện và điện Ngọc Hoàng đến vườn Tỳ Da phía sau chùa. Trên đường đi, Võ Trụ hỏi:

- Thưa sư huynh, hai bức họa tuyệt bút trong phòng kia là của ai mà không thấy đề tên tác giả?

Vị tri khách tăng cười đáp:

- Là thủ họa của sư phụ hai vị đó. Sư thúc vốn không ưa danh tự nên ngay cả tên mình cũng không có thì làm gì có việc lưu lại tên trên bức họa?

Võ Trụ nghe nói hết sức ngạc nhiên:

- Thì ra sư phụ là một nhà danh họa, vậy mà đệ không biết.

- Chẳng những là danh họa, Vô Danh sư thúc còn là người hội đủ cầm kỳ thi họa, môn nào cũng tuyệt cả. Còn một tuyệt nữa là kiếm tuyệt, điều này chắc hai vị biết rồi. Trước khi theo tổ sư xuất gia, sư thúc được người đời đặt cho một danh hiệu là Ngũ Tuyệt thư sinh. Nhưng giờ thì người chối bỏ tất cả, không muốn ai nhắc đến cái danh ấy nữa. Vừa rồi khi ở đây, sư phụ nài nỉ mãi sư thúc mới chịu phóng bút vẽ hai bức họa đó đấy.

Câu chuyện dừng lại ở đó vì cả ba đã đến thiền thất.

Ngôi thiền thất của thiền sư Minh Giác nằm cạnh bờ sông Hương, ở cuối vườn Tỳ Da. Vầng dương ban mai tỏa ánh nắng ấm áp, ngọn gió trong lành từ dưới sông thổi lên mát lạnh khiến Võ Trụ cảm thấy thật thanh bình sảng khoái. Ba người vào bên trong. Gian thiền thất đơn sơ, chỉ độc một chiếc giường trong góc, ở chính giữa bức vách cuối căn phòng có một vị thiền sư râu tóc bạc trắng đang ngồi trên chiếc bồ đoàn giữa chiếc chiếu trải sẵn. Vị tri khách tăng cúi lạy thưa:

- Bạch sư phụ, hai vị thí chủ đã đến.

Thầy trò Võ Trụ vội đến quì trước mặt thiền sư lạy bốn lạy thưa:

- Đệ tử xin ra mắt sư bá!

Doãn Trọng Hào thưa:

- Đồ tôn xin ra mắt tổ sư bá!

Minh Giác thiền sư nhìn Võ Trụ một lúc rồi nở nụ cười:

- Vô Danh sư đệ có được người đệ tử thế này thật lành thay. Các con ra đây gặp ta có việc trọng đại à?

- Thưa sư bá, sư phụ có hai bức thư gởi cho sư bá, mời người đọc qua.

Võ Trụ lấy hai phong thư ra và hai tay dâng lên cho Minh Giác thiền sư. Minh Giác cầm hai phong thư coi qua, xé một bức ra đọc xong nói:

- Việc này khá hệ trọng. Ngày mai ta phải vào thành gặp Võ Vương để tâu rõ mọi việc. Chưa biết ngài sẽ giải quyết thế nào. Các con cứ ở lại đây nghỉ ngơi dạo cảnh Phú Xuân cho biết.

- Thưa sư bá chúng con phải về ngay. Sư phụ dặn mọi việc cứ để sư bá lo, chúng con không cần phải chờ kết quả.

- Như thế cũng được.

- Vậy chúng con xin chào sư bá.

Hai thầy trò vái chào Minh Giác thiền sư rồi lui ra.

Họ rời thiền thất, đến trước cổng thì ghé vào ngôi nhà hình lục giác để xem chiếc chuông đồng nổi tiếng khắp Đàng Trong.

Doãn Trọng Hào nhìn thấy đại hồng chung to lớn thì trầm trồ không ngớt miệng:

- Thầy xem, chiếc đại hồng chung này lớn quá chừng, dễ thường có đến vài ngàn cân chứ không ít.

- Con đoán đúng. Trên thành chuông có ghi chuông nặng 3.285 cân.

Xem xong hai thầy trò sang phía bên kia cổng. Trọng Hào nhìn tấm bia cao lớn ghi bài Minh của Chúa Phúc Chu bèn tò mò đọc. Xong quay ra hỏi Võ Trụ:

- Thầy ơi, trong bài thơ có câu: “Đạo pháp vô vi chừ hòa đồng Nho Phật”. Câu này nghĩa là gì ạ?

Võ Trụ giải thích:

- Chúa Minh Phúc Chu tu theo thiền phái Tào Động của Hòa thượng Thạch Liêm. Ngài Thạch Liêm chủ trương việc hòa đồng tôn giáo cho nên Chúa Minh cũng khuyến khích việc hòa đồng Nho, Thích, Lão ở nước ta.

Vừa lúc đó có một đôi thanh niên nam nữ từ ngoài bước vào. Hai người ăn vận tuy đơn giản nhưng vẫn không giấu được vẻ quí phái. Người thanh niên nét mặt phương phi, tướng mạo đường đường, hiên ngang. Người thiếu nữ dường như đang mang thai, dáng dấp thanh tao, khuôn mặt như trăng rằm, mỹ lệ như hoa. Nàng bước vào làm gian phòng lục giác chợt sáng hẳn lên. Vì phòng không lớn nên khi chạm mặt, mọi người đều cúi đầu chào nhau. Võ Trụ thấy có người lạ vào bèn kéo Trọng Hào né sang một bên và nhỏ giọng giải thích tiếp:

- Trong văn hóa cổ Trung Hoa có hai nền triết học lớn ảnh hưởng đến toàn bộ hệ tư tưởng của xã hội và nó lan rộng ra cả Đông Phương, trong đó có Đại Việt ta. Đó là tư tưởng của Lão giáo và Khổng giáo. Tinh thần cơ bản của Lão giáo đặt ở hai chữ “vô vi” mà Lão Tử – người sáng lập đã từng nói: “Đạo vô vi nhi vô bất vi”. Lão giáo chủ trương để mọi vật phát triển theo lẽ tự nhiên, con người cũng thuận theo tự nhiên mà sống thì sẽ được an nhàn, tiêu sái và tự tại. Còn tinh thần Khổng giáo đặt ở hai chữ “trung dung”. Khổng giáo đề xướng ra mẫu mực sống cho người quân tử và khuyên họ nhập thế hành đạo giúp đời, giúp người, cải thiện xã hội ngày một kỷ cương, an vui, hạnh phúc hơn. Đạo dạy người quân tử phải giữ cho được chữ trung dung, biết trung hòa, chừng mực không thái quá cũng không bất cập. Với đạo Thích, tức là đạo Phật thì bao la, cao siêu và huyền nhiệm. Ở những người trí huệ, đạo Phật là "giác ngộ" còn ở cái nhìn trong đời thường, đạo Phật là "từ bi". Đạo khuyên ta trước hết hãy giác ngộ để tự giải thoát mình, sau đó đem cái tâm từ bi yêu thương giúp cho chúng sinh trong vũ trụ này thoát ra khỏi bể trầm luân. Con thấy đó, đạo nào cũng muốn đưa con người đến chỗ an lạc, hạnh phúc, chỉ có phương cách và hướng đi là khác nhau thôi. Do đó, mới có chủ trương “tam giáo đồng lưu”, dung hòa ba đạo lại để cùng nhau phục vụ con người, tránh bớt những tị hiềm khác biệt về tôn giáo.

Trọng Hào hỏi:

- Thưa thầy, các đạo ở Trung Hoa và Ấn Độ đều xây dựng một con người kiểu mẫu. Ở Đại Việt ta, người như thế gọi là hiệp sĩ. Vậy người hiệp sĩ của chúng ta dựa trên căn bản của đạo nào?

- Con hỏi hay lắm. Trước khi có những nền triết học bên ngoài du nhập vào thì dân ta đã có một nền Minh triết thuần túy nhân bản, gọi là Việt Nho, khác với Hán Nho của người Hán. Sau này vì bị áp chế bởi giặc ngoại xâm, nền Hán Nho đã thống trị đời sống tâm linh của người Việt. Tuy vậy tinh túy Việt Nho vẫn luôn là cội rễ chính điều khiển tâm thức và lối sống của người Việt chúng ta. Khi các nền triết học và tôn giáo khác du nhập vào, người Việt đã tiếp nhận rồi dung hòa chúng với cái gốc của mình và tạo thành một phong cách sống có sắc thái riêng biệt. Đó cũng là mục đích của sự hòa đồng Nho, Thích, Lão mà chúa Phúc Chu đề xướng. Và người hiệp sĩ của chúng ta chính là sự hòa hợp đó. Người hiệp sĩ có cái khí tiết quân tử, đức độ trung dung của Nho giáo, có tính ung dung tự tại của Lão giáo, có cái tâm từ bi của Phật giáo và tấm lòng nhân bản của Việt Nho nguyên thủy.

Đôi thanh niên nam nữ nãy giờ đứng gần đó xem lời bia, nghe Võ Trụ giảng giải về ba tôn giáo lớn ở Đông Phương và tính chất người hiệp sĩ Đại Việt, trong lòng cảm thấy bội phục lắm. Người thanh niên lên tiếng:

- Xin chào nhân huynh, nghe qua lời cao luận của nhân huynh, kẻ phàm phu thô lỗ như tôi thật đã sáng tỏ vấn đề mà mình chưa thấu rõ. Ba tôn giáo, mỗi tôn giáo gói gọn chỉ trong hai chữ. Thật tuyệt! Cho tôi gởi một xá này để tạ ơn mở trí, khai tâm.

Võ Trụ nghe người thanh niên khen thì hổ thẹn, vội nói:

- Huynh đã quá khen rồi. Đó chẳng qua là lời dạy của sư phụ, nay tôi đem ra truyền lại cho đệ tử thôi. Tôi vốn tài thô trí thiển nên trong cách giảng giải e có điều sai quấy và thiếu sót sợ làm bẩn tai bậc thức giả như hai vị đây. Thật là hổ thẹn!

- Nhân huynh chớ quá khiêm nhường, lời tôi nói là lời thật tự đáy lòng. Giữa đường gặp mặt chắc cũng có chút duyên, nếu không chê thì xin được làm quen.

- Được làm quen với hai vị thì còn gì vinh hạnh hơn cho Võ Trụ này?

Nói xong Võ Trụ cúi chào. Đôi thanh niên nam nữ cũng cúi đầu đáp lễ.

- Tiểu đệ Đoàn Phong, còn đây là Tuyết Hoa vợ đệ, xin chào Võ Trụ huynh.

Doãn Trọng Hào bước đến ra mắt hai người. Đoàn Phong hỏi:

- Nghe khẩu âm hình như Võ huynh không phải người ở đây thì phải?

- Đúng vậy, chúng tôi vừa từ Phù Ly, phủ Quy Nhơn ra đây. Tôi cũng định hỏi Đoàn huynh câu ấy đấy. Nếu tôi đoán không lầm thì hai vị là người Đàng Ngoài?

- Dạ vâng. Vợ chồng đệ cũng vừa từ phương Bắc lánh nạn đến Phú Xuân vài năm nay. Võ huynh cùng chú em đây đến Phú Xuân ngoạn cảnh à?

- Không, chúng tôi ra đây có chút việc, sớm mai phải về rồi.

Đoàn Phong tỏ vẻ tiếc rẻ:

- Mai Võ huynh đã về rồi sao? Tiếc thật, không biết chúng ta còn có duyên gặp lại hay không?

- Hy vọng sẽ có ngày gặp lại. Nếu có dịp vào Quy Nhơn đừng quên ghé thăm trại ngựa họ Võ của chúng tôi ở Bích Khê, Phù Ly nhé.

- Tất nhiên rồi! Nhà đệ ở gần bến đò Vĩ Dạ, có dịp xin mời Võ huynh ghé đến chơi. Tiếc là chiều nay đệ có việc phải vào thành, chúng ta đành chia tay nhau ở đây vậy. Chúc thầy trò huynh lên đường bình an.

- Cảm ơn Đoàn huynh. Mong có ngày gặp lại.

Họ chia tay nhau. Võ Trụ cùng Trọng Hào ra cổng dắt ngựa về lại quán trọ. Vợ chồng Đoàn Phong tiếp tục vào chánh điện lễ Phật. Trên đường về nhà, Lê Tuyết Hoa nói với chồng:

- Thiếp thấy hai thầy trò này có vẻ thật thà ngay thẳng, chính trực lại thân thiện. Những người như thế đáng để kết giao.

- Nàng nhận xét rất đúng, ta cũng nghĩ như thế. Tiếc rằng họ ở xa quá.

Tuyết Hoa thở dài:

- Sau vụ nổi loạn của hoàng thúc Lê Duy Mật bất thành, vợ chồng ta lánh nạn vào đây, may nhờ Dục thúc thúc giúp đỡ mọi việc nên cuộc sống coi như tạm ổn, có điều hình như người trong Nam này họ có chút gì đó kỳ thị chúng ta. Thiếp thấy rất khó thân thiện với họ. Tìm được một người bạn như Võ huynh ở đất này thật không dễ.

Đoàn Phong an ủi vợ:

- Nàng đừng buồn, mọi việc từ từ rồi sẽ quen thôi. Hơn trăm năm chia cắt hai đàng, có sự khác biệt cũng là lẽ tự nhiên thôi.

- Chiều nay chàng phải vào thành à?

- Triều đình Đàng Trong đã có ý tách biệt hẳn với Đàng Ngoài, lập nên một nước riêng cho nên bá quan mới xin Chúa Võ xưng vương và đúc ấn riêng. Nay Võ vương họp bá quan để bàn bạc việc thay đổi cơ cấu hành chính. Nàng nghỉ ngơi nhé, phải cẩn thận giữ gìn thai nhi.


*****​


[1] Huyện Mộ Hoa: Đời vua Minh Mạng, vì mẹ vua tên húy là Hoa nên đổi tên huyện thành Mộ Đức cho đến nay.


[2] Chữ “huyền điểu” là dựa theo Kinh Thi câu: “Thiên mệnh huyền điểu giáng nhi sinh Thương” nghĩa là trời sai giáng chim huyền điểu xuống mà sinh ra nhà Thương, Trung Quốc.

[3] Chữ “hoàn khuê” là tên loài ngọc quí ở Trung Quốc thường được những người có tước Công đeo. Vị hoàng khuê tức là chỉ tước Công.
 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0

Hồi thứ hai

Phố Hội An phát hiện âm mưu lớn
Ô Long đao đại chiến kiếm Ỷ Thiên.
*
Minh Giác thiền sư vào thành diện kiến Võ vương lúc đang thiết triều, có đông đủ bá quan ở đó. Thiền sư tâu:
- Tâu vương thượng, bần tăng có việc hệ trọng muốn trình lên vương thượng. Xin vương thượng đích thân ngự khán rồi quyết định cho.
Tâu xong ngài lấy phong thư của Vô Danh thiền sư trao cho người hầu cận dâng lên Võ vương. Võ vương đọc qua, nét mặt lộ rõ vẻ vui mừng:
- Hay lắm! Ta vừa xưng vương lại được kho vàng này thì đúng là lòng trời hướng đến vương quốc của ta rồi. Quan Ngoại tả hãy xem đây.
Võ vương trao bức thư cho Ngoại tả Trương Phúc Loan bảo:
- Quan ngoại tả hãy đọc lớn lên cho mọi người nghe đi. Hà! Thật là song hỉ lâm cung!
Phúc Loan cúi đầu:
- Thần tuân mạng!

Rồi giở thư ra đọc lớn:
“Muôn tâu Vương thượng,
Bần tăng là Vô Danh ở núi Bích Khê huyện Phù Ly phủ Quy Nhơn, đã có duyên cùng sư huynh Minh Giác diện kiến Vương thượng trong đại điển đăng quang. Nguyên vì tệ đồ có cơ may phát hiện ra một mỏ vàng trong vùng núi Kim Sơn, thuộc ranh giới huyện Phù Ly và Bồng Sơn, phủ Quy Nhơn. Vì biết đây là tài sản quí giá của nước nhà nên bần tăng viết thư này trình lên Vương thượng, cúi mong Vương thượng mau chóng cử Khâm sai đến Phù Ly để tiếp quản kho báu quốc gia.
Cầu Vương thượng tuế tăng vạn tuế.
Vô Danh kính thư.”


Bá quan nghe xong ai nấy đều mừng rỡ, tất cả đồng quì xuống tung hô:
- Chúng thần xin chúc mừng vương thượng! Như vậy là trời đã thuận ý với việc xưng vương của vương thượng nên mới ban cho kho báu để vương nghiệp bền vững đời đời. Từ nay lời sấm hoang đường kia sẽ không còn đáng lo ngại nữa. Cầu vương thượng tuế tăng vạn tuế.
Võ vương cười hớn hở:
- Các khanh hãy bình thân. Ta có lời khen ngợi đến Vô Danh thiền sư và sư phụ Minh Giác. Các khanh hãy đề cử xem ai có thể làm khâm sai trong việc này?
Ngoại tả Trương Phúc Loan lên tiếng:
- Tâu Vương thượng, theo ý của hạ thần ta nên giao cho Bộ hình. Quan Thượng thư hình bộ Tôn Thất Dục xưa nay nổi tiếng chí công vô tư, đảm trách việc này là thích hợp nhất.
Nội hữu Trương Văn Hạnh cũng tâu:
- Tâu Vương thượng, lời đề nghị của quan ngoại tả thật hợp lý.
Võ vương phán:
- Tốt, ý các khanh giống ý ta. Vậy ta cử hoàng thúc Tôn Thất Dục làm khâm sai đi Phù Ly tiếp quản kho vàng. Hoàng thúc thu xếp ngày mai lên đường. Quan công bộ truyền lệnh của ta xuống địa phương để giúp cho khâm sai. Mọi việc không được sơ sót.
Tôn Thất Dục biết Trương Phúc Loan có ý mang đến cơ hội phát tài cho mình trong dịp này để cầu thân nên thầm cười trong lòng. Ông lên tiếng:
- Tâu Vương thượng, hạ thần xin tuân lệnh.
Rồi quay sang Trương Phúc Loan:
- Tạ ơn nhạc phụ đã đề cử.
Tôn Thất Dục là con trưởng của thiếu sư Luân Quốc công Tôn Thất Tứ, tức hoàng tử thứ tám của chúa Nguyễn Phúc Chu. Ông học rộng tài cao, được triều đình nể trọng, hiện giữ chức Hình bộ thượng thư, tính ngay thẳng vô tư. Từ khi Chúa Võ lên ngôi, Phúc Loan đã tìm mọi cách mua chuộc lòng của Chúa, bày ra những trò ăn chơi và đẩy dần Chúa Võ đi vào con đường trụy lạc, truy hoan, trong khi đó ông ta tạo bè kết phái, tăng thêm vây cánh trong triều để củng cố thế lực cho mình. Thấy Tôn Thất Dục là người có nhiều uy tín, Phúc Loan gạ gẫm gả con gái út cho, Dục không chịu, Phúc Loan bèn nhờ Chúa Võ tứ hôn. Tôn Thất Dục đành phải cưới con gái của Phúc Loan.

***

Sáng hôm sau khi gặp sư Minh Giác, thầy trò Võ Trụ lên đường rời Phú Xuân trở về Phù Ly. Họ qua đò sông Hương từ sớm tinh mơ, phóng ngựa vượt đèo Hải Vân xuống đến sông Thu Bồn, Võ Trụ nói:
- Chúng ta ghé thăm phố Hội An một chuyến cho con mở rộng tầm mắt. Nơi này có đủ các mặt hàng trên thế giới, thầy muốn xem có gì lạ mua về tặng cho cô con làm quà, nhân tiện ghé thăm người bạn cũ.
- Hay quá! Con cũng sẽ mua cho em Doan một món quà mừng tuổi nó. Chắc sau này nó sẽ nghịch lắm, mới năm tuổi mà phá phách, miệng thì lém lỉnh như đứa trẻ lên mười. Nhiều lúc con và cô mệt đứ đừ vì nó.
- Bởi vậy nên con hay gọi nó là thằng Lía phải không?
- Dạ, con chỉ gọi yêu thế thôi, nếu thầy cô không thích thì con sẽ không gọi nữa.
- Không sao. Nó cũng tía lía thật đấy chứ.
Thầy trò Võ Trụ ghé Hội An khi trời đã ngả về chiều. Họ thả ngựa đi khắp nơi để ngắm phố phường. Doãn Trọng Hào than:
- Thầy xem, ở đây thật đông đúc, sầm uất. Không bù với quê mình thật nghèo nàn, cô tịch. Ước gì đất nước mình nơi đâu cũng phồn vinh giàu có như ở đây thì hay biết mấy.
- Đây là cửa ngõ chính để nước ta giao thương với nước ngoài, làm sao các nơi khác so bì được. Nhưng con phải nhớ mỗi nơi đều có giá trị riêng của nó. Tất cả những giá trị riêng đó góp lại mới thành cái chung cho cả một quốc gia, xã hội. Bởi vậy chúng ta sống ở nơi thôn dã thì lo việc của thôn dã, người khác ở nơi đô hội bán buôn thì lo việc của họ. Từng cá nhân làm tốt việc của mình sẽ giúp cho cả đất nước được giàu mạnh, trù phú và đa dạng.
Trọng Hào bẽn lẽn:
- Con chỉ là buột miệng so sánh thế thôi chứ không có ý chê quê mình.
Chợt nó reo lên:
- Thầy ơi, mình vào cửa hàng này thử xem. Có người Nhật ở đó. Kế bên lại có cửa hàng người Tây Dương nữa kìa.
Cả hai liền cột ngựa, bước vào cửa hàng Nhật. Ở đó bán kiếm và các đồ chạm trổ thủ công mỹ nghệ. Người bán hàng tuy là người Việt nhưng ăn mặc theo lối người Nhật, thấy khách vào anh ta bước đến chào theo lối chào Nhật Bản.
- Quí khách có cần chúng tôi giúp gì không?
Võ Trụ nói:
- Chúng tôi muốn mua vài thanh đoản kiếm. Nghe nói đoản kiếm của Nhật rất sắc bén.
Người bán hàng vội lấy hai thanh đoản kiếm ra đưa cho Võ Trụ và Trọng Hào rồi giải thích:
- Kiếm Nhật nổi tiếng trên thế giới về độ sắc bén nhờ chất lượng kim loại tốt. Người Nhật luyện kiếm rất công phu vì nó đã được nâng lên thành “đạo”. Vào thời Mạc Phủ ở thế kỷ 12, giới Samurai đã sử dụng kiếm với tinh thần “Kiếm còn người còn, kiếm mất người mất”. Đến giai đoạn thanh bình thời Edo đầu thế kỷ 17, khi Phật giáo và Thiền tông phát triển lớn mạnh ở Nhật, kiếm thuật được kết hợp với tinh thần thiền học, đưa tầng lớp Samurai Nhật và kiếm đến chỗ hoàn thiện hơn trong kĩ thuật sử dụng kiếm và tinh thần của người Samurai qua tư tưởng đạo. Kiếm đạo Nhật Bản ra đời từ đó. Thanh đoản kiếm quí khách đang cầm trên tay là vũ khí người Samurai dùng mổ bụng tự sát để bảo toàn danh dự kiếm sĩ của mình khi cần thiết.
Trọng Hào chăm chú nghe người bán hàng giảng giải về kiếm đạo Nhật tỏ vẻ khâm phục:
- Người kiếm sĩ Nhật thật là tuyệt diệu! Thầy ơi, con muốn mua năm thanh kiếm này cho con và các sư huynh.
- Được, con chọn kiếm đi. Chọn cho thầy một cây luôn.
- Vậy công tử muốn mua loại đoản kiếm Tanto dùng trong nghi thức Seppuku, nghi thức mổ bụng tự sát phải không? Đây, đây là những thanh kiếm vừa đẹp vừa sắc bén vô cùng.
Người bán hàng rút một thanh đoản kiếm ra khỏi bao, đưa lưỡi kiếm lên và nói:
- Công tử thử bứt một sợi tóc rồi thả tự do lên lưỡi kiếm xem.
Trọng Hào bứt một sợi tóc và thả lên lưỡi kiếm. Sợi tóc đứt làm hai rớt xuống. Nó kinh ngạc la lên:
- A! Quả là vô cùng sắc bén!
Võ Trụ gật gù:
- Con đã thích nó thì phải sống cho đúng với tinh thần của nó.
Trọng Hào nghiêm sắc mặt:
- Dạ, thưa thầy. Con sẽ sống như thế cho đến cuối đời.
Võ Trụ hỏi người bán hàng:
- Ở đây có bán kiếm Tàu và Việt không?
- Thưa không. Ông có thể ghé sang phố Phúc Kiến, ở đó có cửa hàng kiếm Kinh Kha. Họ có nhiều kiếm báu lắm.
Võ Trụ trả tiền xong cùng Trọng Hào dắt ngựa sang phố Phúc Kiến mua sáu thanh kiếm quí cho mình và năm đệ tử. Đêm đó họ ghé lại khách điếm Cao Lầu ở phố Phúc Kiến để nghỉ ngơi.
Cao Lầu là một khách sạn lớn, tuy không phải loại sang trọng nhưng phòng ốc rất tươm tất, sạch sẽ. Hai dãy phòng xây đối diện nhau cùng nhìn ra một cái sân nhỏ có trồng mấy luống hoa và những chậu cây cảnh. Cuối dãy phòng là chuồng ngựa, phía trước là một nhà lầu cao hai tầng. Tầng dưới bán đủ những món ăn bình dân còn tầng trên đặc biệt chỉ bán món cao lầu. Lúc thầy trò Võ Trụ bước lên lầu, thực khách rất đông, đủ mọi hạng người: Tây, Nhật, Tàu và người Việt. Họ đã ngồi chật kín các bàn, chỉ còn duy nhất một chiếc bàn trong góc phía bắc. Thầy trò Võ Trụ đến ngồi ở đó. Một người bồi bàn chạy đến hỏi:
- Hai vị dùng chi?
Võ Trụ trả lời:
- Đến đây tất nhiên là phải ăn cao lầu rồi. Cho hai tô, một bình mai quế lộ nhỏ và một chai rượu nếp trắng nhỏ.
Người bồi bàn tươi cười nói:
- Quí khách hình như lần đầu ghé quán này, vậy mà lại chọn món ăn và thức uống rất đúng cách. Chúng tôi sẽ mang ra liền.
Nói xong anh ta quay vô bếp. Trọng Hào hỏi:
- Thầy mới đến đây sao lại biết họ có những thức ăn thức uống này?
Võ Trụ mỉm cười:
- Lúc còn là lính thủy ở Đạm Thủy, thầy có ghé ra đây vài lần. Quán này có từ lâu lắm rồi, họ đặc biệt nấu món cao lầu ngon nhất Hội An.
- Sao lại gọi cao lầu? Có phải vì ngồi ăn trên lầu cao nên gọi thành tên không?
Võ Trụ gật đầu:
- Hình như cái tên cao lầu bắt nguồn từ thói quen này.
Anh bồi bàn mang đồ ăn và rượu bày trên bàn. Thật ra, cao lầu chỉ là một món mì gần giống với mì Quảng nhưng sợi lớn hơn và có màu vàng. Điểm đặc biệt của sợi mì cao lầu là phải được ngâm với tro của một loại cây chặt về từ cù lao Chàm ngoài khơi biển Hội An. Sợi mì thơm và dai, khi nhai nghe sựt sựt, thêm vào đó là những loại rau thơm tạo nên một hương vị đặc biệt mà những món ăn khác không thể có.
Chiếc bàn kế bên có ba người Hoa, một tên mặt lạnh như tiền, hai tên khác vẻ mặt hung dữ. Họ cùng ăn cao lầu với hai người Việt nữa và đang nói chuyện rất nhỏ bằng tiếng Việt lơ lớ. Võ Trụ vốn thính tai nhưng cũng không thể nào nghe ra họ đang bàn chuyện gì, nhưng nhìn cung cách có lẽ chuyện rất quan trọng và bí mật. Ăn uống xong hai thầy trò trở về phòng.
Trọng Hào đi đường mệt mỏi nên về đến khách sạn, vừa nằm xuống nó đã ngủ say. Võ Trụ cố nhắm mắt nhưng không sao ngủ được. Chuyện kho vàng khiến ông cứ nghĩ ngợi mông lung. Trong đêm khuya thanh tĩnh bỗng có tiếng quát khe khẽ của nhiều người đồng vang lên từ dãy phòng đối diện:
- Ai đó?
Ngay sau đó là tiếng chân chạy nhẹ trên mái nhà. Võ Trụ vội bật người dậy, hé cửa sổ nhìn ra ngoài thấy có bốn bóng đen đang lao vút về phía đông. Võ Trụ rút vội thanh kiếm, tung mình qua cửa sổ đuổi theo bốn người nọ. Họ chạy đến một rừng cây rậm rạp gần mé sông Thu Bồn thì ngừng lại nhìn quanh quất rồi chia nhau đi tìm. Võ Trụ phóng mình lên một cây cổ thụ rậm lá ẩn mình. Bỗng nghe một tên trong bọn lên tiếng, giọng lơ lớ:
- Anh bạn kia xuống đây đi, trốn trên đó làm gì nữa. Đừng buộc ta phải ra tay.
Khu rừng vẫn im lặng như tờ, chỉ có tiếng gió từ dưới sông thổi qua cành lá xào xạc.
Một tên khác lên tiếng:
- Khinh công người này nhanh thật, mới vừa thấy bóng hắn đó nhưng ra đến đây đã mất hút. Không biết hắn là ai?
Một tên khác nói:
- Khinh công như đại ca mà không theo kịp thì quả là cao thủ. Không lẽ lại là hắn?
Tên được gọi là đại ca cất giọng lạnh băng hỏi:
- Hắn là ai?
- Gần đây, suốt một dải đất ba phủ của dinh Quảng Nam bỗng xôn xao về một tên trộm mới xuất hiện. Khinh công của hắn có thể nói là độc bộ thiên hạ. Hắn chuyên ăn cắp của nhà giàu rồi chia cho nhà nghèo. Đặc biệt, hắn rất mê cổ vật, nhất là vũ khí như bảo kiếm, bảo đao. Hắn mà đã chú ý đến món nào thì hắn sẽ lấy bằng được. Giới giang hồ gọi hắn là Thần Thâu. Hắn có thể lấy đồ trong túi đại ca như lấy đồ trong túi của hắn vậy.
Tên đại ca khẽ “hừ” một tiếng:
- Hừ! Thiên hạ chỉ giỏi thổi phồng. Ta không tin hắn có thể sờ vào người ta mà ta chẳng hay biết gì.
Tên khác trong bọn vội chen vào:
- Tôi cũng có nghe qua tên này. Nếu hắn nhúng mũi vào thì việc này sẽ rắc rối to. Lý đại vương đã lệnh cho chúng ta phải lấy kỳ được cây Ô Long bảo đao và cuốn đao phổ đó. Nếu thất bại e rằng sẽ bị trị tội nặng. Đại ca phải suy tính mọi việc cho kỹ.
Võ Trụ nghe nói đến Ô Long bảo đao thì giật mình. Theo lời Vô Danh thiền sư kể, đó vốn là thanh đao quí giá nhất của Đại Việt mà bọn giặc Tàu lúc nào cũng có ý nhòm ngó. Thanh đao đã nhuốm không biết bao nhiêu máu của giặc xâm lược phương Bắc.
Chợt nghe tên đại ca “suỵt” một tiếng nhỏ.
- Ngươi có câm cái mõm thối ngươi lại đi không! Chuyện này sao lại tùy tiện nói ra như thế?
Tên nọ càu nhàu:
- Ở đây có ma nào đâu mà đại ca phải sợ. Đệ nghĩ tên đó đã nhúng mũi vào rồi thì ta phải ra tay càng sớm càng tốt, nếu không bọn Trần gia chạy trốn mất thì không biết chừng nào mới tìm lại được. Từ đây vào Quảng Ngãi đường xa hơn hai trăm dặm, chúng ta nên khởi hành sớm.
Một tên khác tiếp lời:
- Không phải lo. Chúng ta đã có thuyền, tuy mùa này gió nồm nhưng thuyền buồm của ta lớn lại có nhiều tay chèo nên từ Hội An vào cửa Cổ Lũy, sông Trà Khúc cũng chỉ mất chừng mười canh giờ là cùng. Bảo đảm trước khi trời sẩm tối ngày mốt là chúng ta đã có mặt ở Quảng Ngãi rồi.
Tên đại ca tỏ ra khó chịu bảo:
- Vừa từ Phúc Kiến sang chưa kịp đặt lưng xuống nghỉ đã gặp tên trộm chết tiệt kia phá đám. Thật tức chết! Ta mà bắt được thì ta sẽ chặt hai cái giò của nó đi, xem nó còn thi triển được môn khinh công, độc bộ thiên hạ gì gì đó nữa hay không.
Bọn chúng vừa nói chuyện vừa trở về khách sạn. Khu rừng yên tĩnh trở lại. Võ Trụ nằm im trên lùm cây chờ đợi thêm lúc nữa đã thấy từ trên tàng một cây cổ thụ khác một bóng người mảnh khảnh, nhẹ nhàng đáp xuống đất. Hắn cười ngạo nghễ nhìn về hướng bọn người Hoa mới bỏ đi nói:
- Bắt được ta hả, bọn ngươi chưa đủ tư cách đâu! Hì hì... Gặp ta thì bọn ngươi đừng hòng lấy được bảo đao của nước Đại Việt ta!
Võ Trụ nói vọng xuống:
- Bọn chúng không bắt được ngươi nhưng ta thì được. Hà hà...
Thần Thâu giật mình ngước lên:
- Ai đó? Xuống đây đi! Lén lút núp trên đó làm gì?
Võ Trụ muốn cho gã khinh công độc bộ thiên hạ kia biết tài khinh công của mình nên từ lùm cây, ông phóng người vút lên cao rồi lộn mấy vòng trên không mới tà tà đáp xuống trước mặt Thần Thâu. Những động tác tiếp nối điêu luyện nhẹ nhàng.
Thần Thâu vẫn đứng yên không nhúc nhích, ngợi khen:
- Khinh công tuyệt diệu!
Võ Trụ mỉm cười:
- Anh bạn có nghĩ rằng tôi đủ sức rượt theo anh bạn không?
Thần Thâu gật gù:
- Đủ, nhưng bắt được ta thì có lẽ chưa. Xin hỏi huynh quí danh là gì?
- Tôi suốt đời lẩn quẩn ở xó núi nên chỉ có cái tên quê mùa là Võ Trụ chứ làm gì có quí danh. Hiệp danh của anh bạn là Thần Thâu à?
- Ăn trộm thì gọi là tặc danh chứ hiệp danh cái nỗi gì? Anh khéo châm biếm quá! Tên tôi là Đinh Hồng Liệt. Thân thủ như anh thuộc loại hiếm có trong giang hồ đấy. Mà anh đã nghe chuyện rồi đó, có muốn giúp tôi một tay ngăn bọn giặc Tàu lại không?
- Bọn chúng là ai, thuộc tổ chức, bang phái nào vậy?
- Tôi chỉ nghe lén chúng nói chuyện nên chưa rõ lắm. Ba tên Tàu vừa từ Phúc Kiến sang, bọn chúng có biệt hiệu là Dương Tử Tam Kiếm, thuộc hạ của tên Lý đại vương nào đó không rõ. Còn hai tên người Việt hình như ở vùng này, bọn chúng mới họp nhau hôm nay để bàn chuyện cướp đao ở nhà họ Trần nào đó.
- Nghe bọn chúng nói ở Quảng Ngãi. Chúng ta làm thế nào để vào đó cho kịp tối ngày kia mà giúp nhà họ Trần đây? Vả lại Trần gia ở đâu, anh bạn có biết không?
Hồng Liệt đưa tay vò đầu.
- Tôi thấy bọn này lạ mặt, lại có vẻ khả nghi nên theo dõi chơi, vô tình phát hiện âm mưu của chúng. Nhà họ Trần ở đâu tôi nào biết. Chà! Khó thật, làm sao bây giờ nhỉ?
- Thì chúng ta cứ theo sát bọn chúng tất sẽ biết thôi.
- Bọn chúng có thuyền lớn, chúng ta lấy gì mà theo? Tôi chỉ trộm được mấy đồ vật nhỏ thôi chứ cả một chiếc tàu lớn thì sao có thể.
- Chuyện thuyền cứ để tôi lo. À mà này, sao chúng ta không chặn đường giết chúng cho xong chuyện, theo dõi đến nhà họ Trần chi cho rắc rối?
- Lúc nãy nghe chúng nói là còn phối hợp với một nhóm nào nữa ở Quảng Ngãi rồi mới cùng nhau ra tay. Bọn này chỉ là lực lượng tăng viện mà thôi.
- Như vậy là bọn chúng chuẩn bị rất chu đáo, đủ thấy việc cướp thanh đao đối với chúng rất quan trọng. Chúng ta chỉ có hai người, liệu có thể giúp gì được cho họ Trần kia không?
- Hai chúng ta không đủ sức nhưng nếu có thêm hai người nữa thì dư. Anh lo thuyền, tôi lo người hỗ trợ. Giờ tôi đi gọi thêm hai người bạn, nhân tiện lưu ý động tịnh của bọn chúng luôn. Hẹn sáng sớm ở Cửa Đại được không?
- Được! Anh cứ đưa người đến doanh trại thủy quân Cửa Đại sẽ gặp tôi.
- Anh bạn ở trong thủy đội Cửa Đại à?
- Không, tôi là phế binh của thủy đội ở đầm Đạm Thủy đã giải ngũ. Ở Cửa Đại tôi có người bạn thân giữ chức cai đội.
- Vậy thì hay quá rồi! À, nhưng anh không định kéo cả thủy đội đi bắt cướp đó chứ?
- Tôi không còn là lính nữa mà là người của giang hồ rồi. Tôi lấy tư cách người giang hồ xử chuyện giang hồ, anh an tâm đi. Tôi chỉ mượn chiếc thuyền và mấy tài công mà thôi, đến cửa Cổ Lũy tôi trả họ về. Được chưa?
- Tốt! Vậy hẹn sớm mai gặp lại.
Dứt lời Hồng Liệt liền tung người biến mất vào đêm tối. Võ Trụ nhìn theo lẩm bẩm:
- Người này còn trẻ, tuổi chừng độ hai hai, hai ba là cùng mà khinh công quả đúng là độc bộ thiên hạ. Ta không thể theo kịp.
Như có một sự kích thích vô hình, ông cũng băng mình chạy thật nhanh về khách sạn, theo lối cửa sổ lọt vào phòng. Trọng Hào vẫn còn đang say ngủ, Võ Trụ lay nó dậy. Trọng Hào giật mình mở mắt ngạc nhiên hỏi:
- Thầy không ngủ sao? Có việc gì vậy?
- Sáng mai con dắt theo con Huyết câu về Quảng Ngãi đợi thầy ở nhà trạm Ngãi Mỹ, nơi hôm trước chúng ta đã ghé lại ăn trưa đó. Nếu hai ngày sau mà chưa thấy thầy ghé lại thì con cứ về nhà đừng chờ nữa. Thầy sẽ về sau. Con nhớ không?
Trọng Hào nghe thầy dặn dò, nó lo lắng hỏi:
- Thầy có chuyện quan trọng phải làm ở đây à? Sao con không nghe thầy nói trước?
- Chuyện vừa phát sinh thôi. Thầy phải giúp người bạn mới quen một tay. Con đừng hỏi nữa. Giờ thầy phải đi ngay kẻo trễ. Con nhớ lời thầy dặn không?
- Dạ con nhớ. Thầy đi cẩn trọng.
Võ Trụ mang thêm cây đoản kiếm mới mua hồi chiều, tung mình ra cửa sổ rồi lao nhanh về hướng cửa biển Đại Chiêm tìm đến doanh trại thủy quân. Một người trong toán lính gác chặn lại hỏi:
- Ông là ai? Đêm khuya đến đồn lính làm gì?
Võ Trụ đáp:
- Tôi là bạn thân của cai đội Dương Bảo Long, vì có chút việc gấp nên nhờ anh thông báo giúp cho.
Tên lính gác nghe nói là bạn của cai đội Long nên đã đổi thái độ, tuy nhiên hắn vẫn hỏi vặn:
- Giờ đã nửa đêm, ngài cai đội chắc ngủ rồi, mai anh quay lại được không? Tôi chỉ sợ bị đánh thức giờ này ổng sẽ chửi toáng lên đấy.
- Không sao đâu. Anh cứ nói với cai đội Long là có Võ Trụ ở đầm Đạm Thủy đến thăm, có việc gấp muốn gặp.
Một tên lính nghe người lạ mặt xưng tên là tên Võ Trụ liền hỏi nhanh:
- Có phải anh là cai đội Trụ ở Đạm Thủy năm xưa cùng cai đội Long đánh tan bọn cướp biển Hắc Long người Hoa đấy không?
Võ Trụ gật đầu:
- Là tôi đây!
Tên lính lúc nãy reo lên:
- Là ông à? Thật xin lỗi vì tôi mới vào lính nên không biết. Chà, ngài cai đội Long lúc nào cũng khoe với bọn lính chúng tôi về chiến tích của ông ta cùng với cai đội Trụ năm xưa ngoài khơi Hoàng Sa. Được được, tôi sẽ vào báo ngay. Anh em mời cai đội Trụ vào nhà khách đi.
Hắn quay người chạy vào trong trại. Một lúc sau hắn trở lại với một người đàn ông khoảng hơn ba mươi tuổi, tướng cao lớn vạm vỡ. Vừa bước vào đến cửa ông ta đã reo lên bằng giọng miền ngoài:
- Trời ơi, quỉ thần nào rinh cậu quẳng ra đây giờ này vậy? Chà, gần tám năm rồi còn gì! A, thấy cậu hình như còn khỏe hơn trước kia trong lính nữa đó.
Ông ta chạy lại ôm chầm lấy Võ Trụ, nỗi vui mừng hiện rõ trên gương mặt hai người. Võ Trụ cũng ôm lấy bạn, vỗ lưng nói:
- Cậu là người khỏe mạnh lại có thuyền bè mà chẳng bao giờ ghé vào thăm bạn. Bổng lộc nhiều quá rồi quên anh em phải không?
Dương Bảo Long nắm tay Võ Trụ:
- Cậu thông cảm cho, tớ bận bịu đủ thứ chuyện cả. Mà ít nhất đám cưới cậu, tớ cũng đã vào dự rồi còn gì? À, có mụn con nối dõi nào chưa? Tớ thì đã hai cu một nỡm rồi đó.
- Vậy là cậu giỏi hơn tớ đấy. Tớ chỉ mới được một cu thôi.
Nói xong hai người cùng nhau cười ha hả. Họ là đôi bạn tác chiến sinh tử ngày xưa nên thân nhau như anh em. Bảo Long hỏi:
- Sao ghé lại tìm tớ giữa đêm khuya vậy? Có việc gì gấp phải không?
- Tớ có việc ra Phú Xuân, về ghé đây mua ít đồ dùng xong thì trời đã muộn. Định đến sáng mai mới ghé thăm cậu nhưng có tí chuyện bất ngờ nên phải ghé giờ này.
- Là chuyện gì vậy?
- Chuyện gấp của một người bạn vừa quen. Anh ta cần một chiếc thuyền tốt để vào cửa Cổ Lũy cho kịp tối ngày kia. Cậu giúp tớ nhé?
- Tưởng chuyện lớn chứ việc ấy khó gì! Cậu cứ nhận thuyền rồi đưa bạn đi, chừng nào trả lại cũng được.
Võ Trụ cười:
- Vào tới Cổ Lũy thì tớ trả thuyền lại cho anh em mang về chứ giữ làm gì mà chừng nào trả cũng được.
Bảo Long ngạc nhiên hỏi:
- Cậu cũng đi theo rồi về Phù Ly luôn à? Như vậy làm sao uống với tớ một trận được? Tớ nhớ mấy lần uống rượu đứ đừ với cậu lúc xưa quá.
- Muốn uống đứ đừ thì chờ dịp khác, lần này cứ đem một bình ra đây làm chút chút cho đỡ nhớ là được rồi.
Bảo Long cười ha hả rồi nói với một tên lính:
- Ngươi chạy đi lấy bình mai quế lộ ta cất trong tủ đem ra đây. Hỏi bọn nó coi còn gì nhắm không. Mang ra ngay nhé. Còn ngươi, đi bảo chuẩn bị cho ta một chiếc khinh thuyền mười tay chèo rồi đem ra cửa trại chờ đó cho ta.
Hai tên lính đồng “dạ” một tiếng rồi đi ngay.
Quay sang Võ Trụ, Bảo Long nói:
- Ra đây, chúng ta ra ngồi trên sông uống rượu mới thú.
Bảo Long kéo Võ Trụ ra chiếc cầu bắc nổi trên sông gần cửa biển Đại Chiêm. Vầng bán nguyệt cuối tháng treo lơ lửng, phả xuống ánh sáng mờ ảo, lung linh trên đầu những con sóng nhỏ. Mùa này, vì ban ngày trời nóng nên gió thổi từ biển vào đất liền, nhưng khi đêm xuống, nhiệt trong đất liền thoát đi nhanh hơn ngoài biển, do đó, về cuối đêm thì không khí ở đất liền mát hơn, tạo ra những con gió từ lục địa thổi ngược ra biển. Vùng cửa Đại Chiêm sông nước mênh mông nên tuy là mùa hạ nhưng ngọn gió đất liền vẫn mang cảm giác mát dịu. Võ Trụ nhìn cảnh sông nước lòng dâng trào cảm xúc. Ông nhớ lại một thời lênh đênh trên sóng nước đuổi bắt bọn cướp biển Tàu Ô rất đỗi hào hùng. Bảo Long nói:
- Thời gian qua thật nhanh! Mới đây mà cậu giải ngũ đã gần tám năm rồi. Bây giờ cuộc sống của cậu ra sao?
- Trại ngựa của tớ phát triển hơn đôi chút, cuộc sống như thế cũng tạm đủ rồi. Việc của tớ bây giờ là làm sao đào tạo cho thằng cu thành người hữu dụng sau này.
- Đó cũng là ước mơ của tớ. Lúc này đất nước thanh bình, làm lính cũng nhàn hạ nên đôi khi tớ phát chán muốn xin giải ngũ nhưng vì chưa biết phải làm gì để nuôi con, tớ đành cứ phải vác mãi cái lon cai đội kéo lê tháng ngày ở đây.
Võ Trụ bỗng thở dài:
- Mong cho đất nước thanh bình, đừng lộn xộn như lời sấm đang lưu truyền trong dân gian. Cậu có thấy gần đây người từ Đàng Ngoài vì loạn lạc đói khổ đã bỏ trốn vào đây ngày một nhiều không? Mầm tao loạn nó quỉ quái lắm, cứ lây lan như vết dầu loang vậy. Chưa biết chúng ta có giữ vững sự thanh bình no ấm này được mãi không.
Bảo Long cũng buông tiếng thở dài theo bạn:
- Điều ưu tư của cậu giống tớ lắm. Tớ cũng thấy lơ mơ bóng dáng của tao loạn trên phần đất chúng ta. Quân đội bây giờ bắt đầu có sự tranh giành, kết bè kết đảng. Chắc cũng sắp đến lúc tớ bị mất cái chỗ ngồi này rồi. Ờ, mà kệ bà nó, tới đâu hay tới đó, mình có lo lắng cũng chẳng thay đổi được gì. Có rượu rồi kìa, chúng ta cứ uống một bữa cho thỏa tình mong nhớ cái đã, mọi chuyện hãy phó mặc cho nhà Chúa họ lo.
Tên lính lúc nãy đã mang rượu và thức ăn ra. Đời lính thủy nếu cần có món nhắm dã chiến thì lúc nào cũng sẵn sàng. Chỉ cần nổi lửa lên nướng vài con cá tươi là đã có ngay thức nhắm tuyệt hảo. Hai người bạn lâu ngày gặp lại có biết bao điều hàn huyên tâm sự. Chuyện thì còn đầy nhưng bình rượu lại cạn dần theo bóng vầng trăng đang từ từ khuất sau đỉnh núi phía tây. Xa xa nhịp mõ trên vọng gác điểm sang canh năm. Vừa lúc ấy, từ ngoài cổng có tiếng của người lính gác chặn hỏi những người lạ mặt. Võ Trụ nói với Bảo Long:
- Mấy người bạn của tớ đã đến rồi. Chúng ta ra ngoài xem. Khi nào có dịp tớ sẽ ghé đây thăm cậu lâu hơn, giờ thì chúng ta chia tay. Tớ phải đưa bọn họ đi ngay nếu không sẽ lỡ việc.
- Cậu cứ đi đi, hôm nào nghỉ phép tớ sẽ dong buồm vào Phù Ly thăm cậu.
Họ ra đến cổng đã thấy Đinh Hồng Liệt và hai người lạ mặt trạc tuổi Võ Trụ đứng chờ. Bảo Long cười ha hả nói:
- Không ngờ hôm nay ở nơi hẻo lánh này lại được hân hạnh đón tiếp nhiều anh hùng hiệp sĩ ghé thăm thế này. Dương Bảo Long tôi rất hân hạnh được làm quen với ba vị hiệp sĩ.
Đinh Hồng Liệt cúi đầu chào:
- Danh tiếng cai đội Long ở cửa Đại Chiêm vang dội như sóng biển Đông, đến nay mới hân hạnh được gặp mặt. Tôi là Đinh Hồng Liệt, còn đây là hai người bạn của tôi, Trần Đại Bằng và Trần Kim Hùng ở Phong Điền.
Võ Trụ nhận thấy cả hai người này đều có phong thái đường đường của một bậc chính nhân, lòng nảy sinh ngay hảo cảm liền cúi đầu chào. Đinh Hồng Liệt giới thiệu với anh em họ Trần:
- Còn đây là Võ Trụ, trước là cai đội ở đầm Đạm Thủy. Tôi vừa tình cờ quen được lúc đầu hôm này.
Trần Kim Hùng nói:
- Bốn biển là anh em cả. Chúng ta phải lên đường ngay kẻo không kịp. Chuyện hàn huyên xin hẹn khi khác vậy.
Bảo Long vẻ tò mò hỏi:
- Các vị có việc gì mà gấp và bí mật quá vậy, tôi có thể giúp gì được không?
Đinh Hồng Liệt đáp lời:
- Cảm ơn cai đội Long, anh đã giúp chúng tôi chiếc thuyền là đủ rồi. Chuyện giang hồ xin để bọn giang hồ chúng tôi lo liệu.
Xong quay sang Võ Trụ nói:
- Bọn chúng đã biến mất tăm mất tích rồi. Chúng ta đành phải vào đó rồi liệu bề xoay xở vậy.
Bảo Long đưa mọi người ra chiếc thuyền đã chuẩn bị sẵn ở cửa sông. Cửa biển Đại Chiêm rộng mênh mông, hai bên là bãi cát trải dài ngút mắt. Tháng này đang mùa gió nồm nhưng vừa tảng sáng trời đứng gió. Mười thủy thủ tay chèo vững chãi, con thuyền lướt nhanh trên biển, mũi thuyền xé sóng làm nước bắn lên tung tóe.
Cửa Cổ Lũy còn gọi là Chiêm Lũy Lịch Môn, nơi sông Trà Khúc đổ ra biển Đông. Đây là cửa khẩu chính của Vương quốc Chăm xưa, trước khi vua Chiêm nhường vùng đất Quảng Nam và Quảng Ngãi này cho nhà Hồ của nước ta. Thuyền cập bến đò Trà Khúc, Võ Trụ thưởng cho anh em thủy thủ một số tiền rồi bảo họ trở về. Bốn người cùng rời bến, ghé lại trạm Ngãi Mỹ thuê bốn con ngựa vào phủ lỵ tìm quán Sông Trà để ăn uống nghỉ chân. Trần Kim Hùng hỏi:
- Giờ ta phải làm thế nào để biết nơi ở của Trần gia?
Đinh Hồng Liệt nói:
- Mọi người chia nhau quan sát động tịnh ở vùng này, không chừng bọn chúng sẽ đến đây. Phần tôi sẽ đi kiểm tra vòng ngoài, khoảng giờ Thân chúng ta gặp lại ở đây. Tôi tin chúng ta sẽ tìm ra chút manh mối trước đêm nay.
Võ Trụ đề nghị:
- Tôi xin chịu trách nhiệm khu vực bến sông. Tôi sẽ nhờ anh em ở thủy trại trên bến lưu tâm hộ chúng ta.
Mọi người gật đầu đồng ý. Ăn uống xong họ chia tay mỗi người một hướng. Võ Trụ trên đường trở lại bến sông Trà Khúc đã ghé trạm Ngãi Mỹ. Vừa kịp lúc đó Trọng Hào cũng đến nơi. Ông bảo đệ tử:
- Con nghỉ ngơi rồi sáng mai lên đường về nhà ngay, đừng chờ thầy nữa. Xong việc ở đây thầy sẽ về. Thầy lấy luôn con Bạch mã của con nhé. Con mua của nhà trạm con ngựa khác mà về.
Trọng Hào lo lắng hỏi:
- Hình như thầy đang có việc gì gấp và nguy hiểm lắm thì phải. Cho con theo giúp một tay với. Để thầy đi một mình, con lo quá.
Võ Trụ vỗ vai Trọng Hào.
- Con an tâm mà về. Thầy có ba người bạn nữa, họ đều là đệ nhất cao thủ cả.
(còn tiếp)
 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Dặn xong ông phóng lên mình con Huyết câu, dắt theo con Bạch mã chạy về hướng bắc trở lại bến sông Trà. Vốn ở trong thủy quân nhiều năm, quen biết khá nhiều các cai, đội trưởng và cách thức sinh hoạt trong những trại lính nên ông dễ dàng tìm đến doanh trại đóng ở bờ nam sông Trà và gặp người chánh suất đội ở đó. Võ Trụ chào hỏi viên chánh xuất đội, tự giới thiệu sơ về mình xong hỏi:
- Từ sáng đến giờ đội trưởng có thấy một toán năm người gồm ba người Hoa và hai người Việt xuống bến ở đây không?
Viên chánh suất đội đáp:
- Bến sông này là cửa ngõ đường thủy chính của phủ Quảng Ngãi nên tàu bè và người lên xuống tấp nập, tôi không để ý lắm. Thật xin lỗi ngài cai đội.
- Không sao, mong đội trưởng thông báo cho anh em ở đây lưu tâm hộ tôi, nếu thấy những người này xuất hiện ở đâu thì thông báo giùm. Chúng tôi đang ở quán ăn Sông Trà trong phủ lỵ. Việc khẩn thiết, xin ông cố gắng giúp cho.
- Ngài cai đội an tâm, chúng tôi sẽ lưu ý việc này.
- Ông ở đây lâu năm có biết một gia trang họ Trần nào quanh khu vực này không?
- Ở vùng bắc thượng lưu sông Vệ và núi Định Cương có một trang trại họ Trần chuyên sản xuất đường phèn và đường cát cung cấp cho cả phủ Quảng Ngãi này nên ở đây ai cũng biết tiếng. Nghe nói Trần gia là người từ phía Bắc vào đây lập nghiệp lâu đời lắm rồi, đời nào cũng ra ơn làm phước cứu giúp những người khốn khó trong vùng. Người dân ở đây gọi gia trang của họ là Thiên Phước theo hiệu sản xuất đường phèn mà họ làm. Không biết họ Trần này có phải là người mà cai đội cần tìm không?
- Còn họ Trần nào có sinh hoạt đặc biệt nữa không?
- Lúc trước tôi có nghe một người bạn ở Mộ Hoa kể về một nhà họ Trần ở gần Liên Trì và núi Long Cốt. Họ Trần ở đó là bá hộ chuyên về nghề nông. Ruộng đất ở vùng Liên Chiểu quanh Liên Trì hầu hết là của họ. Tuy bao nhiêu đời là nhà nông nhưng nghe đâu họ rất giỏi võ nghệ. Có năm bọn rợ Man đói, xuống đồng cướp thóc lúa và đồ vật đã bị nhà họ Trần đánh cho một trận tan tành, chúng sợ vỡ mật nên suốt bao nhiêu năm nay không dám xuống vùng Mộ Hoa cướp phá nữa.
Võ Trụ nghe nói cả mừng:
- Cảm ơn đội trưởng. Từ phủ lỵ đến đó bao xa?
- Khoảng sáu mươi dặm.
- Thật cảm ơn những tin tức quí báu của đội trưởng. Từ giờ đến giờ Thân nếu có tin về bọn người đó xin ông báo ngay giùm cho tôi.
- Cai đội đừng bận tâm.
Võ Trụ cúi chào rồi phi mình lên ngựa rít lên khe khẽ “đi”. Con Huyết câu tung cao bốn vó phóng như bay về quán Sông Trà, con Bạch mã cũng hí vang một tiếng tung vó phóng theo. Ngồi uống chưa hết vài li trà thì ba người bạn mới quen của ông cũng lần lượt trở lại. Đại Bằng lên tiếng hỏi trước:
- Các vị có phát hiện được manh mối gì không? Tôi hỏi thăm quanh phố thì được mọi người cho biết có hai nhà họ Trần, một ở bờ bắc sông Vệ sản xuất đường, còn một là bá hộ nhà nông ở Liên Trì. Tôi nghĩ có khả năng là một trong hai nhà đó.
Võ Trụ nói:
- Người đội trưởng ở bến đò Trà Khúc cũng cho tôi biết về hai nhà này. Ông còn nói họ Trần ở Liên Trì rất giỏi võ, tôi cho rằng đó là nơi mình cần tìm.
Kim Hùng tay phải đấm nhẹ vào lòng tay trái mấy cái tỏ vẻ nóng nảy:
- Hai nơi đó đều có vẻ là nơi mình cần tìm. Bây giờ phải quyết định nhanh đi nếu không sẽ không đến kịp vì hai nơi đó đều cách đây năm sáu mươi dặm chứ đâu ít.
Đại Bằng đưa ý kiến:
- Để an toàn, chúng ta chia ra mỗi nhóm hai người đi đến hai nơi rồi gặp gia chủ trình bày sự thật về tai họa sắp đến. Nếu bên nào chủ nhà không thừa nhận thì hai người ở đó tức tốc sang bên kia tiếp viện. Mọi người nghĩ sao?
Hồng Liệt tán thành:
- Ý kiến hay! Chúng ta lên đường ngay kẻo trễ. Hai anh em các người đi một nơi, tôi và Võ Trụ huynh đi một nơi. Giờ tôi tung đồng tiền, nếu sấp thì chúng tôi đi Liên Trì còn ngửa thì sông Vệ.
Nói xong, anh ta lấy ra một đồng tiền thảy lên cao. Sấp. Hồng Liệt nhìn Võ Trụ:
- Đi, sáu mươi dặm đường ít nhất cũng phải mất hai canh giờ. Hi vọng chúng ta đến kịp.
Võ Trụ cười:
- Không phải lo, anh bạn lấy con Bạch mã kia mà đi. Tiếc là chỉ có hai con ngựa tốt, huynh đệ họ Trần chịu khó đi chậm hơn một chút vậy.
Huyết câu và Bạch mã quả là loài thiên lí mã, chúng phóng nhanh như hai mũi tên bắn. Chiều tối đường vắng người đi, không có gì cản vó nên hai con ngựa càng thi sức phi nhanh hơn. Cuối giờ Dậu, họ đã đến chợ Trà Câu. Hồng Liệt dừng lại hỏi thăm đường đến nhà bá hộ Trần. Một người dân ở chợ chỉ tay về hướng tây nói:
- Cứ đi theo con đường này, chừng dặm rưỡi là đến ao sen. Nhà Trần bá hộ ở bờ nam ao sen, cửa quay về hướng bắc nhìn ra hồ.
Hồng Liệt cảm ơn rồi hai người tiếp tục lên đường. Họ đi chừng một dặm đã ngửi thấy trong gió thoảng mùi hoa sen thơm lừng. Cả hai cùng hít một hơi dài làn không khí trong lành thơm tho này để giải bớt cơn mệt nhọc vì trải qua quãng đường xa. Bờ nam ao sen là một dãy nhà nhiều gian, chính giữa có một gian lớn, trước cổng treo mấy chiếc đèn lồng.
Nghe tiếng bước chân ngựa ngoài nhà, bên trong hàng rào mấy con chó cất tiếng sủa vang. Một người từ trong gian nhà lớn vội bước ra hè, mắt nhìn lom lom vào bóng tối phía ngoài cổng. Một lúc sau, người đó lên tiếng:
- Ai ngoài cổng đó? Có việc gì cần giúp đỡ phải không? Chờ một chút tôi bảo bọn nhỏ mở cổng cho.
Xong người đó quay về hướng căn nhà phía tây gọi lớn:
- Nguyên Huy à, ra mở cổng coi ai cần gì thì giúp đỡ cho họ. Đuổi bọn chó ra sau hết đi.
Trong gian nhà phía tây vang lên tiếng dạ ran rồi có tiếng mở cửa. Một thanh niên bước xuống bậc thềm dẫn ra sân, tiến về phía cổng. Vừa đi anh ta vừa nói:
- Chờ tôi một chút nhé, để tôi đuổi lũ chó ra sau đã, không chúng sủa nhức cả óc.
Anh ta la mấy con chó và đuổi chúng ra phía sau nhà. Võ Trụ cùng Đinh Hồng Liệt nhảy xuống ngựa đứng chờ. Võ Trụ nói nhỏ:
- Nhà này thật tử tế. Đêm tối có người đến cửa quấy rầy mà chẳng phiền trách gì, lại còn có ý muốn giúp đỡ. Chắc là họ đã quá quen với những việc thế này rồi.
Người thanh niên mở cổng. Anh ta ngạc nhiên khi nhìn thấy hai người lạ mặt và hai con ngựa to lớn. Sững một lúc anh ta mới hỏi:
- Hai vị từ đâu đến, tìm chúng tôi có việc gì chăng?
Võ Trụ nói:
- Xin lỗi đã quấy rầy lúc đêm hôm. Nhưng chúng tôi có việc gấp rất quan trọng muốn gặp Trần gia chủ, mong anh bạn trẻ thông báo ngay cho. Anh là Trần công tử à?
Người thanh niên gật đầu:
- Vâng, tôi là Trần Nguyên Huy. Mời hai vị vào trong sân chờ, tôi đi báo với cha tôi ngay.
Nguyên Huy né sang một bên nhường lối cho hai người khách dắt ngựa vào sân. Xong anh đóng cổng lại và bước nhanh đến gian nhà lớn. Anh nói lớn vào trong:
- Thưa cha, ngoài này có hai người khách lạ từ xa đến muốn tìm cha có việc gấp gì đó. Mời cha ra nói chuyện.
Cánh cửa mở, căn phòng sáng choang vì mấy ngọn nến vừa được thắp lên. Người đàn ông lúc nãy bước ra sân.
- Chào hai vị! Đêm hôm tăm tối nên không thể tiếp đón chu đáo được. Mời hai vị vào trong phòng nói chuyện. Huy, con lo cỏ cho ngựa ăn.
Nói rồi, ông quay lưng đi trước vào phòng, thái độ hết sức tự nhiên, không chút khách sáo hay lo sợ trước những người lạ mặt có mang theo vũ khí. Căn phòng rộng rãi, giữa phòng là bộ tràng kỷ khảm xà cừ rất khéo. Phía trong, đặt giữa tường là trang thờ Phật và bàn thờ tổ tiên được thiết kế rất trang nghiêm. Chủ nhà mời khách ngồi, rót ba chung trà nóng mời rồi hỏi:
- Xin lỗi, hai vị là ai, từ xa đến tìm chúng tôi vào đêm tối thế này chắc có việc gì hệ trọng lắm phải không?
Võ Trụ cúi đầu chào:
- Xin lỗi vì tội đường đột, tôi tên Võ Trụ ở Bích Khê, còn đây là Đinh Hồng Liệt ở sông Hàn. Chúng tôi vội vã đến đây giờ này quả thật vì có một việc rất gấp muốn thưa chuyện cùng gia chủ của Trần gia. Ông đây là...
Người đàn ông nói:
- Tôi là Trần Nguyên Hào, là gia chủ ở đây. Chẳng hay hai vị có việc gì muốn bàn?
Võ Trụ vừa kể sơ tình hình vừa theo dõi nét mặt của Nguyên Hào. Cuối cùng ông nói:
- Việc này hết sức hệ trọng vì thanh bảo đao của Đại Việt không thể để lọt vào tay bọn giặc Tàu, mong Trần gia chủ xác nhận nhanh cho để chúng tôi còn có kế hoạch ra đi hay ở lại mà giúp gia chủ chống bọn địch.
Trần Nguyên Hào thoáng chút kinh ngạc. Ông nhìn hai người lạ mặt tỏ vẻ do dự hỏi:
- Theo cách nói của hai vị thì việc này rất nghiêm trọng. Làm sao tôi có thể thừa nhận ngay một bí mật như thế với hai người lạ mặt mà tôi chưa hề biết chút gì. Hai ông nghĩ có đúng không?
Đinh Hồng Liệt nghiêm sắc mặt nói:
- Đúng thì có đúng nhưng việc hết sức quan trọng lại không còn nhiều thời gian, nếu ông phủ nhận chúng tôi sẽ tức tốc ra đi để tiếp viện bên kia.
- Nếu vậy hai ông nên đi ngay đi. Tôi phủ nhận điều đó. Mời uống chén nước cho đỡ khát đã rồi hãy lên đường.
Nguyên Hào thản nhiên với tay châm thêm trà vào tách của hai người khách. Võ Trụ uống cạn chung trà, đứng dậy đưa tay vén áo lên để hở một vết sẹo lớn ngay giữa bụng nói:
- Tôi là Võ Trụ, trước kia đã từng tiêu diệt bọn cướp Hắc Long người Tàu. Vết thương chí mạng này do đó mà có. Một đời tôi căm thù nhất là bọn giặc Tàu. Vì vậy khi nghe được âm mưu của chúng, tôi lặn lội đến đây mong góp chút sức mọn giữ gìn báu vật của quốc gia. Nếu ông đã nghi ngại thì chúng tôi xin đi ngay, có điều lần này ra tay, bọn chúng ngoài ba tên cao thủ từ Phúc Kiến sang còn có một nhóm người ở địa phương này. Với lực lượng đó, nếu gia trang này quả đúng có tàng chứa bảo đao thì tôi e con gà, con chó cũng khó đường sống sót. Xin lỗi đã quấy rầy.
Võ Trụ vừa dứt lời thì Hồng Liệt cũng đứng lên theo. Họ cúi đầu chào định quay bước ra sân. Lúc ấy, Nguyên Hào mới chậm rãi hỏi:
- Anh là Võ Trụ à? Có phải là cai đội Trụ ở Đạm Thủy từng cùng với cai đội Long ở Hội An đánh tan bọn cướp biển Hắc Long khoảng mười năm trước không?
Võ Trụ cười đáp:
- Tôi đã nói rồi. Đúng là chúng tôi. Chiếc thuyền từ Hội An chở chúng tôi vào đây là của cai đội Long cho mượn đấy.
Nguyên Hào nét mặt trở nên vui vẻ đứng lên nói:
- Nếu thật thế thì hai vị hẵng ngồi xuống đã. Xin lỗi vì việc quan trọng nên tôi không dám nhận bừa. Nay đã biết hai vị là ai nên tôi xin thú thật vậy. Phải, thanh Ô Long bảo đao là vật gia truyền của họ Trần chúng tôi. Từ khi cao cao tổ Trần Nguyên Hãn bị bức tử phải trầm mình xuống bến Sơn Đông, đám con cháu chúng tôi tản mác khắp nơi và quyết ý không bao giờ ra làm quan nữa, chỉ mong sống đời dân dã. Việc bảo đao tôi giữ rất kín, không hiểu do đâu lại lọt ra bên ngoài mà đến tận tai bọn Tàu như thế, thật lạ!
Hồng Liệt nói:
- Tin tức lọt đến tai bọn Tàu là do nhóm người ở xứ này, chưa biết là ai. Nhưng bọn Tàu này đang thi hành mệnh lệnh của tên Lý đại vương nào đó, hình như bọn chúng đang âm thầm thực hiện âm mưu mờ ám trên đất nước chúng ta.
Nguyên Hào nói:
- Nếu bọn chúng đã biết bí mật và đến cướp thì chúng ta đành liều mạng chống cự chứ biết sao hơn?
Võ Trụ xen vào:
- Đành vậy, nhưng Trần huynh nên cho gia quyến lánh đi nơi khác để tránh tai họa và chúng ta cũng rảnh tay chiến đấu.
Trần Nguyên Hào vội đứng lên bước ra cửa gọi lớn:
- Huy, Hoàng, hai con mau qua đây!
Có tiếng “dạ” từ bên kia và thoáng chốc hai người thanh niên đã bước vào. Họ cúi đầu chào khách:
- Chúng cháu xin ra mắt hai vị thúc thúc. Thưa cha, có điều gì sai bảo?
Trần Nguyên Hào trầm giọng bảo:
- Nguyên Huy cho gọi hết những người trong nhà bảo họ lập tức chạy lên núi Long Cốt tạm trú qua đêm nay, không một ai được ở lại. Đi ngay đi, không ai được hỏi han gì cả. Tuyệt đối giữ im lặng đừng để dân trong làng biết. Nguyên Hoàng chạy đi gọi mấy chú đến đây, bảo mang theo vũ khí và nói họ cho tất cả người nhà lên núi Long Cốt gấp không được chậm trễ. Đi nhanh lên!
Hai chàng thanh niên ngạc nhiên, toan hỏi thì Nguyên Hào đã gắt:
- Đi ngay đi! Bảo họ làm càng nhanh, càng yên lặng càng tốt.
Nghe vậy, hai thanh niên sợ hãi “dạ” một tiếng rồi hối hả chạy đi.
Trần Nguyên Hào thở dài, chậm rãi bước đến bàn thờ tổ thắp nén hương lạy bốn lạy xong lâm râm khấn:
- Xin chư tổ hãy phù hộ cho con cháu để bảo đao không bị thất lạc sang tay giặc cướp. Đêm nay vì sự chẳng đặng nên con mới đành đại khai sát giới.
Ông lạy thêm bốn lạy nữa rồi bước đến một pho tượng bằng gỗ, hai tay đặt vào đế tượng xoay một vòng. Bức vách sau bàn thờ mở ra, bên trong là một hộc gỗ đứng có dựng một thanh đao. Ông đưa hai tay nâng thanh đao lên một cách thận trọng và cung kính rồi lấy một gói vải nhỏ vừa vặn một quyển sách cất vào người. Sau đó ông xoay pho tượng về vị trí cũ, bức vách từ từ khép lại. Ông đặt thanh đao trên bàn nói với hai người khách:
- Đây là thanh bảo đao lưu truyền gần hai ngàn năm của dân Lạc Việt ta, dòng họ tôi may mắn lưu giữ nó bao lâu nay, không hề đụng đến kể từ sau ngày chiến thắng quân Minh. Nay lại phải dùng đến, e rằng đất nước lại sắp đến hồi nguy biến.
Ông trang trọng rút thanh đao ra khỏi vỏ. Võ Trụ và Đinh Hồng Liệt ngưng thần chú mục vào thanh đao huyền thoại của nước nhà. Thanh đao đen tuyền một màu từ cán đến lưỡi, có vẻ rất nặng nhưng lại tỏ ra không sắc bén lắm. Dù thế thanh đao vẫn toát lên một sự cương mãnh uy nghi. Trên cán đao có chạm nổi hình một con rồng đang bay lượn sống động tinh vi, bên dưới con rồng có hai chữ viết theo lối chữ Việt thời cổ. Trần Nguyên Hào cầm thanh đao trong tay nói:
- Hai chữ này là “Âu Lạc” được viết theo lối cổ tự của dân Âu Lạc ta ngày xưa. Tương truyền thanh đao màu đen này và thanh kiếm màu đỏ được các vua Hỏa ở thế kỷ mười lăm của dân tộc Êđê và các sắc tộc ở Tây Nguyên sùng bái coi như là linh vật của núi rừng. Đây là hai báu vật tượng trưng cho ý chí tự cường và sức mạnh đấu tranh của con Rồng cháu Tiên.
Võ Trụ nói:
- Tôi có nghe qua truyền thuyết về thanh đao này nhưng chưa rõ lắm.
Nguyên Hào tiếp lời:
- Đao này đã có từ thời An Dương Vương do Cao Lỗ rèn trong một năm trời bằng một thứ kim loại đen rất cứng và sắc bén. Đao luyện xong được mang ra sử dụng trong cuộc chiến tranh với Triệu Đà. Sau, Cao Lỗ bị thất sủng nên mang đao bỏ đi. Thành Cổ Loa vỡ, đao thất lạc truyền đến tay Mai Hắc Đế và được dùng để đánh đuổi giặc nhà Đường. Sau Mai Hắc Đế bị quân Đường phản công, ông thất thủ rồi mất vì bệnh. Con ông là Mai Thiếu Đế nối nghiệp, tiếp tục kháng chiến nhưng chỉ được một năm cũng tan rã. Thanh Ô Long bảo đao thất lạc lần nữa, về sau lọt vào tay cao cao tằng tổ nhà tôi là thượng tướng Trần Quang Khải. Ngài đã dùng nó trong công cuộc đánh bại quân Nguyên. Sau đó, bảo đao truyền đến tay cao cao tổ Trần Nguyên Hãn và lại một lần nữa thấm máu kẻ thù là giặc nhà Minh. Vì tổ Nguyên Hãn bị vua Lê Lợi nghi ngờ nên phải tuẫn tiết trên bến sông Sơn Đông, con cháu chúng tôi chạy trốn khắp nơi, tôi được phép giữ thanh đao từ đó đến nay.
Nguyên Hoàng và hai người đàn ông tuổi trên dưới bốn mươi cùng hai người thanh niên nữa bước vào, vẻ mặt khẩn trương, thấy có khách lạ họ cúi chào. Nguyên Hào giới thiệu:
- Đây là hai người em của tôi, Nguyên Tánh, Nguyên Thiện và hai cháu Nguyên Từ, Nguyên Bá. Còn đây là hai vị hiệp sĩ, vị này là Võ Trụ ở Bích Khê và Đinh Hồng Liệt ở sông Hàn.
Nguyên Tánh nóng nảy hỏi:
- Có việc gì mà anh bắt mọi người phải di tản vậy?
Nguyên Hào đáp:
- Tất cả ngồi xuống đi, chúng ta từ từ bàn tính.
Bầu không khí trong gian nhà lớn bỗng chùng xuống nặng nề. Nguyên Hào buông tiếng thở dài, đem việc bọn Tàu định cướp đao nói cho người nhà nghe. Sau đó ông bảo:
- Thanh bảo đao này tuy dòng họ chúng ta có duyên được cất giữ lâu nay nhưng nó là báu vật của tổ quốc, bằng mọi giá chúng ta phải bảo vệ đao, không thể để nó lọt vào tay bọn giặc phương bắc. Anh sở dĩ cho gia đình di tản là có ý liều chết với bọn giặc cướp để giữ nó. Hai chú đã cho gia đình dời đi hết chưa?
Nguyên Tánh gật đầu:
- Dạ rồi. Nhưng lực lượng của chúng như thế nào, thưa hai vị hiệp sĩ?
Đinh Hồng Liệt đáp:
- Tôi chỉ biết ở Hội An chúng có năm tên, trong đó có ba tên biệt hiệu Dương Tử Tam Kiếm từ Phúc Kiến sang. Còn lại là bọn ở Quảng Ngãi này nhưng chưa biết là ai và chúng có bao nhiêu người. Không biết Trần huynh dự tính đón địch thế nào?
Nguyên Hào trầm giọng nói:
- Giờ chỉ còn lại những người có thể chiến đấu, chúng ta đã không biết địch thì đành phải ngồi đợi chúng đến rồi tùy cơ ứng biến vậy.
Chợt ở phía đông vọng lại tiếng chó sủa. Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Nguyên Hào hỏi mấy chàng thanh niên:
- Đao pháp họ Trần chúng ta, các con luyện đến đâu rồi?
Nguyên Từ thưa:
- Dạ thưa bác, chúng con đã nhuần nhuyễn các chiêu thức, nhưng còn sự biến hóa của chiêu thức thì chưa được tinh vi như ý bác muốn thôi.
Nguyên Hào vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra cửa:
- Như vậy là tốt rồi! Đêm nay nếu quả thật bọn cướp kéo đến thì đúng là dịp tốt cho các con thực hành đó.
Bên ngoài, trong đêm tối bỗng có tiếng nói vang:
- Hay lắm! Chúng ta đã đến rồi, các ngươi mang đao ra đây mà thực hành.
Tất cả người trong nhà đồng loạt đứng dậy. Nguyên Hào cầm thanh Ô Long đao bước ra cửa, mọi người theo sát sau lưng ông rồi bước xuống thềm, chia thành hai hàng ngang đứng trước gian nhà lớn. Nguyên Hào điềm tĩnh hỏi:
- Các vị là ai, đêm hôm khuya khoắt ghé tệ trang có điều chi chỉ bảo? Xin mời tất cả vào trong sân chúng ta nói chuyện cho dễ hơn.
Một tên trong bọn người lạ mặt cười lớn:
- Khá lắm! Đúng là phong độ của danh gia! Đã biết bọn ta là cướp mà vẫn tỏ ra bình tĩnh và lịch thiệp như thế, quả không hổ danh là người có bản lĩnh lưu giữ thanh Ô Long đao bấy lâu nay.
Dứt lời, bọn người lạ mặt đạp tung cổng rồi lần lượt tiến vào sân. Một số khác nhảy qua hàng rào để vào. Tổng cộng khoảng mười lăm tên, tất cả đều che mặt bằng mặt nạ đen, trừ ba tên mà Đinh Hồng Liệt nhận ra là Dương Tử Tam Kiếm. Hồng Liệt cười lớn nói:
- Dương Tử Tam Kiếm quả nhiên là những kẻ có khí phách của bậc đại cao thủ. Không thèm lén lút che giấu mặt mũi mình. Còn bọn cướp cạn kia là đám hèn nhát, đã đem thân làm ăn cướp lại sợ người biết mặt phải giấu đi, thật không đáng một đồng kẽm!
Tên đeo mặt nạ vừa lên tiếng lúc nãy khịt mũi một cái, giọng ồ ồ:
- Ngươi làm ăn trộm, bọn ta làm ăn cướp thì có khác gì nhau? Để xem đêm nay cướp bắt trộm hay trộm bắt cướp đây? Trần Nguyên Hào, có mặt tên trộm đạo này ở đây chắc hẳn ông cũng đã biết mục đích bọn ta đến đây rồi, ông nên ngoan ngoãn trao thanh đao ra để tránh bị diệt toàn gia. Chừng đó, có hối cũng muộn.
Trần Nguyên Hào cười lớn:
- Nói nghe hay lắm! Ta thật cũng muốn trao thanh đao cho ngươi nhưng ít ra ngươi cũng phải bỏ cái mặt nạ xuống để ta được biết kẻ nhận đao là ai chứ? Đao này là báu vật của Đại Việt, chỉ có người Đại Việt mới được đụng đến thôi.
- Ngươi nghe giọng nói của ta thì đủ biết ta là dân Đại Việt rồi còn đòi nhìn mặt làm gì?
Nguyên Hào cười lớn hơn:
- Dân Đại Việt ta lúc nào cũng hành sự đường đường chính chính chứ đâu có lén la lén lút, che mặt giấu tên như ngươi. Hạng người như ngươi chỉ là những tên Việt gian làm tay sai cho giặc, vậy mà còn dám tự xưng là dân Đại Việt ư?
Đinh Hồng Liệt đứng kế bên vỗ tay cười đắc ý:
- Nói hay lắm, mắng hay lắm! Đúng! Chỉ có bọn Việt gian mới che mặt làm chó dẫn đường cho giặc về nhà cắn chủ mà thôi. Ha.. ha...
Tên đeo mặt nạ cứng họng, đứng im không nói thêm được tiếng nào. Bàn tay nắm đốc kiếm của hắn run run. Hẳn là hắn đang xấu hổ và tức giận đến cực độ. Một tên trong Dương Tử Tam Kiếm nói, giọng lơ lớ:
- Đừng nhiều lời nữa. Ngươi có chịu trao đao ra hay không?
Nguyên Hào mỉm cười thản nhiên:
- Ta trao chứ, nhưng thanh đao này nó không ưa bọn giặc Tàu như ngươi, thấy giặc Tàu là nó chỉ muốn chém thành trăm khúc. Ngươi dám nhận lấy không?
Tên cầm đầu đứng kế bên nói với giọng lạnh băng:
- Ngươi đôi co với chúng làm gì? Rượu mời không uống thì uống rượu phạt!
Tiếng nói chưa dứt, thanh kiếm trong tay hắn đã được rút ra khỏi vỏ. Động tác rút kiếm nhanh của hắn chớp đã làm quần hào thầm rúng động trong lòng. Một tiếng “keng” trong trẻo ngân vang, loại âm thanh của báu kiếm. Hắn gằn giọng:
- Ta nghe nói thanh Ô Long bảo đao chém sắt như chém bùn, đêm nay ta muốn thử xem đao của ngươi bén hay kiếm của ta bén.
Hắn rung tay, thanh kiếm lóe lên phản chiếu ánh sáng của những chiếc đèn lồng quanh nhà, phát ra tiếng ngân như rồng ngâm. Thật là thanh kiếm báu! Đinh Hồng Liệt liếc sơ qua đã ướm định được thanh kiếm dài khoảng ba thước (0,9m), nhìn màu sắc và tiếng ngân của nó, anh đã đoán ra nguồn gốc nhưng vẫn vờ hỏi:
- Đây có phải là thanh Ỷ Thiên trường kiếm của Tào Tháo thời Tam Quốc không?
Tên cầm đầu gật đầu khen:
- Kiến thức của ngươi khá lắm. Đây đúng là thanh Ỷ Thiên trường kiếm của Thừa tướng Tào Mạnh Đức ngày xưa. Ta hỏi một lần cuối, các ngươi muốn uống rượu nào?
Nguyên Hào thấy bọn địch nhân số gấp đôi bên mình, ông biết đêm nay lành ít dữ nhiều nên quyết định ra tay trước để chiếm thế thượng phong. Ông hét lớn:
- Ta không thèm uống rượu của bọn giặc Tàu, chỉ có thanh đao này uống máu và truy hồn các ngươi đêm nay thôi! Đánh!
Ông rút thanh Ô Long đao ra khỏi vỏ. Một tiếng ngân trầm vang lên mang theo một luồng hơi lạnh xoáy buốt màng nhĩ. Ông rung mạnh tay đao ra chiêu tấn công tên đại ca Lãnh Diện Truy Hồn. Tên cầm đầu thấy đường đao dũng mãnh của Nguyên Hào vội vàng thoái lui một bước né tránh rồi vung kiếm phản công. Bên kia, Võ Trụ rút kiếm tấn công cùng lúc vào hai tên còn lại của bọn Dương Tử Tam Kiếm. Hai tên nọ ra kiếm chống đỡ. Đinh Hồng Liệt cũng múa kiếm tấn công tên đeo mặt nạ cầm đầu ban nãy. Tên này vội vung thanh kiếm uốn khúc như rắn lên đỡ, hai người sáp vào nhau, kiếm phong vun vút, kiếm ảnh mịt trời.
Anh em Trần Nguyên Tánh và các thanh niên họ Trần vội lập Ngũ hành đao trận chống trả với mười một tên bịt mặt còn lại. Đây là trận pháp họ Trần dùng để chống trả với một lực lượng đông đảo. Trận thế biến hóa liên hoàn, chặt chẽ. Năm người theo các phương vị ngũ hành thay đổi biến hóa trong lúc công thủ, vững vàng và kín đáo tựa như một rừng đao. Thế mạnh của đao trận là khi thủ thì kín như tường đồng, khi công thì mạnh mẽ như vũ bão. Những tiếng quát, tiếng binh khí va chạm vang lên làm kinh động cả đêm trường tĩnh mịch nơi thôn vắng. Đặc biệt là tiếng va chạm không ngừng giữa thanh Ô Long đao và thanh Ỷ Thiên trường kiếm. Âm của hai thứ báu vật này một thanh, một đục tạo cho người nghe cái cảm giác vừa khó chịu vừa lạnh buốt đến tận xương. Có mấy tên bịt mặt trúng đao của trận pháp họ Trần ngã xuống.
Trong mớ hỗn độn bỗng vang lên tiếng thét của tên Lãnh Diện Truy Hồn:
- Đao hay! Coi kiếm của ta đây!
Dù vậy bên ngực trái của hắn đã có một vết chém dài hơn một tấc, máu từ vết thương chảy ra ướt cả vạt áo. Hắn vừa kinh sợ vừa tức giận nên sau tiếng thét, hắn lướt nhanh người tới trước xoay tay vung ngang Ỷ Thiên trường kiếm thành một vòng tròn, đầu mũi kiếm tạo ra hàng trăm điểm bạc như trăm đóa hoa mai bay trong gió bao phủ khắp người Trần Nguyên Hào. Kiếm khí lạnh buốt cả một vùng không gian gần đó. Vừa rồi là tuyệt chiêu Bách hoa phong vũ trong Mai hoa kiếm pháp của phái Hành Sơn, sư môn của Lãnh Diện Truy Hồn. Biết địch thủ đã giở sát chiêu, Nguyên Hào vội vàng vung thanh Ô Long đao tạo thành một bức tường bao bọc quanh người, những tiếng đao kiếm chạm nhau vang lên cùng với tiếng rên khẽ của Nguyên Hào. Trúng một nhát kiếm, máu từ vai trái ông chảy xuống ngực áo. Đã biết tài nhau nên họ xuất chiêu càng cẩn trọng. Trận đấu bây giờ diễn ra chậm hơn nhưng mỗi chiêu thức tung ra đều là sát chiêu cố hạ cho được địch thủ.
Võ Trụ và hai tên còn lại trong Dương Tử Tam Kiếm cũng đang đối đầu nhau rất gay go, căng thẳng. Võ Trụ được chân truyền của Kiếm Tuyệt nên đường kiếm hết sức nhẹ nhàng, linh hoạt và biến hóa khôn lường. Tuy phải một mình giao đấu với hai đại cao thủ Trung Hoa nhưng đường kiếm của ông vẫn ung dung uốn lượn giữa vùng kiếm ảnh của đối phương, lúc thủ thì vững vàng, khi công lại thần tốc nên dù trải qua hơn năm mươi chiêu, trận đấu vẫn còn ở thế quân bình. Một tên trong Nhị Kiếm bỗng tức giận la lớn:
- Nhị ca, mau xuất chiêu chấm dứt trận đấu đi! Hai chúng ta mà không hạ nổi một tên vô danh ở Đại Việt thì còn gì là tiếng tăm của Dương Tử Tam Kiếm đã gây khiếp đảm một cõi Giang Nam?
Tên nhị ca đáp:
- Được! Chuẩn bị nhé!
Nói xong chúng liền chuyển thế, hai người một trước mặt một sau lưng Võ Trụ rồi hô lớn:
- Thương sơn bạt thạch!
Ngay sau đó hắn xuất chiêu tấn công từ bên cánh trái của Võ Trụ, kiếm chiêu bao trùm cả một vùng, lưỡi kiếm xé gió lao vào người Võ Trụ như vũ bão. Cùng lúc, tên kia đâm vào khoảng trống phía sau bên phải của Võ Trụ. Cái hay của chiêu kiếm đó là một khi Võ Trụ muốn né lưỡi kiếm trước mặt của tên này tất phải dịch người đến nơi mũi kiếm của tên kia vừa đâm ra. Nếu muốn tránh, Võ Trụ chỉ còn một cách duy nhất là phải tung người lên cao. Vì đây là lần đầu giao đấu với hai tên này, cách phối hợp của chúng vừa lạ lại vừa hiểm độc khiến Võ Trụ bất ngờ, bởi vậy ông vừa vung kiếm ra đỡ bên trái vừa dạt người né sang phải. Khi nghe tiếng gió kiếm đâm tới, ông giật mình biết nguy vội nhún chân tung người lên không nhưng bên hông cũng đã bị mũi kiếm đâm sướt qua rạch một đường dài. Lại nghe tên nhị ca hô tiếp:
- Phi tiễn xuyên dương!
Tức thì mũi kiếm của hắn đang đà chém bỗng đổi thế đâm từ dưới thẳng lên ngay chân trái của Võ Trụ, bức không cho ông hạ người xuống. Trong khi đó tên còn lại cũng vung kiếm chém vào khoảng không mé bên phải. Võ Trụ lúc phóng người lên có ý muốn thoát ra khỏi tầm kiếm của địch nên thế phóng nghiêng về bên phải, lúc này người ông đang lơ lửng trên không, thấy chiêu kiếm từ dưới đâm lên, ông vội dùng bản kiếm của mình đập xuống mũi kiếm của địch để mượn thêm lực lướt người sang phải, không ngờ lại lao vào đúng đường kiếm đang chém tới của tên phía sau. Trong khoảnh khắc cái chết tựa như chỉ mành treo chuông, Võ Trụ vội dùng tay trái rút thanh đoản kiếm Nhật Bản đeo bên hông gạt mạnh vào lưỡi kiếm của địch. Một tiếng “choang” vang lên, thanh kiếm trên tay địch bạt ra sau, Võ Trụ vung nhanh thanh trường kiếm vạch thẳng một đường xuống phía dưới chân phòng tên nhị ca tấn công tiếp rồi lướt người hạ xuống bên ngoài vòng kiềm tỏa của địch. Thật là một khắc kinh hoàng, mồ hôi và máu ướt cả người ông.
Nguyên hai tên này là hai anh em, người anh là Tư Đồ Nhất còn em là Tư Đồ Nhị, quê ở núi Thương Sơn. Chúng được dị nhân trong núi dạy cho võ nghệ rồi hợp nhau lại nghĩ ra thế tấn công đặc biệt ăn ý này. Xưa nay rất ít người tránh được kiếm trận kỳ quái của chúng. Cho nên chúng mới nổi danh và hoành hành tác oai tác quái suốt một cõi Giang Nam. Một hôm chúng bị một số cao thủ vây đánh suýt bỏ mạng, may nhờ Lãnh Diện Truy Hồn cứu được nên từ đó kết làm anh em, tạo nên thanh danh của Dương Tử Tam Kiếm lẫy lừng suốt một dải Trường Giang và miền Nam Trung Quốc.
Tên nhị ca nhìn cách thoát thân của Võ Trụ không khỏi buộc miệng khen:
- Kiếm hay mà khinh công cũng cao tuyệt. Nhà ngươi là người đầu tiên đơn độc thoát ra khỏi vùng ảnh hưởng kiếm trận của chúng ta đó. Nhưng chưa hết đâu, đỡ tiếp đây!
Bỗng lúc đó có tiếng vó ngựa dồn dập bên ngoài hàng rào. Một bóng người từ trên lưng ngựa phóng vút lên không, vượt qua hàng rào lao vào trong sân, miệng la lớn:
- Đúng là chưa hết đâu! Giờ thì bọn bay hãy đỡ tiếp chứ không phải là chúng ta đâu!
Dứt lời người ấy liền vung thanh kim đao tấn công tên nhị ca tới tấp. Người mới nhảy vào trận đó chính là Thiết Tý Kim Đao Trần Kim Hùng. Ông ta là người nóng nảy nên nói là làm ngay. Trong khi đó, Đinh Hồng Liệt đang giao đấu bất phân thắng bại với tên đeo mặt nạ cầm Kim Xà kiếm, thấy Đại Bằng đến Hồng Liệt kêu lớn:
- Đại Bằng, anh mau đến giúp bọn trẻ bên này.
Đúng là bọn trẻ cần được giúp. Tuy đao trận của Trần gia kín đáo và dũng mãnh nhưng ba chàng thanh niên vì còn trẻ, võ nghệ chưa thông lại thiếu kinh nghiệm lâm trận nên sau một hồi giao đấu đao trận đã suy giảm uy lực. Hai trong số ba chàng thanh niên đã bị thương, trận pháp sắp tan vỡ. Trần Đại Bằng nhìn sơ qua các trận đấu đã nhận ra điều đó nên khi nghe tiếng kêu của Đinh Hồng Liệt, ông liền phóng người đến vung kiếm tấn công bọn bịt mặt. Đường kiếm của Trần Đại Bằng linh hoạt mau lẹ, chỉ vừa nhập trận đã hạ được hai tên bịt mặt. Ngũ hành đao trận nhờ thế mà lấy lại được uy lực. Lại có thêm hai tiếng la thảm thiết nữa của bọn bịt mặt vang lên.
Võ Trụ giờ đã có Kim Hùng chặn giúp tên nhị ca nên ông chậm rãi bước đến trước mặt tên còn lại mà nói:
- Món nợ một kiếm giờ ngươi trả lại gấp đôi! Chuẩn bị đi!
Dứt lời, một ánh kiếm chớp lên, tên nọ vung kiếm đỡ nhưng cánh tay trái của hắn nhanh chóng trúng một kiếm đứt lìa. Hắn “á” lên một tiếng đau đớn rồi hung hãn gầm lên:
- Ta thề lấy mạng ngươi!
Cùng với tiếng gầm ấy, hắn lao tới vung kiếm tấn công Võ Trụ quyết liệt. Hai người ra đòn hết tốc lực, tạo thành những đường kiếm mờ ảo quẹt vào không trung. Được một lúc lại nghe tên Tàu rú lên. Võ Trụ vừa đâm thêm một nhát kiếm nữa vào hông hắn. Ông hằm hè đe:
- Ta vốn căm thù bọn giặc cướp Tàu Ô, ngươi xấu số mới gặp ta. Hai kiếm đó là để dạy cho ngươi một bài học, đừng bao giờ bén mảng đến lãnh thổ Đại Việt mà giở trò ăn cướp. Vì ngươi chưa làm điều gì ác ở đây nên hôm nay ta tha cho. Mau cút về nước, nếu để ta gặp mặt lần nữa thì đừng hòng bảo toàn tính mạng.
Tên cướp bấy giờ đã quá khiếp đảm, chỉ còn biết ôm vết thương rên rỉ rồi lùi lại không dám nói thêm một lời nào.
Trận đấu giữa Trần Nguyên Hào và Lãnh Diện Truy Hồn đã ngưng lại. Hai đối thủ kẻ đao người kiếm đứng im lặng thủ thế, cố điều hòa hơi thở chờ địch thủ sơ hở để xuất chiêu đoạt mạng. Trên thân thể hai người thương tích khắp nơi, máu chảy ướt áo quần và dấy đầy dưới sân. Tên đeo mặt nạ đang giao đấu với Đinh Hồng Liệt liếc mắt nhìn quanh thấy cục diện có bề bất lợi, hắn vội chúm miệng huýt lên một hồi sáo lớn như tiếng còi. Người của bọn hắn hiểu ý nên đồng lúc dốc toàn sức xuất chiêu tấn công ráo riết. Khi nghe tên đeo mặt nạ hô lớn “đi”, cả bọn liền phóng chiêu chí mạng cuối cùng rồi tung mình lao vút vào bóng tối mất dạng. Lãnh Diện Truy Hồn nhảy tới ôm tên Tư Đồ Nhị đã bị thương bỏ chạy. Trước khi phóng đi hắn còn nói vọng lại:
- Không lâu nữa ta sẽ trở lại, dùng Ỷ Thiên kiếm tái chiến với Ô Long đao của ngươi và trả mối thù chặt tay của tam đệ ta. Hãy chờ đó!
Trần Nguyên Hào chống đao nhìn theo bóng bọn cướp mất hút trong màn đêm thở dài:
- Thật nguy hiểm! Đường kiếm của hắn quả là siêu tuyệt. Nếu không nhờ cây bảo đao thì tôi đã bỏ mạng rồi. Hà! Bao nhiêu năm yên ổn nay đã hết rồi, từ đây sẽ còn biết bao cảnh chém giết, máu đổ thịt rơi nữa.
Ông quay sang mọi người, cố nặn một nụ cười:
- Cảm ơn các bạn hữu đã tương trợ. Nếu không có các bạn Trần gia chúng tôi đêm nay không biết sẽ thê thảm thế nào. Võ Trụ huynh thương thế ra sao?
Võ Trụ cười nói:
- Không có gì, chỉ trầy sướt ngoài da thôi, Trần huynh không phải bận tâm. Thương thế Trần huynh có nặng không?
- Cũng chỉ là những vết thương bên ngoài. Hãy xem bọn bịt mặt là người ở bang hội nào đã.
Nguyên Thiện bước lại lật xác hai tên cướp, gỡ mặt nạ che mặt ra thì thấy chúng là người Việt nhưng không biết là người thuộc lộ nào.
Hồng Liệt lên tiếng:
- Tên bịt mặt sử dụng Kim Xà kiếm có giọng nói của người miền này, hoặc Quảng Ngãi hoặc Bồng Sơn. Tôi nghĩ hắn là tên tìm ra manh mối Ô Long đao và dẫn bọn Tàu đến cướp. Võ công của hắn thật cao cường, tôi nghĩ mãi mà chưa tìm ra xuất xứ đường kiếm của hắn. Điều đáng chú ý hơn nữa là hắn chỉ dùng duy nhất một bài kiếm, giống như hắn mới học được ở đâu đó còn ngoài ra hắn không có lối đánh nào khác. Cứ như thể hắn sợ bị tôi phát hiện gốc gác của mình vậy.
Võ Trụ nói:
- Tôi cũng thấy hình dạng của hắn quen lắm nhưng vì hắn bịt mặt, sửa giọng nói, lại đêm tối thế này nên không thể đoán ra hắn là ai. Nhưng theo lời Đinh huynh nói thì hắn phải là người có tiếng tăm quanh đây?
Đại Bằng nãy giờ im lặng bỗng lên tiếng:
- Chúng thất bại đêm nay nhưng chắc sẽ không bỏ ý định cướp đao đâu. Chúng ta phải tính kế sách vẹn toàn. Ý của Trần huynh về việc này thế nào?
Nguyên Hào nói:
- Chúng ta hãy vào nhà băng bó các vết thương trước đã rồi bàn đến việc đó sau.
Rồi ông quay sang Nguyên Huy bảo:
- Các con lo chôn mấy cái xác này đi rồi vào trong lo trà nước cho quí bạn hữu.
Mọi người vào nhà, sau khi băng bó các vết thương, Nguyên Hào lên tiếng:
- Tình hình này chắc dòng họ chúng tôi lại phải tản mác khắp nơi để tránh họa sát thân và bảo vệ cây đao. Có điều hình tích cây đao đã lộ thì dù góc bể chân trời e rằng cũng có ngày bọn chúng tìm ra. Hà! Chưa biết tính lẽ nào cho thích hợp đây.
Đinh Hồng Liệt nói:
- Chúng ở trong bóng tối nên chúng ta khó đường tránh né. Cách hay nhất là chúng ta phải tìm cho ra lai lịch bọn này, chừng đó mới có cách đối phó thích hợp.
Đại Bằng tán đồng:
- Chú nói đúng. Cần phải tìm cho ra tung tích bọn chúng, vì ngoài việc bảo vệ cây bảo đao, chúng ta còn phải tìm xem bọn Tàu đang có âm mưu gì với nước ta. Tôi nghĩ âm mưu này không nhỏ đâu. Theo tôi, Trần huynh nên cho gia quyến dời đi nơi khác, chỉ để lại đây những người có thể chiến đấu được thôi. Chúng tôi sẽ ở lại giúp Trần huynh cho đến khi nào tìm ra manh mối bọn cướp. Hồng Liệt, chú phải bằng mọi cách tìm ra hành tung của bọn chúng càng sớm càng tốt.
Đinh Hồng Liệt cười ha hả nói:
- Vậy là từ nay tôi phải bỏ nghề ăn trộm chuyển sang nghề thám báo rồi. Được, tôi sẽ lo việc này.
Trần Nguyên Hào giọng cảm kích:
- Việc nhà họ Trần nay lại bắt các vị dấn thân vào nguy hiểm, tôi thật không an lòng chút nào.
Võ Trụ cười:
- Bạn bè tương trợ nhau là chuyện thường tình mà, huống chi Ô Long bảo đao là bảo vật quốc gia, chúng tôi phải có trách nhiệm bảo vệ, Trần huynh không cần áy náy làm gì.
Đại Bằng thêm vào:
- Phải chi chúng ta có một tổ chức hay một bang hội có tai mắt khắp nơi thì việc tìm ra âm mưu bọn giặc và tương trợ lẫn nhau lúc nguy biến sẽ dễ dàng hơn biết bao.
Hồng Liệt nói:
- Vậy thì anh cứ đứng ra thành lập một bang hội đi! Bang Hành Khất chẳng hạn, vừa để giúp những người ăn mày đang ngày một đông lên, vừa để có tai mắt và lực lượng đối chọi với bọn giặc cướp Tàu. Một mình tôi ăn trộm nhiều cỡ nào cũng chẳng giúp cho họ được bao nhiêu cả.
Đại Bằng hớn hở nói:
- Ý của chú hay lắm. Người ăn mày bản xứ và những người từ Đàng Ngoài trốn vào đây ngày một đông, cần phải có tổ chức điều hành và giúp đỡ họ thì sẽ bớt phiền hà cho dân chúng. Đã vậy bản thân những người ăn mày cũng có điều kiện sinh sống dễ hơn. Được, tôi sẽ nghĩ cách tiến hành ngay. À, chú vừa nói tên gì nhỉ? Bang Hành Khất à? Hay lắm! Tôi sẽ tìm cách tổ chức cho được bang Hành Khất này.
Trần Nguyên Hào mỉm cười:
- Đại Bằng huynh phong thái đường đường, đúng là tác phong của người lãnh đạo. Trần gia chúng tôi tuy không giàu có nhưng ruộng lúa khá nhiều, nếu huynh cần dùng đến thóc gạo thì cứ tự nhiên đến đây mà lấy. Muốn thu phục nhân tâm trước hết phải có ân với họ.
Võ Trụ xen vào:
- Trại ngựa của tôi cũng được trăm con, Đại Bằng huynh cứ đến đó mà trưng dụng. Con Bạch mã xin tặng cho Hồng Liệt.
Kim Hùng vỗ tay cười:
- Hay lắm! Tôi cũng muốn ghé thăm trại ngựa của Võ huynh một chuyến.

*****
 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Hồi thứ ba

Chân hiệp sĩ luận bàn về đao kiếm
Thiện tao nhân đàm đạo lẽ huyền vi.

*
Cả phủ Quy Nhơn xôn xao tin quan khâm sai đại thần từ Phú Xuân vào thăm một cách đột ngột mà không biết vì lí do gì. Vị tân tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên vừa mới về nhậm chức vội vã lo chuẩn bị mọi thứ để đón quan khâm sai. Nguyễn Khắc Tuyên vốn là người bà con của chưởng cơ Nguyễn Cửu Thống, một trong những cánh tay đắc lực của quan ngoại tả Trương Phúc Loan. Phúc Loan muốn tạo thế lực cho mình nên đã cài những kẻ thân tín vào giữ những chức vụ quan trọng từ trong phủ chúa đến các dinh phủ bên ngoài.

Vì đang là mùa hạ nên thay vì đi đường bộ, vị khâm sai đại thần đã theo đường biển vào cửa Đề Gi để lên Phù Ly chứ không theo cửa Nước Mặn đến phủ lỵ Quy Nhơn. Quan huyện Phù Ly là Bùi Thế Phát biết tin liền cho mời quan tuần phủ ra Phù Ly và tất bật sửa soạn cho việc tiếp đón. Vị khâm sai này chính là quan hình bộ Tôn Thất Dục, người phụ tá là tả hộ vệ Đoàn Phong cùng với một vị quan trong công bộ. Sáng hôm sau, Tôn Thất Dục cho mời quan công bộ, tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên, quan khám lý Hoàng Công Đức và quan huyện Phù Ly Bùi Thế Phát đến họp. Tôn Thất Dục nói:

- Phủ Chúa vừa nhận được thư của một người ở vùng Bích Khê này báo rằng ông ta đã phát hiện một mỏ vàng trong vùng Kim Sơn nên giao lại cho triều đình, do đó vương thượng sai ta vào đây họp cùng các ông lo việc khai thác và quản lý.

Nghe nói đến mỏ vàng, vẻ kinh ngạc lẫn vui mừng hiện ngay trên nét mặt ba vị quan lớn địa phương. Bọn Nguyễn Khắc Tuyên đồng thanh nói:

- Hạ chức xin gởi lời chúc mừng vương thượng. Ngài mới đăng Vương đã có tin vui như thế thì đúng là hồng phước tề thiên.

Tôn Thất Dục ra lệnh:

- Bây giờ chúng ta phải đến thăm người phát hiện ra mỏ vàng trước, sau đó đi thăm mỏ xem tình hình thế nào mới có kế hoạch khai thác cụ thể được.

Bùi Thế Phát vội hỏi:

- Người phát hiện mỏ vàng là ai thế, thưa ngài khâm sai?

- Là Võ Trụ, chủ trại ngựa ở núi Bích Khê gần đầm Trà Ô.

Mọi người ồ lên kinh ngạc, Bùi Thế Phát nói:

- Là ông ta à? Tôi có biết ông ấy. Một người rất tốt.

Tôn Thất Dục hối:

- Thôi chúng ta đi! Đi bằng ngựa thường, không cần người hộ tống hay mặc quan phục gì cả.

Trên đường đến Bích Khê, Đoàn Phong vừa đi vừa mỉm cười, trong lòng rất vui. Chàng thầm nghĩ: “Đúng là có duyên thì ngàn dặm cũng sẽ gặp. Không ngờ người bạn tình cờ kết giao ở chùa Thiên Mụ ngày nào lại là người phát hiện mỏ vàng và bây giờ mình lại có dịp làm việc chung với anh ta. Tuyết Hoa đã không lầm khi nhận xét anh ta là người chân thật, ngay thẳng.”

Mấy năm gần đây việc mua bán ngựa phát đạt nên trang trại của Võ Trụ sửa sang lại cũng khá khang trang. Đoàn người trên huyện đến trước cổng trang trại lúc Doãn Trọng Hào đang chơi đùa với tên sư đệ tí hon ở đó. Nhìn thấy Đoàn Phong, Trọng Hào hết sức ngạc nhiên, nó mừng rỡ kêu lên:

- Kìa Phong thúc thúc, chú vào thăm thầy cháu đó à? Nhanh thế? Trời ơi, thầy sẽ vui mừng lắm đó, người vẫn nhắc đến thúc thúc hoài. À, cháu xin chào mấy bác. Mời vào nhà, cháu đi báo với thầy ngay.

Nói rồi nó vội vàng bế đứa bé chạy vào trong nhà. Mọi người chậm rãi bước theo sau. Lát sau, Võ Trụ từ trong nhà đi ra. Nhìn thấy Đoàn Phong, Võ Trụ mừng rỡ reo lên:

- Kìa Phong huynh, nghe Trọng Hào nói tôi không tin là thật. Chà, tôi vui biết chừng nào, không ngờ Phong huynh lại tìm đến tận nhà thăm nhanh thế. A, xin chào huyện quan Bùi Thế huynh, xin chào các vị... chắc cũng là quan nhân cả phải không? Thứ cho tôi nhà quê nên chưa rõ.

Đoàn Phong cười nắm tay Võ Trụ:

- Thật vui mừng vì được gặp lại huynh. Giới thiệu với huynh, đây là quan hình bộ Tôn Thất Dục, vị này là Phạm Hiệp quan chức ở bộ Công, còn đây là quan tân nhiệm tuần phủ Quy Nhơn Nguyễn Khắc Tuyên và quan khám lý Hoàng Công Đức.

Võ Trụ nghe giới thiệu giật mình vội nói:

- Hạ dân ngu muội không biết nên thất lễ, xin bốn vị đại quan thứ cho. Mời tất cả vào trong uống chén trà đạm bạc.

Tôn Thất Dục mỉm cười:

- Võ Trụ huynh không cần đa lễ. Chúng tôi đến đây với tư cách là những người dân, những người bạn. Hãy bỏ qua các chức tước đi cho dễ nói chuyện.

Võ Trụ mời mọi người vào gian nhà khách bày biện đơn sơ nhưng trang nhã. Bộ tràng kỷ bằng gỗ giáng hương chạm trổ rất tinh vi, người tinh ý sẽ nhận ra ngay chúng được mua từ trang trại gỗ của họ Lê trên huyện lỵ Phù Ly, vì ở đây chỉ có mỗi cơ sở đồ gỗ này mới có nghệ thuật chạm trổ đặc biệt điêu luyện như thế. Chờ mọi người yên vị, Võ Trụ lên tiếng hỏi:

- Chắc bốn vị quan nhân đến đây vì bức thư của sư phụ tôi gởi cho Vương thượng phải không?

Tôn Thất Dục gật đầu:

- Vâng, tôi được lệnh của vương thượng vào đây với tư cách khâm sai để gặp huynh bàn về việc đó. Chi tiết về việc phát hiện mỏ vàng thế nào, Võ huynh có thể nói sơ qua được chăng?

Võ Trụ thuật lại đầu đuôi việc phát hiện mỏ vàng, sau đó nói:

- Đây là kho báu của quốc gia, nay xin giao lại cho ngài Khâm sai.

Hoàng Công Đức buột miệng hỏi:

- Võ huynh khai thác được bao lâu rồi?

Võ Trụ hơi nhíu mày đáp:

- Chúng tôi vì chờ sư phụ về nên đã dò tìm trong vòng vài ba tháng nhưng dùng hai chữ “khai thác” thì không đúng lắm vì từ đầu chúng tôi không có ý độc chiếm mỏ vàng này.

Tôn Thất Dục vội chen vào:

- Nghĩa cử của Võ huynh rất ít người làm được. Việc có khai thác trước hay không, đâu đáng để chúng ta phải lưu tâm.

Hoàng Công Đức biết mình lỡ lời nên cười giả lả:

- Xin lỗi, tôi chỉ vô tình buột miệng thôi chứ không có ý gì khác, xin Võ huynh đừng giận.

Lúc ấy, Chí Hiếu đã mang trà lên. Tôn Thất Dục hớp một ngụm trà thơm rồi nói:

- Vương thượng có ngự bút phê một lời khen gởi cho sư phụ của huynh nhưng có lẽ để ngày mai tôi sẽ đích thân đến gặp mặt và trao tận tay người. Chúng tôi có duyên đàm đạo với nhau trong chuyến thiền sư về Phú Xuân vừa rồi.

- Nếu vậy thì ngày mai xin mời ngài khâm sai trở lại. Tôi sẽ thưa với sư phụ.

Trở lại vấn đề khai thác vàng, Thất Dục hỏi:

- Trước kia vàng ở Kim Sơn khá nhiều, việc khai thác đã đi vào khuôn phép và có kỹ thuật, nhưng cả trăm năm nay không còn khai thác nữa. Không biết ở phủ nhà có ai có kinh nghiệm về cách khai thác không?

Nguyễn Khắc Tuyên đáp:

- Hạ quan mới về nhậm chức nên việc này thật không có chút kinh nghiệm gì. Nhưng hạ quan sẽ về phủ hỏi lại những người làm việc từ xưa, may ra họ biết.

Quan Công bộ Phạm Hiệp nói:

- Không khó gì, bộ chúng tôi vẫn còn khai thác vàng ở Quảng Nam cho nên việc đó tôi sẽ lo.

Bùi Thế Phát lên tiếng đề nghị:

- Về việc tinh lọc vàng thì ở huyện Bồng Sơn có Hoàng Kim Môn của Trần gia. Họ là những người có kinh nghiệm từ lâu đời. Không biết ngài khâm sai và ngài công bộ có muốn sử dụng đến họ không?

Võ Trụ mấp máy môi định nói gì nhưng lại thôi. Tôn Thất Dục biết ý hỏi:

- Võ huynh có đề nghị gì không?

Võ Trụ bình thản:

- Thưa không. Việc này hạ dân vốn mù tịt nên không có đề nghị gì cả.

- Vậy xin hỏi Võ huynh, bao giờ thì chúng tôi có thể đến thị sát mỏ để nắm rõ tình hình thực tế?

- Nếu các vị muốn đi thì ngay bây giờ cũng được.

Hoàng Công Đức chen vào:

- Như thế thì tốt quá. Chúng ta đi ngay đi.

Ông ta bao giờ cũng tỏ ra sốt sắng, thậm chí là nóng nảy trong chuyện khai thác vàng. Võ Trụ đứng lên đi ra sau, một lúc trở lại nói:

- Chúng ta đi được rồi. Mời các vị!

Chí Hiếu và một đệ tử nữa đã đứng trước sân chờ, họ mang theo vài cây cuốc và một dụng cụ đãi vàng. Võ Trụ cưỡi con Huyết mã dẫn đầu, Đoàn Phong cưỡi ngựa đi kế bên. Phía sau là các vị quan chức và cuối đoàn là hai tên đệ tử. Họ thong thả cho ngựa đi chậm như đang dạo cảnh núi rừng Bích Khê và Kim Sơn. Võ Trụ vỗ vỗ vào lưng con Huyết mã nói nhỏ với Đoàn Phong:

- Đây là con ngựa mà tôi cố rượt theo bắt cho kỳ được mới bị lạc đến suối vàng. Thật là con ngựa thần, nó chẳng những mang lại điều may mắn đó mà còn là con thiên lý mã thật sự. Cũng nhờ nó mà trên đường từ Phú Xuân về, tôi và vài người bạn khác đã kịp phá vỡ một âm mưu lớn của bọn Tàu khi chúng định đánh cướp Ô Long bảo đao của Đại Việt ta.

Đoàn Phong nghe Võ Trụ nói đến vụ cướp Ô Long đao liền tò mò hỏi:

- Có phải cây đao có từ thời An Dương Vương không?

- Vâng, chính là cây đao đó.

- Chuyện thế nào vậy?

Võ Trụ kể sơ qua câu chuyện hôm trước. Xong ông nói:

- Thật may là hôm đó Thần Thâu Đinh Hồng Liệt tình cờ phát hiện ra âm mưu, nếu không thì cả nhà họ Trần lâm nguy và cây đao đã bị bọn chúng cướp mất rồi. Võ công của chúng rất cao cường, nếu không có anh em họ Trần ở Phong Điền đến kịp thì tôi chắc toi mạng rồi chứ không phải chỉ bị chúng đâm có một nhát thôi đâu.

- Chà, ước gì đệ có mặt đêm hôm đó thì tuyệt quá. Đệ vốn rất ghét bọn Tàu. Không ngờ chúng dám lẻn sang cướp bảo đao của nước ta. Hà, gặp đệ thì đệ sẽ phanh thây chúng ra mới hả dạ.

- Phong huynh đừng lo mất phần. Bọn chúng thất bại lần này nhưng chưa bỏ cuộc đâu. Trước khi bỏ chạy chúng còn hẹn ngày quay lại nữa đấy. Chừng đó nếu Phong huynh không bận bịu việc quan thì có thể giúp bọn này một tay, tha hồ mà phanh thây chúng.

- Thế à? Được được! Huynh nhớ cho đệ biết tin với nhé. Đệ dù bỏ mạng cũng sẽ giúp các huynh một tay. Những con người hiệp sĩ ấy nếu không làm quen được với họ thì thật là uổng cho kiếp sống này.

- Ngày mai họ sẽ ghé lại trại ngựa của tôi. Phong huynh cố gắng thu xếp trở lại nhà tôi ngày mai sẽ gặp. Huynh nói đúng, họ thật là những người không thể không làm quen.

Đoàn Phong cười đáp:

- Ngày mai nhất định đệ sẽ đến cùng với Dục thúc thúc.

Đoàn người cuối cùng cũng đến đầu con suối có vàng. Võ Trụ nói với mọi người:

- Hôm đó tôi vì đuổi theo con Huyết câu này mà lạc đến đây và phát hiện ra vàng ở dưới dòng suối này.

Tôn Thất Dục quan sát xung quanh rồi nói:

- Căn cứ vào mức độ đào xới thì Võ huynh cũng chưa khai thác được bao nhiêu. Bây giờ, nhờ hai chàng thanh niên đào thử rồi đãi vài sàng xem sao?

Chí Hiếu và sư đệ nghe nói liền theo cách khai thác hôm trước đào đất bỏ vào sàng rồi mang đến đãi trên dòng suối, xong trình lên cho mọi người. Tính trung bình cứ năm sàng đãi ra thì có thể thu được một số mảnh vàng nhỏ chừng năm bảy chỉ. Phạm Hiệp nói:

- Coi bộ trữ lượng vàng ở quanh con suối này lớn hơn nhiều so với những mỏ ở Quảng Nam. Chúng ta có thể tiến hành khai thác được đấy.

Tôn Thất Dục hỏi:

- Kỹ thuật khai thác và quản lý mỏ ra sao ông nắm được cả chứ?

- Dạ! Việc khai thác thượng thư cứ để hạ chức lo. Khâu quản lý sẽ do Ngân Tượng Ti Chính cử cai quan đứng trông coi và kiêm luôn cả công đoạn nấu vàng. Vàng nấu xong cứ mười lượng đúc thành một nén vàng chín tuổi để giao nạp. Bên Nội Kim Tương Tượng Cục sẽ cử quan Nội Lệnh Sử Ti luân phiên đi thu nhận.

- Từ ngày mai, trên phủ của ông Khắc Tuyên cho người xuống khoanh vùng khu vực này lại, canh gác không cho ai lai vãng đến đây. Ông Bùi Thế Phát lo việc thành lập các Đào Sa Kim Hộ, ông Phạm Hiệp kết hợp với phủ và huyện để thành lập khu khai thác mỏ theo quy trình mà các ông vẫn thường làm ở các khu mỏ khác. Nếu cần, ông có thể huy động một số Kim Sa Hộ có kinh nghiệm từ nơi khác đến đây làm việc. Các ông tiến hành càng sớm càng tốt.

Ba người nghe dặn dò đồng thanh đáp:

- Chúng tôi sẽ cho thực hiện chỉ thị của ngài Khâm sai ngay khi trở về.

***

Sáng sớm hôm sau Tôn Thất Dục cùng Đoàn Phong trở lại trang trại ngựa. Võ Trụ vui mừng đón khách, mời vào nhà. Tôn Thất Dục nói:

- Nhờ Võ huynh báo với thiền sư, tôi muốn đích thân trao tấm thủ chương của Võ vương đến tận tay người có được chăng?

Võ Trụ vui vẻ đáp:

- Hôm qua tôi có thưa cùng sư phụ rồi, người dặn khi nào quan khâm sai đến thì báo cho người hay để người xuống núi đón tiếp.

Tôn Thất Dục xua tay:

- Xin đừng! Võ huynh cứ đưa tôi đến nơi gặp thiền sư là được rồi, không nên phiền người phải xuống đây.

- Nếu vậy thì xin khâm sai theo tôi. Mời cả Phong huynh nữa, sư phụ cũng muốn gặp huynh đấy.

Đoàn Phong tươi cười:

- Thật là vinh dự cho tôi. Tôi cũng hằng mong được gặp con người tài hoa xuất chúng năm xưa.

Võ Trụ ngạc nhiên hỏi:

- Phong huynh cũng đã biết qua cuộc đời lúc xưa của sư phụ tôi à?

- Dục thúc đã có dịp đàm đạo với Vô Danh thiền sư. Hơn nữa ở chốn kinh sư cũng có rất nhiều người biết Vô Danh thiền sư chính là Ngũ Tuyệt thư sinh vang danh thiên hạ năm xưa.

- À, ra là thế. Vậy chúng ta đi.

Nơi tĩnh tu của Vô Danh thiền sư là một cái am nhỏ được cất bên cạnh một con suối. Quanh am là một vùng đất rộng lớn trồng nhiều loại dược thảo, phía sau am có một gian nhà tranh dùng làm nơi chế thuốc. Thuốc chế được, ông sai Võ Trụ đem giúp cho dân chúng, những người bệnh quanh vùng. Lúc cả ba lên đến nơi, thiền sư đang ở trong gian nhà chế thuốc phía sau. Võ Trụ đưa Tôn Thất Dục và Đoàn Phong vào gặp sư phụ. Thiền sư thấy Tôn Thất Dục đến liền mỉm cười nói:

- Đúng là hữu duyên thì sẽ được hội ngộ. Bần tăng và thí chủ hẳn có mối duyên sâu nên vừa chia tay đã được gặp lại. Còn vị thí chủ này là...

Võ Trụ tiếp lời thầy:

- Đây là Đoàn Phong huynh, người bạn đệ tử mới quen và cũng là tả hộ vệ của quan Hình bộ thượng thư.

Tôn Thất Dục chắp tay:

- Đời kẻ hèn có lẽ được gặp thiền sư là phước duyên lớn nhất. Kẻ hèn cũng theo đòi cầm kỳ thi họa nhưng vì tư chất ngu muội nên cầu xin thiền sư chỉ điểm thêm cho để có thể thấy được cái tinh hoa của nghệ thuật và khỏi hổ thẹn khi luận bàn với bạn bè.

Đoàn Phong cũng chắp tay thưa:

- Đệ tử Đoàn Phong xin thỉnh an thiền sư.

Vô Danh thiền sư mỉm cười:

- Tôn Thất Dục thí chủ danh dậy đất kinh sư sao còn nói chi lời khiêm tốn như thế? Vị hiệp sĩ này dáng vẻ phi phàm, hẳn là nhân tài hiếm có trong lớp trẻ ngày nay. Thiền phòng chật hẹp, chúng ta ngồi nơi đây đàm đạo có được chăng? Trụ nhi, con đi pha trà mời hai vị quan nhân.

Võ Trụ vâng dạ rồi đi ra sau bếp pha trà. Đoàn Phong vội theo chân Võ Trụ.

Tôn Thất Dục chắp tay xá:

- Nơi đất Phật chốn nào cũng tôn nghiêm cả, kẻ hạ nhân xin phép được ngồi đây hầu chuyện cùng thiền sư.

Họ ngồi vào chiếc bàn ở giữa căn nhà bào chế thuốc. Sau đó, Tôn Thất Dục đứng dậy lấy trong túi áo ra một phong bì vàng dán kín có dấu ấn của Võ vương niêm phong bên ngoài trao cho Vô Danh thiền sư.

- Đây là thủ bút của vương thượng gởi cho thiền sư, xin ngài nhận cho.

Vô Danh thiền sư vội vàng đứng lên cung kính nhận bức thư:

- Vương thượng vạn tuế! Tôi có thể đọc ngay ở đây chứ?

- Xin thiền sư tự nhiên.

Bức thư như sau:

Quả nhân thật có phước duyên nên trong đại điển đăng Vương đã được sự hộ lễ của thiền sư. Chia tay chưa tròn tháng, lòng nhớ chưa nguôi lại nhận được thư của thiền sư mang lại cho Vương triều một mối lợi lớn. Thật là duyên phúc trùng lai. Quả nhân có lời khen tặng đức độ và thiện tâm của thiền sư cùng hiền đồ. Nay Quả nhân phong cho Võ Trụ chức Tổng quản thay mặt Quả nhân và quan Khâm sai trông coi việc khai thác mỏ. Xin chớ chối từ.

Cầu Phật tổ gia hộ cho thiền sư chóng viên thành chánh quả.”

Vô Danh thiền sư đọc xong thư chắp tay kính cẩn:

- Đa tạ vương thượng! Cầu Phật tổ phù hộ cho vương thượng phước như Đông Hải.

Võ Trụ và Đoàn Phong từ dưới bếp bưng trà lên. Họ rót trà ra ly.

- Mời thầy và ngài khâm sai dùng trà.

Vô Danh thiền sư trao bức thư cho Võ Trụ bảo:

- Con đọc lá thư này đi.

Võ Trụ nhận lá thư từ tay sư phụ. Đọc xong ông cung kính nói:

- Tạ ơn vương thượng! Cầu vương thượng phước như Đông Hải.

Tôn Thất Dục nói:

- Xin chúc mừng Võ Trụ huynh. Giờ mọi việc khai thác vàng ở đây đều do huynh trông coi vậy. Hai chúng tôi chỉ ở đây một thời gian, đến khi mọi việc đã vào khuôn phép sẽ trở lại kinh sư. Võ huynh phối hợp với phủ huyện để điều hành.

Võ Trụ nói:

- Lệnh trên đã ban, Võ Trụ xin hết lòng làm việc.

Lúc ấy bỗng thấy Chí Hiếu từ dưới trại chạy lên thưa:

- Đệ tử xin tham kiến sư tổ. Thưa thầy, dưới trại có ba vị hiệp sĩ từ xa đến thăm thầy. Con đã mời họ chờ ở phòng khách.

Võ Trụ nghe nói cả mừng, vội thưa với Vô Danh thiền sư:

- Đó là ba người bạn con mới quen trong chuyến đi Phú Xuân vừa rồi. Con xin phép thầy cùng ngài Khâm sai để xuống đón họ.

Vô Danh thiền sư gật đầu:

- Con cứ đi đi.

Võ Trụ kéo tay Đoàn Phong xuống núi. Vừa bước vào phòng khách Võ Trụ đã vui mừng reo lên:

- Thật là vinh hạnh cho trang trại nhỏ xó núi này trong một lúc được tiếp đón ba vị hiệp sĩ đại danh lẫy lừng khắp cõi.

Trần Đại Bằng đứng dậy chào rồi nói:

- Ông bạn đừng có tâng bốc người mà tự hạ mình xuống như thế. Bốn biển là nhà, ông bạn nếu không chê thì cho anh em tôi coi như đây là nhà mình có được không?

Võ Trụ vui vẻ:

- Được, được, tất nhiên là được chứ!

Nói xong bèn giới thiệu mọi người với nhau. Đoàn Phong lên tiếng:

- Phong tôi từng nghe tiếng tăm của Phong Điền Tam Hữu và Đinh huynh nghĩa khí ngút trời mây, lòng vẫn luôn ao ước có ngày hội ngộ, không ngờ hôm nay gặp được ở đây thật là may mắn biết bao.

Ba người thấy Đoàn Phong nghi biểu khác phàm, như rồng như phượng trong loài người thì trong lòng nảy sinh ngay thiện cảm. Đinh Hồng Liệt cười ha hả nói:

- Khách sáo rồi. Thôi bỏ qua hết những lề thói hủ nho ấy đi. Xin Võ huynh một hồ rượu để chúng ta uống mừng ngày gặp mặt có được không?

Trần Kim Hùng vỗ tay tán thưởng:

- Đúng lắm! Một chung rượu bằng ba lời nói. Ngàn chung thì càng hay hơn nữa vì không cần nói lời nào cả.

Võ Trụ cười lớn:

- Ngàn chung thì không có đủ bây giờ nhưng vài vò thì có ngay. Quí vị hàn huyên đi, tôi trở lại ngay.

Đoàn Phong lên tiếng:

- Hôm qua tôi được nghe Võ huynh kể lại chuyện các vị đánh bọn cướp Tàu bảo vệ cây Ô Long đao mà lòng tiếc nuối vô cùng, chỉ ước sao có được sự may mắn tham gia trong trận chiến đó thì sảng khoái dường nào.

Đại Bằng nói:

- Nếu Phong huynh có lòng tương trợ thì vẫn còn dịp đấy. Chắc chắn chúng sẽ trở lại nhưng chưa biết khi nào. Đáng tiếc chúng tôi chưa dò ra được tung tích bọn chúng để nghĩ ra cách đối phó hữu hiệu hơn.

Đoàn Phong nói:

- Điều phải quan tâm và giải quyết trước tiên là sự an nguy của Trần gia. Họ là dòng dõi anh kiệt của nước nhà, không thể để xảy ra chuyện đáng tiếc.

Đại Bằng tán thành:

- Phong huynh nói đúng. Cho nên anh em tôi tạm thời ở lại Trần gia để bảo vệ họ. Tôi cũng đang tìm cách nhắn tin cho tam đệ của tôi vào, xem hắn có kế hoạch gì hay để đối phó với tình hình này không?

- Tam đệ của huynh có phải là Trại Ức Trai[1] Trương Văn Hiến không?

Đại Bằng gật đầu:

- Chính là hắn!

- Tôi có nghe qua, Trương Văn Hiến huynh bụng chứa kinh luân, tài kiêm văn võ, lại túc trí đa mưu. Khâm phục đã lâu.

Võ Trụ trở lại phòng khách cùng năm người đệ tử. Họ bưng vào ba hũ rượu lớn, vài chiếc bát bằng sứ Gò Sành cùng mấy đĩa thức ăn còn bốc khói. Võ Trụ nói:

- Mời tất cả, chúng ta nâng ly uống mừng ngày hội ngộ.

Thanh khí tương đồng, cuộc rượu thật là tương đắc. Trần Đại Bằng lên tiếng hỏi:

- Nghe giọng nói của Phong huynh dường như là người Đàng Ngoài có đúng vậy chăng?

Đoàn Phong gật đầu:

- Vâng. Lúc trước tôi giúp hoàng thúc Lê Duy Mật nổi loạn nhằm giết tên bạo chúa Trịnh Giang nhưng thất bại vì có kẻ bán đứng. Nhạc phụ tôi vốn là chỗ tâm giao với Tôn Thất Dục thúc thúc nên vợ chồng tôi trốn vào Nam nương nhờ người đã được năm năm rồi.

Đại Bằng thở dài:

- Cuộc nổi loạn của Lê Duy Mật lúc ấy đã gây chấn động đến tận Đàng Trong này. Tiếc rằng nhà Lê dựng nghiệp đã hơn ba trăm năm, nay đã đến lúc suy vong nên mới khiến cho chúa Trịnh lộng hành tác quái. Phong huynh đệ vì dân trừ bạo thật đáng khâm phục. Có điều vạn vật đều có lúc thịnh lúc suy, lúc sinh lúc diệt, cho nên việc phục hưng nhà Lê e nan giải vô cùng.

- Bằng huynh nói đúng, tuy vậy, nhìn cảnh Trịnh Giang lộng hành, khắp nơi loạn lạc, bá tánh lầm than khiến kẻ có lòng ai ai cũng nghiến răng căm giận. Phong tôi tuy vô dụng và biết việc khó thành nhưng cũng không thể nhắm mắt làm ngơ.

Kim Hùng nâng bát rượu đang cầm trên tay nói:

- Đó mới là phong độ của người hiệp sĩ chân chính. Kim Hùng tôi xin kính Phong huynh một ly.

Nói xong hai tay đưa bát rượu cho Đoàn Phong. Đoàn Phong nâng bát uống cạn rồi nói:

- Đa tạ Hùng huynh!

Võ Trụ chợt nhớ ra điều gì nên quay sang hỏi Đại Bằng:

- Về việc lập bang Hành Khất và kế hoạch giúp cho Trần gia các bạn tính thế nào?

Đại Bằng đáp:

- Bang Hành Khất là việc lâu dài, tôi sẽ tiến hành từ từ. Còn việc bảo vệ Trần gia mới cấp bách và nan giải. Sau khi Võ huynh rời đi, chúng tôi phát hiện một bức thư hăm dọa, rằng bất kỳ người nào trong Trần gia đi quá khu vực Liên Trì thì sẽ bị giết, được nhét ở cổng.

Đoàn Phong nóng nảy hỏi:

- Chúng có thực hiện lời hăm dọa đó không?

Kim Hùng đỏ mặt giận dữ:

- Bọn chó má đó làm thật! Lúc đầu chúng tôi không tin nên để cho một gia nhân xuống chợ Trà Câu mua sắm và anh ta đã bị chúng chặt cánh tay trái cảnh cáo, bảo về nói với Trần gia rằng kể từ người thứ hai trái lệnh, chúng sẽ giết không tha.

Võ Trụ nghe nói giật mình:

- Có chuyện đó ư? Thật là quá quắt lắm! Bọn chúng dám ra mặt lộng hành đến thế sao?

Hồng Liệt trầm giọng:

- Đó là sự thật. Điều đáng lo là chúng ta hoàn toàn không biết bọn chúng là ai và núp ở xó nào.

Đoàn Phong lại hỏi:

- Sao chúng ta không cho người theo hộ tống bọn gia nhân đi chợ xem chúng có dám ra tay không?

Đại Bằng đáp:

- Có. Sau tôi đã đích thân đi theo hai gia nhân khác xuống chợ Trà Câu và trở về bình an, không thấy có kẻ nào cản trở cả. Nhưng...

- Nhưng thế nào?

Đại Bằng vẻ mặt buồn rầu:

- Có một tên gia nhân vì nhát gan, thấy tình cảnh Trần gia như thế sợ rằng sẽ bị liên lụy nên đã lén bỏ trốn. Sau đó, chúng tôi đã phát hiện xác hắn bên bờ hồ bị chặt đứt cánh tay trái và một kiếm xuyên tâm.

Võ Trụ nghe nói giận run:

- Chúng chặt cánh tay trái của người ở Trần gia là có ý trả thù tôi đã chặt cánh tay trái của tên Tư Đồ Nhị trong Dương Tử Tam Kiếm. Hà! Có lẽ không sớm thì muộn trang trại này cũng sẽ bị bọn chúng ghé thăm.

Đoàn Phong không dằn được tức giận, đập tay xuống bàn nói:

- Bằng mọi giá chúng ta phải giết sạch bọn khốn kiếp này! Tình hình như thế, dự tính của các bạn ra sao?

Đinh Hồng Liệt ủ rũ:

- Tạm thời ba chúng tôi đành phải ở lại Trần gia để bảo vệ họ. Mọi người trong Trần gia cũng không ai được ra ngoài. Cá nhân tôi hằng ngày sẽ đi dò la tin tức khắp nơi xem có tìm ra manh mối gì không. Sợ rằng bọn chúng đã biết mặt tôi nên việc dò thám hơi trở ngại.

Đại Bằng tiếp:

- Chúng tôi ghé vào đây theo lời hứa đến thăm Võ huynh nhân tiện báo tin này để Võ huynh đề phòng. Ngay chiều nay, chúng tôi phải trở lại Trần gia trang đề phòng bọn chúng tấn công bất ngờ.

Võ Trụ nói:

- Đa tạ các bạn. Đáng tiếc tôi đang có chút việc do Võ Vương chỉ định phải làm nếu không tôi nhất định đến đó giúp các bạn một tay.

- Võ huynh có việc thì cứ lo, tôi tin tam đệ sẽ có kế hoạch chu toàn cho việc này.

Đoàn Phong nói ngay:

- Chờ khi Trại Ức Trai vào, chúng tôi sẽ phụ trách việc dò tìm tông tích của bọn chúng.

Rồi quay sang Võ Trụ hỏi:

- Về nhóm người ở địa phương này tiếp tay cho giặc, các anh đã có cao kiến gì chưa?

Võ Trụ đáp:

- Về mặt tiền tài và thế lực ở cả hai phủ Quy Nhơn và Quảng Ngãi thì phải kể đến họ Cao ở đầm Hải Hạc và họ Trần của Hoàng Kim Môn ở Lại Khánh. Họ Cao tuy trong kinh doanh có nhiều mánh khóe nhưng chưa thấy họ làm điều gì mờ ám, phạm pháp. Chỉ có Hoàng Kim Môn của Trần Đại Chí là đáng ngờ. Đại Chí là người có nhiều tham vọng lại thừa ma mãnh để mua chuộc các quan chức địa phương. Hắn một tay nắm trọn nguồn thu mua, cung cấp muối ở hai phủ Quy Nhơn và Quảng Ngãi. Hắn thu mua của dân với giá bóp chẹt và bán ra với giá cắt cổ. Hắn còn độc quyền cả việc khai thác và mua bán gỗ quí. Phần lớn các việc mua bán của hắn đều lậu thuế vì có ăn chia với quan chức địa phương.

Đoàn Phong nghe xong trợn mắt ngạc nhiên:

- Lộng hành đến như thế sao?

- Hoàng Kim Môn ngoài chỗ dựa là thế lực chính quyền, hắn còn có rất nhiều thủ hạ đệ tử, phần đông đều là những tên ác đạo giang hồ. Ngoài ra, chúng còn hành sự rất tàn bạo nên chẳng ai dám ra mặt chống đối. Ở Quy Nhơn và Quảng Ngãi, Trần Đại Chí chẳng khác gì ông trời con.

Đoàn Phong hỏi tiếp:

- Ngoài hai mặt hàng đó, hắn còn kinh doanh gì khác nữa không?

- Những điều tôi biết là do khi còn ở trong thủy đội Đạm Thủy nghe anh em lính thủy họ kháo nhau. Sau này giải ngũ rồi tôi không để ý đến việc thiên hạ nữa nên không rõ lắm.

Đoàn Phong nói:

- Có lẽ chúng ta phải dò la từ đầu mối này.

Võ Trụ gật đầu tán thành:

- Tôi cũng nghĩ như thế.

Ba người nhóm Đại Bằng đứng lên:

- Chúng tôi phải trở về Liên Trì. Ta sẽ liên lạc với nhau sau.

Võ Trụ quay ra sau gọi lớn:

- Chí Hiếu, con ra chuồng ngựa dắt hai con Thiết Đởm và Hồng Câu ra trước sân đi.

Rồi quay lại nói:

- Xin tặng hai bạn hai con ngựa tốt để đi lại cho tiện. Chúng ta giữ liên lạc. Rảnh tay tôi sẽ ghé thăm các bạn.

Ba người họ vừa bước ra sân đã thấy Chí Hiếu và một tên sư đệ dắt hai con ngựa đứng chờ. Hai con ngựa khỏe mạnh hùng dũng, mới nhìn đã biết ngay là những con thiên lý mã. Kim Hùng cười:

- Anh cả, em chọn con Thiết Đởm. Bộ lông đen xám của nó rất hợp ý em. Cảm ơn Võ huynh thật nhiều.

Võ Trụ khẽ cười:

- Không có gì đâu. Bảo kiếm tặng tráng sĩ, chiến mã tặng anh hùng. Chúc các bạn thượng lộ bình an.

Đinh Hồng Liệt nói to:

- Giờ thử xem anh em họ Trần các anh có rượt kịp tôi không nhé? Thôi xin chào! Hẹn gặp lại!

Nói xong chàng tung mình lên con Bạch mã ra roi phóng đi như bay. Kim Hùng cũng phóng lên lưng con Thiết Đởm hét lớn “đi!”. Con ngựa chồm hai vó trước lên hí vang một tiếng rồi phóng đi như tên bắn đuổi theo con Bạch mã. Trần Đại Bằng lên ngựa, cúi đầu chào Võ Trụ và Đoàn Phong lần nữa rồi thúc chân vào bụng con Hồng Câu. Nó cất bốn vó chồm tới trước, đuổi theo hai con ngựa kia. Đoàn Phong nhìn theo bóng họ khuất sau đám bụi mờ, quay sang nói với Võ Trụ:

- Những con người đó quả ung dung tự tại, nghĩa khí ngất trời. Tôi thật hâm mộ.

Võ Trụ chợt thở dài:

- Họ là những anh hùng hiệp sĩ chân chính. Nhưng có điều nghịch lý là, một khi anh hùng xuất hiện cũng là dấu hiệu báo trước của một xã hội loạn lạc. Tôi e rằng sẽ còn nhiều điều phiền phức sắp xảy ra cho đất nước này.

Đoàn Phong đổi cách xưng hô cho thân mật hơn.

- Lời cao luận của Võ huynh thật chí lý. À, lúc sáng mới đến, tôi có gặp Trọng Hào bế một đứa bé trai, là con anh phải không? Anh cho tôi ra mắt chị nhà cho phải phép chứ?

- Thằng cu nhà tôi đó. Đoàn huynh vào trong ngồi chờ tôi một lát.

Nói rồi Võ Trụ trở vào trong, một lúc sau ông quay ra cùng với vợ. Trọng Hào bồng đứa bé trên tay theo sau.

- Đây là vợ tôi.

Rồi ông giới thiệu với vợ:

- Còn đây là Đoàn Phong, người bạn ta mới quen.

Đoàn Phong cúi chào:

- Xin ra mắt chị. Nhìn cháu trai của anh chị tôi thật ước sao mình cũng có được một thằng con như thế. Trông cháu nó kháu khỉnh quá!

Nguyễn thị cúi đầu đáp lễ:

- Xin chào Phong huynh. Nghe nhà tôi khen chị nhà đẹp như hoa và thánh thiện như tiên, tôi thật hâm mộ và mong có ngày được gặp mặt. Anh chị nếu sanh con sẽ là rồng là phượng, sao lại đi ao ước giống chú mọi đen nhà tôi?

Đoàn Phong mỉm cười:

- Anh Võ Trụ thật đã khéo tô vẽ thêm rồi.

Chú nhỏ Võ Văn Doan đang được Trọng Hào bế trên tay bỗng lên tiếng:

- Chào chú Phong. Chú có cây kiếm đẹp quá. Chú cho Doan đi.

Đoàn Phong nghe thằng bé liến thoắng bật cười ha hả:

- Cháu tên Doan hả? Doan còn nhỏ lắm chưa cầm được đâu. Đợi lớn lên chút nữa chú sẽ tặng Doan một thanh kiếm đẹp hơn thế nhé?

Thằng bé reo lên:

- A, chú Phong nhớ đó nhé! Mai mốt Doan lớn lên chú phải cho cháu cây kiếm thật đẹp đó.

Võ Trụ cười:

- Thằng bé này nói tía lia luôn miệng cả ngày. Có lúc Trọng Hào bực quá gọi nó là Lía đấy.

Sau đó, Võ Trụ kéo Đoàn Phong ra phía sau trại ngựa nói:

- Tôi còn mấy con thiên lý mã, tặng anh một con để làm quà. Anh thích con nào cứ chọn mà dùng.

Đoàn Phong mừng rỡ nói:

- Hay quá! Tôi thích con ngựa hồng có đốm trắng trên trán kia.

***​

Trong khi ở trại ngựa dưới núi bọn trẻ tuổi bàn tán việc chém giết nhau thì tại phòng chế thuốc của Vô Danh thiền sư cuộc nói chuyện lại đượm mùi thoát tục. Lúc Võ Trụ và Đoàn Phong đi rồi, Tôn Thất Dục nói:

- Hôm trước ở kinh sư có duyên gặp được thiền sư nhưng không đủ thời gian để xin thụ giáo. Tôi có xem qua hai bức họa tuyệt tác của thiền sư ở chùa Thiên Mụ, nét họa như rồng bay phượng múa, sinh động như có linh hồn. Thật là tuyệt tác mà suốt đời tôi chưa được thấy bao giờ. Ngoài thiên phú về hội hoạ và thư họa, thiền sư còn có bí quyết nào giúp đạt đến tuyệt đỉnh nghệ thuật không, thưa thiền sư?

Vô Danh thiền sư mỉm cười:

- Thí chủ đã quá đề cao bần tăng rồi. Thí chủ cũng là bậc nổi danh chốn kinh sư về cầm kỳ thi họa và cả y bốc nữa, sao còn hỏi đố bần tăng làm gì?

- Tôi vốn có sở thích nghiên cứu về các môn đó nhưng chỉ đủ để cầu vui cho bản thân, chứ về nghệ thuật quả thật không đáng để nói đến hai chữ nổi danh. Việc tôi cầu học là thật lòng vì tình yêu nghệ thuật chứ không có ý hỏi đố thiền sư, xin ngài đừng hiểu lầm.

- Đã thế thì tôi xin hỏi, về thuật viết chữ có nhiều sách của nhiều trường phái khác nhau, thí chủ đã nghiên cứu qua những sách vở của trường phái nào?

- Tôi có nghiên cứu qua “Bút Trận Đồ” của Tiêu Hân và Vương Hữu Quân. “Bút Tủy Luận” của Ngu Thế Nam cũng như “Hoàng Đình Kinh” của Nhạc Nghị Luận...

- Thí chủ thu thập được gì qua những kinh điển ấy?

- Cũng chỉ tìm ra được cách thức cầm bút, phóng bút và lối viết riêng.

Thiền sư đứng lên, bước lại mở một ngăn tủ kê sát vách lấy ra một cuộn giấy, bút và nghiên mực đem bày trên bàn. Ông đích thân mài nghiên pha mực xong rồi nói:

- Thí chủ viết vài chữ cho bần tăng xem.

Tôn Thất Dục đưa tay cầm bút, ngưng thần một lúc rồi viết xuống bốn chữ “Ngũ Tuyệt thư sinh”. Chữ Ngũ được viết theo lối chữ Tiểu Triện đời Hán, chữ Tuyệt với lối viết chân phương của chữ Khải trong “Lan Đình Thiếp” của Vương Hy Chi, chữ Thư theo lối Hành thư của Lưu Bá Thăng và chữ Sinh theo lối phóng túng của Thảo hành. Nét bút có khi rất khuôn phép nhưng có khi lại tinh xảo và linh hoạt. Vô Danh thiền sư nhìn cách cầm bút, phóng bút và nét bút của Tôn Thất Dục gật đầu nói:

- Rất đẹp! Tôn thí chủ đã kết hợp rất khéo léo các thủ thuật của nhiều danh gia Trung Quốc để tạo ra nét bút riêng cho mình. Xét về kỹ thuật, sự tinh vi cũng như mỹ thuật, thí chủ đã đạt đến trình độ của bậc danh gia.Tuy nhiên trong nét bút còn thiếu cái thần. Tâm hồn của người viết chưa hiển lộ trong nét họa.

- Thiền sư nhận xét thật chính xác. Tôi tự biết mình chưa thể hiện được tinh thần của nét họa. Xin được nghe lời chỉ giáo.

- Về cái thần của nghệ thuật tự và họa, chúng ta có thể gom lại trong một câu “Ý tại bút tiên”. Trước khi cầm bút, phóng bút, ý và thần phải được chuẩn bị kỹ. Tâm và ý chưa chuẩn bị kỹ thì chưa thể phóng bút. Bởi vì tinh thần của nét bút nằm ở trong lòng người, cho nên tinh thần của người viết chưa an trú thì không thể truyền xuống tay để toát ra nét bút được. Kỹ thuật là điều cần thiết nhưng khi đã thành thạo rồi xin hãy quên nó đi. Làm được như thế nét bút sẽ không còn kiên cưỡng, gò bó nữa và cái thần trong tâm người viết mới được chảy tự do truyền vào nét họa.

Tôn Thất Dục nghe lời cao luận liền giật mình, ông vội cúi đầu nói:

- Nghe được một lời thâm cao còn hơn tìm học mấy chục năm trời. Thật là một bài học quí giá biết bao. Tôi như vừa nhìn thấy một chân trời mới trong nghệ thuật.

- Tâm của thí chủ thật sáng, vừa nghe đã thấu triệt. Bây giờ thí chủ viết lại bốn chữ này xem sao. Tôi đi pha lại bình trà.

Nói xong, thiền sư quay người ra phía sau đun nước pha trà. Tôn Thất Dục thong thả trải ra bàn tờ giấy mới, phóng bút viết thật nhanh bốn chữ “Ngũ Tuyệt thư sinh” lần nữa. Cũng theo các lối chữ cũ nhưng lần này bàn tay của ông có cảm giác thật nhẹ nhàng linh hoạt, không chút gò bó nắn nót. Bốn chữ mới viết ra, về hình thức chẳng khác gì so với bốn chữ trước nhưng nét chữ sống động như thật. Cái thần của ông đã hiện rõ trong nét chữ. Ông đứng ngắm bức tự họa của mình đến ngẩn ngơ.

Vô Danh thiền sư bưng bình trà trở lại nhìn bức tự họa, buột miệng khen:

- Diệu thủ! Thật là toàn mỹ, không thể hơn thế được nữa.

Tôn Thất Dục giật mình như vừa tỉnh lại sau cơn mê. Bỗng nhiên, ông sụp xuống trước mặt Vô Danh thiền sư lạy một lạy:

- Nửa chữ cũng là thầy,xin nhận một lạy này với tất cả lòng thành kính của tôi.

Vô Danh thiền sư mỉm cười đỡ Tôn Thất Dục đứng lên:

- Đừng hình thức quá. Người nghệ sĩ càng chú trọng đến hình thức chừng nào thì tinh thần nghệ thuật của họ càng bị giảm sút chừng đó. Phải để cho tâm hồn mình thật ung dung thoải mái dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.

- Tôi xin ghi khắc lời của thiền sư vào tâm khảm. Xin cho nghe tiếp về cái vi diệu của âm thanh.

Nói xong, Tôn Thất Dục bưng bình trà rót ra chén mời thiền sư. Thiền sư nhận chén trà hớp chậm rãi vài ngụm:

- Về đại thể, âm thanh có hai loại: thanh hạ và thanh cao. Thanh hạ là do lòng người yên tĩnh, không cạnh tranh mà có được. Đó âm thanh của thiên nhiên, trời đất và của người thời thượng cổ, người ta gọi đó là tĩnh, là hòa. Đời sau, lòng người cấp bách háo sự, thích cạnh tranh cho nên tạo ra thanh cao, đó gọi là động, là bất hòa. Âm thanh quí ở hòa. Thanh có hòa thì mới có thể nhập vào tâm hồn con người và hòa với cái tiểu ngã của bản thân để trở về với đại ngã của vũ trụ. Do đó, thanh hạ là an, là hòa. Thanh cao là nguy, là loạn. Người xưa lấy âm nhạc để suy đoán ra vận nước, bởi vì âm thanh là tiếng lòng của nhân loại, là biểu tượng văn hóa và tâm hồn của một dân tộc. Lòng người động tức nước loạn, lòng người tĩnh nước sẽ an. Đó cũng chính là cái vi diệu của âm thanh. Khi người nghệ sĩ đưa được trạng thái tâm linh của mình vào tiếng đàn, họ sẽ tạo nên tuyệt khúc. Đó là điều vi diệu của âm nhạc. Cho nên nhạc và họa, tuy hình thức thể hiện khác nhau nhưng có cùng một cội nguồn là tiểu ngã và chung một tuyệt đích là đại ngã.

Nghe chỉ điểm, Tôn Thất Dục như người vừa bước ra khỏi làn sương mù, nét mặt ông trở nên rạng rỡ, miệng lẩm bẩm:

- Âm thanh là tiếng lòng của nhân loại, là biểu tượng văn hóa và tâm hồn của một dân tộc. Vậy văn hóa thuần Việt, tâm hồn thuần Việt được biểu hiện dưới dạng âm thanh nào, của nhạc khí nào?

- Tính chất của âm thanh vốn mơ hồ nên sự cảm nhận tùy thuộc vào tâm hồn của từng người. Riêng về nhạc khí thì có thể nói hầu hết các nhạc khí thông dụng trong nước ta không ít thì nhiều đều mang chung những sắc thái, mẫu mã của nhiều dân tộc khác. Thí chủ tâm sáng, trí sáng, lại có lòng với dân tộc sao không tìm ra một nhạc khí tạo nên một âm thanh đặc trưng cho tâm hồn của người Việt ta?

Tâm thần Tôn Thất Dục như vẫn còn trong trạng thái mơ màng nên miệng tiếp tục lẩm bẩm:

- Nhạc khí và âm thanh đặc trưng cho tâm hồn người Việt...

Bỗng ông hỏi nhanh:

- Xin cho một lời nhận định về tâm hồn người Việt ta?

Thiền sư đưa mắt nhìn ra dòng suối thong thả nói:

- Mềm dịu như nước, bao dung như đất, đơn giản, tròn trịa như giếng nước đầu làng nhưng chứa cả trời cao.

- Đó chẳng phải là Đạo sao?

- Phải! Đạo từ Không mà thành Một, từ Một mà thành vũ trụ vạn vật. Tâm hồn Việt như cái Một ấy, vô cùng đơn giản nhưng lại rất bao la.

Nhìn thấy vẻ rạng rỡ trên nét mặt Tôn Thất Dục, thiền sư mỉm miệng cười.

(Về sau Tôn Thất Dục từ quan vui thú tiêu dao. Ông theo lời Vô Danh thiền sư sáng chế ra cây đàn Độc Huyền độc nhất vô nhị của người Việt).


*****
[1] Ức Trai: Tức Nguyễn Trãi - vị quân sư tài ba giúp Lê Lợi chiến thắng nhà Minh lập nên nhà Hậu Lê. Chữ “Trại” ở đây có nghĩa là giống, ý tác giả ví Trương Văn Hiến cũng tài ba như bậc hiền nhân ngày xưa (Nxb).
 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Hồi thứ tư

Hoàng Kim Môn bán buôn hàng quốc cấm
Trại Ức Trai bày kế bắt gian thương.

*​

Lại Dương Giang là con sông huyết mạch của huyện Bồng Sơn. Sông nhận nước từ hai nguồn An Lão và Kim Sơn đưa xuống đồng bằng, chảy qua thủ phủ Lại Khánh ở bờ nam, thị trấn Bồng Sơn ở bờ bắc, rồi như một dải bạc lớn lấp lánh đổ ra biển Đông tại cửa An Dũ. Cửa An Dũ tuy không sầm uất bằng cửa Hội An và cửa Nước Mặn nhưng thuyền bè luôn ra vào tấp nập, mang hàng vào huyện lỵ ở bến Lại Dương gần thị trấn Bồng Sơn và chở những mặt hàng sản xuất tại Bồng Sơn đi khắp nơi trong nước. Trên một cồn cát tại cửa biển, phủ Chúa Nguyễn cho thiết lập một trạm kiểm soát do quan tuần nha canh giữ cửa biển. Trên bờ lại có một trạm thuế do quan đồn thủ đứng đầu, đảm nhiệm việc thu thuế những chuyến tàu chở hàng ra vào huyện.

Đêm hôm đó, một đoàn tàu lớn gồm năm chiếc của một chủ buôn ở Gia Định mang hàng từ miền Nam ra bán và mua hàng đặc sản của Bồng Sơn vào lại Gia Định đang dừng tại trạm thu thuế để làm thủ tục xuất cảng. Viên đồn thủ cửa An Dũ bảo người đại diện đoàn tàu:

- Thuyền chủ cho tôi xem danh sách kê khai tất cả những mặt hàng mà đoàn tàu chở đi trong chuyến này. À, xin lỗi tôi phải xưng hô thế nào?

Người đại diện đoàn tàu tuổi trạc bốn mươi, điệu bộ có chút ngang tàng đáp:

- Tôi là Lại Thừa Ân. Đây là danh sách hàng hóa của chuyến hàng. Đồn thủ mới thuyên chuyển về đây phải không? Tôi gọi ông thế nào?

- Vâng, tôi mới được lệnh thuyên chuyển về đây. Ông cứ gọi Thủ Phong là được rồi.

Thủ Phong nói xong cầm tờ hóa đơn ghi danh mục hàng hóa đọc thật kỹ.

- Ở đây liệt kê toàn là những thứ nông lâm sản bình thường sản xuất ở Bồng Sơn này, không có gì quí giá cả. Có điều tôi là người mới nhận nhiệm vụ nên phải thi hành đúng theo luật pháp của phủ Chúa. Tôi xin phép được xuống thuyền kiểm tra qua hàng hóa để tính thuế.

Lại Thừa Ân nghe viên đồn thủ đòi kiểm tra hàng hóa thì thoáng giật mình. Hắn ta vội nói:

- Đồn thủ mới về nên không biết, hãng Diệp Sanh Ký chúng tôi đã buôn bán với địa phương này nhiều năm, hàng hóa kê khai đều đúng sự thật, chưa bao giờ trái phạm cả. Đồn thủ thông cảm bỏ qua việc kiểm tra, chúng tôi là những người biết điều phải quấy mà.

Trong khi nói, hắn nhấn mạnh ba chữ “Diệp Sanh Ký” như thể để thị uy với viên đồn thủ trẻ mới về này, ngay cả mấy từ “biết điều phải quấy” cũng là tiếng lóng của giới thương buôn tỏ ý rằng sẵn sàng đút lót cho quan chức cầm quyền. Thủ Phong nói với vẻ mặt tỉnh bơ:

- Tôi có nghe nói đến việc buôn bán lớn của Diệp Sanh Ký các ông với địa phương này, tôi còn có cả hàng chục cái hóa đơn thuế và danh mục hàng hóa các chuyến buôn trước đây của các ông nữa kìa, nhưng ông cũng nên biết luật pháp là luật pháp. Ông đưa tôi xuống thuyền kiểm tra đi.

Thấy nét mặt thản nhiên và cương quyết của viên đồn thủ trẻ, Thừa Ân toan nổi nóng nhưng kịp dằn lại bằng thái độ nhỏ nhẹ:

- Chúng tôi không khai gian đâu. Chúng tôi xin nộp tiền thuế cho chuyến hàng ngay bây giờ để xuất bến cho kịp con nước xuống. Mong đồn thủ thông cảm cho.

Hắn lấy từ trong túi ra hai túi tiền trao cho Thủ Phong:

- Đây là khoản tiền nộp thuế. Còn cái này là món quà làm quen của chúng tôi với ngài đồn thủ.

Đồn thủ Phong lắc đầu:

- Tôi đã nói khi chưa kiểm tra hàng hóa thì tôi không thể thu tiền thuế. Biết bao nhiêu mà thu? Còn món quà làm quen kia ông cất đi. Tôi làm việc cho phủ Chúa đã có bổng lộc của triều đình rồi. Tôi không quen nhận quà cáp. Đi!

Nói xong, chàng đứng lên bước ra khỏi phòng thuế và bảo bốn tên lính đang có mặt bên phòng đợi:

- Các anh theo tôi xuống kiểm tra các thuyền này!

Lại Thừa Ân thấy thế bèn chạy nhanh theo kéo tay áo của Thủ Phong:

- Đồn thủ thông cảm, tôi đã nói là chúng tôi cần phải xuất bến ngay cho kịp. Chúng ta ngồi lại nói chuyện phải quấy với nhau có được không?

Hắn dúi nhanh vào tay viên đồn thủ một túi vàng nhỏ. Chiếc túi khá nặng. Thủ Phong vẫn vờ như không, ra hiệu cho bọn lính xuống thuyền. Thừa Ân biết đã hết cách, hắn nhảy tới phía trước đứng chặn ngang lối xuống thuyền:

- Khoan đã! Diệp Sanh Ký từ lâu ra vào buôn bán ở đây chưa bao giờ bị khám xét cả! Đồn thủ muốn xét gì thì hãy đợi chúng tôi mời quan trên huyện xuống đây rồi mới được lên thuyền.

Thủ Phong mỉm cười:

- Diệp Sanh Ký các ông là ai mà không cho người thừa hành của triều đình xuống thuyền khám xét? Các ông cứ đi gọi quan huyện đến đây đi, còn việc khám xét là việc của trạm thuế, chúng tôi vẫn phải tiến hành. Mời ông tránh sang bên cho.

Đồn thủ Phong bước thẳng tới, đưa tay gạt Lại Thừa Ân sang một bên. Thừa Ân lúc này đã không còn nhịn được nữa, bản tính ngang ngược, kẻ cả của hắn nổi lên. Thấy thủ Phong đưa tay ra gạt, hắn chụp nhanh cánh tay chàng định bẻ quặt ra sau có ý trừng trị cho tên đồn thủ ngốc nghếch này một trận. Nhưng đòn của hắn chưa đến nơi thì thủ Phong đã vội thu tay về rồi nhanh chóng đổi thành thế Cầm nã chộp lại cánh tay hắn. Thừa Ân giật mình, hạ vội cánh tay xuống dưới để thoát khỏi cú chộp của thủ Phong. Sau đó, hắn lật ngang sống bàn tay, phạt ngang vào bụng chàng đồng thời tay trái điểm vào huyệt khúc trì ở khuỷu tay của chàng. Thủ Phong miệng vẫn điểm nụ cười, cong người hóp bụng vào để né cú phạt ngang của Thừa Ân, cùng lúc đó tay phải xoay nhanh thành một vòng tròn tránh khỏi đòn điểm huyệt, đồng thời, chém mạnh tay xuống huyệt kiên tỉnh trên vai phải của Thừa Ân. Động tác né tránh và lối ra đòn vừa thần tốc vừa đẹp mắt của thủ Phong khiến cho Thừa Ân không sao tránh kịp. Trúng cú chặt đó khiến cả cánh tay của Thừa Ân bị tê liệt, buông xuống xụi lơ. Hắn vô cùng kinh ngạc trước lối xuất thủ nhanh như sấm chớp của viên đồn thủ trẻ tuổi này. Từ khi học võ đến nay, lênh đênh sóng nước đó đây, từng trải rất nhiều trận đánh nhưng trước giờ hắn chưa lần nếm mùi thất bại. Và hắn không thể nào tin được có ngày lại có người đánh bại hắn một cách dễ dàng như vậy, mà người đó lại chỉ là một tên đồn thủ trẻ mặt còn búng ra sữa. Hắn đứng lặng im há hốc mồm. Thủ Phong miệng vẫn điểm nụ cười, nét mặt thản nhiên như không tiếp tục dẫn lính xuống thuyền khám xét.

Biết mình không phải là đối thủ của viên đồn thủ, Thừa Ân vội ra lệnh cho một tên thủ hạ:

- Ngươi đến Hoàng Kim Môn báo cho lão Trần Đại Chí ngay! Bảo hắn mau thu xếp cho ổn. Đi nhanh lên!

Sau khi lật tung tất cả hàng hóa trên năm chiếc thuyền, đồn thủ Phong liền cho niêm phong lại rồi ra lệnh kéo thuyền vào trong một cái đầm thiên nhiên được tạo bởi những cồn cát giữa cửa biển. Xong đâu đấy, chàng giao cho viên Tuần nha canh giữ, sau đó mời Lại Thừa Ân vào phòng làm việc. Chàng nói:

- Qua kiểm tra hiện vật, như ông đã thấy, Diệp Sanh Ký của các ông đã phạm tội khai man thuế lại cả gan buôn bán hàng quốc cấm. Ở đây, ngoài một số gỗ quí như giáng hương, trắc, cẩm lai mà các ông buôn lậu còn có rất nhiều gỗ giá tỵ dùng làm báng súng. Loại gỗ này rất hiếm, nó là hàng đặc sản của phủ Chúa dùng để trao đổi mậu dịch với các nước Tây phương. Các ông chẳng những khai thác lậu mà còn dám trốn cả thuế. Tội này nặng lắm đấy. Chưa kể còn có cả năm cặp ngà voi lớn và cả tạ trầm hương nữa.

Lại Thừa Ân ngồi nghe viên đồn thủ kê ra những tội lớn mà mặt hắn vẫn tỉnh bơ, lại còn tỏ vẻ khinh khỉnh xem thường. Thủ Phong nhìn thấy vẻ mặt đó tức giận mắng thầm: “Bọn ngươi chắc là ỷ vào thế lực quan địa phương ở đây nên tỏ ra xem thường tên Đồn thủ nhỏ bé này chứ gì? Ta mà không cho bọn ngươi vào tù thì ta không phải là Đoàn Phong! Đợi đấy!”. Lòng nghĩ vậy nhưng chàng vẫn giữ nét mặt thản nhiên nói tiếp:

- Tôi còn giữ đây mười cái hóa đơn thuế từ những chuyến buôn trước kia của Diệp Sanh Ký, cứ như tình hình chuyến này thì mười chuyến trước chắc là các ông cũng vi phạm y như thế. Hà, lần này Diệp Sanh Ký các ông phải đóng đủ tiền thuế cho mười một chuyến, cộng thêm tiền phạt. Đó là về hàng hóa, còn về nhân sự thì tạm thời tôi phải giữ các ông lại chờ quan trên xét xử.

Thừa Ân nghe nói đến việc giam giữ người thì giật thót mình la lớn:

- Ông nói sao? Ông định bắt giữ chúng tôi à?

Đoàn Phong đáp, giọng chắc nịch:

- Đúng, chiếu theo luật thuế hiện hành, hàng hóa khai man đều bị tịch thu, cho nên số gỗ, ngà voi và trầm hương này sẽ bị thu hồi để sung vào công quĩ. Và theo hình luật của Hình bộ, những kẻ phạm pháp như các ông ít nhất cũng phải đeo gông một năm.

Khuôn mặt Thừa Ân đỏ tía lên vì giận, hắn gân cổ cãi:

- Ta làm gì mà đeo gông một năm? Bất quá ta nộp đủ tiền thuế theo đơn thuế hiện hành cho ngươi là cùng chứ gì!

Đoàn Phong điềm nhiên:

- Trên thực tế nếu thu đủ thuế thì các ông phải nộp thuế cho chuyến hàng này là 1.800 quan. Vậy mà các ông khai gian trên giấy tờ để chỉ nộp 500 quan thôi. Chà! Các ông mua bán kiểu này hẳn là giàu có lớn rồi phải không? Hàng này là do Hoàng Kim Môn cung cấp cho các ông phải không?

Thừa Ân gắt giọng:

- Ở cái xứ này còn ai có thể cung cấp nổi hàng cho Diệp Sanh Ký chứ? Ngươi biết rồi còn hỏi làm gì?

Đoàn Phong vẫn từ tốn:

- Hắn là chủ mưu cung cấp hàng lậu. Nếu các ông đeo gông một năm thì hắn phải đeo lâu gấp đôi.

Lại Thừa Ân tức đến lộn ruột nhưng chẳng biết làm thế nào. Hắn rủa thầm: “Tổ bà thằng nhóc con ngu ngốc này, rồi mày xem tụi ông ngồi tù hay mày về nhà cắm câu cho biết!”

***​

Cũng trong buổi sáng sớm ngày hôm đó, một đoàn thuyền buôn năm chiếc đang đậu tại cửa sông Đại Cổ Lũy ở Quảng Ngãi để làm thủ tục xuất bến. Viên đồn thủ cửa biển chăm chú đọc tờ hóa đơn kê khai hàng hóa trên năm chiếc tàu rồi ngẩng mặt lên hỏi người đại diện đoàn tàu buôn:

- Trong hóa đơn liệt kê toàn là hàng nông lâm sản, không có gì nặng lắm mà sao tôi thấy những chiếc thuyền của các ông khẳm sâu quá vậy? Còn hàng gì khác trên đó nữa không? Vàng chẳng hạn? Chỉ có vàng mới làm cho tàu khẳm sâu đến như thế. À, tôi gọi ông thế nào?

Người đại diện đoàn tàu cười nói:

- Tôi là Đồng Bách. Ngài đồn thủ khéo nói đùa quá. Chúng tôi ước gì có vàng để chở cho khẳm thuyền. Chẳng có gì khác trên thuyền ngoài số hàng đã kê khai đâu ạ. Thuyền khẳm có lẽ là do số đường phèn đó mà. Đường phèn Quảng Ngãi quả nhiên tốt thật, người dân Gia Định rất chuộng đường ở đây mang vào. Diệp Sanh Ký chúng tôi lâu nay làm ăn uy tín, không dám làm bậy đâu mà. Ngài đồn thủ mới thuyên chuyển về đây à? Xin lỗi chúng tôi phải gọi ông thế nào?

Viên đồn thủ đáp:

- Đồn thủ Hiến, hay thủ Hiến cũng được.

Đồng Bách cười vui vẻ:

- Hân hạnh được biết ngài. À, chúng tôi có món quà gọi là làm quen với vị tân đồn thủ. Xin đồn thủ nhận cho, gọi là chút đỉnh lấy thảo ấy mà.

Vừa nói hắn vừa lấy ra một túi bạc khá nặng để lên bàn rồi đẩy về phía viên đồn thủ, giọng xã giao:

- Ngài đồn thủ còn trẻ, tướng mạo lại nho nhã, sáng sủa thông minh, sao không ra tranh chiếm bảng vàng mà lại về chi cái xứ hẻo lánh này cho cực thân vậy? Còn đây là tiền đóng thuế cho chuyến hàng.

Hắn lấy thêm một túi bạc nữa đặt trên bàn. Thủ Hiến đẩy hai túi bạc trả lại cho Đồng Bách.

- Ở đời học tài thi phận mà. Thi rớt mãi cũng phải chui đi kiếm việc gì đó để nuôi thân chớ. Gởi lại ông cái này. Tôi một thân một mình, làm việc đã có bổng lộc của triều đình. Chuyện quà cáp tôi không quen. Còn tiền thuế đợi tôi kiểm tra hàng xong đã.

Đồng Bách cười cầu tài:

- Trước không quen, sau sẽ quen. Có gì đâu, chỉ là chút đỉnh cho dễ nói chuyện thôi mà.

Thủ Hiến vừa đứng lên vừa nói:

- Ông cất đi. Bây giờ tôi phải kiểm tra số hàng trên thuyền của ông để làm thủ tục thu thuế.

Nói xong chàng cầm sổ sách bước ra cửa. Đồng Bách hoảng kinh chạy lại nắm cổ tay viên đồn thủ trẻ:

- Khoan đã! Từ từ nói chuyện rồi mọi việc sẽ đâu vào đó mà. Diệp Sanh Ký chúng tôi buôn bán lâu nay với địa phương này chưa bao giờ để xảy ra rắc rối đến độ phải phiền đến đồn thủ khám xét cả. Ngồi lại nói chuyện phải quấy với nhau có phải là hay hơn không?

Đồng Bách kéo thủ Hiến lại, bàn tay hắn cứng như sắt nguội, tay kia hắn móc ra một túi tiền lớn hơn dúi vào tay chàng. Thủ Hiến giả vờ ngạc nhiên hỏi lớn:

- Này! Ông làm cái trò gì vậy? Tôi đã nói là tôi không quen nhận quà cáp gì ráo trọi. Ông buông tay tôi ra, tôi phải thi hành nhiệm vụ.

Dứt lời, chàng xoay tay dùng thế Cửu Chuyển Đơn Thần hất mạnh. Cả cánh tay của chàng mềm như bông gòn, trơn tuột như lươn vụt ra khỏi bàn tay sắt nguội của Đồng Bách một cách dễ dàng. Trước sự kinh ngạc của hắn, thủ Hiến ung dung bước ra cửa nói với mấy tên lính đang túc trực:

- Chúng ta xuống khám thuyền đi!

Đồng Bách vội chạy theo rào trước mặt họ, đưa tay cản đường:

- Khoan đã! Các ông muốn xét thì mời thượng cấp của các ông đến đây mà xét. Thuyền của Diệp Sanh Ký đâu phải hạng thường mà để bọn lính các ông xông lên vô cớ.

Thủ Hiến cười lớn:

- Diệp Sanh Ký các ông là ai mà không để cho bọn lính chúng tôi lên xét? Ông muốn mời thượng cấp nào thì mời đến đây đi! Chúng tôi phải thi hành nhiệm vụ của mình. Ông tránh ra cho.

Đồng Bách đứng nguyên tại chỗ gằn giọng:

- Tôi đã nói các ông hãy đợi thượng cấp của các ông đến đây rồi mới được quyền xét. Ông nghe chưa?

Thủ Hiến nạt lớn:

- Ông dám ngăn cản người phủ Chúa thi hành nhiệm vụ ư?

Chàng đưa tay đẩy Đồng Bách sang bên. Cú đẩy trông rất nhẹ nhàng nhưng đã khiến cho thân hình hộ pháp của Đồng Bách phải lui lại hai bước. Hắn thất kinh vội vàng trụ bộ đứng vững lại. Sau đó, hắn vừa xỉa thẳng ngón trỏ của mình vào mặt Thủ Hiến vừa quát:

- Ngươi đúng là trẻ người non dạ, chẳng biết điều tí nào. Ngươi dám động đến ta à?

Khi bàn tay của hắn đưa đến gần mặt thủ Hiến liền biến đòn thành cái tát thật nhanh vào mặt chàng. Hắn đinh ninh với cú đánh thần tốc này chắc chắn địch thủ phải trúng đòn. Hắn định dạy cho tên nhóc con trước mặt mình một bài học khôn khi ra đời làm việc. Ngờ đâu hắn xuất thủ đã nhanh mà thủ Hiến còn nhanh hơn. Như đoán biết trước được cách ra đòn của địch thủ, nhanh như chớp bàn tay của chàng chẳng khác nào con rắn uốn mềm quanh bàn tay của Đồng Bách rồi trườn tới. Bỗng nghe một tiếng “bốp!” vang lên. Chưa kịp nhận ra thủ Hiến xuất chiêu thế nào, mặt Đồng Bách đã bị trúng một cái tát nảy lửa. Hắn bật người ra sau loạng choạng mấy bước và cảm thấy vô cùng kinh ngạc vì mình là người ra tay trước mà lại bị đòn. Cú đánh thật ngoài sức tưởng tượng của hắn.

Vốn là tay lão luyện, Đồng Bách vội lướt tới, tay phải ra chiêu Mãnh Hổ Thôi Tâm đấm mạnh vào ngực thủ Hiến một cú như trời giáng. Trước đòn đánh sấm sét đó, chỉ thấy thủ Hiến đưa cánh tay uyển chuyển nương sát vào tay đối thủ rồi gạt ngang. Điều bất ngờ là trông động tác của thủ Hiến rất nhẹ nhàng nhưng cánh tay vũ bão của Đồng Bách lại bị gạt đi rất xa. Tiện đà, thủ Hiến tát thêm một cái nữa vào mặt Đồng Bách. Nhất thời khinh địch, Đồng Bách bị trúng liền hai cú tát nên mặt đã đỏ bừng lên như gấc chín. Hắn vừa kinh hãi vừa hổ thẹn la lớn:

- Miên quyền quả nhiên lợi hại! Khá lắm, đỡ tiếp đây!

Xông người tới trước, chân chuyển tấn Đại mã, song quyền của Đồng Bách sử dụng theo lối Trường kiều đồng thời đánh ra liên tục, tấn công khắp các bộ vị từ bụng lên tới mặt đối phương. Những cú đấm rít gió vù vù mang theo một kình lực khủng khiếp. Thủ Hiển nhìn chiêu thức của Đồng Bách đã nhận ra ngay hắn đang sử dụng quyền pháp của Nam Thiếu Lâm Trung Hoa. Biết hắn đang tức giận đến cực điểm nên mới ra đòn chí mạng như thế, chàng liền thi triển Miên quyền theo nguyên tắc “tứ lạng bát thiên cân” (bốn lạng đẩy ngàn cân), dùng nhu lực mượn sức của đối phương để giải tỏa lực của chính hắn. Tay chàng nhẹ nhàng xoay chuyển, gạt từng cú đấm một của Đồng Bách đồng thời chân bước thoái bộ rồi nhảy thoát ra sau. Tuy đỡ được hết được mấy đường quyền nhưng cánh tay của chàng cũng thấm đòn đau buốt. Chàng bèn nói lớn:

- Kim Cương quyền quả nhiên danh bất hư truyền! Anh bạn là người của Kim Cương Môn ở Giản Phố Châu à?

- Kiến thức khá lắm! Biết ta rồi thì cũng nên biết điều mà làm việc.

- Ta còn chưa ra tay mà. Ngươi chuẩn bị đi.

Đưa xấp giấy tờ cho tên lính, thủ Hiến dịch người tới, bàn tay phải mở rộng dùng cùi tay nhẹ nhàng nhắm vào cằm đối phương đánh tới, đồng thời tay trái xoay vòng vỗ luôn vào hông địch thủ. Đồng Bách biết cú đánh của Thủ Hiến tuy trông nhẹ nhàng nhưng hàm chứa một sức mạnh vô cùng lợi hại nên vội xuất cương quyền ra đỡ. Thủ Hiến di động thân ảnh nhẹ nhàng uyển chuyển quanh người Đồng Bách, hai tay một trầm một bổng, một hư một thực, một tả một hữu tấn công một cách liên hoàn, liên miên bất tận tạo thành một bức màn với hàng trăm bàn tay bao trùm các bộ vị trên người của hắn khiến hắn không biết đâu là cú đánh thật, đâu là ảnh giả của bàn tay. Đồng Bách vội định thần, chân bước theo cửu cung bộ pháp, cương quyền phóng ra vun vút vừa đỡ đòn vừa tấn công mạnh vào những bàn tay của thủ Hiến với dụng tâm dùng sức mạnh cương quyền chấn gãy bàn tay đối phương. Nhưng bàn tay của thủ Hiến như những con rắn tinh khôn uốn lượn theo những cú đấm của địch thủ, vừa gạt đòn vừa tấn công liên tục khiến Đồng Bách dù đã tung ra hằng trăm cú đấm mà không trúng đích được lần nào. Trái lại, vì dùng sức quá nhiều nên sau một lúc giao thủ, trên trán hắn đã lấm tấm những giọt mồ hôi, hơi thở bắt đầu nặng nhọc.

Vốn là người nhiều kinh nghiệm chiến đấu nên biết rằng nếu kéo dài trận đấu thì mình sẽ bị kiệt sức, Đồng Bách quyết định thay đổi cách đánh. Thay vì phòng thủ, hắn chuyển sang thế tấn công. Hắn hét lớn một tiếng, tung mạnh hai cú đấm thôi sơn vào thủ Hiến. Hai bàn tay thủ Hiến vẫn như hai con rắn uyển chuyển quấn theo cánh tay Đồng Bách rồi xô dạt sang ngang, sau đó vỗ nhanh vào ngực đối thủ một cú. Đồng Bách chuyển bộ, chân trái lui về sau một bước né đòn rồi bất thình lình hạ thấp bộ chân thật nhanh, người chồm tới trước, hai tay đánh thốc từ dưới lên hạ bộ địch thủ theo thế Huỳnh long quyển địa. Cú đánh vừa bất ngờ vừa tàn độc đó khiến thủ Hiến vội vàng đảo bộ tháo lui. Chớp lấy thời cơ, Đồng Bách bước nhanh chân trái tới trước, vẫn giữ người ở tư thế hạ bàn, hai tay chập vào nhau đâm thẳng vào hạ bộ địch thủ theo thế Phi tiễn xuyên dương, sau đó biến hai bàn tay thành hổ trảo móc ngược ra hai bên. Đòn đánh hiểm độc vô cùng, nếu trúng phải đòn này, hạ bàn của thủ Hiến sẽ vỡ nát. Nhưng chàng đã kịp tung người vút lên cao, uốn mình vọt thật nhanh ra phía sau lưng địch thủ bằng một thân pháp nhẹ nhàng tuyệt đẹp. Đồng Bách lỡ đà nên phải vội vàng dùng chân phải làm tâm, thọc dài chân trái ra xoay người quét mạnh một vòng vào chân đối phương. Dù dốc toàn lực nhưng hắn vẫn chậm hơn một tích tắc. Thủ Hiến thừa biết hắn sẽ phải dùng đến chiêu thức đó để vừa tấn công vừa bảo vệ sau lưng mình nên khi đáp xuống chàng đã bước xéo liền hai bước. Ngay khi Đồng Bách xoay người thì chàng đã ở ngay sau lưng, đưa tay vỗ thật nhanh vào huyệt tâm du của hắn. Bị vỗ trúng huyệt đạo ở lưng, chân khí trong người Đồng Bách tản mác, hắn khụy người trên hai đầu gối, hơi thở nặng nhọc, hai tay chống xuống đất, đầu cúi gằm trông rất thảm não. Hắn có cảm giác tức tối đến nghẹt thở vì không cam tâm thất bại trước một tên đồn thủ trẻ nít, vóc dáng như một gã thư sinh trói gà không chặt này. Thủ Hiến bước tới đỡ hắn đứng lên:

- Bây giờ ta xuống khám thuyền được chưa?

Đồng Bách xuôi xị:

- Tùy ngươi!

Hắn quay lại dặn nhỏ gì đó với một tên thuộc hạ rồi uể oải bước theo thủ Hiến và mấy người lính xuống thuyền.

***​

Nghe báo tin, Trần Đại Chí hết sức ngạc nhiên, hắn vội vàng cùng hai đệ tử phóng ngựa xuống ngay cửa An Dũ. Hắn xồng xộc bước vào phòng thuế, nhìn thấy Lại Thừa Ân nét mặt hầm hầm đang ngồi trên ghế trước bàn làm việc, đối diện với gã là một thanh niên lạ mặt mà hắn chưa gặp bao giờ. Hắn hỏi Thừa Ân:

- Có chuyện gì vậy?

Thừa Ân hất mặt về phía Đoàn Phong giọng gay gắt:

- Hắn khám thuyền, tịch thu toàn bộ hàng hóa còn đòi bắt giam ta nữa. Ngươi lo mà giải quyết đi.

Đại Chí quay sang Đoàn Phong:

- Xin hỏi anh bạn là ai, tôi chưa được biết?

Đoàn Phong nhìn hắn bằng tia mắt lạnh rồi chậm rãi đáp:

- Tôi là đồn thủ ở đây. Ông là Trần Đại Chí ở Hoàng Kim Môn, người cung cấp hàng cho Diệp Sanh Ký phải không?

Đại Chí trố mắt ngạc nhiên:

- Anh là đồn thủ ở đây à? Còn Lý Tập đâu?

- Hắn được đưa lên phủ nhận việc khác rồi. Tôi thay hắn.

Đại Chí la lớn:

- Không thể nào! Hắn bị thuyên chuyển sao tôi không biết?

Đoàn Phong nheo mắt:

- Ông là ai mà nắm rõ hết tất cả việc của triều đình?

Đại Chí biết mình lỡ lời bèn giả lả:

- À không, chỉ vì tôi với quan huyện nhà là chỗ quen thân lâu năm nên cũng có biết đôi chút về những công việc hành chánh địa phương. Anh mới về nên chưa biết giao tình mật thiết giữa chúng tôi đó thôi.

Đoàn Phong hỏi kháy:

- Vì giao tình mật thiết với quan huyện nên ông mới dám ngang nhiên cung cấp hàng quốc cấm và buôn lậu thuế phải không?

Đại Chí chột dạ đáp:

- Đâu phải thế. Diệp Sanh Ký là khách hàng lớn mang lại nhiều lợi nhuận cho huyện ta nên trong quan hệ trao đổi chúng tôi có hơi nới tay để giữ mối khách vậy mà. Tôi hỏi cái này xin đồn thủ đừng giận, đồn thủ được ai bổ nhiệm về đây thay thế cho Lý Tập?

Đoàn Phong mỉm cười:

- Chắc các ông nghi ngờ tôi là đồn thủ giả phải không?

Đại Chí là người rất khôn ngoan và miệng lưỡi nên làm bộ tươi cười:

- Ồ không! Nhưng ít ra chúng tôi cũng cần phải biết chắc người giam giữ hàng hóa của chúng tôi có đúng là nhân viên thừa hành của phủ Chúa không. Ông nghĩ như thế là hợp tình hợp lý chứ?

Đoàn Phong gật đầu:

- Hợp lý! Có điều ông không có tư cách để hỏi về công việc của tôi.

Đại Chí bắt đầu thấy bực bội về cái tên đồn thủ oắt con từ trên trời rơi xuống này nên giở giọng gay gắt hơn:

- Nếu ông không chứng minh ông là đồn thủ với giấy tờ bổ nhiệm chính thức, chúng tôi sẽ không để ông giam giữ số hàng hóa trên thuyền.

- Như thế nào thì ông mới tin?

- Cho tôi xem giấy bổ nhiệm, hoặc phải được quan huyện Bồng Sơn chính thức xác nhận.

- Ông không có tư cách coi giấy tờ của tôi. Nhưng để cho ông vào tù không bị ấm ức, tôi chờ ông mời người bạn thân của ông là quan huyện Huỳnh Hảo Hớn đến đây xác nhận thân phận của tôi. Ông cho người đi gọi ngay đi.

Nghe giọng nói tỉnh bơ chắc nịch của tên đồn thủ, Trần Đại Chí cũng cảm thấy ngài ngại. Hắn quay sang bảo tên đệ tử:

- Số Ba, ngươi chạy lẹ đi mời quan huyện đến đây. Thưa với ông ấy là ta bận phải tiếp chuyện vị quan nhân này nên không đích thân đi mời được. Đi nhanh lên!

Tên đệ tử Số Ba cất tiếng “dạ” rồi chạy nhanh ra cửa, tung mình lên ngựa phóng đi như bay. Đoàn Phong nhìn Đại Chí nói:

- Ông ngồi xuống đi. Các ông đồng lõa với nhau buôn hàng quốc cấm lại trốn thuế là phạm tội với triều đình. Tôi có trong tay những hóa đơn hàng của mười chuyến buôn trước, cứ tính số tiền trốn thuế chuyến này, nhân lên mười lần, cộng với tiền phạt nữa vị chi là 15.000 quan. Đó là về mặt hàng hóa, còn về nhân sự, cả bên mua lẫn bên bán đều lãnh án tù một năm.

Trần Đại Chí nghe nói giật nảy người bật khỏi ghế:

- Ông nói cái gì? Phạt 15.000 quan và một năm tù à? Ông căn cứ vào đâu mà nói như thế?

Đoàn Phong điềm nhiên:

- Căn cứ vào luật của Hình bộ do phủ Chúa đặt ra.

Đại Chí gân cổ lên cãi:

- Láo! Tôi không tin! Đời nào lại có chuyện ngang tàng như thế? Luật này do ông bịa ra thì có!

Đoàn Phong mỉm cười:

- Ông không tin là việc của ông. Chờ khi ra công đường rồi ông sẽ tin ngay thôi.

Lại Thừa Ân chen vào:

- Diệp Sanh Ký của chúng tôi buôn bán lớn khắp nước Nam này, giao thương với Thiên triều, Nhật Bản và cả những nước phương Tây. Nếu ông nghĩ rằng ông có thể hù dọa được chúng tôi thì tôi khuyên ông nên suy nghĩ kỹ lại. Hãy nhìn lại vị trí của cái ghế ông đang ngồi đó.

Đoàn Phong nheo mắt nhìn hắn:

- Buôn bán lớn nhỏ gì cũng vậy. Phạm pháp tất phải chịu chung một luật. Công pháp bất vị thân, ghế cao ghế thấp gì cũng giở chung một bộ luật của phủ Chúa đặt ra để xét xử mà thôi. Ông biết chứ?

Trần Đại Chí trong bụng nóng như lửa đốt, hắn đứng lên đi qua đi lại trong phòng, mắt hướng ra cửa chỉ mong sao cho quan huyện Bồng Sơn đến nhanh để giải quyết cho xong việc. Hắn đi chán rồi quay lại ngồi xuống ghế.

Bỗng ngoài bến sông có một chiếc thuyền nhỏ cập bến, một người thanh niên non ba mươi tuổi từ dưới thuyền nhảy lên bờ, chạy vội đến trạm thuế. Hắn hỏi mấy người lính canh bên ngoài:

- Ông Trần Đại Chí có ở đây không?

Người lính chỉ vào bên trong đáp:

- Ổng mới đến. Ở trong đó.

Người thanh niên cảm ơn rồi bước nhanh vào trong. Trần Đại Chí nhìn thấy hắn thì ngạc nhiên vội đứng lên đến gần hỏi:

- Mười Hai, sao ngươi vào đây?

Gã thanh niên tên Mười Hai vội vã kéo tay Đại Chí ra bên ngoài trạm nói nhỏ gì đó. Sắc mặt Đại Chí biến đổi liên tục theo từng câu nói của tên Mười Hai. Khi tên nọ dứt lời thì mặt hắn cũng biến sang màu tái mét. Hắn há hốc mồm một lúc rồi chụp vai tên Mười Hai hỏi gấp:

- Tên đồn thủ mới đó tên gì? Hắn có thể đánh ngã cả Kim Cương thủ Đồng Bách à?

Mười Hai gật đầu:

- Hắn tự xưng là thủ Hiến. Mặt non choẹt, dáng ốm yếu như một tên học trò nghèo, vậy mà võ nghệ cao siêu lạ lùng. Hắn đánh lộn mà như múa Chămpa vậy. Đệ tử thật không thể nào tin được.

Trần Đại Chí đi từ sự kinh hoàng này đến ngạc nhiên khác:

- Đó là Miên quyền. Hắn là ai mà giỏi Miên quyền đến bậc ấy? Lại còn cái tên thủ Phong chết tiệt ở đây nữa. Nghe nói hắn hạ Thừa Ân chỉ trong vòng một chiêu. Hai tên này từ đâu đến vậy? Chà! Phen này rắc rối to rồi!

Ở phía xa xa, trên con đường cái từ Lại Khánh xuống cửa An Dũ đã thấy mù mịt bụi bay. Kèm theo đó là tiếng vó ngựa dồn dập. Có một toán kỵ mã năm người đang phi nước đại đến trạm thu thuế. Dẫn đầu là một quan nhân tuổi ngoài bốn mươi, nét mặt có phần dữ tợn với bộ râu đen cứng được tỉa ngắn ngủn, theo sau là tên bộ hạ Số Ba của Trần Đại Chí cùng với ba người đàn ông lực lưỡng nữa. Thoạt nhìn đã biết bọn họ đều là những kẻ giỏi võ nghệ. Cả bọn cùng thúc ngựa phóng nhanh đến trước trạm rồi bất thình lình ghìm mạnh dây cương. Năm con ngựa bị ghìm cương bất ngờ nên cất cao hai vó trước hí vang. Lối thắng ngựa kiểu đó thật đẹp mắt, chẳng những chứng tỏ được người cưỡi ngựa có tài mà những con ngựa cũng thuộc giống tốt. Người đàn ông đi đầu phóng người xuống đất rồi bước nhanh về nhà trạm. Cả bọn nhảy xuống đi theo sau ông ta. Trần Đại Chí thấy ông ta, mặt đổi ngay nét vui mừng. Hắn vội vã chạy đến vồn vã:

- Huỳnh huynh, thật xin lỗi đã phiền anh đến đây. Chuyện lạ quá đỗi, chưa từng xảy ra ở huyện chúng ta, mà cả ở bên cửa Đại Cổ Lũy nữa. Anh vào xem thử thế nào.

Người đàn ông đó chính là quan huyện Bồng Sơn Huỳnh Hảo Hớn. Cái tên và bề ngoài thật khớp, tuy là quan huyện nhưng trông tướng tá thì biết ngay ông ta cũng là người trong giới võ. Vừa nghe Đại Chí nói cả bên cửa Đại Cổ Lũy cũng xảy ra tình trạng giống ở đây, hắn ngạc nhiên vô cùng:

- Cả bên Quảng Ngãi cũng thế à? Lạ thật! Để ta vào coi thử thế nào.

Huỳnh Hảo Hớn bước vội vào trong. Đại Chí và cả bọn hộ vệ cũng vào theo. Nhìn thấy quan huyện hùng hổ đến, Đoàn Phong vội đứng lên chào:

- Hạ chức xin chào ngài tri huyện. Vì mới đến nhận việc nên hạ chức chưa có thời gian đến ra mắt ngài. Mong thứ lỗi.

Huỳnh Hảo Hớn nhìn thấy chàng thanh niên lạ mặt thì có chút bất ngờ. Hắn định giở giọng hách dịch thường ngày với bọn thuộc cấp để hạch hỏi nhưng trông vẻ mặt tự nhiên và phong thái uy nghiêm của tên đồn thủ nên có phần e ngại. Hắn biết trong vụ này chắc có điều chi lắt léo. Làm quan lâu năm, mọi mánh khóe quan trường đều nắm rõ nên hắn tỏ ra dè dặt:

- Anh là đồn thủ mới về à? Anh tên gì? Ai đưa anh về đây sao ngay cả tôi là quan huyện sở tại mà cũng không hay biết gì cả? Anh đưa giấy bổ nhiệm cho tôi xem.

Đoàn Phong nhìn quan huyện rồi quay sang nói với những người khác trong phòng:

- Mời tất cả ra bên ngoài. Tôi có việc cần trao đổi với quan huyện.

Giọng nói của chàng tuy nhỏ nhẹ nhưng có một uy lực khiến người nghe khó có thể phản kháng. Quan huyện cũng ra lệnh:

- Các ngươi ra ngoài hết đi!

Chờ cho mọi người ra hết bên ngoài, Đoàn Phong lễ phép nói:

- Mời quan huyện ngồi.

Huỳnh Hảo Hớn ngồi xuống chiếc ghế trước bàn làm việc. Đoàn Phong ngồi xuống theo. Chàng nói:

- Vì là sự vụ đặc biệt nên hạ chức chưa thể đến ra mắt huyện quan được. Có tấm giấy này, mời huyện quan đọc qua.

Chàng rút trong người ra một phong bì vàng đưa sang cho Huỳnh Hảo Hớn. Ông ta cầm lấy rồi mở ra đọc. Nét mặt quan huyện biến đổi từ từ theo từng con chữ trên giấy, mồ hôi cũng theo đó mà tươm ra đọng trên trán. Cuối cùng ông ta đứng lên nhã nhặn nói:

- Hạ chức xin kính chào ngài đặc nhiệm của khâm sai đại thần. Hôm trước hạ chức được lệnh đòi đã vào ra mắt ngài khâm sai ở phủ Quy Nhơn nhưng không có hân hạnh được biết ngài đặc nhiệm đây. Mọi sự đường đột xin bỏ qua cho.

Đoàn Phong vội đứng lên từ tốn nói:

- Mời quan huyện ngồi xuống. Chúng ta nói chuyện với nhau về vụ buôn bán trái phép này một chút.

Huỳnh Hảo Hớn nghe nói đến vụ buôn bán trái phép thì lo ngại vô cùng. Hắn nhỏ nhẹ:

- Thật ra những vụ khai man chút đỉnh thế này để giảm thuế tuy vẫn có xảy ra nhưng không nhiều lắm. Mong ngài đặc nhiệm thông cảm nới lỏng tay cho họ. Diệp Sanh Ký là mối hàng buôn bán lớn của địa phương ta. Họ đem lại không ít lợi nhuận cho huyện nhà và cho phủ Chúa nữa. Ngài nhẹ tay cho.

- Buôn hàng quốc cấm, lại khai gian thuế đến hơn ngàn quan một chuyến mà quan huyện cho là chút đỉnh à? Những khoảng thiếu hụt này sẽ về đâu? Các ông lấy đâu ra mà nộp thuế cho triều đình?

Huỳnh Hảo Hớn nghe câu hỏi sắc gọn của Đoàn Phong mà tai hắn cứ y như đang bị ai chọc đũa vào vậy. Hắn ngập ngừng:

- Đâu có về đâu. Chỉ là chút sơ sót trong chuyến này mà thôi. Hạ chức sẽ cho kiểm điểm lại cách làm việc của đám thuộc hạ. Vả lại, hàng năm huyện Bồng Sơn vẫn nộp đủ thuế cho triều đình mà.

- Các ông thả lỏng cho con buôn lớn trốn thuế rồi đè đám dân đen sản xuất ra mà bóp cổ họ để lấy thuế bù vào cho đủ số phải không?

Hảo Hớn nghe câu hỏi thẳng thừng thì lo sợ đến phát run. Hắn biện bạch:

- Làm gì có chuyện đó, ngài đặc nhiệm suy xét cho. Chỉ là sơ xuất trong lần này thôi.

Đoàn Phong đưa mười tờ hóa đơn khai thuế của mười chuyến hàng trước kia cho Huỳnh Hảo Hớn coi rồi đánh phủ đầu:

- Tôi có trong tay tất cả các chứng từ cũng như những thư mật báo về việc gian lận thuế ở địa phương này trong hơn ba năm qua. Ngài quan huyện nên khai sự thật đi. Coi chừng cả ngài cũng không tránh khỏi liên quan đó.

Huỳnh Hảo Hớn toát mồ hôi lạnh, hắn nghĩ tổ đặc nhiệm của khâm sai đã xuống đến đây thì ắt họ đã có đủ cả mọi chứng cứ. Hắn run rẩy nói:

- Xin ngài đặc nhiệm nghĩ lại. Tôi chẳng liên can gì đến chuyện này đâu. Tất nhiên làm quan đôi khi cũng có chấm mút chút đỉnh nhưng tôi thật sự không ngờ việc lại lớn đến thế này. Tôi bị họ qua mặt rồi.

- Ít ra ngài quan huyện cũng dám nói một chút sự thật. Thôi được. Hàng hóa man khai theo luật sẽ bị tịch thu sung công quĩ. Về người phạm pháp thì quan khâm sai sẽ cùng quan phủ có quyết định gửi xuống cho huyện Bồng Sơn nay mai. Bây giờ tôi giao hai người chủ mưu là Trần Đại Chí người cung cấp và Lại Thừa Ân kẻ man khai lại cho huyện nhà tạm giữ, chờ ngày ra công đường xét xử. Quan huyện đưa họ về giam lại.

Nói xong Đoàn Phong đứng lên. Huỳnh Hảo Hớn cũng đành đứng lên theo, giọng thiểu não:

- Hạ chức xin tuân lệnh. Mọi điều xin cậy vào ngài đặc nhiệm. Huỳnh Hảo Hớn này sẽ mang ơn suốt đời.

Hắn cúi đầu chào rồi bước ra cửa. Bọn Đại Chí, Thừa Ân trông thấy vội vàng chạy đến hỏi gấp:

- Huỳnh huynh, việc thế nào? Thu xếp ổn cả chứ? Hắn từ đâu rớt xuống vậy?

Bao nhiêu câu hỏi tuôn ra dồn dập nhưng Huỳnh Hảo Hớn đều bỏ ngoài tai. Hắn bước nhanh đến chỗ con ngựa của mình rồi tung người lên, nói lớn:

- Tất cả về huyện nha với tôi! Đi!

Hảo Hớn thúc mạnh vào hông ngựa. Con ngựa hí lên một tiếng rồi phóng nhanh về hướng Lại Khánh. Bọn Đại Chí thấy điệu bộ của quan huyện biết là chuyện chẳng lành nên cũng vội vàng lên ngựa đuổi theo, trong bụng tên nào tên nấy phập phồng không yên. Đoàn Phong đứng ở cửa phòng thuế nhìn theo đám bụi mù mỉm cười.

Từ dưới bến sông, một chiếc thuyền con cũng vừa cập vào bến. Thủ Hiến từ trong thuyền bước ra nhảy lên bờ, theo sau là Đinh Hồng Liệt, cả hai tiến về phía phòng thuế. Họ nhìn nhau mỉm cười. Đoàn Phong gọi một người trong số lính trạm ở phòng kế bên:

- Ngô huynh, mời anh qua đây luôn.

Người được gọi là Ngô huynh bước qua. Anh ta cũng trạc tuổi với bọn họ, mặt vuông râu rậm, tướng mạo đường đường, thân hình rắn chắc. Đoàn Phong giới thiệu:

- Giới thiệu với hai anh, đây là Ngô Mãnh. Ngô huynh cùng tôi là hai hộ vệ của Hình bộ. Còn đây là Trại Ức Trai Trương Văn Hiến và Thần Thâu Đinh Hồng Liệt.

Ngô Mãnh chào hai người:

- Mãnh tôi đã từng nghe danh của Phong Điền Tam Hữu, đặc biệt là Trại Ức Trai. Còn Đinh huynh đây tiếng tăm vang dội Thuận – Quảng, nếu anh trộm của nhà giàu mà không chia cho dân nghèo thì Mãnh này sẽ là người đầu tiên đến bắt anh đấy.

Tiếng nói như chuông, nụ cười sảng khoái, biểu hiện một tâm hồn cương trực, khoáng đạt, không câu nệ tiểu tiết. Hẳn là bậc anh hùng. Thủ Hiến cũng tươi cười đáp lại:

- Phong, Mãnh hai anh là “long chầu hổ phục” của Hình bộ. Khắp kinh sư còn ai không biết tài bắt cướp và phá án của hai anh chứ? Ha ha... Tên trộm đạo này hôm nay lọt vào tròng rồi!

Hồng Liệt cười ha hả:

- Đâu có dễ. Tôi có lỗ mũi thính như chó vậy. Ai có ý muốn bắt tôi là tôi ngửi ra ngay. Không bao giờ để họ có thể tiếp cận gần như vậy đâu. Ha ha...

Bốn người nhìn nhau cười ồ vui vẻ. Thanh khí thật tương đồng. Họ bước vào bên trong chia nhau ngồi quanh bàn. Đoàn Phong hỏi:

- Công việc ở cửa Đại Cổ Lũy thế nào?

Trương Văn Hiến đưa tập hồ sơ cho Đoàn Phong:

- Đúng là bọn chúng liên kết với quan chức địa phương lộng hành quá đỗi. Buôn hàng quốc cấm mà còn khai man trốn thuế. Toàn là những mặt hàng đặc sản quí hiếm của địa phương.

Đoàn Phong đọc qua những mặt hàng ghi trong hồ sơ. Chàng nói:

- Không khác ở đây. Bọn này là một tổ chức lớn chứ không phải vừa. E rằng sự móc ngoặc có thể lên đến tận Phú Xuân chứ không chỉ ở chính quyền địa phương Quy Nhơn và Quảng Ngãi này thôi đâu. Phải nhốt hết đám này lại mới mong bọn đầu sỏ lòi mặt ra.

Trương Văn Hiến tiếp lời:

- Đúng vậy! Chúng ta một mặt đập đám bộ hạ, mặt khác bí mật theo dõi chúng. Tôi nghĩ rằng đêm nay thể nào ở sào huyệt của Hoàng Kim Môn cũng sẽ có cuộc họp. Không chừng có mặt bọn Dương Tử Tam Kiếm ở đó cũng nên.

- Anh nói hợp ý tôi. Đó cũng là lý do tôi cho bọn họ tự do theo tên quan huyện về. Kế hoạch của anh bày ra thật tuyệt, phen này từng tên trong bọn chúng sẽ lần lượt đeo gông vào cổ.

- Cũng nhờ vào lỗ mũi thính của tên trộm này đây. Còn việc buôn muối lậu của chúng đã có bằng chứng gì chưa?

Ngô Mãnh lên tiếng:

- Tôi phải mất năm ngày giả dạng thường dân trà trộn vào các hộ sản xuất muối mới khám phá ra được vài chuyện. Cái kho muối bên Hương Sơn cạnh trại gỗ của Đại Chí chỉ là bộ mặt giả mà thôi. Trong khu rừng gần cửa Hà Ra còn có một kho lớn khác. Đó mới là hàng lậu thuế. Lực lượng phân phối của chúng rất đông lại làm việc rất có tổ chức, chứng tỏ bọn chúng đã làm việc này từ lâu lắm rồi.

Trương Văn Hiến nói:

- Như vậy là chúng ta đã có đầy đủ các bằng chứng. Việc còn lại là của Hình bộ, Phong huynh lo liệu lấy.

Đoàn Phong mỉm cười:

- Vâng. Chúng ta còn cần phải biết xem sắp tới chúng hành động ra sao nữa thì mới dễ bề đối phó.

Đinh Hồng Liệt đề nghị:

- Đêm nay chúng ta vào Hương Sơn dọ thám xem bọn chúng bàn bạc những gì.

Trương Văn Hiến hỏi:

- Ngươi đã nắm rõ tình hình cơ sở của bọn chúng chưa?

Hồng Liệt đáp:

- Hoàng Kim Môn ngoài cơ sở ở thủ phủ Lại Khánh còn có một khu trang viện rất lớn ở núi Hương Sơn, gần nơi chúng khai thác gỗ giáng hương. Tôi tin là bọn chúng sẽ họp ở đó.

Đoàn Phong nói:

- Huỳnh Hảo Hớn là con cáo già. Hắn đã đánh hơi được nên trong cách đối xử hắn đã tỏ ra rất mềm dẻo. Chúng ta cứ mạnh tay xử án, biết đâu từ hắn lại có thể dò ra được cấp trên của chúng là ai.

Văn Hiến nói:

- Hai anh lo chuyện nội bộ triều đình đi, còn đám giang hồ thảo mãng để chúng tôi. Mãnh huynh có cao kiến gì không?

Ngô Mãnh cười:

- Ngồi trước mặt Trại Ức Trai mà bảo tên võ biền thô lỗ như tôi có cao kiến thì quả là trời đất sắp lộn ngược lên rồi.

Cả bọn lại được dịp cười ồ lên với nhau. Đinh Hồng Liệt nói nhanh:

- Tôi phải lên Lại Khánh ngay để xem bọn Huỳnh Hảo Hớn xoay xở thế nào. Chiều tối, tôi sẽ trở lại.

Nói xong anh ta đứng lên đi nhanh ra phía sau nhà trạm, tung người lên con bạch mã phóng vút về phía thành Lại Khánh.


*****


 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Hồi thứ năm

Hoàng Kim Môn tìm trăm phương gỡ tội
Gái giả trai vượt ngàn dặm tìm cha.

*
Con ngựa chồm hai vó trước lên rồi đứng sựng lại trước cửa huyện đường. Huỳnh Hảo Hớn phóng nhanh xuống đất, nét mặt hầm hầm bước thẳng vào căn phòng làm việc dành cho huyện quan, gieo mình nặng nề xuống chiếc ghế gỗ chạm trổ tinh xảo. Trần Đại Chí và Lại Thừa Ân dừng ngựa xong cũng vội vã nhảy xuống theo Hảo Hớn vào bên trong rồi tự động chia nhau ngồi nơi hai chiếc ghế đối diện trước bàn làm việc. Huỳnh Hảo Hớn mặt đỏ gay vì giận, lớn tiếng:

- Các ông dám qua mặt cả tôi! Các ông nói là chỉ mua bán gỗ giáng hương, nay lòi ra cả mấy chục khối gỗ giá tỵ, loại hàng cấm của phủ Chúa. Lại còn buôn lậu trốn thuế cả ngà voi và trầm hương. Các ông nói đi! Những chuyến trước các ông cũng làm như thế phải không? Bây giờ đổ bể ra các ông tính sao đây? Các ông đeo gông vài năm rồi cũng xong, còn tôi e rằng không còn cổ để mà đeo gông như các ông đó, biết chưa?

Trần Đại Chí thấy quan huyện tức giận như vậy thì lo lắng hỏi:

- Việc nghiêm trọng đến mức độ đó sao Huỳnh huynh? Việc gì cũng phải bình tĩnh mà từ từ suy tính. Cái tên thủ Phong đó là ai vậy?

- Bình tĩnh sao được mà bình tĩnh! Hắn ta là thanh tra đặc nhiệm của Hình bộ đưa về. Ngài thượng thư hình bộ đang là khâm sai đại thần ở phủ Quy Nhơn này, các ông làm láo đến mức này tôi làm sao mà giải bày với ngài khâm sai được đây? Tôi tin các ông, các ông lại đem bán đứng tôi.

Lại Thừa Ân lên tiếng:

- Thì chúng ta đành phải tốn một số tiền lo lót, ắt là êm thôi chứ gì. Huỳnh huynh tính thử xem cần bao nhiêu, hai chúng tôi sẽ lo.

Hảo Hớn đập tay xuống bàn xẵng giọng:

- Các ông tưởng ai cũng nhận tiền đút lót của các ông hết sao? Các ông chưa nghe danh thượng thư hình bộ Tôn Thất Dục là người nổi tiếng thanh liêm, chính trực hay sao? Cả cái phủ Chúa từ trên xuống dưới ai cũng ngán cái mặt sắt của ông ta cả đấy. Ta làm sao mà lo lót? Chưa hết đâu, cái tên đồn thủ Phong đó chính là Đoàn Phong, hắn ta cùng Ngô Mãnh nổi tiếng khắp Đàng Trong về võ nghệ cao siêu và tài phá án. Có bọn chúng nhúng tay vào thì khó mà gỡ nổi.

Đại Chí nói:

- Tôi biết Tôn Thất Dục là con rể của ngài ngoại tả Trương Phúc Loan. Quan tân tuần phủ Quy Nhơn Nguyễn Khắc Tuyên là em thúc bá với cai cơ Nguyễn Cửu Thống, cánh tay mặt của quan ngoại tả. Huỳnh huynh tìm cách nhờ đến quan tuần phủ xem sao. Việc này đâu phải là trọng tội, nếu được ngài ngoại tả nói vào một tiếng là xong chứ gì?

Huỳnh Hảo Hớn vẫn chưa hết giận:

- Đâu phải là trọng tội? Các ông buôn hàng quốc cấm, bán hàng lậu thuế lại còn dám hành hung nhân viên triều đình mà còn bảo là không phải trọng tội à?

Đại Chí giả lả:

- Thì có ai ngờ việc lại xảy ra thế này đâu. Huynh hãy bớt giận, chúng ta phải tìm cách làm êm xuôi vụ này trước đã. Xong chuyện chúng tôi sẽ tạ lỗi với Huỳnh huynh sau, nhất định không để cho Huỳnh huynh chịu thiệt thòi đâu.

Thừa Ân nói thêm vào:

- Vâng, chúng tôi nhất định tạ lỗi xứng đáng cho Huỳnh huynh. Huỳnh huynh cũng biết hậu thuẫn lớn mạnh của Diệp Sanh Ký rồi mà.

Hảo Hớn nói:

- Tất nhiên là phải chạy chọt rồi. Bây giờ hai ông về lo chuẩn bị tiền bạc đi. Nhớ phải có mặt bất cứ khi nào tôi gọi đó nhé. Nay mai thế nào trên phủ cũng gởi trát đòi người đấy. Các ông trốn đi thì tôi sẽ bị chém đầu. Nhưng Huỳnh Hảo Hớn này nhất định không chịu chết một mình đâu. Các ông nhớ lấy.

Trần Đại Chí cười cầu tài:

- Sao Huỳnh huynh lại có thể nghi ngờ chúng tôi như vậy? Cơ nghiệp, gia đình của chúng tôi cỡ đó thì bỏ đi đâu được? Vả lại giao tình chúng ta như thế, tôi nỡ nào đưa huynh vào chỗ chết.

Huỳnh Hảo Hớn gật đầu:

- Được rồi! Tôi sẽ cho người liên lạc với các ông.

Đại Chí bỗng hỏi:

- Việc làm của chúng ta kín đáo như thế tại sao đột nhiên lại bị Hình bộ lưu tâm mà khám xét bất ngờ được nhỉ? Huỳnh huynh có nghĩ là do Võ Trụ mách lối không?

Hảo Hớn nghe hỏi cũng gật gù:

- Ta cũng lấy làm lạ trong vụ này. Ngài khâm sai về đây chủ yếu là lo việc mỏ vàng bên Phù Ly, sao tự dưng lại nhúng mũi vào công việc bán buôn, thuế má của huyện ta nhỉ?

- Tôi nghe quan huyện Phù Ly nói, ông ta có đề nghị khâm sai sử dụng Hoàng Kim Môn trong công việc tinh luyện vàng nhưng không hiểu sao về sau họ lại lơ đi. Có lẽ cũng do Võ Trụ không ưa bọn ta nên nói ra nói vào gì đây. À, mà sao trong chuyện khai thác vàng không thấy họ nói gì đến huyện Bồng Sơn của huynh hết vậy?

- Có chứ! Hôm đầu tiên họp, ngài khâm sai có cho gọi ta nhưng hôm đó ta đi xa không có nhà. Sau ta vào ra mắt thì quan công bộ Phạm Hiệp có giao cho ta việc tìm kiếm nhân công khai thác mỏ. Sao ông lại nghĩ rằng vụ này là do Võ Trụ mách lẻo?

- Hắn ở sát nách chúng ta lại quen biết nhiều trong giới lính thủy ở các cửa sông. Huống chi từ trước đến giờ hắn đâu có ưa gì đệ và Châu gia. Nay hắn được chỉ định làm tổng quản khu mỏ nên muốn thừa dịp dìm chết Hoàng Kim Môn và Châu gia trang để có thể vươn lên làm vua hai xứ Phù Ly và Bồng Sơn này chứ gì. Mà Huỳnh huynh và Bùi huynh có dự tính để cho vàng chảy ra ngoài không?

Hảo Hớn lườm Đại Chí:

- Ông đừng quá tham lam! Ngài khâm sai còn ở đây, đừng bao giờ nhắc đến những việc như vậy nữa. Hãy lo cho xong vụ này đã. Về mà chuẩn bị tiền đi.

Đại Chí và Thừa Ân đứng lên:

- Mọi chuyện trông vào Huỳnh huynh cả đấy. Chúng tôi sẽ không bao giờ để huynh thiệt thòi đâu. Xin cáo từ.

Hai người cúi đầu chào rồi lặng lẽ ra ngoài lên ngựa chạy nhanh khỏi cổng huyện đường. Mấy tên đệ tử chờ bên ngoài cũng vội vã giục ngựa chạy theo sau. Được một đoạn, Đại Chí bỗng ghìm ngựa lại rồi nói nhỏ gì đó với một tên thủ hạ. Tên này nghe xong liền quay ngựa phóng về hướng đèo Lại Khánh.

Huỳnh Hảo Hớn ngồi im lặng. Trong đầu hắn giờ đang ngổn ngang trăm mối. Phen này gỡ không ra ắt cái ghế quan huyện này sẽ mất chắc, chưa biết lại còn phải đeo gông bao nhiêu năm nữa. Đại Chí hắn nói đúng. Chỉ còn một cách duy nhất là phải nhờ đến tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên. Mà phải lo cho sớm nếu không ngài khâm sai mở phiên tòa xét xử thì hỏng bét. Lại còn cái tên bị thịt tham lam khám lý Hoàng Công Đức nữa. Hắn mới về mà cái bụng tham đã chìa rõ cho mọi người thấy rồi. Lần này nếu chìa tay ra thể nào hắn chẳng táp đến đứt cả tay. Chà! Phen này phải chịu dày mặt vào luồn ra cúi nữa rồi.

Nghĩ ngợi đủ đường, biết là phải làm ngay nếu không lỡ việc nên Huỳnh Hảo Hớn vội vã chuẩn bị mọi thứ rồi dẫn theo hai tên hộ vệ hối hả đi vào phủ Quy Nhơn.

***

Những hành động của bọn Huỳnh Hảo Hớn đã không thoát khỏi cặp mắt tinh ranh của Đinh Hồng Liệt. Từ cửa sổ trên tầng lầu của tửu quán Qua Đèo đối diện xéo với huyện nha, chàng đã nhìn thấy Trần Đại Chí và Thừa Ân ra khỏi huyện đường rồi phóng ngựa thẳng về hướng Bồng Sơn chứ không về cơ sở Hoàng Kim Môn ở cuối con phố gần đó. Chàng biết bọn chúng muốn về trang trại ở núi Hương Sơn nên không vội theo dõi ngay mà chờ xem động tịnh của Huỳnh Hảo Hớn. Quả nhiên đúng như chàng suy đoán, một lúc sau đã thấy Hảo Hớn cùng hai người hầu cận phóng ngựa về phía đèo Lại Khánh. Chắc chắn là bọn họ vào phủ Quy Nhơn. Đinh Hồng Liệt nhìn theo cười thầm:“Phen này thì chúng bay lòi mặt từ trên xuống dưới cả rồi. Hì hì...” Chàng dự định đêm nay sẽ lén vào do thám trang trại của Trần Đại Chí để xem bọn chúng dự tính kế hoạch đối phó với tình hình này thế nào nhưng thấy hãy còn sớm nên nấn ná ngồi lại uống thêm vài chung rượu.

Bỗng có tiếng ngựa thắng rất gấp trước cửa quán ăn. Con ngựa dựng hai vó trước hí vang một tiếng rồi như quá mệt, nó lảo đảo muốn quị xuống. Hai bên mép con vật tội nghiệp nước bọt sùi ra nhểu thành giọt lớn nhỏ xuống mặt đường, mũi nó thở phì phì, trên lớp lông nâu bụi đất phủ đầy, chứng tỏ nó đã phải trải qua một đoạn đường dài miệt mài không nghỉ. Cũng may người cưỡi nó là một kỵ sĩ có vóc dáng nhỏ bé, nếu không chắc là nó đã ngã quị từ lâu rồi. Chàng kỵ sĩ đã nhảy phốc xuống ngựa rồi dắt nó lại cột cạnh con bạch mã của Đinh Hồng Liệt. Bộ võ phục trắng của chàng ta bị bụi phủ kín đến ngả sang vàng. Khuôn mặt chàng bụi cũng bám đầy nhưng không che lấp được vẻ thanh tú. Chỉ vừa thoáng thấy phong thái và nét mặt chàng kỵ sĩ từ trên lầu cao, Hồng Liệt đã không khỏi buột miệng khen thầm: “Mỹ nam tử! Đúng là một trang mỹ nam tử!”.

Chàng kỵ sĩ gỡ gói hành lý treo bên hông ngựa, đưa bàn tay trắng muốt, thon thả vuốt nhẹ trên bờm con ngựa vài cái rồi bước vào quán. Quán ăn này nằm trên quan lộ, là nơi để cho khách đường xa ghé vào nghỉ ngơi ăn uống, lấy sức chuẩn bị vượt đèo Lại Khánh nếu đi từ bắc vào nam, hoặc dừng chân sau một đoạn dài mệt mỏi vì vượt đèo nếu đi từ nam ra bắc. Trời vào hạ, nắng nóng nên quán đúng là chỗ dừng chân lí tưởng. Vì thế mà giờ này quán gần như chật kín. Những chiếc bàn ở tầng dưới đã không còn chỗ. Lúc chàng kỵ sĩ áo trắng bước vào, mọi người trong quán đang nói chuyện rôm rả bỗng im phăng phắc, mọi con mắt đổ dồn vào chàng thanh niên có dáng thanh như hạc, khuôn mặt trắng và đẹp như thiếu nữ này. Sau khoảng thời gian ngưng đọng, tiếng xì xào lại vang lên khắp phòng. Có tiếng nói nhỏ từ trong góc quán ở mé cửa nhưng cũng đủ để mọi người nghe thấy:

- Quả thật là một chàng trai thanh tú! Mặt đẹp như ngọc vậy.

Tất nhiên chàng kỵ sĩ cũng nghe thấy nhưng chàng vờ như không, chỉ đảo mắt nhìn quanh tìm chỗ ngồi. Người phục vụ vội chạy đến vồn vã:

- Mời công tử lên lầu ngồi cho mát, ở dưới này chật cả rồi.

Chàng kỵ sĩ gật đầu:

- Cũng được. Nhờ ông cho ngựa của tôi ăn uống no đủ nhé. Tôi phải đi xa nữa đấy.

Người đã đẹp mà tiếng nói của chàng lại còn trong như pha lê, nghe rất êm tai. Người phục vụ cười vui vẻ:

- Công tử an tâm. Mời công tử lên trên lầu, chúng tôi có nước rửa mặt ở trên đó, trong góc phía đông.

- Được rồi! Mang lên cho ta một phần cơm với cá lóc kho tộ, rau muống luộc, một tô canh và một bình trà nóng. Nhanh lên!

Người đàn ông phục vụ cười hỏi:

- Công tử đi đường xa mệt mỏi, uống một vài chung rượu nhé! Rượu Bàu Đá xứ Quy Nhơn này là số một, bảo đảm công tử uống vào thì bao nhiêu mệt mỏi cũng đều tan biến tức thì.

Chàng kỵ sĩ lắc đầu:

- Cảm ơn. Trời nóng quá, tôi không muốn uống rượu.

Nói xong chàng bước nhanh lên lầu. Đập vào mắt chàng đầu tiên là đôi mắt sáng quắc của một thanh niên mặc lam y ngồi ở chiếc bàn đối diện cầu thang. Bốn ánh mắt vô tình chạm nhau rồi quay đi thật nhanh. Trông thấy đôi mắt đó, không hiểu sao mặt chàng kỵ sĩ thoáng ửng đỏ. Chàng bối rối bước thẳng đến góc phòng có để sẵn nước rửa mặt. Vốc nước rửa trôi những bụi bặm xong, chàng bước đến ngồi vào chiếc bàn kê gần cửa sổ có thể nhìn xuống đường quan đạo bên dưới, quay lưng lại với người thanh niên áo lam. Chàng đưa mắt nhìn con ngựa của mình đang đang uể oải nhai cỏ, bọt mép vẫn còn sùi quanh miệng nó. Chàng lẩm bẩm một mình:

- Tội nghiệp con vật, nó không phải là thiên lý mã nên không thể giúp mình được. Phải tìm mua một con thiên lý mã mới đủ sức theo mình trong suốt cuộc hành trình này.

Bỗng chàng chú ý đến con Bạch mã cạnh bên con ngựa ốm yếu của mình. Con Bạch mã có bộ lông mượt như tơ, cao to, bốn chân dài rắn chắc với bộ móng đen trông thật đẹp. Chàng không khỏi khen thầm: “Con ngựa đẹp quá! Đúng là con thiên lý mã mà mình đang mơ ước đây!”. Chợt một ý nghĩ khác thoáng qua đầu, chàng bỗng mỉm cười, mắt lóe lên tinh nghịch. Người phục vụ mang thức ăn lên bày ra bàn, miệng tươi cười nói:

- Mời công tử dùng bữa. Những món này tuy không phải là cao lương mỹ vị nhưng đầu bếp chúng tôi nổi tiếng ở xứ Bồng Sơn này đấy. Bảo đảm công tử sẽ hài lòng.

Chàng kỵ sĩ không nói gì chỉ mỉm cười gật đầu. Nụ cười thật xinh trên đôi môi đỏ như thoa son. Người phục vụ đứng tuổi cười hóm hỉnh:

- Công tử có nụ cười tươi như thiếu nữ vậy. Các cô gái mà nhìn thấy chắc phải chết mê.

Chàng ngưng nụ cười, đưa mắt liếc xéo người phục vụ rồi cúi xuống lặng lẽ dùng bữa. Những thực khách đang ngồi trên lầu đã chú ý đến vẻ đẹp của chàng kỵ sĩ từ lúc chàng ta bước lên, giờ nghe người phục vụ nói đùa cũng xì xào bàn tán. Có lẽ đã quen với điều này nên chàng vẫn ngồi ăn một cánh điềm nhiên. Ăn xong, chàng lấy ra một mảnh giấy nhỏ cùng cây bút than hí hoáy viết mấy chữ rồi dùng mảnh giấy đó gói mấy đỉnh vàng. Bỏ lại một ít bạc vụn trên bàn, đứng dậy xuống dưới lầu.

Đinh Hồng Liệt sau tia nhìn bỡ ngỡ với chàng kỵ kĩ áo trắng, trong đầu bỗng dấy lên một ý nghĩ ngộ nghĩnh. Chàng hình dung khuôn mặt đó, dáng dấp đó nếu biến thành một cô gái thì hẳn phải là một tuyệt sắc giai nhân. Cái suy nghĩ tức cười ấy cứ lẩn quẩn trong đầu Hồng Liệt cho đến khi chàng kỵ sĩ xuất hiện ở nơi cột ngựa. Hồng Liệt thấy chàng ta đến chỗ con ngựa nâu của mình ve vuốt nó mấy cái rồi bỏ vào chiếc túi bên hông của nó một vật gì đó, miệng mỉm cười bâng quơ. Rồi bỗng chàng ta bước nhanh đến bên con Bạch mã, mở dây nhảy phốc lên lưng ngựa, thúc mạnh vào hông nó. Con ngựa hí vang một tiếng rồi phóng nhanh về hướng đèo Lại Khánh. Hồng Liệt đang mơ màng thì giật mình tỉnh mộng bởi tiếng hí của con Bạch mã. Nhưng đã quá trễ, chàng kỵ sĩ có lẽ đã đi được một đoạn khá xa rồi. Hồng Liệt vội vàng tung mình qua cửa sổ, nhảy xuống đất rượt theo, miệng la lớn:

- Ê! Tên ăn cắp! Trả ngựa lại cho ta!

Miệng la oái, chân cố sức vận hết tài khinh công băng mình đuổi theo. Vọng trong tiếng gió là tiếng của chàng kỵ sĩ:

- Xin lỗi! Anh bạn dùng tạm con ngựa của ta đi. Nếu gặp lại ta sẽ tạ tội.

Tiếng nói nhỏ dần theo bóng con Bạch mã khuất sau đám bụi đường. Hồng Liệt biết không thể nào đuổi kịp nên đành quay trở lại quán, miệng lầm bầm chửi rủa:

- Coi dáng dấp phong lưu mà lại là đồ trộm đạo! Tên chết tiệt nhà ngươi đừng để ta gặp lại, nếu không ta sẽ cho ngươi một bài học nên thân.

Mắng xong, chợt nghĩ lại mình nên bật cười thầm: “Ta không phải cũng là tên trộm đạo sao? Coi bộ hắn đang có việc gấp phải đi xa nên mới mượn tạm con thiên lý mã của mình. Hà! Ngươi trông đẹp mã như thế nếu mở miệng hỏi thì ta sẽ dâng hai tay cho, việc gì phải giở trò ăn cắp. Đúng là ăn trộm gặp ăn cướp mà!” Hồng Liệt lắc đầu, bước đến bên con ngựa chàng kỵ sĩ nọ bỏ lại. Chàng lục chiếc túi treo trên lưng ngựa thấy có mảnh giấy, trong mảnh giấy gói ba thỏi vàng, mỗi thỏi nặng chừng một lượng. Mảnh giấy có mấy chữ: “Xin lỗi. Có việc gấp nên phải mượn đỡ ngựa quí. Vàng này để đền cho con ngựa!”. Bên dưới có vẽ nguệch ngoạc một bông mai.

Người trong quán lúc đó đã túa ra hết bên ngoài để xem việc lạ. Người phục vụ vội chạy đến bên Hồng Liệt nói:

- Thật xin lỗi quí khách. Quán chúng tôi xưa nay chưa hề để cho khách phải mất mát thứ gì. Thật không ngờ một con người trông thanh nhã đẹp đẽ như thế mà lại đi ăn cắp. Ôi! Đúng là tốt mã rã đám mà. Quí khách thông cảm cho nhà hàng chúng tôi. Đồ bần tiện, quân đểu cáng!

Mọi người cũng om sòm hùa theo chửi rủa tên áo trắng đẹp người, xấu nết nọ. Đinh Hồng Liệt vội xua tay nói:

- Xin đừng vội trách mắng người ta. Hắn có để lại tiền đền ngựa, lại nói hắn đang có việc gấp phải đi xa nên mượn đỡ ngựa tốt của tôi. Thôi thì thông cảm cho hắn vậy.

Chàng bước quán vào định trả tiền rượu. Ông chủ quán vội nói:

- Thôi thôi. Quí khách đã không trách nhà hàng chúng tôi là đã quá rộng lượng rồi. Chút rượu đó có đáng là bao.

Hồng Liệt cảm ơn rồi bước ra cửa tới chỗ con ngựa. Chàng vuốt ve nó:

- Người chủ đẹp mã của mày bỏ mày rồi. Thôi thì mày đi với tao vậy. Tao chẳng đi đâu xa, mày theo tao sẽ đỡ mệt hơn.

Nói xong chàng nhảy lên lưng ngựa phóng về cửa An Dũ.

***​

Khi chàng về đến trạm thuế thì hoàng hôn đã buông xuống. Chỉ còn Trương Văn Hiến ở đó chờ, Đoàn Phong và Ngô Mãnh đã đáp thuyền nhẹ vào cửa Đề Gi để lên Phù Ly gặp Tôn Thất Dục báo cáo tình hình. Văn Hiến thấy Hồng Liệt về liền hỏi:

- Bọn chúng động tĩnh ra sao?

Hồng Liệt đáp:

- Hai tên Đại Chí và Thừa Ân chắc đã trở lại trang trại gỗ của hắn ở Hương Sơn, còn tên Huỳnh Hảo Hớn tôi thấy hắn dẫn hai thủ hạ đi về hướng đèo Lại Khánh, chắc là vào phủ Quy Nhơn nhờ vả Nguyễn Khắc Tuyên đỡ đòn.

- Việc trong đó cứ để Đoàn Phong lo liệu, đêm nay ta và ngươi phải do thám trang trại của Trần Đại Chí xem bọn chúng tính toán thế nào.

Hai người cùng bước ra trước sân phóng tầm mắt nhìn về phía rặng Hương Sơn bên kia bờ dòng Lại Dương Giang. Đó là một dãy núi mọc cô độc giữa đồng bằng phía bắc vùng hạ lưu sông Lại Dương. Mặt trời đã khuất sau dãy núi An Lão ở phía tây. Hương Sơn với ba đỉnh cao của các ngọn hòn Đền, hòn Dốc Đội, hòn Đồng Bò như ba chiếc bánh ú đen trên nền trời hồng nhạt trông thật lạ mắt. Hồng Liệt chỉ tay về phía ngọn núi nói với Văn Hiến:

- Trần Đại Chí độc quyền khai thác gỗ giáng hương trong khu núi này là nhờ có chính quyền hỗ trợ sau lưng. Hắn nuôi nhiều voi để kéo gỗ trong núi, còn chân núi gần bàu Tượng là trại xẻ gỗ và cũng là kho chứa muối mà hắn thu mua về. Bên phải nơi hòn núi nhỏ kia là kho lương của huyện Bồng Sơn. Bên kia bàu Tượng, trong một rừng cây là ngôi nhà bằng gỗ nhiều gian vừa to lớn vừa rất đẹp của hắn. Đêm nay, chúng ta sẽ dùng thuyền nhẹ sang bên đó.

Văn Hiến gật đầu. Chợt nhìn thấy con ngựa nâu cột trước cửa, chàng ngạc nhiên hỏi:

- Ủa, con Bạch mã của ngươi đâu?

Hồng Liệt cười:

- Bị ăn cắp rồi.

Văn Hiến trợn mắt la lớn:

- Ăn cắp à? Kẻ nào dám to gan múa rìu qua mắt thợ lại đi ăn cắp ngựa của Thần Thâu vậy?

- Một tên mỹ nam tử. Hắn ăn cắp con Bạch mã ngay trước mắt ta, giữa ban ngày ban mặt mà ta đành chịu để hắn lấy đi, thế có tức không chứ?

Văn Hiến cười to:

- Như vậy là hắn thuộc hàng Thánh Thâu, trên ngươi một bậc rồi còn gì?

Hồng Liệt cũng cười theo:

- Dù sao hắn cũng tử tế để lại con ngựa này và ba nén vàng đền bù. Đành phải vào ăn xin Võ Trụ một con thiên lý mã khác rồi. À, đồ gàn ngươi chưa gặp Võ Trụ phải không? Xong việc đêm nay, chúng ta vào Phù Ly, ta sẽ giới thiệu với ngươi. Con người này đúng là trọng nghĩa khinh tài, chính danh hiệp sĩ đấy.

- Ta có nghe hai anh nói về ông ta. Nhất định phải vào thăm rồi. Thôi ngươi đi nghỉ lấy sức đi. Biết đâu đêm nay lại phải động thủ đấy.

Khoảng giờ tuất đêm đó, hai người mặc đồ dạ hành, mang theo kiếm rồi bơi thuyền nhẹ qua sông. Đến bờ, hai người giấu thuyền trong một bụi rậm rồi băng mình vào bóng đêm đi về phía rừng cây bên bờ tây bàu Tượng. Có tên bàu Tượng là do bàu nước này voi thường đến uống. Ngôi nhà được bao bọc bởi dãy hàng rào gỗ trên một diện tích đất rộng, tạo thành khu vườn biệt lập. Trong vườn có những cây cổ thụ cao lớn, tàng lá rậm rạp, dưới mái những gian nhà có treo nhiều chiếc đèn lồng thắp nến sáng rực cả một khoảng sân lớn. Hồng Liệt và Văn Hiến vào gần đến nơi thì chia hai cánh đông tây để tiến vào. Cả hai dùng khinh công nhảy lên tàng cổ thụ rồi chuyền từ cây này sang cây khác tiếp cận ngôi nhà gỗ.

Hồng Liệt núp trên một tàng cây cao quan sát. Bên dưới, mấy con chó to đang nằm sát vỉa hè, thỉnh thoảng lại có vài tên bảo vệ vác đao đi tuần qua lại trước cửa. Chàng nghĩ thầm: “Đêm nay bọn chúng canh gác kỹ hơn đêm trước ta ghé, chắc là có hội họp ở đây rồi!”. Khoảng cách từ tàng cây chàng đang núp đến mái nhà khá xa nên phải hít một hơi dài rồi vận dụng toàn bộ sức lực, nương theo bóng tối tung mình nhảy qua đáp xuống mái nhà một cách êm ru. Nép mình sát xuống mái nhà, chàng cẩn trọng lắng nghe động tịnh bên trong. Tất cả im lặng như tờ. Chàng ngẩng đầu lên cẩn thận quan sát xung quanh. Trên nóc nhà ở gian trung tâm có một tên bảo vệ đang ngồi chống đao nhìn lơ đễnh, bóng của hắn in lờ mờ trên nền trời đen. Bỗng hắn đột nhiên ngã gục xuống, trong tích tắc một bóng đen lướt nhanh tới đỡ thân người hắn. Hồng Liệt biết hắn đã bị Văn Hiến dùng ám khí thủ tiêu, chàng khen thầm: “Tên đồ gàn này ghê gớm thật! Tài ném ám khí của hắn quả là độc bộ thiên hạ!”. Nghĩ xong, chàng bèn tung người nhảy sang bên đó. Văn Hiến nhìn thấy liền đưa ngón tay lên miệng ra dấu im lặng rồi chỉ xuống mái nhà. Cả hai chia ra hai góc, dùng thế Đảo Quyển Châu Liêm móc ngược người lên mái ngói nhìn vào trong.

Gian phòng bên dưới rộng lớn, trưng bày toàn đồ gỗ quí được chạm trổ rất tinh vi. Có sáu người đang ngồi trên hai chiếc trường kỷ đặt đối diện nhau. Hồng Liệt nhận ngay ra ba tên trong Dương Tử Tam Kiếm, gã em út bị chặt đứt một cánh tay trái nên thỉnh thoảng gã lại đưa tay phải vuốt vào cái ống tay áo buông rũ xuống như một sự tiếc nuối. Ba người còn lại là Lại Thừa Ân, Đồng Bách và Châu Doãn Thành. Chàng ngạc nhiên tự hỏi: “Châu Doãn Thành cũng dính vào vụ này à?”. Người đang đi tới đi lui trong phòng với điệu bộ nóng nảy là Trần Đại Chí. Một chốc, hắn dừng lại nói:

- Hàng hóa bị tịch thu thì chẳng đáng gì, nhưng những hóa đơn các chuyến hàng trước hắn còn giữ lại được trong tay, chứng tỏ hắn đã lưu tâm đến chúng ta từ lâu rồi.

Thừa Ân nói:

- Chỉ mấy cái hóa đơn cũ thì nói lên được điều gì? Không có bằng chứng cụ thể, chúng đâu thể qui tội cho chúng ta được?

Đại Chí xẵng giọng:

- Sao lại không có bằng chứng cụ thể? Còn hai tên đồn thủ Lý Tập ở An Dũ và Đỗ Thiêm ở Cổ Lũy đó chi? Bọn chúng che chở cho chúng ta ba năm nay, việc gì chúng cũng biết...

Đồng Bách cướp lời:

- Thì bịt miệng chúng lại!

Vừa nói hắn vừa đưa tay ra dấu cứa ngang cổ. Đại Chí hiểu ý gật gù:

- Đành phải như thế thôi. Còn lại mấy tờ giấy lộn thì không lo, chúng ta sẽ có lý để phản cung.

Tên cụt tay trong Dương Tử Tam Kiếm chen vào, giọng hằn học:

- Cả hai cái tên thủ Phong, thủ Hiến gì đó, cho chúng về chầu diêm vương hết đi! Thử xem chết rồi thì lấy gì mà buộc tội các ông? Còn tên Võ Trụ nữa, không giết được hắn ta thật không cam lòng.

Gã nói xong lại đưa tay vuốt ống tay áo thõng xuống. Đại Chí vội nói:

- Tư Đồ Nhị huynh đừng làm ẩu. Thủ Hiến thì tôi chưa biết là ai nhưng thủ Phong chính là Đoàn Phong. Hắn cùng Ngô Mãnh là hai hộ vệ của Hình bộ. Bọn chúng võ nghệ rất cao cường, không dễ trêu vào đâu.

Tên nhị ca trong Tam Kiếm lên tiếng:

- Tư Đồ Nhất ta cũng muốn biết xem tài nghệ của bọn chúng thế nào mà ông ca ngợi quá như vậy.

Đại Chí biết mình lỡ lời bèn cười giả lả:

- Không phải tôi ca ngợi chúng để làm nhụt nhuệ khí của mình. Tất nhiên tài nghệ của chúng làm sao so được với Dương Tử Tam Kiếm các huynh. Nhưng chúng là người của triều đình, chúng ta không thể giết bừa được. Các huynh xong việc thì bỏ đi nhưng còn Đại Chí tôi, gia đình, sự nghiệp này thì sao? Bởi vậy, chúng ta phải tính toán cho kỹ. Theo tôi vụ này phải giải quyết bằng đường lối ngoại giao chứ không nên dùng vũ lực.

Thừa Ân hỏi:

- Theo anh, bây giờ chúng ta phải làm gì?

Đại Chí đáp:

- Chờ coi Huỳnh Hảo Hớn có nhờ vả Nguyễn Khắc Tuyên được không rồi mới tính tiếp. Nếu hắn nhờ được thì chúng ta chỉ cần bỏ tiền ra là xong.

Đồng Bách hỏi:

- Khả năng thành công được bao nhiêu?

Đại Chí đáp:

- Khắc Tuyên là tay chân của quan ngoại tả Trương Phúc Loan. Quan ngoại tả hiện giờ là người tin cẩn nhất của Võ vương, tôi tin là chúng ta sẽ thành công. Có điều, phải lót đường từ dưới này ra tới Phú Xuân e số tiền không nhỏ đâu.

Thừa Ân tiếp lời:

- Tiền thì không lo, miễn chúng ta qua xong vụ này và có thể nắm được đường dây ra tới Phú Xuân thì về sau mọi việc sẽ thuận lợi hơn. Chúng ta thu lại mấy hồi.

Châu Doãn Thành nãy giờ im lặng bỗng lên tiếng:

- Vụ này hao tốn bao nhiêu tôi xin được chia đều với các ông rồi từ nay tôi xin rút khỏi việc buôn bán này. Tôi muốn an phận thủ kỹ để lo cho mấy đứa con.

Đại Chí nhìn Doãn Thành cười lớn:

- Đại ca có được cậu quí tử, lại mới sanh thêm một tiểu thư nữa nên muốn tu nhân tích đức để phước cho con hả? Như thế cũng hay! Có điều người trong giang hồ thân bất do kỷ, chỉ e đại ca muốn buông kiếm rút lui cũng không được đấy.

- Việc tôi hợp tác với chú chỉ trên phương diện vốn liếng, đâu có ai biết. Tất cả những phần hùn hạp từ đầu tôi tặng hết cho chú đó. Từ nay, chú hãy để cho tôi yên.

Đại Chí trầm ngâm một lát nói:

- Mới có chút trở ngại nhỏ mà đã làm nhụt chí của đại ca rồi sao? Còn việc mua bán muối của chúng ta nữa? Đại ca bỏ dở giữa đường, tôi biết thu xếp làm sao?

- Chú bây giờ đã có các vị anh hùng đây giúp đỡ, tôi có rút lui thì công việc của chú cũng chẳng gặp khó khăn gì mà.

Trần Đại Chí nhìn chằm chằm vào mặt Doãn Thành một lúc rồi buông tiếng thở dài:

- Thôi thì tùy đại ca vậy. Hãy để xem vụ này kết thúc ra sao. Giao tình bao nhiêu năm giữa hai gia đình chúng ta, tôi lòng dạ nào chiếm hết phần vốn của đại ca.

Tên đại ca trong Dương Tử Tam Kiếm nãy giờ ngồi yên, đột nhiên lên tiếng:

- Ông ta đã muốn lui thì cứ toại nguyện cho ông ta đi. Còn cây Ô Long đao thì sao? Ta phải lấy nó cho bằng được nếu không bị Lý đại vương quở trách sẽ phiền to đấy.

Châu Doãn Thành nghe nói đến cây Ô Long đao thì giật mình định lên tiếng hỏi nhưng Đại Chí đã cướp lời trước:

- Trần gia bây giờ có thêm mấy tên khốn đó giúp đỡ nên thật khó mà ra tay. Tạm thời chúng ta cho người ngăn chặn, không cho chúng chạy trốn rồi từ từ tính sau. Đợi vụ rắc rối này giải quyết xong đã. Lãnh Diện huynh thấy có được không?

- Tạm thời như vậy đi. Nhưng bọn ta phải trở ra Hội An để xin lại chỉ thị từ Giản Phố. Các ông cứ lo cho xong việc này, có cần gì thì thông báo cho ta biết.

- Tôi tin là có thể lo xong vụ này mà.

Bên ngoài, Hồng Liệt và Văn Hiến nghĩ là đã thu thập đủ tin tức nên không hẹn mà cả hai cùng bật người trở lên trên mái, ra hiệu cho nhau rồi nhẹ nhàng phóng người đến tàng cây theo lối cũ trở ra. Hai người đến bờ sông, xuống thuyền và chèo ngược về bờ bên kia. Văn Hiến nói:

- Bọn chúng định giết người bịt miệng. Không biết Đoàn Phong đang giữ Lý Tập và Đỗ Thiêm ở đâu. Ta thật sơ sót không nghĩ đến điều này.

Hồng Liệt nói:

- Đoàn Phong ở trong nghề lâu năm nên thế nào chẳng nghĩ đến việc này. Dù sao chúng ta cũng phải vào Phù Ly ngay cho ăn chắc.

Hai người trở lại cửa An Dũ, căn dặn người đồn thủ mới về thay chỗ Lý Tập mọi việc xong, họ nhờ viên tuần nha cho thuyền nhẹ đưa họ vào cửa Đề Gi ngay đêm đó. Trời vừa mờ sáng, họ đã đến Đề Gi, Hồng Liệt hỏi viên cai đội ở đó mượn hai con ngựa rồi cả hai phóng về hướng Bích Khê tìm đến nhà Võ Trụ. Mặt trời lên cao độ hai sào họ mới đến nơi, gặp lúc Võ Trụ sửa soạn chuẩn bị lên mỏ vàng. Nghe tiếng vó ngựa dừng trước cổng, Chí Hiếu vội chạy ra và reo lên:

- A, cháu chào chú Hồng Liệt, cháu chào chú... Mời hai chú vào. Thầy cháu đang chuẩn bị lên mỏ.

Nói xong nó chạy vào trước. Một lúc đã thấy Võ Trụ bước ra tươi cười:

- Chào Hồng Liệt huynh, sao đến thăm sớm vậy? Còn đây là...

Hồng Liệt nói ngay:

- Trại Ức Trai Trương Văn Hiến, đồ gàn Hiến. Còn đây là Võ Trụ huynh.

Võ Trụ và Văn Hiến đồng thanh:

- Nghe danh không bằng thấy mặt. Hân hạnh, hân hạnh!

Võ Trụ hỏi:

- Mời vào nhà uống ly trà nóng rồi nói chuyện. Ủa, con Bạch mã đâu sao lại cưỡi con ngựa này?

Hồng Liệt mặt tiu nghỉu:

- Xin lỗi Võ huynh, bị ăn cắp mất rồi.

Võ Trụ nghe nói trợn mắt lên kinh ngạc. Văn Hiến cười to:

- Kỳ này Thần Thâu bị tổ trác nên gặp phải Thánh Thâu trộm mất ngựa rồi.

Võ Trụ cũng cười theo:

- Đúng là cao nhân tất hữu cao nhân trị! Ha ha... Chắc chúng ta phải tìm gặp người bạn hữu đó để nói lời khâm phục mới được.

Hồng Liệt mặt đỏ gay:

- Khâm phục cái con khỉ gió! Tôi mà gặp lại hắn tôi sẽ lột sạch, không chừa cho hắn một thứ gì để che thân mới hả giận! Hắn dám bôi nhọ cái danh hiệu cao quí của tôi tất hắn phải hối hận.

Văn Hiến bịt miệng lại cười:

- Danh hiệu cao quí! Ha ha...

Hồng Liệt làm bộ sửng cồ gắt:

- Ngươi dám cười nhạo ta à?

Võ Trụ khoa tay vui vẻ cười theo:

- Được rồi, được rồi. Để tôi tặng lại anh con thiên lý mã khác. Tôi còn hai con bạch mã, một của vợ tôi, còn một sẽ tặng anh. Riêng Trương huynh, tôi cũng có món quà gặp mặt. Mời hai anh ra sau chuồng ngựa mà xem.

Võ Trụ đưa hai người ra trại ngựa. Chí Hiếu cũng lững thững theo sau. Khu nuôi ngựa của Võ Trụ khá lớn, diện tích ước hơn năm mẫu. Võ Trụ giải thích:

- Ở đây có năm trại riêng biệt được chia theo mức độ giống tốt xấu. Chúng ta đến trại thiên lý mã xem Trương huynh thích con nào.

Trong trại thiên lý mã hiện có mười con, đủ màu sắc. Mỗi con nhốt riêng một chuồng. Dạo qua một vòng, Võ Trụ hỏi Văn Hiến:

- Trương huynh chọn được chưa?

Trương Văn Hiến nói:

- Trông mười con, con nào cũng là ngựa quí cả. Nhưng tôi thích con đen này nhất.

Võ Trụ đưa ngón tay cái lên khen:

- Con Ô Truy này được chúng tôi đánh giá cao nhất trong mười con đấy. Xin tặng anh làm quà gặp mặt. Mong anh dùng nó làm chân để lui tới giúp đời.

Văn Hiến chắp tay kính cẩn:

- Tiếng đồn Võ huynh trọng nghĩa khinh tài quả thật không sai. Hiến tôi xin nhận món quà tặng quí giá này của anh và nhớ kỹ lời căn dặn.

Võ Trụ nghiêng mình đáp lại rồi ra hiệu bảo Chí Hiếu vào dắt con Ô Truy ra. Con ngựa cao lớn vô cùng, bộ lông của nó đen tuyền bóng mượt, óng ánh dưới ánh nắng trông hết sức đẹp mắt. Văn Hiến bước đến vuốt cái bờm đen mượt được cắt tỉa tỉ mẩn rồi nói với Võ Trụ:

- Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một con ngựa quí thế này.

Chí Hiếu lại vào chuồng dắt con Bạch mã ra. Võ Trụ nói với Hồng Liệt:

- Con Bạch mã này tuy không đẹp bằng con trước nhưng nó sẽ không làm anh thất vọng đâu. Hy vọng anh có thể dùng nó đuổi kịp tên Thánh Thâu kia mà lột sạch hành lý của hắn và đòi lại ngựa.

Hồng Liệt vui vẻ nói:

- Tất nhiên! Tôi nhất định sẽ bắt hắn cho bằng được.

Võ Trụ cười:

- Thì nhất định vậy. Hai anh vào Phù Ly gặp Phong huynh phải không? Công việc ngoài Quảng Ngãi thế nào rồi?

Hồng Liệt đáp:

- Chúng tôi đã biết bọn người bịt mặt đêm đó là ai rồi. Chính là bọn Hoàng Kim Môn của Trần Đại Chí.

- Tôi cũng nghĩ như thế, chỉ là chưa có chứng cớ thôi. Việc thế nào?

Hồng Liệt bèn đem mọi việc kể lại cho Võ Trụ nghe. Cuối cùng chàng nói:

- Bọn Dương Tử Tam Kiếm hận anh lắm. Anh phải đề phòng. Chúng sẽ trở về Hội An để xin chỉ thị mới từ Giản Phố, chưa biết chúng tính thế nào. Dù sao anh cũng phải chuẩn bị trước mới được.

- Cảm ơn sự lo lắng của Đinh huynh. Tôi sẽ đề phòng. Tôi hiện đang mang trọng trách của Võ vương giao cho nên không thể làm gì khác được. Thôi thì giặc đến tướng ngăn vậy.

Văn Hiến lên tiếng:

- Có lẽ chúng ta phải vào tận sào huyệt của chúng ở Giản Phố Châu để dò xem bọn chúng thuộc tổ chức nào, gồm những ai, bọn chúng đang dự tính gì thì mới có cách giải quyết tận gốc rễ vấn đề được.

Hồng Liệt hăng hái nói:

- Đúng vậy! Nhưng chúng ta hãy tìm xem cái cơ sở ở Hội An của chúng trước đã.

Văn Hiến gật đầu:

- Ý kiến hay! Sau khi gặp Đoàn Phong, chúng ta trở ra Hội An. Ta với ngươi sẽ lo vụ này.

Sau khi ăn uống xong họ lên đường. Đến quan lộ, Võ Trụ cùng Chí Hiếu rẽ lên Kim Sơn còn Hồng Liệt và Văn Hiến phóng ngựa vào Phù Ly. Họ dừng lại trước cổng huyện đường Phù Ly, cả hai nhảy xuống ngựa nói với người lính gác xin vào gặp Đoàn Phong và quan khâm sai. Tên lính vui vẻ để họ vào. Vừa dắt ngựa vào bên trong, Đinh Hồng Liệt bỗng la lớn:

- Ủa? Đây không phải là con Bạch mã của ta sao? Tên trộm kia làm gì ở đây vậy? Hà hà... Lưới trời lồng lộng, ngươi có chạy đằng trời cũng không thoát khỏi tay ta mà!

Chàng đến chỗ con Bạch mã của mình, đưa tay vuốt ve nó:

- Mày ngốc thế, sao lại để kẻ khác trộm đi mà mày cũng nghe lời bỏ ta vậy? Từ nay phải biết khôn nhé.

Con ngựa như biết lỗi, nó quay đầu liếm vào tay Hồng Liệt, đuôi vẫy nhẹ mấy cái. Con Bạch mã chàng vừa cưỡi đến cũng theo vào, hai con cụng mũi nhau. Chúng là bạn cùng trại nên còn nhớ nhau. Hồng Liệt vuốt đầu cả hai con nói:

- Hai ngươi ở đây đừng cho ai leo lên lưng nữa nhé. Ta vào tìm xem tên trộm kia ở đâu để cho hắn một bài học.

Vừa định xoay người bước đi, không hiểu nghĩ sao chàng khựng lại, nói với Văn Hiến:

- Ngươi vào tìm Đoàn Phong đi. Ta phải ở lại đây canh chừng tên trộm đạo. Phen này nhất định không cho hắn trốn thoát được.

Văn Hiến cột ngựa xong cười nói:

- Cũng được. Nhớ đừng để hắn dông mất nữa nhé.

Người trực ban hướng dẫn Văn Hiến đến căn phòng dành riêng cho quan khâm sai. Khi chàng bước vào thì thấy một người thanh niên mặc đồ trắng đang nói chuyện với Tôn Thất Dục, có cả Đoàn Phong và Ngô Mãnh ở đó.

Văn Hiến cúi chào:

- Thứ dân là Trương Văn Hiến xin chào ngài thượng thư.

Đoàn Phong và Ngô Mãnh thấy Văn Hiến mừng rỡ đứng lên đón. Đoàn Phong giới thiệu Văn Hiến với Tôn Thất Dục. Tôn Thất Dục nhìn Văn Hiến với ánh mắt quan sát:

- Mời anh ngồi. Tôi cũng đã từng nghe quan nội hữu Trương Văn Hạnh nói về anh. Tài ba như anh, lại còn trẻ, sao không ra giúp nước mà sớm chọn thú điền viên thế?

Văn Hiến ngồi xuống chiếc ghế còn trống, chàng từ tốn đáp:

- Vãn sinh vì nhận thấy tài mình chưa đủ nên còn phải ở nhà trui rèn thêm. Vả lại bây giờ thiên hạ thái bình, triều đình đã có lắm bậc hiền tài như ngài thượng thư đây, chút tài hèn như vãn sinh có xá là gì, chỉ e làm vướng chân thiên hạ thêm mà thôi.

Tôn Thất Dục mỉm cười:

- Nói hay lắm. Lời khiêm tốn, ý ngạo đời. Tuổi trẻ bụng chứa kinh luân, lời lẽ ứng xử rõ ràng. Nếu anh chờ thời loạn thì hãy chuẩn bị đi.

- Vãn sinh hi vọng Võ vương cũng là bậc minh quân như những chúa đời trước.

Thất Dục gật đầu:

- Ta cũng mong như vậy.

Rồi ông quay sang người thanh niên áo trắng:

- Xin lỗi, Trần Bạch Mai huynh đệ trình bày tiếp đi.

Người thanh niên áo trắng tên Trần Bạch Mai khẽ cúi đầu chào Văn Hiến rồi nói tiếp:

- Gia phụ lúc đó cũng đi theo Trần bá phụ trên chuyến thuyền từ Gia Định về kinh để minh oan. Trong khi ấy, cả nhà bá phụ cùng gia đình vãn sinh bị quan điều khiển Trương Phúc Vĩnh bắt nhốt rồi dâng sớ về triều tâu rằng bá phụ mưu phản, thông đồng với giặc Cao Miên nay lộ việc đã bỏ trốn. Lúc ra đến Quảng Nam thì bị gió lớn nên bá phụ ghé thuyền vào cửa Hàn rồi nhờ tổng đốc dinh Quảng Nam dâng sớ về triều minh oan. Triều thần vì bênh vực cho điều khiển Trương Phúc Vĩnh nên dèm tâu Chúa Ninh buộc tội bá phụ làm phản. Chúa Ninh suy xét nội tình chưa tin lắm nên hạ chỉ tạm giam bá phụ trong lao ở Quảng Nam để điều tra. Bá phụ vì uất ức mà thổ huyết chết trong tù, không biết xác được chôn ở đâu, còn những người tùy tùng đi theo trên chiếc thuyền, kể cả gia phụ thì không thấy một ai trở về. Về sau, may có quan điều khiển Nguyễn Phúc Triêm đứng ra làm chứng, minh oan nên bá phụ được Chúa Ninh miễn tội và truy tặng chức đô đốc. Gia đình bá phụ và vãn sinh được bình an. Lần này vãn sinh ra đây là để tìm lại mộ phần của bá phụ và truy tìm tung tích của gia phụ cùng những người đi theo lúc ấy.

Tôn Thất Dục nghe đến đây thở dài nói:

- Vụ oan tình của quan tổng binh Định Sách hầu Trần Đại Định đã khiến Chúa Ninh Nguyễn Phúc Chú hối tiếc vô cùng. Tuy điều khiển Trương Phúc Vĩnh bị giáng chức xuống làm cai đội nhưng bản thân ta cảm thấy không vừa lòng với bản án đó chút nào. Cái tội làm tướng ở biên cương không tròn nhiệm vụ, còn dám dối chúa hãm hại người trung lương đáng lý phải bêu đầu hoặc hạ làm thứ dân mới thỏa đáng. Tiếc rằng lúc ấy ta chỉ giữ một chức vụ nhỏ trong Hình bộ nên chẳng làm sao được.

Trần Bạch Mai hỏi ngay:

- Những người xét xử vụ án của Trần bá phụ ở Hình bộ nay chỉ còn lại ngài thượng thư. Mong ngài giúp vãn sinh tìm ra mộ phần của bá phụ cùng tung tích gia phụ và những người tùy tùng trong đoàn.

Nói đến đây ánh mắt của Trần Bạch Mai long lanh như rướm lệ. Tôn Thất Dục động lòng nói:

- Được. Hiện Hình bộ còn lưu giữ hồ sơ vụ án đó. Ta sẽ cho người lục lại rồi đến dinh Quảng Nam dò tìm xem lúc đó họ đã mai táng Định Sách hầu ở đâu cũng như những tùy tùng vì sao lại bị mất tích.

Trần Bạch Mai nghe nói mừng rỡ:

- Đa tạ ngài thượng thư! Ân đức này Trần gia sẽ ghi tạc muôn đời.

- Gia đình Định Sách hầu giờ này thế nào?

- Sau cái chết của bá phụ, bá mẫu đã đem anh Trần Đại Lực trở về Hà Tiên để sống với ông ngoại là Mạc Cửu gia. Cơ nghiệp nội bá tổ của vãn sinh ở Giản Phố Châu coi như không còn gì, chỉ còn anh em vãn sinh là dòng thứ ở lại đó.

Thất Dục cảm thán:

- Trần Thượng Công có công rất lớn trong việc xây dựng Giản Phố Châu và vùng Gia Định, không ngờ con cháu lại có kết cuộc thảm thương như vậy. Ta còn chút công việc ở đây chưa giải quyết xong, Trần công tử có thể nấn ná lại chờ ta một thời gian không?

Ánh mắt của Bạch Mai hơi sậm lại nhưng chỉ một thoáng chàng tươi ngay nét mặt đáp:

- Dạ được! Vãn sinh sẽ đợi.

Thất Dục thoáng thấy ánh mắt đó biết Bạch Mai đang nóng lòng nên ông đổi ý:

- Ta biết công tử ngàn dặm tìm cha nên nóng lòng muốn đi ngay phải không? Thôi được, ta có thể cử Ngô Mãnh thay ta ra dinh Quảng Nam để lo mọi việc. Công tử đồng ý cách này chứ?

- Nếu ngài thượng thư còn công việc thì vãn sinh đi cùng Ngô huynh cũng được.

Nói xong, Bạch Mai đưa cặp mắt đen lánh nhìn Ngô Mãnh như muốn nói lời cảm ơn trước. Ngô Mãnh nhìn thấy ánh mắt đó trong lòng bỗng nhiên rúng động. Chàng nói:

- Mãnh tôi là người thô lỗ không khéo ăn nói. Nếu việc bất thành xin Trần huynh đừng trách nhé.

Bạch Mai nở nụ cười trên đôi môi nhỏ nhắn xinh đẹp:

- Tôi cảm ơn Ngô huynh còn chưa hết thì làm sao dám trách? Khi nào chúng ta có thể lên đường?

Ngô Mãnh đưa mắt nhìn Tôn Thất Dục và Đoàn Phong như hỏi ý kiến. Tôn Thất Dục nói:

- Trần công tử đây đang nóng lòng, ngươi có thể đi ngay hôm nay cũng được. Việc ở đây để Phong nhi lo liệu.

Bạch Mai chắp tay đứng lên, cúi đầu nói:

- Đa tạ tấm lòng nhân hậu của ngài thượng thư. Vãn sinh xin cáo từ.

Nói xong, chàng khẽ gật đầu chào Đoàn Phong và Văn Hiến rồi quay người bước ra ngoài. Ngô Mãnh cũng đứng lên từ giã mọi người. Văn Hiến nhìn theo chàng trai áo trắng mỉm cười bí hiểm. Đoàn Phong lấy làm lạ hỏi:

- Anh cười gì vậy? Anh biết chàng trai này à?

Văn Hiến đáp:

- Tôi không biết nhưng tên trộm biết. Chàng trai này ăn cắp con Bạch mã của hắn, giờ này hắn đang đợi bên ngoài để thanh toán món nợ cũ.

Đoàn Phong bật cười:

- Đúng là oan gia đối đầu! Hắn được thiên hạ tặng cho danh hiệu Thần Thâu mà lại bị người khác trộm mất ngựa thì làm sao hắn không tức cho được? Phen này có chuyện vui rồi. À, tình hình đêm qua thế nào?

Văn Hiến đưa mắt nhìn Tôn Thất Dục rồi kể sơ lược mọi chuyện. Xong chàng mới nói:

- Trần Đại Chí cấu kết với bọn Tàu buôn bán trái phép lại còn toan giết hại Trần gia đoạt lấy cây bảo đao. Bọn chúng còn tính giết luôn cả Lý Tập và Đỗ Thiêm để thủ tiêu nhân chứng. Theo ý ngài thượng thư chúng ta nên làm gì?

Tôn Thất Dục nói:

- Nếu việc này có liên quan tới người Hoa thì chúng ta phải hết sức cẩn thận vì chuyện quan hệ đến vấn đề bang giao giữa hai nước. Các anh nên nhớ rằng Võ vương đang rất muốn lấy lòng Thanh triều để mong họ chấp thuận việc xưng vương. Do đó việc bắt giam Trần Đại Chí thì được, vì hắn là người Đại Việt, nhưng còn bọn người Hoa thì phải dè dặt. Đối phó với chúng chỉ nên dùng cách người giang hồ thanh toán kẻ giang hồ mà thôi.

Văn Hiến nói:

- Vãn sinh hiểu rồi. Nhưng hình như đằng sau sự việc này còn ẩn chứa một âm mưu gì đó lớn hơn chứ không phải chỉ là việc bán buôn, cướp đoạt. Thượng thư có nghĩ như thế không?

Thất Dục mỉm cười:

- Người Tàu thì lúc nào chẳng có âm mưu đối với dân tộc chúng ta? Việc này các anh cứ chủ động khám phá, ta sẽ bí mật yểm trợ. Nhớ là đừng để tổn hại đến mối bang giao giữa hai nước.

Văn Hiến “dạ” một tiếng rồi quay sang hỏi Đoàn Phong:

- Lý Tập, Đỗ Thiêm đâu?

Đoàn Phong mỉm cười:

- Tôi đã đưa họ cùng gia đình đến một nơi an toàn rồi.

Văn Hiến đưa ngón tay cái lên tỏ ý khen ngợi. Đoàn Phong hỏi Tôn Thất Dục:

- Thúc phụ định chừng nào thì gởi trát bắt Đại Chí cùng bọn thương buôn?

- Cháu cho người mang thư của ta báo cho Hoàng Công Đức ba hôm nữa thì tạm giam ba tên Đại Chí, Thừa Ân và Đồng Bách chờ ngày ra công đường. Mười ngày sau nữa mới xét xử để bọn chúng có thời gian chạy vạy. Ta muốn biết kẻ đỡ đầu bọn chúng là ai. Nhớ là Huỳnh Hảo Hớn và tên quan huyện Chương Nghĩa cũng phải có mặt tại công đường hôm đó.

Văn Hiến tiếp lời:

- Việc ở đây coi như tạm ổn. Bọn vãn sinh phải trở ra Hội An xem đám Dương Tử Tam Kiếm có hành động gì kế tiếp. Sau đó, có lẽ phải vào tận Giản Phố để điều tra gốc gác của tên Lý đại vương nào đó.

Tôn Thất Dục gật đầu:

- Các anh đi đi!

Văn Hiến đứng lên chào Tôn Thất Dục rồi nói với Đoàn Phong:

- Chúng ta ra ngoài xem thử màn kịch vui giữa hai tên trộm kết thúc thế nào rồi.

Nhắc lại Trần Bạch Mai cùng Ngô Mãnh lúc rời khỏi phòng bước ra ngoài định đến lấy ngựa thì thấy ở đó có ba con ngựa, hai trắng một đen đang đứng sát nhau. Trên lưng chúng là một chàng thanh niên mặc áo lam nằm ngang vắt chân chữ ngũ, miệng huýt gió một khúc nhạc đồng quê xứ Quảng. Bạch Mai vừa nhìn thấy chàng trai nọ thì giật mình vội níu tay áo Ngô Mãnh đứng lại rồi hối hả kéo anh ta đi ngược về phía cổng huyện đường. Ngô Mãnh lấy lạ hỏi:

- Trần huynh không lấy ngựa để đi sao?

Bạch Mai mặt hơi ửng đỏ đáp:

- Đi, tôi tìm con ngựa khác. Con ngựa này không đủ sức đi đường xa.

Chợt có tiếng cười của chàng trai áo lam vang lên:

- Con ngựa này không đủ sức đi đường xa! Ha ha... Nó không đủ sức đi đường xa hay là vì nó không phải của ngươi?

Nói rồi, Hồng Liệt bật ngồi dậy phóng người xuống đất chạy nhanh đến chặn ngang trước mặt hai người:

- Sao? Ngươi trả lời đi chứ?

Trần Bạch Mai mặt đỏ bừng vì thẹn, chàng gắt giọng:

- Ừ, thì ta ăn cắp đó! Giờ trả lại cho ngươi là huề chứ gì?

Hồng Liệt cười lớn:

- Ngươi nói dễ nghe quá há? Ăn cắp bị bắt quả tang rồi nói trả lại là huề. Ta từ bé đến lớn chưa từng nghe ai lý sự kiểu này cả. Ngươi học ở đâu vậy?

Ngô Mãnh nghe hai người đối đáp thì ngạc nhiên vô cùng. Chàng đưa mắt hết nhìn Bạch Mai lại nhìn Hồng Liệt. Bạch Mai thấy Ngô Mãnh nhìn mình lại càng thẹn hơn, mặt chàng đỏ gay trông đẹp chẳng khác gì thiếu nữ. Thẹn quá hóa giận, Bạch Mai đâm liều:

- Chưa nghe thì giờ nghe rồi đó! Ngươi không nhận lại thì ta sẽ lấy luôn. Ngươi làm gì được ta?

Ngô Mãnh giờ đã hiểu chuyện, chàng nhìn Hồng Liệt cười to:

- Ha ha... Vậy là cái tên Thần Thâu của ngươi nên nhường lại cho người bạn này rồi. Chẳng những thế ngươi còn phải bái y làm sư phụ để học thêm nghề ăn trộm cho cao tay hơn mới được.

Hồng Liệt biết Ngô Mãnh nói đùa nhưng cũng không tránh khỏi tự ái. Chàng lớn tiếng:

- Học thêm hả? Bây giờ ta sẽ dạy cho hắn một bài học thì có!

(còn tiếp)
 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Dứt lời chàng ra chiêu tấn công Bạch Mai. Bạch Mai vội chuyển bộ né đòn, thân thủ của chàng uyển chuyển nhẹ nhàng và rất tài tình. Trước những đòn đánh liên tục của Hồng Liệt, chàng đều tránh khỏi dễ dàng. Ngô Mãnh liếc qua thân thủ của Bạch Mai thì biết ngay chàng ta là cao thủ thượng thặng nên bước lui lại khoanh tay đứng nhìn. Chàng cũng muốn biết xem kẻ bỏ công ngàn dặm tìm cha này bản lĩnh đến bậc nào. Hồng Liệt đánh luôn năm đòn mà không trúng được địch thủ đòn nào liền buột miệng khen:

- Khinh công khá lắm! Hèn chi ngươi chẳng táo gan giữa ban ngày ban mặt ăn cắp ngựa của ta. Coi chừng nhé, ta nặng tay hơn đây!

Nói xong, chàng xuất chiêu nhanh hơn và những thế võ đánh ra hiểm độc hơn. Bạch Mai lần này phải vất vả tận dụng hết tài khinh công mới tránh được. Bạch Mai tức giận la lên:

- Ta nhường ngươi mấy chiêu coi như tạ lỗi mượn đỡ ngựa. Giờ ta phản công đây!

Dứt lời, chàng chuyển bộ, hai tay múa quyền vun vút phản công trở lại. Bóng quyền mờ ảo, Hồng Liệt như thấy có hàng trăm cú đấm bao trùm khắp nơi bổ vào người mình. Chàng ngạc nhiên vô cùng, vội vàng tung người lên cao thoát khỏi vùng quyền ảnh rồi lướt người ra xa, miệng la lớn:

- Khoan đã! Anh bạn học ở đâu môn Vô ảnh thần quyền này vậy?

Bạch Mai mỉm cười đắc ý hỏi:

- Sao? Sợ rồi phải không?

Hồng Liệt gắt:

- Ta sợ gì nhà ngươi! Ta chỉ muốn biết ngươi học ở đâu môn quyền ấy mà thôi.

Bạch Mai vênh mặt:

- Ngươi hỏi để làm gì? Đến xin học hả? Dập đầu bái sư đi ta sẽ dạy cho vài miếng phòng thân.

Hồng Liệt nghe nói tức giận thét lên:

- Quyền của ngươi còn kém lắm, ta thèm vào! Coi đây!

Dứt lời, chàng lướt nhanh người tới, tay quyền múa ra vun vút, quyền ảnh mờ trời tấn công Bạch Mai. Bạch Mai kinh hãi vội vã tung người lên cao né tránh rồi lướt ra xa, thân ảnh né đòn lặp lại chẳng khác gì Hồng Liệt ban nãy. Chàng vô cùng ngạc nhiên la lớn:

- Vô ảnh thần quyền! Ngươi học ở đâu vậy?

Hồng Liệt vênh mặt lại:

- Sao? Sợ rồi phải không? Ngươi hỏi để làm gì? Đến xin học hả? Dập đầu bái sư đi ta sẽ dạy cho vài miếng phòng thân.

Chàng đáp lại y nguyên lời Bạch Mai vừa nói, cố ý chọc tức đối phương. Ngô Mãnh đứng bên ngoài nhìn thấy thân thủ hai người cùng một lộ số cũng lấy làm lạ. Tuy vậy, thấy cách đùa cợt của hai bên, Mãnh không nín được cười. Phần Bạch Mai, khi nhìn thấy đường quyền cùng môn khinh công của Hồng Liệt liền nhớ đến người sư phụ cũng là em kết nghĩa của cha mình năm xưa đã mất tích trong chuyến về kinh thì nóng lòng bước gần lại hỏi gấp:

- Ta hỏi thật đó, không phải đùa đâu. Ngươi nói ngay đi. Ngươi học quyền pháp và khinh công ấy ở đâu? Học của ai? Người ấy tên gì?

Bạch Mai hỏi dồn dập làm cho Hồng Liệt bối rối. Nhìn thấy nét căng thẳng và nôn nóng trên khuôn mặt xinh đẹp của Bạch Mai, chàng nghĩ hẳn là hắn có nguyên nhân quan trọng gì đây. Tuy vậy, chàng chưa muốn trả lời ngay mà hỏi lại:

- Trông ngươi rất nóng lòng muốn biết điều này. Cho ta biết lý do rồi ta sẽ nói cho nghe.

- Ta đang đi tìm tung tích của gia phụ và sư phụ đã mất tích mười mấy năm về trước trong chuyến từ Gia Định về kinh. Vô ảnh thần quyền cùng môn khinh công Thần hành vô ảnh là tuyệt học của sư phụ ta. Giờ ngươi nói ra được chưa?

Hồng Liệt nghe nói giật mình hỏi:

- Sư phụ ngươi có phải là Vô ảnh thần quyền Công Tôn Vũ không?

Bạch Mai mừng rỡ reo lên, quên rằng cả hai vừa đánh nhau chí chết, chàng nắm tay Hồng Liệt lắc mạnh, giọng run run:

- Đúng rồi! Đúng rồi! Ngươi biết sư phụ ta sao? Sư phụ còn sống không? Người hiện giờ ở đâu? Ngươi nói nhanh đi!

Hồng Liệt giật tay mình khỏi tay Bạch Mai rồi nói:

- Ngươi làm gì mà nôn nóng như con gái vậy? Để thong thả ta trả lời chứ. Ngươi hỏi cả chục câu một lúc ta biết trả lời câu nào trước câu nào sau?

Nghe Hồng Liệt ví mình như con gái, Bạch Mai thẹn đến đỏ mặt. Chàng lí nhí:

- Xin lỗi... Ta vì nóng lòng muốn biết tin gia phụ cùng sư phụ nên quên cả ý tứ. Ngươi bỏ qua nhé. Giờ ngươi nói đi.

Lúc đó, Đoàn Phong và Trương Văn Hiến đã ra khỏi cửa nha môn. Cả hai cùng bước đến đứng cạnh Ngô Mãnh. Mãnh đưa tay ra dấu im lặng. Cả ba đều quan sát thấy nét mặt Đinh Hồng Liệt trở nên buồn bã, chàng hít một hơi dài như cố nén cảm xúc rồi nói:

- Chẳng những ta biết ông ấy mà ta còn là học trò của người nữa. Võ nghệ của ta đều do sư phụ truyền thụ cho.

Bạch Mai mừng rỡ reo lên:

- Thật vậy sao?

Chàng định đưa tay nắm lấy tay Hồng Liệt giục nói nhanh lên nhưng sực nhớ lại việc lúc nãy, chàng đỏ mặt vội rút tay về. Cố dằn nỗi phấn khích, chàng hối:

- Sư phụ bây giờ ở đâu? Người còn mạnh khỏe chứ?

Hồng Liệt buồn bã đáp:

- Người đã tạ thế hơn năm nay rồi.

Bạch Mai kinh hãi hỏi:

- Người đã tạ thế rồi à? Tại sao vậy? Còn gia phụ? Ngươi có gặp cha ta không?

- Bá phụ có phải là Trần Đại Thành không?

Sắc mặt của Bạch Mai trở nên căng thẳng cực độ. Chàng nói nhanh:

- Đúng rồi! Người hiện đang ở đâu?

Hồng Liệt mím môi im lặng một lát rồi đáp:

- Bá phụ mất từ mười ba năm trước rồi. Sư phụ và ta là người canh mộ cho ông ấy.

Bạch Mai lảo đảo người rồi ngã quị xuống hôn mê. Hồng Liệt thất kinh vội vàng bước nhanh đến đưa hai tay ra đỡ. Chàng bỗng giật thót người khi vừa chạm vào thân hình mềm mại và nhỏ nhắn của Bạch Mai. Hồng Liệt định thả hắn xuống nhưng nghĩ không tiện, cũng không biết tính sao liền đưa mắt nhìn Văn Hiến:

- Tên đồ gàn, ngươi giỏi nghề thuốc mau lại giúp ta cứu người đi!

Văn Hiến chắp hai tay sau lưng tủm tỉm cười:

- Nếu ngươi sợ thì cứ đặt người ta nằm xuống đó. Chỉ là quá xúc động nên ngất đi thôi, một lát sẽ tỉnh lại ngay thôi mà.

Hồng Liệt không biết làm gì hơn bèn đặt Bạch Mai nằm xuống đất rồi đứng lên, lo lắng nhìn vào khuôn mặt xinh đẹp của chàng mỹ nam tử theo dõi từng diễn biến nhỏ. Văn Hiến bỗng vỗ nhẹ tay cười nói:

- Người bình thường thì “không đánh nhau không thành bạn”. Còn tên trộm như ngươi thì “không ăn trộm không nhận được người thân”. Chúc mừng, chúc mừng!

Hồng Liệt đỏ mặt gắt:

- Người ta nằm im sắp chết ngươi không chịu cứu lại còn đứng đó đùa cợt được sao? Sách vở thánh hiền ngươi học rồi ném xó nào? Đồ vô lương tâm!

Chợt Bạch Mai mở mắt ra. Chàng thấy mình đang nằm dưới đất thì giật bắn người như bị rắn cắn, vội vàng bật người đứng lên, thân pháp nhẹ nhàng đẹp mắt. Mặt ửng đỏ vì hổ thẹn, chàng vội đưa tay sửa lại khăn cột đầu rồi phủi nhanh những bụi đất bám trên mình rồi nói:

- Xin lỗi. Ta vì quá xúc động nên đã bêu xấu trước mặt mọi người.

Và như sực nhớ lại lời của Đinh Hồng Liệt, chàng không ngăn được mối thương tâm, đầu gục xuống, hai dòng lệ từ từ chảy dài trên má. Có lẽ sự kiềm nén đã quá sức chịu đựng, cuối cùng chàng đành đưa hai tay bưng mặt òa khóc nức nở như một đứa con gái gục khóc trước linh cửu của cha mình. Bốn chàng thanh niên đứng đó nhìn mà không khỏi động mối thương tâm. Họ im lặng để cho Bạch Mai khóc. Họ biết lúc này chỉ có nước mắt mới làm dịu bớt được cơn đau trong lòng chàng trai mảnh khảnh này. Một lúc sau, khi đã vơi bớt sự đau thương, Bạch Mai ngưng khóc, đưa tay áo chặm nước mắt với điệu bộ bối rối thật đáng yêu. Chàng nhìn Hồng Liệt nói:

- Xin lỗi.. Để các anh chê cười rồi. À, tôi quên chưa hỏi tên của anh. Tên tôi là Trần Bạch Mai.

Hồng Liệt cúi đầu chào:

- Đinh Hồng Liệt xin ra mắt sư huynh.

Bạch Mai gượng cười:

- Đừng gọi tôi là sư huynh. Tuổi tôi nhỏ hơn anh đó.

- Ai nhập môn trước thì làm sư huynh, đâu cần phân biệt tuổi tác.

- Thôi cũng được. Mộ của gia phụ và sư phụ ở đâu?

- Trong một khu rừng bên mé tây cửa Hàn.

Bạch Mai hai mắt đỏ hoe, sụt sùi hỏi:

- Anh có từng nghe qua sư phụ nói vì sao gia phụ mất không?

- Có. Chuyện dài dòng lắm.

Đoàn Phong bỗng lên tiếng:

- Đã thế thì chúng ta nên tìm một nơi ngồi nghỉ chân để Hồng Liệt huynh kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Trần huynh nghe. Chắc Trần huynh cũng mỏi mệt lắm rồi. Đinh huynh đưa Trần huynh vào dịch quán nghỉ chân đi.

Bạch Mai đưa mắt nhìn Đoàn Phong nói:

- Cảm ơn Phong huynh. Mời các anh cùng đi với chúng tôi.

Đoàn Phong mỉm cười:

- Việc riêng của Trần gia, chúng tôi đâu thể nghe.

- Không sao. Tôi cũng muốn cho mọi người biết rõ thêm mối oan tình của Trần gia chúng tôi. Các anh đừng ngại. Không biết ngài thượng thư có thời gian không?

- Chắc là có. Vậy chúng ta cùng trở lại phòng của người đi.

Mọi người kéo nhau trở lại phòng của Tôn Thất Dục. Ông cũng vừa viết xong thủ lệnh cho tuần phủ Quy Nhơn. Thấy mọi người trở lại, ông ngạc nhiên hỏi:

- Có việc gì thế?

Đoàn Phong đáp:

- Trần huynh đệ đã tìm ra tung tích của cha mình từ nơi Hồng Liệt huynh. Chàng ta muốn thúc thúc cùng nghe lại câu chuyện oan tình xưa.

- Thế à? Sao lại có chuyện may mắn thế? Tất cả ngồi xuống đi! Ta cũng muốn nghe những ẩn tình bên trong vụ án để hoàn tất hồ sơ cho đúng đắn.

Mọi người chia nhau ngồi quanh chiếc bàn làm việc của Tôn Thất Dục. Bạch Mai nóng lòng giục Hồng Liệt:

- Anh kể đi! Từ đầu đến cuối những gì mà anh đã nghe sư phụ nói.

Hồng Liệt thong thả:

- Sư phụ kể rằng từ lúc Định Sách hầu bị Trương Phúc Vĩnh trở mặt vu cáo là thông đồng với giặc Cao Miên làm phản, vì không muốn danh dự họ Trần bị bôi nhọ nên ông quyết định dùng thuyền chiến từ Gia Định ra Phú Xuân gặp chúa để đích thân minh oan cho mình. Trong chuyến đó có bá phụ Trần Đại Thành, cha của sư huynh, cùng sư phụ Công Tôn Vũ đi theo.

Bạch Mai chen vào:

- Lúc ấy tôi vừa lên tám. Cha tôi là em chú bác của bá phụ Trần Đại Định. Sau khi bá phụ ra đi thì toàn bộ Trần gia trong đó có gia đình tôi bị Trương Phúc Vĩnh cho người bắt giam lại vì tin rằng bá phụ đã bỏ trốn về Quảng Đông, Trung Quốc. Mãi cho đến khi được quan điều khiển Nguyễn Phúc Triêm giúp đỡ đứng ra làm chứng minh oan thì chúng tôi mới được thả ra.

Hồng Liệt kể tiếp:

- Khi thuyền ra đến núi Bút La ngoài khơi Quảng Ngãi thì Thành bá phụ nói với Định bá phụ rằng: “Trương Phúc Vĩnh là người có thế thần ở triều đình Đại Việt, tay chân bè phái ở đó rất đông. Nay anh muốn về triều minh oan thì lấy ai đứng ra làm chứng bênh vực cho? Chi bằng tiện đường ở đây chúng ta chạy thẳng về Việt Đông tìm nơi an thân còn hơn là về triều để cho bọn chúng mổ xẻ, băm vằm.” Nghe thấy vậy, Định Sách hầu nói: “Cha ta là Thượng Xuyên Công đã được hưởng ân dày của triều đình, lại từng được dụ rằng: “Họ Nguyễn làm vương, họ Trần làm tướng, đời đời không dứt tước công hầu,” điều ấy thật quá vinh hạnh. Nay nhất thời viên biên soái Trương Phúc Vĩnh có lòng che lấp riêng tư, nếu mình không về triều đình bày tỏ, tức là có tội phản nghịch. Như vậy sự nghiệp của tổ tông khác gì núi đổ thành hang hốc, chẳng những làm tôi bất trung mà làm con cũng bất hiếu, ta còn mặt mũi nào đứng giữa trời đất nữa?”[1] Nói rồi ra lệnh cho thuyền cập vào cửa Đại Chiêm. Thành bá phụ không nghe, giành lấy tay lái của tài công cho thuyền hướng ra biển Đông định trở về lại Quảng Đông. Lúc đó đang mùa gió nam thổi mạnh, Định bá phụ sợ thuyền đi quá xa thì khó lòng trở lại nên trong lòng nóng nảy la hét bảo Thành bá phụ dừng lại. Mãi mà Thành bá phụ vẫn không nghe, Định bá phụ không biết làm sao hơn đành rút gươm ra chém Thành bá phụ một nhát từ vai xuống đến đai lưng. Thành bá phụ trúng một kiếm ngã gục bên tay lái. Ông quay lại run rẩy nói với Định bá phụ: “Anh nỡ giết em sao?” rồi gục xuống.

Nghe đến đây Bạch Mai bỗng rú lên một tiếng rồi ôm mặt khóc nức nở, miệng không ngớt kêu lên: “Cha ơi, cha...”

Tôn Thất Dục lên tiếng khuyên:

- Việc đã qua lâu rồi, thiếu hiệp hãy bình tĩnh để Hồng Liệt kể nốt câu chuyện xem sao.

Bạch Mai cố nén cơn xúc động ngẩng đầu lên, đưa tay áo lau nước mắt nói:

- Huynh kể tiếp đi. Sau đó thì sao?

Hồng Liệt kể tiếp:

- Lúc đó, sư phụ vốn là em kết nghĩa của Thành bá phụ, thấy vậy bèn múa quyền tấn công Định bá phụ. Hai người cận vệ của Định bá phụ vội xông vào tiếp trợ, ba người vây đánh sư phụ. Đánh nhau một lúc thì Định bá phụ bị trúng một đòn Vô ảnh quyền nơi ngực, còn sư phụ cũng trúng một nhát kiếm ngay bên đầu, đứt mất một bên tai phải cùng với một đao ngang bụng nên té xuống sàn thuyền. Định bá phụ tay ôm ngực, miệng hét bọn lính lái thuyền vào bỏ neo đậu tại cửa sông Hàn. Khi thuyền neo tại bến, Định bá phụ ôm xác Thành bá phụ khóc một hồi rồi dẫn hai người tùy tùng tìm đến dinh Quảng Nam, dặn người chăm sóc cho sư phụ. Lúc ấy, sư phụ tuy bị thương nhưng không nặng lắm, nhìn thấy nghĩa huynh bị chết thảm bỗng nổi cơn điên nên ra tay giết hết những tên thủy thủ trên thuyền rồi ôm xác Thành bá phụ đi tìm nơi an táng. Đó là một khu gò mả gần khu rừng mé tây cửa Hàn.

Bạch Mai lên tiếng:

- Sư phụ với gia phụ tuy là anh em kết nghĩa nhưng tình cảm thắm thiết hơn chân tay. Trước kia, gia phụ đã cứu sư phụ thoát khỏi cơn hấp hối vì bị kẻ thù cũ từ Trung Quốc sang đuổi giết. Từ đó, sư phụ coi gia phụ quí hơn cả tính mạng mình. Người đau lòng mà nổi cơn điên giết hết đám thủy thủ tuy không đúng nhưng cũng có nguyên nhân chính đáng.

Hồng Liệt nói:

- Từ đó sư phụ cất một mái lều bên mộ Thành bá phụ rồi ở luôn đó giữ mộ. Những diễn biến về sau của Định Sách hầu thế nào người không rõ. Điều đáng thương là sau đó vài tháng, vết chém nơi thái dương bên phải đã làm cho hai mắt của người không còn nhìn thấy gì nữa.

Mọi người nghe đến đó đều bật lên tiếng ồ xuýt xoa thương cảm. Nước mắt của Bạch Mai lại được dịp chảy tràn trên đôi má trắng hồng. Một lúc chàng hỏi:

- Sư phụ bị mù rồi làm sao sinh sống? Sao anh gặp được người?

Hồng Liệt thở dài:

- Lúc ấy, đệ mới mười hai tuổi, là một đứa trẻ ăn mày mồ côi không nơi nương tựa. Những lúc xin ăn không đủ no, đệ thường hay tìm vào những khu gò mả để ăn vụng đồ cúng. Đệ gặp sư phụ ở đó. Thấy tình cảnh của người thật đáng thương, đệ nhận lời ở lại giúp người đi kiếm miếng ăn mang về. Từ đó, đệ có được mái nhà nhưng cũng phải cố sức để tìm thêm miếng ăn cho sư phụ. Thấy đệ có lòng, sư phụ bắt đầu truyền thụ võ nghệ cho.

Tôn Thất Dục chợt lên tiếng:

- Như vậy là Định Sách hầu bị thổ huyết mà chết chỉ sau mười hai ngày trong nhà tù Quảng Nam một phần vì do uất ức và một phần cũng là do trúng đòn Vô Ảnh Quyền của sư phụ thiếu hiệp.

Bạch Mai buồn bã gật đầu:

- Có lẽ như vậy. Không biết bá phụ chết rồi họ đã chôn xác ở đâu? Còn hai người cận vệ đi theo nữa, họ là những thuộc hạ trung thành của nội bá tổ Thượng Xuyên Công. Hai người ấy đều võ nghệ cao cường, không hiểu vì sao cũng biệt tích?

Tôn Thất Dục nói:

- Thiếu hiệp cứ đi cùng Ngô Mãnh ra dinh Quảng Nam truy nguyên thử xem. Đã mười ba năm, bây giờ chắc người cũng siêu thoát về cõi Niết Bàn, còn thân xác đã hóa ra cát bụi cả rồi.

- Bá mẫu cùng Đại Lực ca đều đồng ý là nếu tìm được mộ bá phụ thì phải đem di cốt về trong đó. Cháu cũng định sẽ bốc mộ gia phụ và sư phụ rồi mang di cốt về Đại Phố Châu để gia huynh thờ phụng.

Rồi Bạch Mai quay sang Hồng Liệt hỏi:

- Vì sao sư phụ qua đời?

Hồng Liệt thở dài, giọng thương cảm:

- Cuộc sống mù lòa, trong lòng lại đau thương nên người lâm bệnh triền miên rồi tạ thế. Trước lúc lâm chung người bảo đệ phải tìm vào Đại Phố Châu để xem gia quyến của Thành bá phụ giờ thế nào. À, nghe sư phụ nói Thành bá phụ chỉ có hai người con, một trai, một gái và đều là đệ tử của người. Sư huynh là con trai trưởng của Thành bá phụ phải không? Đệ nhớ sư phụ nói đại sư huynh tên là Trần Đại Kỳ, còn sư tỷ tên là...

Trần Bạch Mai nghe Hồng Liệt hỏi đến đây thì đỏ bừng mặt, vội đứng lên cúi đầu trước mọi người.

- Vì đường sá xa xôi nên tiện nữ phải cải dạng nam trang cho thuận tiện. Đã qua mắt ngài thượng thư cùng các huynh, xin mọi người hãy thứ lỗi cho.

Nói xong, Bạch Mai đưa tay gỡ chiếc khăn cột trên đầu ra. Một suối tóc đen huyền óng ả như tơ chảy xuống bờ vai thon nhỏ. Nàng bây giờ đã biến thành một trang tuyệt sắc giai nhân. Mọi người trong phòng tuy từ trước đã có ý nghi ngờ nhưng trước sắc đẹp của nàng không ai nín được tiếng “ồ” kinh ngạc. Đôi má Bạch Mai ửng đỏ vì thẹn càng khiến cho gương mặt của nàng toát ra vẻ thùy mị, diễm kiều. Sau một lúc bàng hoàng, Đinh Hồng Liệt vui vẻ nói:

- Như vậy là từ nay đệ có được một người sư tỷ xinh đẹp rồi.

Tôn Thất Dục cũng cảm thấy vui lây. Ông nói:

- Cháu thật là một trang nữ lưu hào kiệt. Dám thay mặt huynh trưởng ngàn dặm đi tìm cha và sư phụ.

Bạch Mai nghe khen vui lắm, nàng e thẹn nói:

- Gia huynh vì bận trông coi việc kinh doanh của Thần Quyền Môn nên cháu phải đi thay. Có gì đâu mà thúc thúc bảo là nữ kiệt.

Nàng cũng đã thay đổi cách xưng hô cho thân mật hơn. Văn Hiến nhìn Hồng Liệt tủm tỉm cười. Hồng Liệt trợn mắt hỏi:

- Tên đồ gàn ngươi đang nghĩ bậy gì đó?

Văn Hiến vẫn giữ nụ cười:

- À không, ta chỉ nhớ lời ngươi nói là khi nào bắt được tên trộm ngựa ngươi sẽ...

Hồng Liệt vội cản họng:

- Câm mồm! Ngươi nói thêm nữa ta sẽ băm vằm ngươi ra.

Bạch Mai nghe Văn Hiến nhắc đến chuyện trộm ngựa thì nhoẻn miệng cười:

- Lúc đó tôi vì gấp đi tìm Tôn Thất Dục thúc thúc mà con ngựa của tôi lại yếu quá nên khi thấy con thiên lý mã, tôi chỉ định mượn đỡ để đi cho chóng. Nhưng dù sao tôi cũng đã để lại con ngựa của mình cùng mấy đỉnh vàng rồi còn gì?

Hồng Liệt cười nói:

- Sư tỷ đừng để ý đến lời tên đồ gàn này. Con ngựa đó đệ tặng cho sư tỷ làm quà ra mắt vậy.

Đôi mắt Bạch Mai sáng long lanh tỏ rõ sự vui mừng:

- Anh nói thật chứ? Con Bạch mã thật là một con ngựa tốt, lại ngoan ngoãn hết sức. Tôi thích nó lắm. Cảm ơn anh. Nhưng tặng cho tôi rồi anh lấy gì mà đi lại?

- Sư tỷ đừng lo. Đệ đã được người bạn tặng cho con Bạch mã khác rồi.

- À, vậy khi nào thì chúng ta có thể ra thăm mộ sư phụ?

- Sư tỷ nghỉ ngơi một đêm cho lại sức. Ngày mai chúng ta lên đường. Việc ở đây giao lại cho Phong huynh nhé.

Đoàn Phong gật đầu:

- Mọi người cứ an tâm lo việc ngoài đó đi.



*****​

[1] Theo Gia Định Thành Thông Chí, Trịnh Hoài Đức.
 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Hồi thứ sáu

Phủ Quy Nhơn, Huỳnh Hảo Hớn vào lòn ra cúi
Dinh Quảng Nam, Trần Bạch Mai bốc mộ người thân.

*
Khi Huỳnh Hảo Hớn cùng hai tên cận vệ vào đến phủ Quy Nhơn trời đã hoàng hôn. Phủ thành Quy Nhơn mới được xây dựng ở xã Thời Đôn, Phù Cát (sau thời Minh Mạng đổi tên là xã Châu Thành), qui mô không lớn lắm so với thành cũ ở Đồ Bàn. Chung quanh thành có tường cao một trượng rưỡi (6m), mặt tường thành dày sáu thước (khoảng 2m) trông rất vững vàng, bề thế. Bốn mặt đều có hào sâu bao bọc. Thành có hai cửa, cửa hậu phía bắc và cửa tiền phía nam. Trên mặt tường thành có nhiều tháp canh. Tuy đang thời bình nhưng các tháp canh vẫn luôn có lính gác túc trực, điều này chứng tỏ tân tuần phủ là người rất cẩn thận trong việc cai trị.

Huỳnh Hảo Hớn tìm đến tư dinh của Nguyễn Khắc Tuyên vừa lúc ông ta cùng với viên cai đội Phan Ngọc Chánh đang ngồi uống rượu sau vườn nhà.

Nguyễn Khắc Tuyên tuổi ngoài ba mươi, vốn người Thuận Hóa, huyện Hương Trà. Ông là người bà con cùng họ với cai cơ Nguyễn Cửu Thống, nhờ gia thế nên đỗ chức võ cử thời Chúa Nguyễn Phúc Chú. Cửu Thống đưa ông về giữ chức vệ úy trong đội quân túc vệ, sau được Trương Phúc Loan cất nhắc đưa vào làm tuần phủ Quy Nhơn để tạo thêm vây cánh cho mình. Khắc Tuyên có tính ham mê cổ vật và thích uống rượu. Phan Ngọc Chánh là anh em kết nghĩa, cũng là bạn rượu của ông từ thuở hàn vi nên khi được làm tuần phủ Quy Nhơn, ông đã đưa hắn theo và giao cho chức cai đội trông coi việc phòng thủ ở phủ thành. Thời bấy giờ, phủ Quy Nhơn nhất là vùng Tuy Viễn là nơi biên tái, tụ tập dân tứ phương từ khắp nơi đổ về khai hoang lập nghiệp nên tình hình trật tự trị an trong phủ huyện rất phức tạp. Ngày nào quan quân cũng phải ra sức can thiệp nhiều vụ ẩu đả lớn nhỏ. Bởi vậy, Nguyễn Khắc Tuyên đã không ngừng tăng cường việc tuần tra, canh gác khắp nơi.

Phan Ngọc Chánh vóc người cao lớn, mặt đỏ như táo, tính ngay thẳng và nóng như lửa. Ông xuất thân cơ hàn, từ nhỏ đã rất ham mê võ nghệ, sau may mắn gặp một vị sư truyền nghệ nên có được một bản lãnh kinh người, chuyên sử dụng một cây đồng côn muôn người khó địch. Khắc Tuyên nghe lính hầu báo có quan huyện Bồng Sơn xin vào gặp thì gật đầu cho đòi rồi hỏi Ngọc Chánh:

- Chú nghĩ xem hắn tìm ta ở nhà riêng vào giờ này với mục đích gì?

Ngọc Chánh mỉm cười:

- Chắc hắn đang gặp việc rắc rối nên tìm đến nhờ anh. Nghe nói tên này võ nghệ khá lắm, cũng là tay sành rượu.

- Tính hắn cũng hảo hớn giống như tên hắn vậy cho nên mới không được lòng ngài ngoại tả. Hắn mà có việc rắc rối thì cái ghế quan huyện của hắn có thể sẽ mất. Để xem sao.

Hai người nói đến đây thì đã thấy Huỳnh Hảo Hớn đi vào, trên tay ôm một gói đồ khá lớn. Hảo Hớn cúi đầu chào:

- Hạ chức xin ra mắt ngài tuần phủ, xin chào ngài cai đội. Xin lỗi đã làm mất tửu hứng của hai vị.

Ngọc Chánh đứng lên:

- Chào quan huyện Bồng Sơn, mời ngồi.

Khắc Tuyên vẫn ngồi trên ghế, mỉm cười nói với Hảo Hớn:

- Ngồi xuống đi. Ông vừa từ Bồng Sơn đến à? Uống chung rượu cho đỡ khát đi đã. Nghe nói ông cũng là người sành rượu phải không?

Hảo Hớn ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh Ngọc Chánh. Ngọc Chánh rót đầy ba chung rượu, đưa sang Hảo Hớn một chung. Hảo Hớn tiếp lấy rồi nói:

- Xin mời ngài tuần phủ, mời cai đội.

Ba người cùng nâng ly uống cạn. Hảo Hớn lên tiếng khen:

- Rượu ngon! Đây phải là thứ Bàu Đá hết sức đặc biệt đựng trong chum đất Gò Sành rồi ủ dưới đất hai năm mới có thể tạo ra được hương vị đặc biệt này.

Ngọc Chánh vỗ tay đánh “bốp” một cái, cười nói:

- Hay lắm! Thật đúng là tay hảo tửu! Đại ca, anh gặp được tri kỷ rồi đấy.

Khắc Tuyên cũng vỗ tay khen:

- Tuyệt! Mới uống một chung mà đã phân tích được chi tiết tính chất của rượu thì quả đúng là tay hảo tửu chứ chẳng chơi. Tôi mời ông thêm một chung nữa.

Nói xong, tự tay Khắc Tuyên rót đầy ba chung rượu. Hảo Hớn xoa hai bàn tay vào nhau mấy cái rồi đỡ lấy chung rượu, giọng từ tốn:

- Tuần phủ và cai đội quá khen rồi. Chẳng qua hạ chức là người Quy Nhơn nên đã quen với tính rượu Bàu Đá mà thôi. Hạ chức xin uống mừng sức khỏe của tuần phủ và cai đội.

Ba người uống cạn chung rượu thứ hai. Ngọc Chánh lại rót đầy ba chung khác rồi bưng chung rượu của mình lên nói:

- Tôi cũng xin mời quan huyện một ly để tỏ lòng ngưỡng mộ.

Lần thứ ba, vẫn một hơi cả ba người cạn sạch. Hảo Hớn đứng lên nói:

- Xin phép tuần phủ và cai đội để hạ quan được cái vinh hạnh mời lại hai ngài một chung được không ạ?

Khắc Tuyên đã có chút hảo cảm với tên quan huyện Bồng Sơn này nên mỉm cười:

- Ông ngồi xuống đi, không cần đa lễ. Tôi đang chờ uống ly rượu của ông đây.

Hảo Hớn “đa tạ,” một tiếng rồi cúi xuống lấy gói đồ mang theo để lên bàn và mở ra. Trong gói là ba chiếc hộp gỗ, bên ngoài hộp có chạm hình những vũ nữ cung đình của Chiêm quốc ngày xưa. Ông cẩn thận mở chiếc hộp thứ nhất ra, bên trong đựng một bộ đồ uống rượu gồm một chiếc bình nhỏ có vòi màu đất nâu và sáu cái chén làm bằng đất sét trắng tráng men. Ngoài thành bình rượu có khắc nổi hình hai con chim thần, biểu tượng thiêng liêng của người Chăm. Nét điêu khắc rất tinh vi, hai con chim sinh động như vật sống đậu trên thành bình. Sáu cái chén trắng mỏng có in hình những vũ nữ Chămpa đang múa hát. Hảo Hớn cầm hai cái chén khẽ va vào nhau, một tiếng “coong” thanh thoát vang lên khiến Nguyễn Khắc Tuyên bật khen:

- Chén quí!

Hảo Hớn mỉm cười đưa chén cho Khắc Tuyên rồi nói:

- Ngài tuần phủ cầm thử xem.

Khắc Tuyên đưa tay cầm cái chén, ông nói ngay:

- Nhẹ quá! Tiếng kêu lại rất thanh và chắc. Chà! Tôi chưa từng thấy qua loại chén này lần nào cả.

Hảo Hớn giọng trịnh trọng:

- Đây là bộ bình chén rượu trong cung đình Đồ Bàn, có từ thời Jaya Sinhavarman V, tức vua Ba Đích Lai ở thế kỷ thứ 15. Sau người Chăm bỏ Đồ Bàn chạy vào Thuận Thành nên đồ đạc trong cung bị cướp phá và lạc ra ngoài dân dã. Hạ quan may mắn mua lại được của một người Chăm thuộc Vương triều Bà Tranh ở Thuận Thành, Bình Thuận. Biết tuần phủ là người ưa thích cổ vật lại hảo tửu nên hôm nay hạ quan mang bộ chén rượu này vào tặng cho ngài, coi như bảo kiếm tặng tráng sĩ vậy.

Khắc Tuyên nghe nói không giấu được sự thích thú, ông chồm người tới trước:

- Ông không nói đùa đấy chứ?

- Hạ quan nào dám đùa với tuần phủ. Chỉ mong ngài không chê là hạ quan vui rồi.

Khắc Tuyên cười lớn:

- Không chê, không chê! Cảm ơn quan huyện. Ông gãi đúng chỗ ngứa của tôi rồi. Những thứ này tôi không khách sáo đâu. Tôi nhận! Ha ha...

- Bộ đồ rượu này cần phải có loại rượu đặc biệt của vua chúa Chiêm ngày xưa nữa thì mới xứng với nó.

Ngọc Chánh cảm thấy hào hứng với việc này nên lên tiếng:

- Ông đừng nói là ông cũng có loại rượu của vua Chiêm đó nhé?

Hảo Hớn nhìn Ngọc Chánh mỉm cười:

- Không nhiều nhưng một vò nhỏ thì có chứ.

Nói xong hắn mở chiếc hộp thứ hai, lấy ra một hũ rượu bằng sứ trắng Gò Sành, cổ có ba ngấn, quanh hũ chạm hình những ngôi tháp Chiêm Thành, miệng hũ được đậy bằng sáp kỹ lưỡng. Hũ chứa khoảng hai lít. Hảo Hớn trao hũ rượu cho Ngọc Chánh rồi nói với Khắc Tuyên:

- Hạ quan dự định tặng hũ rượu Tiên này cùng với bộ chén để tuần phủ thưởng thức. Nhưng nay gặp ngài cai đội ở đây nên hạ quan xin phép tặng hũ rượu lại cho ngài cai đội để làm quen. Hạ quan còn một hũ duy nhất ở nhà, xin khất lại, sẽ mang vào cho tuần phủ sau vậy.

Khắc Tuyên nói:

- Không sao. Cho ta hay cho Chánh đệ cũng vậy thôi mà. Ở đây chúng tôi vẫn chưa tìm được ai khác để cùng uống rượu cả.

Ngọc Chánh bưng hũ rượu trên tay nói:

- Đa tạ ngài quan huyện. Tôi là tên võ biền chỉ biết uống rượu, ngài tặng tôi thứ của quí này, tôi biết lấy gì tặng lại ngài để đáp lễ?

Hảo Hớn cười nói:

- Cai đội quan tâm làm gì đến chuyện đó. Ngài nhận cho là vui rồi.

Khắc Tuyên xen vào:

- Thôi đừng khách sáo nữa. Hãy mở ra, chúng ta cùng thưởng thức thứ rượu Tiên này xem sao.

Ngọc Chánh vui vẻ:

- Đúng vậy, đúng vậy!

Rồi ông ta mở nắp hũ rượu. Một mùi thơm rất dễ chịu xông vào mũi khiến mọi người cảm thấy thật sảng khoái. Khắc Tuyên thốt lên:

- Rượu ngon, rượu ngon! Chưa uống mà đã thấy ngất ngây rồi. Đây là loại rượu gì vậy?

Hảo Hớn đáp:

- Đây là rượu Tiên chỉ dành riêng cho hoàng gia Chiêm quốc. Rượu này được nấu bằng loại lúa Tiên thượng hạng, hạt nhỏ, dài và trắng muốt, vị gạo ngọt và thơm. Loại lúa Tiên này đặc biệt ngon và rất quí cho nên ngày xưa nhà Tống đã phải mang châu báu sang Chiêm Thành để đổi lấy giống mang về cho dân Trung Quốc trồng. Chiếc hũ này cũng rất đặc biệt. Rượu Tiên đựng trong hũ sành trắng, ủ dưới hầm càng lâu thì vị càng nồng nhưng lại không gắt mà hương thì thơm. Theo như người bạn của hạ quan cho biết thì hũ rượu này ông ta đã ủ hơn mười năm. Sau bán lại cho hạ quan nhưng hạ quan giữ đó chưa dám dùng. Tính ra tuổi của nó đã hơn mười lăm năm rồi đó.

Ngọc Chánh chiết rượu từ trong hũ sang chiếc bình nhỏ. Hảo Hớn mỉm cười đưa tay đỡ bình rượu nói:

- Cai đội để tôi rót cho.

Ông đưa bình lên cách ly rượu độ chừng một gang tay, trang trọng và thong thả rót rượu từ trên cao xuống từng chiếc ly. Rượu chảy từ vòi bình xuống chén thành một dòng tạo nên âm thanh trong trẻo vui tai. Rượu trong chén sủi tăm, nổi bọt thành từng cụm rồi phủ tràn khắp mặt chén. Cái hay của cách rót này ở chỗ, rượu từ trên cao chảy xuống chén mà không văng ra bên ngoài lấy một hạt nhỏ nào. Điều này cho thấy được tâm hồn bình thản, ổn định của người rót rượu cũng như tính chất keo đặc của rượu.

Khắc Tuyên khen:

- Chỉ nhìn cách rót rượu của ông, tôi đã thấy lòng thanh thản và tửu hứng dâng cao rồi. Ông đúng là tay hảo tửu bậc nhất mà tôi từng quen biết.

Hảo Hớn lại mỉm cười:

- Mời tuần phủ và cai đội. Hãy thưởng thức khi tăm rượu chưa tan.

Ba người cùng nâng chén. Khắc Tuyên đưa chén rượu lên ngang mũi và hít một hơi đầy buồng phổi để tận hưởng cái hương của rượu trước rồi mới chậm rãi thưởng thức vị của nó sau. Ông nức nở khen:

- Thật đúng với cái tên rượu Tiên của nó. Hương thơm, vị vừa nồng vừa ngọt hậu khiến người ta uống vào có cảm giác như bay bổng trên mây. Rượu quí! Đúng là Tiên tửu!

Ngọc Chánh cũng khen:

- Đúng như vậy! Đặc biệt vô cùng, cảm giác này là lần đầu tiên trong đời tôi được hưởng thụ. Để tôi rót thử nhé?

Nói rồi ông bắt chước cách rót của Huỳnh Hảo Hớn, đưa chiếc bình lên cao rót xuống ba cái chén nhỏ. Rượu phủ bọt trên mặt chén nhưng lại có nhiều giọt bắn tung tóe ra ngoài bàn. Ngọc Chánh cười lớn:

- Tôi đúng là tên võ phu thô lỗ vô tích sự mà. Thế mới biết nghề chơi cũng lắm công phu. Tôi chịu phục ngài quan huyện rồi đó. À, tôi nói không phải xin quan huyện bỏ qua cho nhé, nhìn bề ngoài của quan huyện không ai nghĩ ngài lại là tay phong nhã thế này đâu.

Hảo Hớn cười:

- Tôi cũng chỉ là tên võ biền lỗ mãng. Thú uống rượu tôi học được ở tiên phụ nên có được chút ngón riêng mà thôi.

Ba người cùng cười rồi nâng chén uống cạn. Uống thêm vài chén nữa, Khắc Tuyên nhìn Hảo Hớn hỏi:

- Nói đi, ông có việc gì cần đến tôi phải không?

Hảo Hớn biết mình đã chinh phục được cảm tình của tuần phủ rồi nên trong bụng mừng thầm. Ông rót thêm ba chén rượu nữa rồi nói:

- Dạ vâng, quả thật hạ quan đang gặp chút khó khăn muốn nhờ tuần phủ nói giúp cho một tiếng.

- Việc gì ông cứ nói ra xem nào?

Hảo Hớn bèn đem việc bọn Trần Đại Chí qua mặt mình để buôn hàng quốc cấm và trốn thuế trình bày thật lại cho Khắc Tuyên nghe. Xong ông nói:

- Thưa tuần phủ, quả thật hạ quan có vì chút lợi riêng nên lơ là trong việc quản lý để chúng qua mặt mà không biết. Nay sự việc đã bị ngài khâm sai đại thần cho điều tra, hạ quan nghĩ chỉ còn có tuần phủ mới có thể giúp cho hạ quan giảm nhẹ được tội mà thôi.

Khắc Tuyên nghe chuyện tỏ vẻ ngần ngừ hỏi:

- Ông cũng biết ngài Hình bộ thượng thư là người liêm khiết và cứng rắn như thái úy Tô Hiến Thành[1] xưa kia rồi chứ?

- Dạ, hạ quan có biết.

- Đã thế sao ông biết ta có thể giúp được ông?

Hảo Hớn hít nhẹ một hơi, dè dặt nói:

- Hạ quan có biết tuần phủ là người quen thuộc với quan ngoại tả. Khâm sai đại thần lại là con rể của ngài ngoại tả, nếu được ngài ngoại tả nói cho một tiếng thì việc sẽ êm hơn.

Nói xong ông bưng bình rót thêm ba chén rượu đầy. Khắc Tuyên đưa tay cầm chén uống cạn:

- Hà! Việc này khó đấy! Thôi được, ông đã trình bày trung thực thì ta sẽ cố gắng nhờ anh ta nói giúp với ngài ngoại tả xem sao. Việc thành hay bại ta không chắc đâu nhé.

Hảo Hớn mừng rỡ đứng lên chắp tay cúi đầu:

- Đa tạ ngài tuần phủ! Chỉ cần ngài vui lòng giúp cho, hạ quan đã vui mừng lắm rồi. Ơn trọng này hạ quan nguyện sẽ đền đáp.

- Ông đừng cảm ơn vội, ta chỉ nói giúp thôi. Vẫn còn chưa nghe tin gì từ ngài khâm sai cả mà. Vả lại, ta là người trông coi việc binh bị, còn việc hành chính trong phủ đều do quan khám lý quyết định. Ông nên nhờ Hoàng Công Đức thì bảo đảm hơn.

- Vâng, hạ quan biết. Việc ở trên thì nhờ tuần phủ nói hộ, việc địa phương hạ quan sẽ cậy đến quan khám lý ạ.

Ngọc Chánh mỉm cười:

- Ông đụng tới hắn thì phải chuẩn bị trước cái hầu bao cho lớn.

Hảo Hớn nói:

- Cảm ơn cai đội đã mách nước.

Khắc Tuyên phẩy tay nói:

- Việc ấy cứ tạm như vậy đi. Chúng ta hãy uống rượu đã, không nên để hư mùi vị của loại quí tửu này.

Huỳnh Hảo Hớn trong lòng mừng vô cùng, ông nghĩ việc tưởng khó không ngờ lại dễ thành như vậy. Ông nhanh nhẹn rót rượu vào chung.

- Mời hai vị. Hạ quan ước gì được gần gũi để có thể cùng uống rượu với hai vị mỗi ngày thì vui biết bao.

Ngọc Chánh tỏ vẻ đồng tình:

- Tôi cũng mong được như vậy. Thiên hạ rộng lớn nhưng không dễ tìm được người tri kỷ để uống với nhau đâu. Mời quan huyện.

Ba người uống cạn ly xong Hảo Hớn đứng lên chắp tay nói:

- Cũng đã khuya, hạ quan xin cáo từ để hai vị nghỉ ngơi. Hạ quan sẽ trở lại thăm hai vị.

Khắc Tuyên và Ngọc Chánh cũng đứng lên:

- Ông về đi. Việc tôi hứa, tôi sẽ giúp cho.

Hảo Hớn cúi đầu:

- Đa tạ ngài tuần phủ, hạ quan cáo từ.

Ngọc Chánh tiễn chân Hảo Hớn ra bên ngoài. Khi ông quay trở lại bàn, Khắc Tuyên chỉ chiếc hộp nhỏ thứ ba mà Hảo Hớn còn để lại trên bàn chưa mở, mỉm cười nói:

- Hắn để quên chiếc hộp này lại. Tên này biết cách làm quan lắm. Chú mở ra xem trong đó có gì.

Ngọc Chánh mở chiếc hộp ra thấy bên trong đựng toàn là vàng liền nói:

- Ít gì cũng đến năm trăm lạng vàng ròng đấy. Hắn biết điều đó chứ đại ca.

Khắc Tuyên nói:

- Hắn thay cha giữ chiếc ghế quan huyện Bồng Sơn hơn mười năm nay, có lẽ cũng đã hốt của bá tánh nhiều lắm rồi. Hà, thời buổi này làm quan không nhận của đút lót là không xong. Ta cứ nhận rồi giúp hắn một tiếng cũng được.

Ngọc Chánh cười đẩy hộp vàng sang cho Khắc Tuyên. Tuyên lấy ra khoảng năm mươi lạng đưa cho Chánh:

- Chú cất đi để lo gia đình. Lương cai đội cũng chẳng là bao. Phần còn lại ta lấy một ít, còn bao nhiêu gửi cho anh Cửu Thống để hiếu kính ngài ngoại tả. Anh Cửu Thống vừa được Võ vương đồng ý gả đại công chúa Ngọc Huyên cho. Ta nhân số vàng này mượn hoa hiến Phật là tiện nhất.

Ngọc Chánh mỉm cười:

- Khi viết thư cho phò mã tương lai, anh cho em gởi kèm lời chúc phúc với nhé. Người ta nói một người làm quan cả làng được hưởng phúc mà.

Cả hai nhìn nhau cười.

***

Tối hôm sau Huỳnh Hảo Hớn ghé tư dinh của quan khám lý. Vợ Hoàng Công Đức vốn là em họ một người sủng thiếp của Trương Phúc Loan, nhờ thế bên vợ nên khi hắn đỗ xong Cử nhân dưới thời Chúa Phúc Chú thì được bổ về làm tri huyện Triệu Phong ở Thuận Châu, là châu Ô cũ (nay thuộc miền nam tỉnh Quảng Trị). Được tám năm, nhờ vào sự giỏi giang của vợ, hắn được Trương Phúc Loan đề bạt về làm khám lý phủ Quy Nhơn, tính đến nay đã ba năm (chức Khám lý sau đổi lại là chức quan Trấn thủ). Hoàng Công Đức tuổi độ ba mươi, còn trẻ nhưng đã có bụng nên trông bệ vệ ra dáng quan quyền. Thời còn làm tri huyện Triệu Phong, hắn đã khiến cho dân trong huyện kêu trời không thấu vì tính tham lam và hách dịch. Sau ba năm về làm khám lý ở vùng biên tái Quy Nhơn, xa “mặt trời”, hắn lại càng tham lam vộ độ và bạo ngược hơn nữa. Các hộ thương buôn phủ Quy Nhơn không hộ nào tránh được sự bòn rút có khi khéo léo có lúc trắng trợn của hắn. Quyền sinh sát hắn nắm trong tay, cho nên những vụ kiện cáo dù lớn đến đâu, nếu thân chủ chịu bỏ tiền ra thì tội nặng sẽ thành nhẹ và ngược lại.

Tuy lộng hành đến mức ấy nhưng hắn lại rất được lòng quan ngoại tả vì hàng năm hắn khôn khéo sai vợ về Phú Xuân hiếu kính hậu hĩ cho bà chị ái thiếp của Phúc Loan. Hắn còn khôn ngoan không quên bày tỏ sự hòa hảo với Nguyễn Khắc Tuyên bằng những món quà trọng hậu để quan tuần phủ vui vẻ mà lo giữ yên vùng đất biên tái nhưng màu mỡ này cho hắn tha hồ bòn rút, tác oai tác quái. Tuy nhiên giữa quan tuần phủ và quan khám lý, tính cách vốn khác biệt nhau nên trong quan hệ có vẻ bằng mặt mà không bằng lòng. Có điều họ biết rằng nếu thuận thảo với nhau thì cả hai đều có lợi, lại được ung dung làm vua một cõi nên chẳng ai dại gì mà ra mặt hiềm khích hay chống đối bên kia.

Hắn không thích rượu, chỉ mê nghe ca hát và đàn bà đẹp. Thấy đàn bà đẹp là hắn tít mắt, ác nỗi bà vợ bửu bối của hắn thuộc loại sư tử Hà Đông, lại không bao giờ rời mắt khỏi chồng nên hắn đành ôm hận nuốt nước bọt nhịn thèm. Cũng may mụ vợ hắn cũng thuộc loại mê nghe ca hát nên đêm đêm vẫn thường thuê những nàng ca kỹ hoặc đám hát vào trình diễn trong tư dinh. Công Đức nhờ thế mà con mắt đỡ phải chết thèm.

Huỳnh Hảo Hớn tìm đến xin ra mắt quan khám lý đương lúc vợ chồng Hoàng Công Đức đang xem hát. Nghe gia nhân vào báo có quan huyện Bồng Sơn ghé thăm, hắn gắt:

- Ra bảo hắn đợi một lát. Tuồng đang hồi hấp dẫn ngươi không thấy sao?

Tên gia nhân biết tính chủ nên “dạ” một tiếng rồi chạy ra nhà khách nói lại với Hảo Hớn:

- Quan huyện đợi một lát, ngài khám lý đang coi dở vở tuồng, chốc nữa ngài sẽ ra ngay.

Hảo Hớn vui vẻ nói:

- Không sao, tôi sẽ đợi.

Tên gia nhân trở gót vào trong, một lúc sau hắn bưng trà nóng ra mời khách:

- Mời quan huyện uống tách trà giải khát. Ngài khám lý sẽ ra ngay thôi.

Nói xong hắn quay trở lại nhà sau để tiếp tục coi tuồng. Hảo Hớn ngồi đợi hơn một canh giờ trong lòng vừa nóng nảy vừa bực tức. Ông ta đứng lên đi lui đi tới trong phòng khách, đi chán lại ngồi, ngồi một lúc lại đứng lên. Tên gia nhân thỉnh thoảng lại bưng một tách trà nóng khác ra thay và nói: “Ngài khám lý sẽ ra ngay thôi ạ” rồi bỏ vào trong coi hát tiếp. Hảo Hớn cố nén giận trong lòng, kiên nhẫn đợi như thế từ giữa giờ Dậu đến cuối giờ Tuất (khoảng 6-9 giờ tối), Hoàng Công Đức coi hát xong mới uể oải bước ra. Hắn nheo nheo đôi mắt buồn ngủ nhìn Hảo Hớn hỏi:

- Quan huyện mới đến à? Có việc gì mà tìm bổn quan vào giờ này vậy?

Hảo Hớn đứng lên nói:

- Chào ngài khám lý. Thật xin lỗi vì đã quấy rầy ngài đêm hôm thế này. Chỉ bởi hạ quan có chút việc gấp nên ghé thăm ngài, nhân tiện xin ngài giúp đỡ cho một việc. Hạ quan xin đội ơn ngài khám lý trước.

Công Đức bước đến chiếc tràng kỷ ngồi xuống:

- Ông ngồi xuống đi. Có phải chuyện ông để bọn con buôn buôn hàng quốc cấm và trốn thuế rồi bị ngài khâm sai đại thần bắt quả tang không?

Hảo Hớn đỏ mặt:

- Quan khám lý nắm tin tức nhanh thật. Dạ, hạ quan quả có sơ sót trong việc quản lý nên để bọn con buôn qua mặt làm càn. Vì thế hạ quan mới đường đột đến đây để xin ngài khám lý tìm cách giảm nhẹ sự việc này. Hạ quan nguyện đền ơn ngài xứng đáng.

Công Đức nheo mắt hỏi:

- Tên Trần Đại Chí được mệnh danh là “ông vua muối và gỗ”, giàu có nhất nhì ở phủ Quy Nhơn này là nhờ có ông đứng sau lưng phải không?

Hảo Hớn giật mình ấp úng:

- Dạ... đâu có ạ. Hạ quan với hắn chỉ có chút tình đồng song. Lúc nhỏ hai chúng tôi có thời gian học chữ chung một thầy nên có tình bè bạn mà thôi. Xin ngài khám lý đừng hiểu lầm.

Công Đức cười mỉm:

- Ông không qua mặt tôi nổi đâu. Nhưng gác chuyện đó sang một bên. Ông có biết ngài khâm sai hiện giờ đang ở phủ chúng ta là ai không?

- Dạ biết. Là ngài Hình bộ thượng thư.

- Thế ông biết tính cách của ngài thượng thư chứ?

- Dạ biết.

- Ông biết tính của ngài thượng thư rồi còn bảo tôi giúp đỡ là giúp đỡ bằng cách nào? Ông định hại luôn cả tôi đấy à?

- Dạ, hạ quan đâu dám có ý đó. Chỉ mong ngài, qua phu nhân, nói giúp với quan ngoại tả một tiếng. Chắc ngài khám lý cũng biết giữa quan ngoại tả và quan thượng thư có tình cha vợ con rể mà. Sau đó ở công đường xin ngài giảm nhẹ tội trạng cho chúng tôi. Ngài cũng biết Đại Chí và bọn Diệp Sanh Ký là những người giàu có, chúng hứa sẽ đền ơn ngài xứng đáng.

- Ông biết được nhiều chuyện đó chứ. Ông mách thế thì tôi sẽ thử giúp ông. Ông tính thế nào?

Huỳnh Hảo Hớn biết mình đã gãi đúng chỗ ngứa của tên tham lam này rồi nên trong bụng mừng thầm. Ông cúi xuống lấy gói đồ mang theo để lên bàn và mở ra. Trong gói có hai chiếc hộp gỗ màu đen mun rất đẹp, một hộp lớn, một hộp nhỏ hơn. Hảo Hớn mở khóa bật nắp chiếc hộp lớn ra trước. Trong hộp đựng toàn vàng khối, mỗi khối mười lượng vàng chín tuổi. Có chừng năm mươi khối như vậy. Ông mở tiếp chiếc hộp nhỏ, trong đó đựng khoảng hai mươi khối vàng. Hảo Hớn hai tay đẩy nhẹ hai hộp vàng về phía Hoàng Công Đức:

- Chiếc hộp lớn để cho ngài khám lý gởi tặng quan ngoại tả. Hộp nhỏ là phần quà lễ của chúng tôi với ngài. Việc êm xuôi, chúng tôi sẽ hiếu kính riêng ngài thêm một hộp lớn nữa. Mong ngài nhận trước cho.

Hoàng Công Đức nhìn hai hộp vàng và nghe lời hứa hẹn liền cười tít mắt:

- Ông nhanh nhảu và thẳng thắn lắm. Được! Ta không chắc chắn lắm nhưng hứa sẽ giúp cho bọn ông. Hãy coi phước của các ông lớn nhỏ thế nào.

Hảo Hớn cũng cười theo:

- Đã có ngài khám lý giúp cho thì vô phước cũng thành đại phước mà.

Công Đức uể oải đứng lên:

- Ngài khâm sai lệnh cho ta ra trát tống giam ba tên Đại Chí, Đồng Bách và Thừa Ân để mười hôm nữa giải lên công đường xét xử. Ông về nhốt chúng lại rồi mang lên phủ cho ta.

- Dạ! Mai hạ quan về sẽ cho bắt bọn chúng và giải lên phủ cho ngài. Giờ xin cáo từ để khám lý nghỉ ngơi.

- Ừ, ông về đi.

***​

Nhắc lại bọn Đinh Hồng Liệt sau khi từ giã Tôn Thất Dục, họ đến khách sạn trong vùng Phù Ly thuê phòng nghỉ ngơi để hôm sau lên đường đi Quảng Nam. Chiều hôm đó khi ra đến chợ Trà Câu ở Mộ Hoa, họ vào một quán ăn nghỉ chân. Văn Hiến nói:

- Ba người cứ đi trước lo công việc của Bạch huynh cho hoàn tất, tôi ghé vào Trần gia gặp hai ông anh của tôi bàn chút việc. Xong tôi sẽ đến cửa Hàn tìm mấy người.

Bạch Mai vẫn cải nam trang để tiện đi đường liền lên tiếng:

- Được. Hi vọng Ngô huynh giúp tìm được mộ bá phụ sớm thì chúng ta gặp nhau ở cửa Hàn, sau đó đi Hội An.

Ngô Mãnh nói:

- Tôi sẽ cố gắng.

Ăn xong họ chia tay. Ba con thiên lý mã phóng miệt mài nhưng cũng phải mất hơn hai canh giờ mới đến được phủ lỵ Quảng Ngãi. Họ nghỉ lại đêm, hôm sau lên đường tiếp. Đến xế chiều hôm sau nữa thì họ mới vượt qua sông Thu Bồn vào trong khu phố chính của dinh Quảng Nam, thuộc phủ Điện Bàn. Hồng Liệt đề nghị:

- Giờ đã trễ, đêm nay chúng ta nghỉ tại khách sạn Thu Giang, sáng mai sẽ vào dinh tìm đến Ty Án sát hỏi thăm tin tức về mộ của Định bá phụ. Xong việc sẽ về bến Hàn thăm mộ sư phụ, như thế tiện hơn.

Bạch Mai tán thành.

- Anh là thổ địa của đất này, mọi việc cứ theo ý anh là tốt hơn hết.

Sáng hôm sau họ tìm đến Ty Án sát. Viên án sát sứ là một người đàn ông tuổi ngoài năm mươi, tính tình trầm lặng nhưng tế nhị và dễ chịu. Ngô Mãnh tự giới thiệu mình rồi trao cho án sát sứ phong thư của Tôn Thất Dục, ông đọc xong nhìn Bạch Mai có vẻ thắc mắc. Bạch Mai hiểu ý liền nói:

- Thưa ngài án sát, vì để tiện việc đi lại đường xa nên cháu phải cải nam trang. Xin ngài thứ cho.

Viên án sát sứ mỉm cười:

- Làm như thế mới phải. Cô là cháu của Định Sách hầu à?

- Dạ.

Viên án sát sứ chợt buông tiếng thở dài, vẻ mặt đăm chiêu hồi tưởng lại chuyện năm xưa.

- Vụ oan án và cái chết của Định Sách hầu đã làm cho ta bứt rứt đến tận giờ. Tiếc rằng lúc ấy bè lũ của Nguyễn Phúc Vĩnh quá đông lại khôn khéo buông lời dèm tấu che mắt Chúa Ninh nên khiến người bị nhầm lẫn mà lệnh cho ta tạm giam Định Sách hầu ở đây để thẩm tra lại. Bọn gian thần còn cố tình trì hoãn việc tra xét mới khiến Định Sách hầu vì uất ức thổ huyết mà chết.

Bạch Mai mắt rươm rướm lệ hỏi:

- Nghe nói cùng đi theo Định bá phụ đến dinh Quảng Nam còn có hai người cận tướng trung thành của người nữa. Không biết giờ họ ở đâu, thưa ngài án sát?

Án sát sứ thở dài lần nữa than:

- Họ đúng là những cận vệ trung thành. Nghe người gác ngục kể lại, lúc Định Sách hầu thổ huyết qua đời, họ khóc lóc thảm thiết rồi cả hai cùng nhắc lại lời hứa với Trần Thượng Công là sẽ bảo vệ cho Định Sách hầu, nếu có điều bất trắc họ nguyện lấy cái chết để chuộc tội. Do đó, họ cùng nhau đập đầu vào vách ngục chết theo Định Sách hầu để giữ tròn lời hứa với Thượng Công.

Bạch Mai sụt sùi:

- Thảo nào ở Gia Định không còn biết tin tức gì của họ. Cả ba người sau khi chết rồi được an táng ở đâu?

- Lúc họ mất, vì còn là tội phạm đang bị giam nên lẽ ra xác phải chôn trong nghĩa địa chung của tù nhân, nhưng ta thấy dòng họ Trần của Định Sách hầu là bậc công thần khai quốc nên đã đưa sang an táng trong nghĩa trang của quân đội. Sau mọi việc sáng tỏ, Chúa Ninh truy tặng chức đô đốc nên mộ của người được xây dựng lại theo qui cách của công hầu.

Bạch Mai lộ vẻ mừng rỡ:

- Tiện nữ xin thay mặt Trần gia cảm ơn ngài án sát sứ. Cháu ra đây là theo lệnh của bá mẫu và anh Đại Lực để xin bốc mộ bá phụ và mang di cốt người về Hà Tiên cải táng. Mong ngài giúp chu toàn ý nguyện cho.

- Cô nương đúng là một hiếu nữ, một mình vượt ngàn dặm tìm lại mồ mả người thân, việc này ta lẽ nào lại không vui vẻ chu toàn. Hôm nay ta có chút thời gian, cô có muốn ta đưa cô đi thăm mộ bây giờ không? Ta cũng muốn lạy vài lạy cuối cùng trước mồ của những người trung liệt.

- Dạ muốn chứ! Nếu được ngài đích thân đưa đi thì còn vinh hạnh nào hơn. Như thế chắc linh hồn của bá phụ và hai nghĩa sĩ cũng được an ủi rất nhiều.

Họ cưỡi ngựa đến nghĩa trang quân đội ở một khu rừng nằm trên bờ nam của sông Kẻ Thế (sau sông này bị lấp, vua Minh Mạng cho đào lại thành sông Vĩnh Điền), cách dinh độ năm dặm về phía tây bắc. Mười ba năm không người coi sóc, ba ngôi mộ của đô đốc Định Sách hầu Trần Đại Định và hai cận tướng um tùm cỏ mọc, nhiều nơi vách mộ bị bể nát, rêu phủ đã biến thành màu đen. Bốn người bày hương án, đứng nghiêm trang im lìm trước mộ, lòng ai cũng dấy lên một mối thương tâm cho một nhà khai quốc công thần mà con cháu lại phải chết oan ức trong nấm mộ hoang phế giữa rừng sâu. Cùng nhau lạy người quá cố xong, viên án sát sứ hỏi:

- Bạch Mai cô nương định bao giờ thì tiến hành bốc mộ?

Bạch Mai lau nước mắt đáp:

- Dạ ngay hôm nay ạ. Nhưng cháu phải trở lại phố chợ mua mấy hòm đựng tro cốt và tìm vài phu bốc mộ.

Ngô Mãnh nói:

- Đâu cần đến phu bốc mộ, tôi sẽ giúp Bạch Mai cô nương việc này.

Hồng Liệt nói thêm vào:

- Việc mua hòm tro cốt thì để tôi lo. Tiệm hòm Âm Phủ trong phố họ có bán sẵn. Tôi đi một lát là có ngay thôi.

Bạch Mai nói:

- Đằng nào cũng phải tiễn chân ngài án sát sứ về phủ, chúng ta cùng trở lại đó chuẩn bị mọi thứ là ổn nhất.

Án sát sứ nhìn nàng mỉm cười:

- Trần tiểu thư chu đáo và khôn khéo lắm.

Bạch Mai bẽn lẽn:

- Dạ có gì đâu ạ.

Họ tiễn chân án sát sứ trở lại phủ rồi cùng nhau đi mua sắm vật dụng. Hồng Liệt không biết đã tìm đâu ra ba tên ăn mày rồi cùng nhau trở lại nghĩa trang. Ngô Mãnh, Hồng Liệt và ba tên ăn mày hì hục đào xới dưới ánh nắng gay gắt của mùa hè xứ Quảng, phải mất hơn hai canh giờ thì cả ba ngôi mộ mới bốc xong. Mười ba năm, thân xác chỉ còn lại nắm xương tàn. Họ thu nhặt rồi cẩn thận bỏ vào ba cái quan tài nhỏ được đóng thật khéo giống như ba hộp đựng nữ trang. Bạch Mai đứng ngẩn ngơ nhìn ba hộp cốt, mắt long lanh ngấn lệ, sụt sùi khôn xiết cảm thương. Nàng rút đoản kiếm viết nhanh tên của từng người bằng chữ Hán vào mặt chiếc hộp. Nét bút linh hoạt và sắc nét vô cùng. Họ trở về đến khách sạn thì trời đã chiều muộn. Hồng Liệt hỏi:

- Chúng ta nghỉ lại đây một đêm nữa rồi mai ra bến Hàn hay sư tỷ muốn đi ngay bây giờ?

Bạch Mai đáp:

- Mọi người cũng mệt rồi, chúng ta nghỉ ở đây, mai ra bến Hàn cũng được.

Hồng Liệt đưa cho ba tên ăn mày một số bạc khá nặng, tả lại hình dáng của bọn Dương Tử Tam Kiếm xong dặn:

- Các em xuống Hội An, liên lạc với anh em ở đó tìm cho ra dấu vết ba tên này cho anh nhé. Nhớ chia số tiền này cho bọn họ với, vài hôm nữa anh sẽ vào tìm các em.

Ba tên ăn mày đồng thanh “dạ” một tiếng, cúi chào ba người rồi chạy mất dạng phía cuối phố. Mọi người lên phòng tắm rửa, thay y phục xong, Hồng Liệt đề nghị đi dạo cảnh thủ phủ dinh Quảng Nam ban đêm. Dinh Quảng Nam vốn là ngôi thành cổ của người Chiêm trước kia, thuộc địa phận xã Cần Húc, huyện Duy Xuyên (nay là thị trấn Vĩnh Điền, huyện Điện Phước, Quảng Nam). Thành có từ lâu đời lại là thủ phủ hành chánh nên phố xá san sát, dân cư đông đúc, việc mua bán phát đạt. Dinh lại cách phố Hội An không xa nên các cửa hàng kinh doanh ở đây bán không thiếu một mặt hàng nào. Dạo chơi khắp phủ xong, Hồng Liệt đưa mọi người đến một quán ăn bình dân bên bờ sông Bao Nghĩa, một nhánh nhỏ của sông Kẻ Thế. Người chủ quán lớn tuổi thấy Hồng Liệt bước vào liền mừng rỡ la lên:

- Kìa, cậu Hồng Liệt! Bấy lâu nay đi đâu mà không thấy ghé lại đây ăn khoai chà khô vậy? Hai người bạn của cậu đấy à? Chà, anh bạn trẻ này đúng là mỹ nam tử à nha. Ngồi đi, đãi bạn gì nào?

Ông ta vừa tuôn một hơi dài vừa chạy lại dọn nhanh một chiếc bàn cạnh bờ sông cho ba người. Hồng Liệt cười tươi đáp:

- Chào chú Tám, hổm rày cháu có chút việc phải vào Quy Nhơn. Cháu muốn giới thiệu với hai người bạn món khoai lang chà khô đặc biệt của chú nên đưa họ đến đây. Chú làm cho ba phần nhỏ đi. Thêm một đĩa mít trộn và hai con cá lóc nướng. Cho cháu một chai Hồng Đào thượng hạng luôn.

Ông Tám chủ quán cười vui vẻ:

- Được, được. Để tôi làm đặc biệt cho cậu đãi bạn nhé. Ở xa tới à? Bảo đảm ăn rồi sẽ nhớ xứ Quảng này mãi mãi.

Hồng Liệt nói với hai người:

- Tôi vốn là kẻ nghèo khó nên thường tìm ăn những món thật rẻ tiền thôi. Hai người ăn món khoai lang chà khô này thử xem. Đặc sản không đâu có ngoài xứ Quảng này đó.

Ngô Mãnh nói:

- Tôi cũng có nghe danh món ăn này nhưng chưa có dịp thưởng thức.

Bạch Mai tiếp lời:

- Thật ra đâu phải sơn hào hải vị mới là món ngon. Đôi khi những món hết sức bình dân nhưng lại làm cho ta khoái khẩu và nhớ mãi không quên.

Một lúc sau đã thấy ông chủ quán đem ra ba đĩa khoai lang chà còn nóng hổi, mùi thơm bốc lên nực mũi. Bạch Mai dùng muỗng múc một miếng, ăn xong nàng gật gù khen:

- Ngon thật! Vừa thơm vừa bùi lại vừa ngọt. Hương vị thật lạ, đúng là sẽ rất khó quên đấy.

Ngô Mãnh cũng lên tiếng:

- Đúng là đặc sản của xứ Quảng.

Lát sau, ông Tám lại mang ra món mít trộn, cá lóc nướng cùng chai rượu Hồng Đào. Ông hỏi:

- Thế nào? Cậu công tử đẹp trai này chắc là con nhà giàu có nên chưa bao giờ ăn những món dân dã thế này phải không? Có ngon miệng không?

Bạch Mai cười tươi đáp:

- Dạ, thật đúng là ngon ngoài sự tưởng tượng của cháu. Lần sau có trở lại Quảng Nam thế nào cháu cũng phải ghé quán của chú Tám để thưởng thức món này.

Ông Tám cười hề hề:

- Tôi đã nói mà. Không đâu trên đất nước mình có được món thế này đâu. Nhưng chưa hết, cứ thưởng thức hai món kia nữa đi. Ăn cá lóc nướng mà uống rượu Hồng Đào xứ Quảng mới thật là khoái lạc trên đời.

Rồi ông cất giọng ngâm nga:

Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm

Rượu Hồng Đào chưa nhấm đà say.

Bạch Mai bỏ đũa xuống vỗ tay tán thưởng.

- Chú Tám thật là lãng mạn! Đâu, để cháu thưởng thức thứ rượu Hồng Đào của chú xem nào.

Hồng Liệt mở chai rượu rót vào ly cho ba người. Rượu màu hồng trong vắt, tỏa mùi thơm thoang thoảng dễ chịu. Hồng Liệt nói:

- Sư huynh uống thử xem nào, có giống Nữ Nhi Hồng của Thiệu Hưng, Trung Quốc hay không?

Bạch Mai hai má ửng đỏ mỉm cười nói nhỏ:

- Tôi chưa xuất giá làm sao biết Nữ Nhi Hồng mùi vị thế nào?

Hồng Liệt vội nói:

- Ô! Đệ đâu có ý đó. Bộ sư huynh hồi giờ chưa uống thật hay sao? Thật ra Nữ Nhi Hồng cũng dùng để uống mừng ngày đến tuổi trưởng thành làm lễ cài trâm, chứ đâu phải chỉ mừng riêng ngày các cô xuất giá không thôi.

- Họ Trần chúng tôi sang Đại Việt khá lâu, Thượng Công nội bá tổ muốn hòa nhập vào văn hóa Việt nên đã bỏ đi nhiều tục lệ, thói quen ở quê nhà. Vả lại lúc tôi trưởng thành, cả họ đang trong cơn nguy biến nên các lễ tiết đó tôi chưa từng trải qua.

Vừa nói, nàng uống một hớp rượu Hồng Đào rồi khen:

- Ngon, vừa đưa lên miệng thì mùi thơm của rượu đã làm ta muốn uống liền. Vị rượu ngọt mà nồng, hương rượu thơm lâu. Nhưng tôi e rằng sẽ rất dễ say đấy. Ngô huynh có đồng ý với tôi không?

Ngô Mãnh cười:

- Nhận xét rất đúng, chẳng khác những đấng mày râu sành rượu.

Bạch Mai tủm tỉm cười:

- Anh định cười tôi sành uống rượu giống các ông đấy à?

Ngô Mãnh đỏ mặt vội phân bua:

- Không phải thế. Tôi vụng nói. Tôi chỉ muốn khen cảm nhận nhạy bén của Bạch huynh mà thôi.

- Tôi chỉ đùa thôi. Loại rượu này hơi nhẹ, chắc không hợp với khẩu vị của Ngô huynh phải không?

- Ơ, không. Tôi thấy rất ngon.

Hồng Liệt chen vào:

- Đừng tưởng thế mà lầm. Rượu Hồng Đào khi đã thấm thì có là bậc Tửu Thần cũng phải lật đấy.

(còn tiếp)
 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Họ uống rượu ngắm trăng lên trên sông và tận hưởng ngọn gió mang hơi nước từ dưới sông thổi vào mát lạnh, xua tan cái nóng nực khó chịu của một đêm cuối hạ vùng nhiệt đới. Mãi đến khi mảnh trăng non khuất bóng núi, họ mới về lại khách sạn. Hôm sau, Ngô Mãnh chia tay hai người lên đường vào lại Quy Nhơn, Hồng Liệt và Bạch Mai về cửa Hàn. Bạch Mai nóng lòng nhìn mộ cha và sư phụ nên sau khi nói lời cảm ơn và từ biệt với Ngô Mãnh, nàng ra roi giục con bạch mã phóng nhanh chẳng khác nào cơn gió lốc. Hồng Liệt vội vẫy tay chào Ngô Mãnh lần cuối rồi cũng phóng ngựa đuổi theo. Ngô Mãnh ngồi trên lưng con Thanh Tông, ngó theo bóng họ hút trong làn gió bụi mà lòng bỗng dâng lên một cảm xúc luyến lưu kỳ lạ. Tự dưng chàng buông một tiếng thở dài rồi quay ngựa, ra roi phóng nhanh về hướng bến sông Thu Bồn.

Từ dinh Quảng Nam về đến cửa Hàn ước chừng hơn bốn mươi dặm, hai con thiên lý mã chỉ tốn chưa tới hai canh giờ đã đến nơi. Ngôi mộ nằm cạnh mé rừng, mười mấy năm nay Hồng Liệt đã tụ tập một số ăn mày cải tạo khu đất ven bìa rừng thành một vùng nương rẫy rộng lớn trồng đủ mọi thứ, đặc biệt là giống khoai lang xứ Quảng. Hai người dừng ngựa trước trại rồi nhảy xuống. Bọn trẻ thấy anh cả trở về đều mừng rỡ chạy ra tiếp đón. Chúng chào Bạch Mai rồi đưa mắt nhìn chăm chú vào chàng trai nhỏ nhắn xinh đẹp này. Bạch Mai thấy họ cứ nhìn mình chằm chằm thì hai má đỏ ửng lên. Hồng Liệt vội giới thiệu:

- Giới thiệu với các em, đây là sư tỷ của chúng ta. Người vừa từ Gia Định ra đây để tìm mộ của cha và sư phụ. Các em chào sư tỷ đi.

Bọn ăn mày hơi ngạc nhiên nhưng cũng đồng thanh nói lớn:

- Chúng em xin chào sư tỷ!

Bạch Mai nở nụ cười chào lại rồi đưa tay gỡ chiếc khăn cột trên đầu ra. Mái tóc đen tuyền lại được dịp buông xuống trên khuôn mặt kiều diễm. Bọn trẻ không hẹn mà cùng nhau trầm trồ:

- Sư tỷ đẹp quá! Bọn mình đã có một vị sư tỷ xinh đẹp nhất trên thế gian này.

Bạch Mai nhìn bọn chúng cười đáp lễ:

- Sư tỷ chào các em. Tất cả khỏe không? Từ nay chúng ta là chị em nhé?

Bọn nhỏ mừng rỡ đồng thanh reo lên:

- Từ nay chúng ta là chị em!

Bọn chúng là những đứa trẻ ăn mày mồ côi, có cả trai lẫn gái, được Hồng Liệt đem về đây sống cùng, chúng coi nhau như anh em một nhà, đứa lớn nhất chừng mười bảy tuổi, đứa nhỏ nhất mới lên mười. Cả trại có hai mươi đứa, mười lăm trai và năm gái, căn cứ vào tuổi mà xếp thứ tự anh chị em. Hồng Liệt nói:

- Chúng ta vào trong trại nói chuyện để sư tỷ ngồi nghỉ chân một lát chứ?

Trại có ba gian, mái tranh vách lá. Gian ở giữa làm nơi tụ họp chung, cũng là nơi ăn uống, luyện võ. Phía sau có căn phòng nhỏ dành cho anh cả Hồng Liệt. Gian bên phải lớn hơn chia ra nhiều phòng dành cho bọn con trai, gian bên trái nhỏ hơn dành cho con gái. Bọn con gái ngồi vây quanh Bạch Mai. Hiền Nhi, cô bé lớn nhất bọn năm nay gần mười bảy tuổi, cầm tay Bạch Mai thân mật hỏi:

- Sư tỷ từ trong Gia Định ra à? Chị đi một mình à? Chị không sợ sao? Chị gan thật!

Bạch Mai vuốt tóc mấy đứa trẻ rồi đáp:

- Chị theo thuyền buôn ra đây để tìm mộ cha và sư phụ. Xong việc chị phải trở về Đại Phố Châu, đáng tiếc chị không thể ở lại với mấy em được.

Một đứa trong bọn nói:

- Thật là tiếc! Bọn em ước gì chị ở lại luôn thì sướng biết mấy.

Bạch Mai nhìn nó cười:

- Chị phải về nhà. Nhưng thỉnh thoảng chị sẽ ra thăm các em.

Cả bọn đồng thanh nói:

- Chị hứa đó nhé! Chị phải ra thăm tụi em đấy!

Bạch Mai gật đầu:

- Chị hứa!

Con bé nhỏ nhất khoảng mười tuổi, da trắng trẻo dễ thương, đưa ngón út của nó ra nói:

- Chị móc ngoéo với Bạch Nhi đi!

Bạch Mai kéo nó vào lòng rồi cũng đưa ngón út ra ngoéo tay.

- Móc ngoéo. Chị nhất định sẽ ra thăm Bạch Nhi và các em!

Hồng Liệt khi đem bọn trẻ mồ côi về, đứa nào có họ tên thì giữ nguyên, những đứa không biết họ của mình thì lấy họ của sư phụ là Công Tôn rồi con trai, con gái gì cũng thêm chữ Nhi vào cuối. Vì vậy năm đứa con gái có tên là Hiền Nhi, Thảo Nhi, Hồng Nhi, Loan Nhi và Bạch Nhi. Bọn con trai thì là Việt Nhi, Hùng Nhi... chỉ khác nhau chữ lót. Nhưng bọn nhỏ lại thích gọi nhau bằng ngôi thứ. Hiền Nhi lớn nhất trong bọn nên chúng gọi là chị hai, đứa nhỏ nhất là Bạch Nhi thì được gọi là Út. Việt Nhi, đứa con trai lớn nhất bằng tuổi Hiền Nhi nhưng nhỏ tháng hơn gọi là anh ba. Chúng sống hòa thuận và thương yêu nhau như anh em ruột một nhà.

Lúc đầu, khi Hồng Liệt mới gặp Công Tôn Vũ, vì ông sợ bị quan quân truy bắt về tội giết người nên không cho Hồng Liệt tiết lộ hành tung của mình. Do đó Hồng Liệt đành một thân một mình tìm cách nuôi sư phụ. Năm năm sau, thấy mọi việc đã êm xuôi, Hồng Liệt võ công đã thạo, có thể đi cướp của nhà giàu chia cho bọn ăn mày, Công Tôn Vũ mới an lòng để Hồng Liệt dẫn bọn trẻ mồ côi về nuôi. Hiền Nhi và Việt Nhi là hai đứa trẻ được đưa về ở đây sớm nhất, lúc đó bọn chúng mới có chín, mười tuổi. Bốn năm sau đó thì trại đã có đến hai mươi đứa trẻ mồ côi như bây giờ. Bọn trẻ ban ngày lo việc canh tác khu rẫy, đêm về thì học chữ và luyện võ. Công Tôn Vũ vốn là người văn võ song toàn, nay lâm cảnh mù lòa may có đám trẻ nhỏ quây quần nên cũng vơi bớt phần nào sự phiền muộn. Ông đem hết sở học của mình truyền lại cho Hồng Liệt và đám trẻ. Bốn năm trước, ông bắt đầu lâm trọng bệnh, Hồng Liệt đã cố gắng tìm mọi phương thuốc chạy chữa nhưng không hiệu quả gì. Cuối cùng ông mất trong tiếng khóc than thảm thiết của đám đệ tử bé con. Mộ của ông được Hồng Liệt chôn cạnh bên ngôi mộ của Trần Đại Thành. Bạch Mai sau một lúc hàn huyên với bọn trẻ liền đứng lên nói:

- Chị phải ra thăm mộ của cha và sư phụ. Chúng ta cùng đi nhé?

Bọn trẻ đồng loạt đứng lên theo sau anh cả và người sư tỷ mới. Mặc dù biết cha mình đã mất mười ba năm trước nhưng khi đứng bên mộ, Bạch Mai vẫn không thể nào dằn được cơn xúc động. Nàng òa khóc rồi quị xuống, phục lên mộ cha nức nở. Bọn trẻ cũng đồng loạt quì theo nàng, có đứa cũng nức nở theo. Hiền Nhi và Việt Nhi lo bày hương án trước hai ngôi mộ để sư tỷ làm lễ tế mộ.

Bạch Mai ôm mộ cha khóc hồi lâu rồi đứng lên bước đến mộ của sư phụ, quì xuống mà nức nở thêm lần nữa. Lần này cả đám trẻ cùng khóc theo. Lúc còn sống, Công Tôn Vũ dạy dỗ và thương yêu bọn chúng hết mực, do đó mỗi lần đến ngày giỗ của ông, bọn chúng đều quì trước mộ khóc than. Hôm nay, tiếng khóc của người sư tỷ đã khơi dậy mối thương tâm trong lòng khiến chúng không kiềm được nước mắt. Hồng Liệt để cho bọn họ nguôi cơn rồi mới lên tiếng:

- Sư tỷ hãy bớt nỗi đau thương. Người chết là hết. Giờ sư tỷ đã tìm được mộ người, đó không phải là điều vui mừng sao? Các em cũng nín đi.

Bọn trẻ nghe Hồng Liệt nói, cả bọn quệt nước mắt, thôi nức nở. Hiền Nhi bước đến đỡ Bạch Mai đứng lên:

- Sư tỷ đừng buồn nữa. Chúng ta lễ bái rồi về trại nghỉ, trời nắng nóng quá coi chừng sẽ bệnh đó. Chiều tối chúng ta sẽ trở lại thắp hương lần nữa.

Bạch Mai sụt sùi lạy trước hai ngôi mộ xong cả bọn kéo nhau trở về trại. Đám trẻ chia nhau phận sự, chỉ lát sau trong phòng lớn đã bày lên một bữa ăn thịnh soạn gồm đủ các món rau quả trồng trong trại và nhiều loại cá chúng bắt ở sông Hàn. Bọn con gái xúm nhau săn sóc sư tỷ khiến Bạch Mai vui lắm. Nàng bỗng thấy thương bọn trẻ mồ côi này vô cùng, nàng ước gì mình có thể ở lại trại để sống chung với bọn chúng. Bữa cơm nhà quê nhưng ngon miệng. Bọn trẻ cứ cố ép nàng ăn khiến nàng phải buột miệng mắng yêu:

- Các em ép chị ăn nhiều thế này, vài bữa là chị sẽ mập ú lên đó.

Bé Út bỗng reo lên:

- Sư tỷ sợ mập ra rồi xấu đi bị anh cả chê phải không? Nhưng mà bọn em không chê sư tỷ đâu.

Bạch Mai đỏ mặt liếc sang Hồng Liệt. Hồng Liệt cũng bối rối nạt ngang:

- Út có im đi không! Từ nay không được ăn nói bậy bạ nữa.

Bé Út nghe la, nó rụt cổ lại thè lưỡi ra làm bộ sợ hãi khiến Bạch Mai phải phì cười. Sống giữa cái gia đình khổng lồ của lũ trẻ mồ côi nheo nhóc này làm nàng thấy thật hạnh phúc. Tảng sáng hôm sau, Bạch Mai hỏi Hồng Liệt:

- Trại mình có ngựa không?

Hồng Liệt đáp:

- Có năm con. Bọn trẻ đứa nào cũng phải tập cưỡi ngựa cả. Sư tỷ định làm gì?

- Hôm nay, tôi sẽ cùng Hiền Nhi đi mua sắm một ít vật dụng cho lũ trẻ. Trước khi bốc mộ cũng nên làm một bàn cúng lớn cho cha và sư phụ. Có chợ nào lớn quanh khu vực này không?

Hiền Nhi có mặt ở đó đáp thay:

- Có hai chợ lớn ở đây. Chợ Hải Châu hay còn gọi là chợ Hàn ở gần đây chừng ba dặm, còn chợ Cẩm Lệ ở ngã ba sông lớn thì xa hơn, độ mười hai dặm nhưng nhiều hàng hóa hơn.

Bạch Mai nói:

- Hai chị em mình cứ đi hết hai chợ xem có những gì.

Hai chị em lấy ngựa đi ngược bờ sông để đến chợ Hàn trước. Bạch Mai quan sát thấy Hiền Nhi là một cô gái có khuôn mặt vừa xinh đẹp vừa phúc hậu, còn tính tình thì hiền ngoan, lại thương yêu, chăm sóc mấy đứa nhỏ trong trại như em ruột của nàng vậy. Bạch Mai nhìn nàng khen:

- Em đẹp lắm Hiền Nhi, lại rất ngoan nữa. Mai này chàng trai nào có phước lắm mới lấy được em. À, các em có lẽ chỉ quanh quẩn trong khu trại, ít ra bên ngoài phải không?

Hiền Nhi nghe khen hổ thẹn cúi đầu:

- Chị đừng nhạo em. Chị mới thật là đẹp như tiên nga. Bọn em ít ra ngoài lắm, chỉ khi nào phải mua những vật dụng cần thiết thì em hay Việt Nhi mới có dịp đi ra chợ, còn thì bọn em chỉ sinh hoạt trong trại mà thôi.

- Em là người Đàng Ngoài à? Nghe giọng không giống trong này.

Hai mắt Hiền Nhi bỗng đỏ hoe, nàng mở đầu câu trả lời bằng một tiếng “dạ” cố hữu. Có lẽ cuộc sống ăn mày ngay từ lúc còn nhỏ đã tạo cho nàng một mặc cảm tự ti, mà cũng có thể vì nàng là một cô gái rất thuần phác:

- Dạ. Gia đình em chạy trốn từ Nghệ An vào đây, được hai năm thì bố mẹ em bị bệnh qua đời, lúc đó em chỉ mới bảy tuổi.

- Rồi anh cả đưa em về đây?

- Dạ, lúc ấy em là đứa bé ăn mày ở chợ Cẩm Lệ. Đa số bọn em đều là những đứa trẻ theo gia đình từ Đàng Ngoài chạy vào Nam.

- Trại chỉ trồng những loại thực phẩm đủ để nuôi sống các em, rồi tiền bạc đâu mà các em chi dùng?

- Dạ, tất cả đều do anh cả lo liệu. Mấy năm sau này, anh cả thường đi ăn trộm của mấy nhà giàu có hoặc của bọn tham quan rồi đem chia cho người nghèo và những người ăn mày khắp nơi. Mỗi lần như vậy, anh cả thường để dành lại một ít mang về giao cho em giữ để chi dùng trong trại. Dù vậy, anh cả vẫn luôn dặn dò chúng em phải sống thật tiết kiệm vì ngoài kia còn rất nhiều người đói khổ không có miếng ăn.

Bạch Mai thở dài:

- Lúc ở trong Nam chị cứ thắc mắc tại sao lại có nhiều người di tản từ ngoài này vào trong đó lập nghiệp. Giờ ra ngoài này chị mới thấy ở đây đất đai chật hẹp lại cằn cỗi nữa làm sao có đủ lương thực cung cấp, hèn chi mới nghèo đói như vậy. Em biết không, trong miền Nam đồng ruộng mênh mông, đất đai bạt ngàn lại rất màu mỡ nhưng không có người canh tác. Để chị xem, có lẽ chị sẽ đề nghị với anh cả đưa bọn em vào trong Nam sinh sống. Ở trong đó, bọn em sẽ khỏi phải lo cái ăn, cái mặc. Này, em không cần phải mỗi câu mỗi dạ với chị như vậy đâu.

- Dạ, cảm ơn chị. Có lẽ em đã quen miệng rồi. Nhưng bọn em đâu có thể bỏ anh cả ở lại một mình được.

- Thì chị sẽ đề nghị anh cả đi luôn.

- Chúng ta bỏ khu trại này à?

- Giao lại cho ai đó. Vào Nam mình xây dựng lại trang trại khác lớn hơn, sung túc hơn, em lo gì.

- Nhưng em vẫn thấy không đành xa nơi này.

- Đó là bản tính cố hữu của người dân Việt. Ở đâu thì chỉ muốn ở yên đó dù đói khổ thế nào. Nhưng bố mẹ em cũng đã chẳng bỏ quê tìm vào đây còn gì? Phải có tinh thần khai phá mới tiến lên được em ạ.

- Nhưng bọn em ở đây cũng đâu có đói khổ gì.

- Đó là nhờ anh cả đi ăn trộm của người khác đem về nuôi các em. Tuy việc ăn trộm của cải của bọn tham quan trọc phú chia nhà nghèo là một hành động cũng không phải xấu, nhưng các em định để anh cả phải làm ăn trộm suốt đời sao?

Hiền Nhi ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp:

- Em không biết. Mọi việc do anh cả quyết định.

Bạch Mai đổi đề tài câu chuyện:

- Hiền Nhi biết may vá không?

- Dạ biết. Quần áo mấy em trong trại đều do em và Thảo Nhi may cả đấy.

- Giỏi lắm! Hôm nay chúng ta sẽ mua thật nhiều vải để may cho các em mỗi đứa vài ba bộ.

Xế chiều hai chị em trở về với rất nhiều vải vóc và những vật dụng cần thiết cho sinh hoạt của bọn trẻ hàng ngày. Mấy đứa nhỏ từ lâu sống trong nghèo khó, hôm nay được sư tỷ mua cho đủ thứ đồ, đứa nào cũng mừng rỡ cảm ơn sư tỷ rối rít. Bạch Mai nhìn những khuôn mặt rạng rỡ niềm vui đó chợt thấy ấm lòng. Nàng bỗng cảm thấy mình cần phải có trách nhiệm lo cho những đứa trẻ côi cút này. Nàng bàn với Hồng Liệt:

- Tôi định ngày mai làm một bữa cúng lớn rồi bốc mộ của gia phụ và...

Hồng Liệt nói ngay:

- Sư phụ mới mất, thân xác còn nguyên, cứ để người nằm ở đây. Đệ muốn chăm sóc phần mộ cho người.

- Như vậy cũng được. Anh có cùng vào Giản Phố Châu với tôi không?

- Theo dự tính của bọn đệ là như vậy.

- Đúng rồi, anh nên vào trong đó xem qua tình hình. Đất đai miền Nam bao la, bát ngát, còn bỏ hoang nhiều lắm vì không có người khai thác. Số điền sản của Thượng Công tổ phụ nhà tôi sau khi bá mẫu và anh Đại Lực bỏ về Hà Tiên để lại rất nhiều, anh em chúng tôi không quản lý được hết. Tôi có ý định mang lũ trẻ này vào trong đó để cho chúng có thể kiến cơ lập nghiệp, phát triển bản thân chúng sau này.

- Đem một lũ trẻ nít vào nơi xứ lạ để mưu sinh không phải là chuyện đơn giản đâu. Sư tỷ cứ nhìn xem, bọn đệ phải mất gần mười năm trời mới có được chút thành tựu cỏn con thế này đó.

- Nhưng điều kiện ở trong đó dễ dàng hơn ngoài này nhiều lắm. Đất đai có sẵn, việc kinh doanh của anh em tôi cũng đang cần thêm nhân sự, mang bọn trẻ vào, mất chút thời gian đầu để tổ chức chúng vào lại nề nếp thôi. Mọi việc sau này sẽ tốt đẹp về lâu về dài hơn cho cả hai bên.

- Thôi được, để đệ vào trong ấy xem thử thế nào rồi hẵng quyết định.

Sáng sớm hôm sau, Bạch Mai cùng Hiền Nhi lại đi chợ mua sắm đồ cúng trước khi làm lễ bốc mộ cho cha. Nàng muốn nhân dịp này đãi bọn trẻ một bữa ăn thịnh soạn nên đã mua rất nhiều hoa quả và thịt cá đủ loại. Lúc họ vừa ra đến đường lớn để trở về thì bỗng thấy một con Ô Truy chở một chàng trai đang từ phía xa phóng nhanh đến. Hiền Nhi nhìn thấy chàng trai liền mừng rỡ reo lên:

- Kìa anh hai, anh đến thăm bọn em hả? Sư tỷ, đây là anh hai của bọn em. Anh Trương Văn Hiến, anh cả thường gọi là đồ gàn đấy. Ơ, hai người biết nhau à?

Bạch Mai mỉm cười:

- Chị và Trương huynh có gặp nhau ở Phù Ly rồi.

Hiền Nhi nhoẻn miệng:

- Ra là thế!

Văn Hiến vui vẻ hỏi:

- Em thế nào Hiền Nhi? Đã đọc hết cuốn sách anh đưa lần trước chưa?

Hiền Nhi gật đầu:

- Đã mấy tháng rồi mà. Em đọc có hơn trăm lần rồi đó, muốn rách cả gáy sách luôn. Cuốn ấy em thuộc lòng cả rồi, lần này không biết anh hai có mang cuốn gì cho em không?

- Có, lát nữa về anh đưa cho. Hai người đi mua đồ cúng à? Đã tìm ra được mộ của Định Sách hầu chưa, Bạch tiểu thư?

Bạch Mai đáp:

- Tìm được rồi. Đã bốc xong mộ của ba người. Hôm nay, tôi tính trước khi bốc mộ gia phụ sẽ làm một mâm cúng lớn cho người và sư phụ.

- Xin chúc mừng Bạch tiểu thư. Trời quả là không phụ lòng người. Ngô Mãnh cũng ở đây chứ?

- Cảm ơn Trương huynh. Xong việc, Ngô huynh đã trở vào Quy Nhơn rồi. Tôi thật tình không biết phải cảm ơn các huynh bằng cách nào đây?

- Bạch tiểu thư không nên bận tâm đến những chuyện ấy. Rồi sẽ có ngày chúng tôi nhờ đến sự giúp đỡ của tiểu thư thôi mà.

Họ về đến trại, tất cả bọn trẻ đều chạy ra mừng đón anh hai trở lại thăm. Do Văn Hiến mới quen với Hồng Liệt sau này, lại thỉnh thoảng ghé thăm nên bọn trẻ gọi Văn Hiến là anh hai, vị thứ sau anh cả. Còn với Hiền Nhi, chúng vẫn giữ nguyên cách gọi cũ là chị hai do đã quen từ lâu. Mỗi lần ghé thăm, Văn Hiến thường mang theo những sách vở cũ của mình đến để cho bọn trẻ lấy đó mà học thêm cái chữ.

Đến trưa, mọi thứ dưới sự hướng dẫn của Bạch Mai đã được chuẩn bị xong. Bọn trẻ mang thức ăn ra mộ bày biện. Quì lạy trước mộ cha và sư phụ, Bạch Mai một lần nữa động mối thương tâm mà khóc òa. Bọn trẻ quì phía sau cũng sụt sịt khóc theo. Cúng xong, trong khi mấy đứa nhỏ đem đồ cúng vào thì những đứa lớn hơn lo việc bốc mộ. Nàng đem cốt cha đựng trong chiếc hòm nhỏ rồi khắc tên lên nắp hòm. Bữa cúng hôm đó thực là bữa ăn thịnh soạn nhất trong đời của hai mươi đứa trẻ. Chúng vừa ăn ngấu nghiến vừa nức nở khen ngon và cảm ơn sư tỷ không ngớt lời. Nhìn tình cảnh này, nàng chợt thấy nghèn nghẹn rồi rưng rưng nước mắt. Bé Út ngồi kế bên nàng hỏi:

- Sao chị không ăn đi? Đồ ăn ngon quá chừng!

Nàng vuốt tóc nó:

- Út ăn đi. Chị thích nhìn các em ăn hơn.

Nó quay sang Hồng Liệt phụng phịu:

- Anh cả nói sư tỷ ăn đi!

Hồng Liệt mỉm cười:

- Út lo ăn đi. Sư tỷ cũng ăn đi cho bọn chúng vui.

Bạch Mai đưa tay nhéo má bé Út:

- Thôi được, chị ăn đây!

Buổi tối, trong lúc mọi người đang coi lũ nhỏ tập bài kiếm Bạch Mai truyền dạy, Văn Hiến một mình ngồi ngắm trăng ở khu vườn sau trại. Mỗi lần đến thăm nơi này, chàng lại nhớ đến những ngày tháng tuổi thơ long đong cơ cực của mình ở quê nhà. Đó là một ngôi làng nhỏ tên Dũng Quyết ven bờ sông Lam, cách không xa cửa Hội ở tận ngoài Nghệ An. Thân phụ chàng là một nhà nho lỡ vận về quê làm một ông đồ nghèo gõ đầu trẻ. Thân mẫu chàng là một phụ nữ chân chất miền quê, quanh năm bận bịu công việc đồng áng. Năm chàng tám tuổi, dịch bệnh lan tràn, mẹ chàng không may mắc bệnh qua đời. Sau đó cả Đàng Ngoài lâm cảnh nghèo đói và loạn lạc dưới sự cai trị xa xỉ và vô đạo của hai chúa Trịnh Cương, Trịnh Doanh. Dân trong vùng nghèo không có tiền đi học, cha chàng đã quyết định bỏ làng chạy vào Phong Điền nương nhờ người anh chú bác là cha của quan nội hữu Trương Văn Hạnh bây giờ. Được người anh giúp cho một mảnh đất khá lớn bên bờ sông Bồ, cha chàng dựng một ngôi nhà nhỏ làm nơi trú thân và tiếp tục mở lớp dạy học. Chàng hàng ngày ngoài việc học thì chỉ biết lặn hụp trên dòng sông Bồ bắt cá phụ vào bữa ăn. Hai năm sau, cha chàng lại không may lâm bệnh nặng qua đời. Chàng trở thành đứa trẻ mồ côi.

Duyên may đưa đẩy, chàng gặp được một vị “Phong trần nho hiệp tứ hải vân du” khi ông có dịp ghé chùa Hà Trung ở hạ bạn sông Hương. Ông nhận chàng làm học trò và dạy võ cho. Thấy chàng có căn cơ và trí tuệ, ông đã ở lại Phú Xuân bảy năm để dạy đủ thập bát ban võ nghệ cho chàng. Sau ông rời Phú Xuân, tiếp tục vân du đến nay đã gần tám năm mà chàng vẫn chưa có cơ may gặp lại. Từ khi sư phụ ra đi, chàng nối nghiệp cha mở lớp dạy học trò độ nhật. Tài nghệ của chàng không lâu đã được mọi người ở Phong Điền biết đến. Họ tự đưa tên tuổi của chàng vào nhóm Phong Điền Tam Hữu, cũng nhờ vậy mà chàng gặp Trần Đại Bằng và Trần Kim Hùng rồi kết làm huynh đệ chi giao. Thỉnh thoảng chàng lại đóng cửa lớp học để ngao du thiên hạ và tình cờ quen với Đinh Hồng Liệt. Từ đó, thỉnh thoảng chàng mang sách vào dạy cho bọn trẻ ở đây.

Văn Hiến đang ngồi ngắm trăng hồi tưởng chuyện xưa thì Hiền Nhi từ trong trại bước ra, đến ngồi cạnh chàng.

- Anh hai đang nhớ lại chuyện xưa phải không?

Văn Hiến quay sang nhìn nàng mỉm cười:

- Sao Hiền Nhi biết?

- Thì lần nào ghé thăm bọn em, anh cũng đều tâm sự chuyện lúc anh còn nhỏ ở quê nhà mà. Chuyện anh lang thang ở miền đất mới Phú Xuân ấy.

- Ừ, nhìn các em, nghĩ lại cuộc đời của anh lúc nhỏ, anh càng thấy thương bọn em hơn. Anh không ngờ gặp được em, là người cùng làng với mình. Em có thấy là thế gian này thật bé nhỏ không?

- Vâng. Em thật vui mừng biết bao khi chúng ta là người cùng quê. Người ta nói tha hương ngộ cố tri thật là đúng. Em bây giờ như đang sống trong một gia đình chung, có anh em, có người cùng quê quán. Em thấy mình đúng là người vô cùng hạnh phúc.

Văn Hiến chợt nhận ra Hiền Nhi sau một thời gian ngắn không gặp nay đã trưởng thành lên rất nhiều. Dưới ánh trăng trông khuôn mặt nàng thật xinh đẹp và phúc hậu. Nghe Hiền Nhi nói, chàng đồng cảm với niềm hạnh phúc của nàng. Một cô bé mồ côi ăn mày ngoài chợ bây giờ được sống với gần hai mươi đứa em ngoan ngoãn cùng người anh cả tốt bụng, hỏi sao nàng không vui sướng, dù đó chỉ là niềm hạnh phúc thật đơn sơ và khiêm tốn. Chàng hỏi:

- Đọc tập thơ anh đưa lần trước, em thích bài nào nhất?

- Em thích nhất bài “Thu Dạ Hoài Cảm” của Chu Thục Chân. Hoàn cảnh của người thiếu nữ ấy thật đáng thương. Một người tài hoa như thế lại bị cha ép gả cho một gã lái buôn đến uất ức mà chết. Thế gian sao có lắm chuyện thương tâm nghịch ý người!

- Lần này anh mang cuốn Đại Học đến, em học rồi dạy cho bọn nhỏ nhé.

- Tứ thư là sách khó, không biết em có tự học nổi một mình không đây?

- Em thông minh như vậy chắc không vấn đề gì. Nhưng anh sẽ ghé thăm bọn em thường xuyên hơn, chỗ nào không hiểu anh sẽ hướng dẫn cho.

Lúc ấy Hồng Liệt và Bạch Mai từ trong trại bước ra. Hồng Liệt hỏi:

- Tên đồ gàn lần này mang sách gì đến mà khó như vậy?

Hiền Nhi mỉm cười:

- Anh hai bắt em phải học sách Đại Học rồi dạy lại cho mấy em. Anh cả coi, chắc cái đầu của em sẽ vỡ ra mất.

Bạch Mai nói:

- Chị tin là em sẽ làm được. Đừng lo.

- Cảm ơn chị. Thôi thì em phải ráng nặn óc mình ra vậy.

Hồng Liệt nhìn Văn Hiến hỏi:

- Sư tỷ định đem bọn trẻ vào Gia Định để bọn chúng có tương lai hơn, đồ gàn ngươi nghĩ sao?

Văn Hiến đáp:

- Được như vậy thì tốt quá còn gì. Gia Định là miền đất trù phú nhưng lại thiếu người khai thác. Trần gia hẳn là ruộng đất có thừa, phải không Bạch tiểu thư?

- Vâng. Những tài sản của Trần Thượng Công để lại nhiều lắm mà anh em muội lại ít người, còn phải lo việc buôn bán của Thần Quyền Môn nữa nên không trông coi được hết. Các em vào đó sẽ giúp được bọn muội nhiều điều lắm.

Hồng Liệt nhìn Hiền Nhi hỏi:

- Em nghĩ thế nào Hiền Nhi?

- Dạ, em thật sự quyến luyến không nỡ rời xa nơi này nhưng mọi việc tùy nơi anh cả quyết định.

Nàng nói xong kín đáo liếc nhìn sang Văn Hiến. Ánh mắt đó như nói lên rằng nàng còn quyến luyến cả chàng nữa. Hồng Liệt nói:

- Thôi cứ để bọn anh vào xem tình hình trong đó thế nào đã rồi hẵng quyết định sau.

Hiền Nhi lặng lẽ thở ra nhẹ nhõm:

- Dạ. Khi nào anh cả và sư tỷ khởi hành?

- Mai bọn anh vào Hội An rồi từ đó đi Gia Định luôn. Em và Việt Nhi ở nhà chăm sóc các em nhé.

Hiền Nhi ngạc nhiên hỏi:

- Ủa! Anh hai cũng đi Gia Định à?

Văn Hiến đáp:

- Bọn anh có tí việc cần phải làm ở trong đó.

Hiền Nhi cố nén tiếng thở dài:

- Các anh phải chóng về nhé. Đường xa lắm phải không chị? Mọi người phải cẩn thận.

Bạch Mai mỉm cười:

- Em an tâm. Người ta đi ra đi vào Gia Định như đi chợ vậy. Không có gì đâu.

Trưa hôm sau ba người từ giã bọn trẻ để đi Hội An. Bọn trẻ đứa nào cũng nước mắt ngắn dài luyến lưu người sư tỷ xinh đẹp như tiên này. Bé Út mếu máo:

- Sư tỷ đi rồi chừng nào trở ra đây thăm bọn em?

Bạch Mai lau nước mắt cho con bé rồi hôn má nó:

- Chị hứa sẽ ra thăm Út thường xuyên. Đừng khóc nữa. Út khóc, chị sẽ khóc theo đó.

Con bé quẹt nước mắt, sụt sịt:

- Chị nhớ lời hứa đó.

- Nhớ, chị nhất định sẽ nhớ.

Rồi nàng kéo tay Hiền Nhi trao cho một số vàng dặn:

- Em chăm sóc mấy đứa cho chị. Đừng bắt bọn trẻ tiết kiệm quá. Thỉnh thoảng chị sẽ mang tiền ra cho các em.

Hiền Nhi lau nước mắt:

- Em biết rồi. Em thay mặt các em cảm ơn chị.

- Không cần cảm ơn. Chăm sóc cho bọn trẻ nên người là được rồi. Chị thế nào cũng sẽ tìm cách đưa các em vào Nam.

Hồng Liệt dặn bọn trẻ:

- Anh có việc phải vào Nam một thời gian khá lâu. Hiền Nhi, Thảo Nhi và Việt Nhi ở nhà phải chăm sóc các em chu đáo. Còn các em phải nghe lời chị hai và anh ba biết chưa?

Bọn trẻ dạ ran. Việt Nhi hỏi:

- Anh cả định đi bao lâu?

- Chưa biết được. Có thể hai, ba tháng gì đó. Ở nhà nhớ nhắc các em luyện tập, đừng lơ là.

- Dạ, em nhớ.

Bé Út kéo tay Hồng Liệt:

- Anh cả lúc trở về nhớ dắt sư tỷ về theo nhé. Không Út sẽ giận anh cả đó.

- Ừ... Thôi bọn anh đi.

- Tạm biệt!

Hai con Bạch mã và con Ô Truy chầm chậm rời trang trại. Hiền Nhi dõi mắt nhìn theo lẩm bẩm một mình:

- Anh cả và sư tỷ thật xứng đôi. Cầu cho trời tác hợp hai người.

Rồi không biết nghĩ gì, nàng bỗng buông tiếng thở dài.

*****​


[1] Tô Hiến Thành (1102 - 1179), quê làng Hạ Mỗ (nay thuộc huyện Đan Phượngthành phốHà Nội), là quan đại thần phụ chính nhà Lý, phụng sự hai triều vua: Lý Anh Tông và Lý Cao Tông. Ông là viên quan văn võ song toàn, nổi tiếng công minh chính trực, được vuaphong tước Vương mặc dù không phải tôn thất nhà Lý.
 
Bên trên