Hoàn thành Én Liệng Truông Mây, Tiểu Thuyết Võ Hiệp Lịch Sử VN, Tập I - Hoàn thành - Vũ Thanh

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Hồi thứ bảy

Quán Cao Lầu, bạch y công chúa chuốc thảm bại
Sông Thu Bồn, Trương Văn Hiến đối cảnh đề thơ

*
Phố Hội An, một địa danh, một hải cảng sầm uất bậc nhất của đất Đàng Trong kể từ ngàn xưa, thời còn thuộc đế quốc Chiêm Thành. Ngày trước đất này là kinh đô Sinhapura hay “Kinh thành Sư Tử” của vương quốc Chămpa từ khoảng thế kỉ thứ sáu đến thế kỉ thứ bảy. Sinhapura là kinh đô của tiểu quốc Avamarati, một trong năm tiểu quốc của vương quốc Chămpa ở Trà Kiệu, trên bờ nam thượng nguồn sông Thu Bồn, dùng cửa Đại Chiêm ở phố Hội An làm thủy lộ chính. Đến khi các đời chúa Nguyễn vào Nam mở mang đất nước tới tận Hà Tiên thì Hội An trở thành cửa ngõ chính để mở rộng giao thương với các nước Á, Âu. Nhân dân trong nước dù đi đường thủy hay đường bộ đều đổ dồn về Hội An cho nên ở đây không thiếu món gì.

Hội An nằm trên bờ bắc sông Thu Bồn, dùng cửa biển Đại Chiêm thông ra biển Đông. Phía nam sông Thu Bồn có đầm Trà Nhiêu sâu và rộng được dùng làm bến cảng để thuyền buôn khắp nơi vào đây buôn bán, trao đổi hàng hóa. Thuyền buôn tấp nập, tàu ghe đi lại như mắc cửi.

Vào những ngày đầu mở cửa ở thế kỷ 17, người Nhật Bản đã có mối giao thương mạnh mẽ với Đàng Trong ở phố Hội An. Dọc theo đường phố chính trên bờ bắc sông Thu Bồn, họ đã xây dựng một khu phố Nhật Bản với hàng trăm thương hiệu. Họ góp công xây dựng đường sá và bắc những chiếc cầu hai tầng qua các rạch nhỏ trong khu vực với lối kiến trúc đặc thù của Nhật. Những cư dân Việt gọi khu phố Nhật này là “Phố Cầu Nhật Bản”. Về sau, với chính sách bế quan tỏa cảng của Nhật dưới thời Mạc phủ Tokugawa, thêm vào đó là sự cấm đoán của các Chúa Nguyễn đối với những người Thiên Chúa giáo Nhật đã khiến cho khu phố Nhật giảm dần sự phồn thịnh, nhường chỗ cho người Trung Hoa, đặc biệt là những người Minh Hương bị đàn áp bởi Thanh triều.

Người Trung Hoa giỏi buôn bán lại có tính tương trợ người đồng hương cao nên Hội An ngày nay có bốn dãy phố chính dọc theo bờ sông thì đại đa số chủ hiệu ở đấy là người Hoa, sau mới đến người Việt. Người Hoa qui tụ với nhau lập thành bốn khu phố Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu và Hải Nam nhưng phồn thịnh nhất là phố Phúc Kiến. Các thương thuyền Âu châu trước tiên là Bồ Đào Nha, sau đó là Hà Lan bắt đầu vào đây buôn bán và mở cửa hàng từ những năm cuối đời Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1614). Đến cuối đời Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần thì có thêm người Anh Cát Lợi và người Pháp Lang Sa vào buôn bán ở đây.

Với sự phát triển đó, Hội An không chỉ là nơi tập trung những mặt hàng nội địa để bán cho nước ngoài mà còn là nơi thu mua hàng hoá nước ngoài rồi phân phối đi khắp nước. Bên cạnh sự giao lưu thương mại, Hội An còn là nơi giao lưu giữa các nền văn hóa như Âu châu, Trung Đông, Ấn Độ, Á châu... và bản địa. Sự trộn lẫn giữa các sắc da cùng sự giao thoa các nền văn hóa vì còn khá mới mẻ nên bộ mặt của Hội An có rất nhiều sự khác biệt trong sinh hoạt tinh thần. Và trong quá trình trộn lẫn đó không khỏi nảy sinh những xung đột về quyền lợi, có khi dẫn đến tinh thần tự ái dân tộc phải dùng đến vũ lực, đổ máu, chết chóc. Chưa kể đất lành chim đậu, chim hiền về đậu ắt cú quạ cũng tụ tập theo. Thương khách nhiều thì đạo tặc cũng lắm. Tất cả những sự lộn xộn trên đã khiến chính quyền phủ Chúa phải điên đầu nhức óc trong việc giữ gìn trật tự trị an cho khu phố cảng.

Khi ba người vào đến Hội An, Hồng Liệt tìm một tên ăn mày và nhờ hắn đi gọi ba tên ăn mày hôm trước đến quán Cao Lầu gặp chàng. Quán khá đông, đủ loại thực khách, tiếng nói chuyện râm ran khắp phòng. Khi họ bước lên lầu thì tiếng nói chuyện bỗng ngưng bặt, mọi con mắt đều đổ dồn về phía Bạch Mai. Sau đó có tiếng bàn tán xầm xì. Hồng Liệt liếc sang Bạch Mai nói nhỏ:

- Họ đang khen sư tỷ đấy.

Bạch Mai hai má ửng đỏ nguýt chàng một cái. Họ ngồi vào chiếc bàn trong góc cạnh cầu thang. Hồng Liệt hỏi:

- Sư tỷ ăn cao lầu nhé? Lại một món đặc sản của quê hương đệ nữa đấy.

Bạch Mai mỉm cười:

- Tất nhiên rồi! Không biết khi hai anh vào trong ấy thì tôi phải đãi món gì cho xứng đáng đây nhỉ?

Lúc đó, tên ăn mày hôm trước ở dinh Quảng Nam cùng hai tên khác có lẽ là người ở đây đã bước lên lầu. Hồng Liệt liền gọi chúng đến ngồi vào bàn rồi gọi cao lầu cho bọn chúng. Chàng hỏi:

- Tin tức thế nào?

Tên lớn nhất trong bọn nói:

- Theo lời của những anh em ở đây thì ba tên này đã xuất hiện ở cửa hiệu Diệp Sanh Ký trong phố Phúc Kiến nhưng bảy hôm trước đã rời Hội An về Phúc Kiến trên một chuyến tàu buôn rồi.

Hồng Liệt nói:

- Các em giỏi lắm! Có gì lạ ở đây trong thời gian qua không?

Tên ăn mày ở Hội An đáp:

- Dạ không. À, mà có đấy. Có một chiếc thuyền thật đẹp, thật sang trọng chở một nàng công chúa cũng hết sức xinh đẹp vừa cập bến hôm kia.

Hồng Liệt mỉm cười hỏi:

- Chú mày đang kể chuyện thần thoại đó à?

Tên nọ khẳng định:

- Bọn em nói thật đấy! Thuyền còn đậu ở ngoài bến, anh cả không tin thì ra coi.

- Tin. Nhưng thế thì có gì là lạ?

- Dạ có chứ! Nàng công chúa ấy tuy xinh đẹp nhưng rất kiêu kỳ. Lại còn bọn cận vệ nữa, hách dịch chẳng kém gì bọn túc vệ quân của Quốc Chúa. Hôm kia, khi họ rời thuyền và đi ngựa từ bến cảng sang phố Phúc Kiến, lúc ngang qua cầu Nhật Bản, bọn em bu lại xem thì đã bị bọn cận vệ tóm cổ quăng xuống sông. Chúng còn mắng bọn em là đám ăn mày dơ dáy này nọ, hãy cút xéo ngay đừng làm bẩn mắt công chúa của bọn chúng.

Bạch Mai hỏi:

- Hống hách thế à?

Tên thứ hai trong bọn nói:

- Dạ, bọn em tức lắm. Lúc ấy có một tên thủy thủ người Anh đứng gần đó thấy vậy liền xông ra nói xí xa xí xố gì đó rồi ra tay đánh tên cận vệ. Không may hắn bị tên cận vệ đó đấm cho một quyền, máu mồm máu mũi hộc ra lai láng. Hai bên xông vào đánh nhau túi bụi thì có hai kiếm sĩ người Nhật trong một cửa hiệu Nhật Bản gần đó thấy vậy đã nhảy vào góp phần đánh bọn cận vệ. Thế là một trận đánh kinh hồn xảy ra. Tên thủy thủ người Anh đánh không lại bọn cận vệ bèn rút súng hỏa điêu ngắn ra bắn một tên cận vệ khiến hắn ngã xuống tại chỗ. Khi lực lượng phòng thủ khu phố kéo đến dàn xếp thì tên thủy thủ người Anh đã bị đâm một nhát rất sâu vào bụng, còn hai người Nhật, một bị chặt đứt một tay trái, một bị đâm lòi ruột. Riêng bọn cận vệ có ba tên bị thương rất nặng, tên bị bắn không biết có sống nổi không.

Hồng Liệt hỏi:

- Rồi sao nữa?

Tên ăn mày kể tiếp:

- Chỉ thấy nàng công chúa ấy ngồi trên mình ngựa xem trận đánh mà nét mặt tỉnh bơ và lạnh như tiền. Lúc mọi chuyện đã được dàn xếp xong, nàng mắng bọn thuộc hạ vô dụng khiến mấy tên cận vệ còn lại sợ hãi cúi đầu xin công chúa thứ tội mãi. Rồi bọn họ kéo nhau về khách sạn Tuyền Châu gần hội quán Phúc Kiến ở đằng kia.

Hắn nói xong đưa tay chỉ về hướng cuối phố. Hồng Liệt gật gù:

- Như thế càng hay! Sự xung đột của bọn Nhật và bọn Tàu lại càng sâu sắc hơn. Sẽ còn nhiều chuyện vui nữa trong thời gian tới.

- Anh cả muốn có chuyện vui thì chờ ngày mai là có ngay rồi.

Văn Hiến hỏi:

- Ngày mai có gì mà vui?

- Mai là lễ hội Long Chu. Cả phố Hội An sẽ rất nhộn nhịp.

Bạch Mai hỏi:

- Long Chu là lễ hội gì?

Hồng Liệt đáp:

- Long Chu là lễ hội tống khứ ôn thần, dịch bệnh của người dân xứ Quảng, đặc biệt là người dân ở Hội An này. Long Chu là thuyền rồng được làm bằng tre, lợp giấy màu có chở hình nộm âm binh thiên tướng trên đó. Hàng năm cứ đến rằm tháng giêng (thượng nguyên) và rằm tháng bảy (trung nguyên) thì người dân ở đây làm thuyền rồng và rước đi khắp nơi để bà con trong vùng gởi những thứ họ tin là của ôn thần, dịch bệnh lên thuyền. Sau đó, họ cùng nhau rước ra sông đốt rồi thả trôi ra biển. Làm như thế họ tin là đã tống khứ các loại ôn dịch ra khỏi nhà và khu phố họ đang sống.

Tên ăn mày chen vào:

- Bọn em nghĩ ngày mai thế nào cũng sẽ có đánh nhau giữa người Hoa và người Nhật nữa cho mà xem.

Văn Hiến hỏi:

- Em chỉ đoán thôi hay là đã có thông tin gì về vụ đánh nhau ngày mai?

Hắn đáp:

- Dạ, sau trận đánh hôm ở cầu Nhật Bản, bọn em nghe ngóng thêm thì biết được cả hai bên đều có ý muốn trả thù. Em tin là ngày mai, trong lúc mọi người rước Long Chu quanh phố thể nào cũng có chuyện lớn xảy ra.

- Giữa bọn người của công chúa đó và Diệp Sanh Ký có liên quan gì nhau không?

- Dạ chắc là có. Bọn em thấy ông chủ Diệp Sanh Ký hôm đó có ghé sang khách sạn Tuyền Châu và chiều hôm qua đám vệ sĩ lại hộ tống nàng công chúa sang cửa hiệu Diệp Sanh Ký.

Bạch Mai nói:

- Thế lực bọn Diệp Sanh Ký ở Giản Phố Châu rất lớn. Chúng còn có ý định giết chết dần các thương hiệu khác để độc chiếm thị trường. Chúng tôi gặp không ít khó khăn với chúng.

Hồng Liệt chen vào:

- Thế à? Đã đến mức xung đột bằng võ lực chưa?

Bạch Mai mím môi:

- Đại ca và một số thương hiệu khác biết họ mạnh vốn, mạnh người cho nên chủ trương hòa hoãn và có ý nhờ đến chính quyền ở Trấn Biên can thiệp khi cần, bởi vậy giữa chúng tôi vẫn chưa xảy ra xung đột vũ lực.

Văn Hiến hỏi:

- Kim Cương Môn là của họ à?

- Vâng. Đó lực lượng nồng cốt của Diệp Sanh Ký. Họ có nhiều cao thủ lắm.

- Cường Oai hầu Nguyễn Phúc Oai cai trị vùng Trấn Biên thế nào?

- Cường Oai hầu nhân từ quá nên trong việc cai trị có chút lỏng lẻo. Cũng vì thế mà bọn Diệp Sanh Ký và Kim Cương Môn mới lộng hành đến như thế.

Văn Hiến chợt quay sang nói với Hồng Liệt:

- Không chừng nàng công chúa này có liên quan đến tên Lý đại vương gì đó cũng nên. Có thể họ là thủ lĩnh của Diệp Sanh Ký và Kim Cương Môn.

- Ta nghĩ như vậy.

Văn Hiến hỏi mấy tên ăn mày:

- Bọn em có biết chiếc thuyền chở nàng công chúa đến từ đâu không?

- Dạ, hình như từ ở Phúc Kiến bên Tàu qua. Nghe nói họ chỉ dừng chân ở đây vài hôm để công chúa nghỉ mệt rồi đi tiếp vào Gia Định.

Lúc ấy, nhà hàng đã đem thức ăn và một bình Mai Quế Lộ ra. Hồng Liệt nói:

- Các em giỏi lắm! Nào ăn đi, sư tỷ ăn thử món cao lầu này xem hương vị thế nào.

Chàng đưa tay rót rượu cho mọi người. Bọn ăn mày đói lắm nhưng vì ngồi trong nhà hàng, trước mặt vị sư tỷ đẹp như tiên của anh cả nên bọn chúng cố ăn từ từ cho phải phép. Bạch Mai ăn thử hai miếng rồi nói:

- Ngon thật! Trông thì giống mì tàu, mì quảng nhưng hương vị lại khác xa. Thú vị thật!

Bọn ăn mày ăn xong liền đứng lên chào mọi người:

- Anh cả có dặn dò gì bọn em nữa không?

Hồng Liệt nói:

- Anh sẽ đi xa một thời gian, ở nhà lưu ý bọn Diệp Sanh Ký cho anh. Thôi các em đi đi, khi nào cần anh lại liên lạc.

Cả ba dạ ran rồi bước lại chỗ cầu thang định xuống lầu nhưng chợt giật mình lùi lại vì dưới cầu thang lúc ấy đang có hai tên người Hoa mặc đồ vệ sĩ bước lên. Đó là hai tên mà bọn chúng đã nhìn thấy hôm trước. Một tên áo đen bước về phía quầy, miệng la lớn:

- Chủ quán đâu, mau dọn ngay một bàn lớn ngay cửa sổ cho ta! Trải khăn trắng lên tất cả bàn ghế. Nhanh lên!

Tên còn lại vừa nhìn thấy mấy tên ăn mày liền quát lên, giọng tức giận:

- Lại gặp bọn bẩn thỉu các ngươi ở đây nữa à? Các ngươi muốn tự nhảy xuống lầu hay đợi ta ném xuống?

Tên ăn mày lớn tuổi nhất thấy có anh cả mình ở đây nên yên tâm hỏi lại:

- Tại sao ta phải nhảy xuống lầu? Quán này đâu có đề bảng cấm ăn mày lên ăn? Cầu thang này cũng đâu có treo biển cấm ăn mày đi xuống?

Tên vệ sĩ nghe hỏi nổi nóng liền đưa tay toan tát vào mặt tên ăn mày hỗn láo. Nhưng tay hắn vừa vung ra nửa chừng thì từ trong góc phòng một chiếc đũa tre bay nhanh đến điểm đúng ngay huyệt khúc trì nơi khuỷu tay của hắn. Cánh tay hắn đang đà đi rất mạnh mà phải đột ngột dừng lại rồi buông thõng xuống, đồng thời chiếc đũa tre cũng rơi theo. Ba tên ăn mày vội chạy ra sau lưng Văn Hiến đứng. Tên vệ sĩ bị đánh lén kinh ngạc đưa mắt nhìn về phía chiếc bàn trong góc phòng. Ở đó có hai người thanh niên và một thiếu nữ đẹp như hoa đang ngồi thản nhiên nói chuyện. Cánh tay phải của hắn sau phút tê điếng đã hoạt động bình thường trở lại vì lực đạo phóng ra chỉ vừa đủ để cản cú tát của hắn mà thôi. Hắn không hiểu rằng đó là việc hết sức khó làm mà lại nghĩ rằng người đánh lén mình chỉ là một kẻ tấm thường. Hắn bước đến gần chiếc bàn hất hàm hỏi:

- Trong bọn ngươi, ai đã đánh lén ta?

Văn Hiến ngồi mé ngoài, nghe hỏi ngẩng mặt lên:

- Đây là quán ăn, ai có tiền thì lên ăn. Anh bạn lấy quyền gì mà đuổi mấy người ăn mày này? Lại còn bắt chúng nhảy qua cửa sổ, không cho đi xuống bằng cầu thang. Anh bạn có thấy là mình quá đáng lắm không?

Tên vệ sĩ hất mặt về phía cầu thang:

- Công chúa của ta sắp đi lên, để bọn ăn mày dơ dáy này đi xuống sẽ làm hôi thối cầu thang và bẩn mắt người. Đó là lý do bọn chúng phải nhảy qua cửa sổ cút xéo, ngươi rõ chưa?

Văn Hiến cười lớn:

- Ngay cả đại công chúa Ngọc Huyên của Võ vương khi đi vào dân gian cũng chưa bao giờ giở giọng phách lối đến như vậy. Công chúa của anh bạn là ai mà có hành động coi thường thiên hạ đến thế?

Tên vệ sĩ định lên tiếng trả lời thì ngay lúc đó, nơi cầu thang xuất hiện một tên công tử ăn mặc sang trọng và sặc sỡ bước lên. Tuổi của hắn chừng hăm hai, hăm ba, khuôn mặt trắng trẻo trông rất bảnh trai tuy có phần gian xảo và thâm hiểm. Hắn bước lên lầu xong vội nghiêng mình ôm quyền đứng nép sang một bên. Lát sau đã thấy một cô gái chừng hai mươi tuổi, xinh đẹp tuyệt trần, y phục trên người toàn một màu trắng tinh khiết. Trên đầu nàng, mái tóc đen như nhung được bới cao và cài bởi ba chiếc trâm vàng có khảm những viên ngọc bích lấp lánh càng làm tăng thêm vẻ quí phái và kiêu kỳ. Nàng xuất hiện mang theo một mùi hương thoang thoảng tỏa ra khắp gian lầu. Tất cả thực khách đang yên lặng theo dõi câu chuyện giữa chàng thư sinh và tên vệ sĩ bỗng ồ lên kinh ngạc trước sắc đẹp của bạch y nữ tử. Nàng quả thật là trang tuyệt sắc giai nhân! Nét đẹp vừa lộng lẫy kiêu kỳ, vừa quyến rũ lại vừa lạnh lùng. Nếu đem nàng so sánh với những bức danh họa “Ngũ Đại Mỹ Nhân” của Đại Việt thì thật chẳng thua kém chút nào, nhiều khi lại có phần hơn.

Thực khách trên lầu sau tiếng ồ kinh ngạc thì bỗng im phăng phắc, không ai dám thở mạnh vì sợ kinh động đến nàng. Trong thâm tâm họ đều cho rằng bọn vệ sĩ không cho ba tên ăn mày kia xuất hiện chung quanh nàng cũng có cái lý lẽ của nó. Cái lý lẽ của sự tôn sùng vẻ đẹp, một vẻ đẹp tuyệt bích của tạo hóa đã ban tặng riêng cho một mỹ nhân. Họ kín đáo liếc nhìn cả hai cô gái áo trắng như để so sánh xem trong hai nàng, ai đẹp hơn ai.

Chàng thanh niên ăn mặc bảnh bao sau khi đón cô gái xinh đẹp bước lên lầu thì vội khúm núm mời nàng đến chiếc bàn đã được phủ khăn trắng tinh. Hắn ta đưa tay sửa lại chiếc khăn trắng phủ trên ghế rồi đứng sang một bên.

- Mời công chúa!

Thái độ chiều chuộng và phục tùng của hắn trông thật lố bịch. Nàng công chúa vẫn giữ nét lạnh lùng, lặng lẽ ngồi xuống, mắt vô tình hướng về phía góc phòng nơi chiếc bàn của bọn Văn Hiến. Hai tên vệ sĩ đi theo sau nàng cùng tên đã hét chủ quầy dọn bàn đứng ngay ngắn phía sau ghế của nàng như ba pho tượng. Tên vệ sĩ đang tranh luận với Văn Hiến đứng yên tại chỗ cúi đầu đón công chúa. Khi hắn thấy công chúa ngồi hướng mặt về phía mình thì hoảng sợ vô cùng, hắn vội vàng nhìn ba tên ăn mày nói nhanh, giọng giận giữ:

- Bọn chúng bay có xéo ngay lập tức hay không?

Vừa nói, hắn vừa chồm người tới giơ tay phải định tóm cổ tên ăn mày gần nhất. Văn Hiến đang cầm chiếc đũa trong tay trái liền đưa lên, động tác hết sức thong thả nhưng đầu đũa lại nhắm đúng ngay vào huyệt lao cung giữa lòng bàn tay tên vệ sĩ. Hắn giật mình vội xoay bàn tay, biến cú chụp thành cương đao chặt chéo vào cổ tay Văn Hiến. Chàng xoay ngoặt cổ tay nửa vòng, đầu đũa trên tay lại nhắm đúng vào huyệt nội quan nơi cổ tay tên vệ sĩ. Chàng cố tình trêu chọc tên này cho bõ ghét nên không điểm trúng vào tay địch thủ mà chỉ xoay đầu đũa chờ sẵn để bàn tay hắn đánh tới. Nếu hắn không dừng tay hoặc biến thế thì ngay lập tức sẽ bị điểm trúng huyệt đạo trên tay. Tên vệ sĩ lại một phen giật mình, hắn vội vàng hạ cánh tay xuống một tấc, bàn tay vẫn giữ thế cương đao xỉa thật nhanh vào mặt của Văn Hiến, đồng thời tay trái chặt mạnh vào huyệt thái dương bên phải của chàng. Đòn đánh của hắn ở cả hai tay đều rất nhanh và ác độc, trong một cự ly gần như thế, mọi người đều nghĩ chắc là chàng thư sinh mảnh khảnh này không thế nào tránh né được, trừ phi chàng ta phải ngã ngửa người ra phía sau.

Nhưng còn nhanh hơn cả ý nghĩ của mọi người, Văn Hiến vẫn ngồi yên, xoay tay thật lẹ. Mọi người không nhận ra chàng đã xuất chiêu thế nào mà cả hai tay của tên vệ sĩ đang đà đánh bỗng nhiên dừng lại rồi rơi xuống tự do. Thì ra Văn Hiến thấy tên vệ sĩ xuất đòn thâm độc nên đã nhanh chóng dùng đầu đũa điểm vào hai huyệt ngũ lý ở khuỷu tay của hắn. Tất cả những diễn biến đó đều không thoát khỏi ánh mắt lạnh lùng của nàng bạch y công chúa nhưng chỉ thấy nàng khẽ cau mày mà không nói gì. Tên công tử bảnh bao nhận ra cái cau mày của nàng vội đứng thẳng người lên, bước tới chỗ tên vệ sĩ và đưa tay tát cho hắn một cú như trời giáng, giọng hách dịch:

- Tránh ra! Ngươi định bêu xấu công chúa lần nữa hả?

Thái độ lúc nãy trước mặt nàng công chúa khúm núm bao nhiêu thì bây giờ với tên vệ sĩ, gã công tử trở nên hách dịch bấy nhiêu. Tên vệ sĩ bị cú tát tuôn máu mồm, hắn ôm má:

- Dạ, công tử.

Rồi hắn lui ra sau cúi đầu đứng im, vẻ sợ hãi hiện rõ trên nét mặt. Gã công tử nhìn Văn Hiến hất hàm:

- Ngươi là ai mà dám ra tay đánh người của công chúa?

Văn Hiến nhìn hắn mỉm cười:

- Ta có đánh hắn đâu. Là tự hắn đưa tay vào đầu đũa của ta đấy chứ.

Hắn trừng mắt:

- Ngươi lại dám đùa bỡn cả với bổn công tử ư?

Chưa dứt câu nói thì bàn tay phải của hắn đã biến cương trảo vươn ra như móng chim ưng chộp vào vai Văn Hiến. Nhìn thấy bàn tay địch thủ, Văn Hiến nhận ra ngay hắn đang sử dụng “Ưng Trảo công”, một môn võ rất hiểm độc của võ thuật Trung Hoa nên chàng không dám xem thường. Chiếc đũa đang cầm trên tay trái của Văn Hiến nhanh chóng điểm vào lòng bàn tay địch thủ. Gã công tử đã đoán trước được ý định đó nên thủ trảo của hắn chưa đến nơi thì cổ tay đã xoay ngang, năm ngón tay như vuốt chim ưng chụp nhanh vào bàn tay cầm đũa của Văn Hiến. Văn Hiến vội hạ cánh tay xuống, đưa đầu đũa đâm xéo lên mu bàn tay của địch. Gã công tử cũng hạ nhanh tay xuống, xoay ngược ưng trảo chụp vào cổ tay đối phương. Động tác của hắn tuy nhanh nhưng đầu đũa trên tay của Văn Hiến còn nhanh hơn một bậc. Bất kể ưng trảo của địch thủ xoay chuyển thế nào thì đầu đũa của chàng cũng tìm đúng hai huyệt nội quan và ngoại quan nơi cổ tay của địch mà điểm vào.

Gã công tử ngay từ đầu đã muốn ra đòn độc hạ nhanh địch thủ để lấy điểm với công chúa nhưng qua hơn mười chiêu mà hắn vẫn chưa đụng được đến sợi lông tay của địch thủ. Điều đó khiến hắn vừa thẹn vừa giận. Hắn thét lên một tiếng rồi cả hai tay xuất chiêu cùng một lúc, mười ngón tay như mười vuốt chim ưng chộp lia lịa vào khắp các bộ vị thượng bàn của địch thủ. Tay phải Văn Hiến cũng bốc nhanh chiếc đũa khác rồi dùng hai đầu đũa trên hai tay điểm vào cổ tay đối phương. Hai người một đứng một ngồi, kẻ chộp người điểm hơn bốn mươi chiêu liên tiếp mà chưa phân thắng bại. Thực khách lúc này nín thở theo dõi trận đấu nên cả gian lầu im phăng phắc, chỉ còn nghe tiếng gió vù vù phát ra từ những cú chộp của gã công tử. Mặt hắn lúc đầu đỏ lên vì giận, sau một lúc giao đấu đã từ từ chuyển sang màu tím biểu hiện sự tức tối đến cực độ. Trong khi Văn Hiến vẫn bình thản, hai tay nhẹ nhàng nhưng mau lẹ và chính xác, ngăn chặn các thế công của địch thủ.

Bỗng gã công tử hét to một tiếng, hai tay chộp nhanh vào hông Văn Hiến đồng thời chân tung ra một cú đá thật mạnh vào chiếc ghế chàng đang ngồi. Văn Hiến liền nhún mũi bàn chân một cái, chiếc ghế đã lui nhanh ra sau một khoảng vừa đủ thoát khỏi cú đá của gã công tử. Gã gầm lên tiếng thứ hai, chân bước sấn tới, tay phải rút thanh đoản kiếm đeo ngang hông ra đâm nhanh vào ngực Văn Hiến còn ưng trảo nơi tay trái thì chộp vào mặt chàng cố ý hạ sát đối phương cho bằng được. Văn Hiến không ngờ gã công tử lại ra sát chiêu cố giết mình, chàng ngửa người về phía sau thật nhanh nhưng vẫn bị mũi kiếm sượt qua cứa một đường dài trên ngực áo. Trong tư thế nằm ngửa đó, tay chàng từ bên dưới xỉa thẳng vào cổ tay cầm kiếm và thuận đà dùng chân phải đá thốc lên hạ bàn của đối phương. Cú đá ở cự ly rất gần, chàng tin chắc gã công tử thể nào cũng trúng đòn. Nhưng hắn không phải tay vừa, trong lúc nguy cấp, hắn vội rút nhanh tay về, cùng lúc co chân trái lên đưa đầu gối ra chịu cú đá của Văn Hiến rồi mượn đà tung mình về phía sau. Trúng cú đá đó, đầu gối trái của hắn đã chấn thương nên khi đáp xuống hắn phải đứng bằng chân phải. Hắn càng thêm tức giận vì thẹn nên chân vừa chạm đất tay đã phóng vút thanh đoản kiếm vào bụng Văn Hiến. Chàng giật mình vội né người ra khỏi ghế và tránh được mũi kiếm trong đường tơ kẽ tóc. Phập một tiếng, thanh kiếm cắm sâu đến lút cán vào mặt ghế trong tiếng ồ kinh hoàng của thực khách. Văn Hiến trong khi né mình thoát khỏi mũi kiếm, tay phóng thật nhanh chiếc đũa về phía địch. Gã công tử sau khi phóng vội thanh đoản kiếm đi, hắn vẫn chưa kịp định thần thì chỉ nghe tiếng vút, chiếc đũa đã bay đến điểm trúng ngay vào huyệt đản trung giữa ngực của hắn khiến nội lực bị tản mác, cả thân người hắn run lên. Văn Hiến bật nhanh người dậy bước đến tát vào mặt hắn hai cú như trời giáng. Chàng gằn giọng:

- Ta với ngươi không thù không oán sao ngươi lại cố ý giết ta? Ngươi ác tâm quá lớn, lại coi mạng người như cỏ rác. Nếu để ngươi sống chắc sẽ còn giết hại nhiều người vô tội, nhưng ta niệm đức hiếu sinh tha cho ngươi một mạng.

Nói đến đây tay chàng nhẹ nhàng phất vào huyệt phân kinh của hắn, đẩy theo một luồng nhu lực. Gã công tử thấy toàn thân như có một luồng hơi nóng từ đan điền tỏa lên ngực rồi tản mác ra khắp châu thân, cả người rũ rượi không còn một chút khí lực nào. Văn Hiến nhìn hắn nói:

- Ta phế võ công của ngươi để từ nay ngươi không còn có thể giết người vô tội nữa, và nhờ vậy mà ngươi sẽ sống lâu hơn.

Nói xong, chàng quay lưng bước về chỗ ngồi. Thân hình gã công tử run lên bần bật, hắn hét to một tiếng như thú dữ bị thương sắp chết, mắt trợn trừng đến rách cả mí, máu chảy thành dòng xuống hai má, cả người hắn từ từ sụm xuống. Tên vệ sĩ đứng gần đó vội chạy lại đỡ hắn rồi dìu lại gần chiếc bàn của nàng bạch y công chúa. Ba tên vệ sĩ đứng sau lưng nàng đồng loạt rút kiếm định xông ra tấn công Văn Hiến. Bỗng nàng công chúa đưa bàn tay như ngọc ra và quát nhỏ:

- Đũa!

Ba tên cận vệ vội chạy đến các bàn khác vơ lấy các hộc đũa mang lại cung kính để trước mặt nàng rồi lui ra. Trong khi đó mọi người lại nghe nàng quát lên lần nữa, giọng lạnh băng hướng về phía Văn Hiến đang trở gót về bàn của mình:

- Quay lại!

Văn Hiến nghe tiếng quát liền dừng bước, từ từ quay lại. Bạch y công chúa nét mặt vẫn lạnh như tiền, chỉ thấy tay phải của nàng vung ra, hai chiếc đũa lao vút về phía Văn Hiến rồi chia ra một trên một dưới nhắm thẳng vào mặt và bụng của chàng. Thủ pháp của nàng tuy rất nhẹ nhàng nhưng hai chiếc đũa khi lao đi lại nhanh như hai mũi tên bắn, tạo ra thanh âm gió rít nghe đến lạnh người. Khoảng cách giữa hai người tuy khá xa nhưng lực đi của hai chiếc đũa lại nhanh cấp kỳ, chỉ vèo một phát đã đến nơi. Văn Hiến đưa cả hai tay một trên, một dưới nhẹ nhàng bắt gọn hai chiếc đũa. Chàng vừa bắt xong hai chiếc đũa đầu tiên thì hai chiếc kế tiếp đã xé gió lướt đến. Chàng chuyển hai cánh tay, dùng hai đầu chiếc đũa vừa bắt điểm thật chính xác vào đầu hai chiếc đũa đang bay tới.

Với lực bay nhanh như thế, lẽ ra khi bị điểm trúng thì hai chiếc đũa đang bay tới phải bật ngược lại hoặc lệch sang bên nhưng đằng này chúng lại nhẹ nhàng rơi xuống đất. Thì ra chúng đã bị một lực âm nhu mà chàng truyền vào đầu đũa đang cầm trên tay mình để hóa giải lực bay tới khiến chúng đụng vào như chạm phải miếng vải mềm và rơi ngay xuống đất. Bàn tay nàng công chúa lại không ngớt vung lên, những chiếc đũa liên tiếp xé gió lao về khắp các bộ vị trên người Văn Hiến. Thủ pháp phóng ám khí của nàng thật tinh kỳ, cùng một cú phóng mà những chiếc đũa lại bay đi nhiều hướng khác nhau. Tiếc rằng hôm nay nàng gặp phải Văn Hiến, một danh gia về môn phóng ám khí cho nên dù nàng phóng cách nào, phóng bao nhiêu đi nữa thì những chiếc đũa cũng đều bị chàng điểm trúng và rơi xuống. Trong khi ba tên vệ sĩ liên tục đi đến các bàn thu gom đũa đem lại cho nàng công chúa thì Đinh Hồng Liệt mỉm cười lên tiếng:

- Tên đồ gàn, hôm nay ngươi gặp đối thủ rồi đấy!

Văn Hiến hai tay điểm những chiếc đũa đang bay tới còn miệng thì ung dung cười đáp:

- Đúng vậy! Ta thật thấy hứng thú với trò chơi này.

Bạch y công chúa phóng hơn ba mươi chiếc đũa mà không trúng đích được chiếc nào, lại thấy đối phương cười nói tự nhiên như không thì trong lòng vừa kinh ngạc vừa tức giận. Hai má nàng đã ửng đỏ, có lẽ phần vì giận, phần vì dùng nhiều sức. Nàng đổi thủ pháp, dùng cả hai tay phóng một lúc đến sáu chiếc đũa nhắm vào cả thượng bàn, hạ vị của Văn Hiến. Hai tay Văn Hiến di động nhanh hơn trước nhưng bây giờ chàng không điểm rớt những chiếc đũa nữa mà lại hất chúng về phía sau nhắm vào hướng Đinh Hồng Liệt, miệng chàng la lớn:

- Tên trộm! Bắt lấy!

Đinh Hồng Liệt ngồi nơi bàn thản nhiên đưa hai tay chộp lia lịa những chiếc đũa do Văn Hiến hất lại, miệng cười ha hả:

- Hay lắm! Ngươi không bắt được hết thì cứ hất lại đây ta giữ cho để trả lại người ta. Người ta sắp hết đũa rồi kìa.

Nói xong, chàng một tay bắt đũa, một tay phóng nguyên nắm đũa đã bắt được sang cho ba tên hộ vệ đang đứng cạnh công chúa. Thủ pháp của chàng trông đẹp mắt vô cùng. Cả bó đũa bay tà tà về phía địch như chúng đã được cột chặt lại với nhau vậy. Một tên hộ vệ vội đưa tay ra bắt lấy rồi đặt trở lại trên bàn cho nàng công chúa. Thực khách trên lầu nãy giờ nín thở để xem thì đột nhiên tất cả cùng vỗ tay tán thưởng. Trong khoảnh khắc đó, mọi người đã quên mất rằng đây là một trận đấu sống chết. Có tiếng nói vang lên ở một góc phòng:

- Thật là một trận đấu cổ kim hiếm thấy! Cả ba người đều xứng đáng là danh thủ về môn ném ám khí, thiên hạ khó có người sánh kịp.

Bạch y công chúa sắc mặt đỏ bừng, trông nàng càng kiều diễm hơn, nhưng đúng là nét kiều diễm chết người. Nàng đột nhiên hốt cả nắm đũa trên bàn, dùng thế “Mãn Thiên Hoa Vũ” tung nguyên nắm đũa hơn ba mươi chiếc về phía Văn Hiến. Bó đũa bay ra khỏi tay nàng bỗng tách làm hai, một nửa tấn công Văn Hiến, nửa kia tấn công Đinh Hồng Liệt. Tuyệt hơn nữa là mỗi phần đũa sau khi tách ra làm hai lại chia thành nhiều hướng nhắm vào các bộ vị của cả hai người bay véo đến. Văn Hiến la lên:

- Tên trộm coi chừng! Ngươi chọc giận người ta rồi đó.

Miệng nói, hai tay chàng xoay nhanh thành những vòng tròn, dùng nhu lực đón những chiếc đũa rồi thu gọn chúng vào lòng bàn tay. Trong khi đó, Hồng Liệt sẵn số đũa vừa bắt được trong tay, chàng tung chúng về phía những chiếc đũa của bạch y công chúa đang phóng đến. Từng chiếc một đụng nhau tung bật lên cao rồi rơi xuống sàn. Số đũa còn lại chưa bị rơi mà tiếp tục phóng đến, chàng đưa hai tay bắt gọn. Văn Hiến rút ba chiếc đũa cầm nơi tay phải rồi la lớn:

- Trả lại cho cô nương ba chiếc đây!

Xong chàng vung mạnh tay một cái, ba chiếc đũa rời khỏi tay bay vút về phía bạch y công chúa. Ba chiếc đũa bay ra cùng lúc với một tốc độ kinh người nhưng khi đến gần nàng công chúa, chúng đột ngột tách ra, hai chiếc hướng vào hai bàn tay nàng còn chiếc thứ ba bay vồng lên trên nhắm đúng vào cạnh ba chiếc trâm trên đầu nàng mà ghim vào đó như chính tay nàng đã cài lên vậy. Bạch y công chúa vì phải chú ý đến hai chiếc đũa đang bay rất nhanh đến hai tay mình, khoảng cách quá ngắn nên nàng ngưng thần đón bắt chúng mà đành để chiếc thứ ba ghim lên mái tóc mình.

Nàng ngồi sững sờ, nét mặt từ đỏ bừng chuyển sang trắng bệch. Cả gian lầu đột ngột vang lên một tiếng ồ thật lớn rồi xôn xao bàn tán.

- Tuyệt kỹ! Diệu thủ thần châm! Diệu thủ thư sinh!

Bạch y công chúa vừa giận vừa thẹn, nàng đứng lên quát:

- Về!

Cùng lúc ấy nàng đưa tay rút chiếc đũa trên đầu ném xuống sàn rồi lạnh lùng bước đến cầu thang để xuống dưới lầu. Đi ngang qua chỗ Văn Hiến, nàng đứng lại nhìn chàng và nói bằng một giọng lạnh băng:

- Giỏi lắm! Nhưng ngươi phải lo giữ cái mạng của mình đi!

Nàng bước xuống lầu. Bốn tên vệ sĩ vội vàng bước theo sau, một tên vác gã công tử áo hoa sặc sỡ trên vai. Bọn chúng không quên đưa tám con mắt tóe lửa nhìn Văn Hiến và Hồng Liệt. Ánh nhìn chứa đựng bao sự thù hận như muốn phanh thây hai người ra muôn ngàn mảnh ngay lập tức. Đợi bọn chúng đi khỏi, mọi người trong quán mới thở phào nhẹ nhõm. Tiếng xì xào bàn tán về trận đánh vừa rồi vang lên khắp nơi. Chủ quán người Việt vội chạy lại bàn của bọn Văn Hiến, giọng run run:

- Hiệp sĩ gây nên họa lớn rồi. Người mà hiệp sĩ vừa đánh đó là đại công tử của hãng Diệp Sanh Ký ở đây. Thế lực của bọn chúng rất lớn, từ lâu chúng coi Hội An này như đất riêng của chúng, hoành hành tác oai mà chẳng ai dám động đến. Tên công tử đó lại càng giống như một hung thần. Hắn về Trung Quốc theo thầy học võ từ lúc mười ba tuổi, hắn mới trở lại Hội An hai năm nay mà đã có không biết bao nhiêu người bị hắn giết chết. Hà! Hiệp sĩ ra tay như thế thì thật là phúc cho cư dân ở đây nhưng tôi e rằng từ nay hiệp sĩ sẽ gặp nguy hiểm vô cùng.

Văn Hiến mỉm cười:

- Cảm ơn chú chủ quán. Nếu đó là phúc cho cư dân ở đây thì tôi có bị nguy hiểm một chút cũng chẳng sao.

Nói xong, chàng ra dấu cho Hồng Liệt và Bạch Mai rồi móc tiền định thanh toán. Chủ quán vội xua tay:

- Không cần đâu. Ba vị hãy rời khỏi Hội An ngay bây giờ để tránh phiền phức cho ba vị mà cho cả chúng tôi nữa.

Văn Hiến quay sang đưa tiền cho ba tên ăn mày:

- Các em phải lập tức rời khỏi Hội An ngay. Bảo tất cả anh em trong nhóm cũng phải rời khỏi nơi đây một thời gian để tránh bị chúng trả thù.

Xong cả bọn thong thả bước xuống lầu. Có tiếng nói khẽ phía sau:

- Trông chàng ta mảnh khảnh như thư sinh thế mà võ nghệ thật siêu quần. Hà, chớ nên coi mặt mà bắt hình dong. Thật là một trận đánh hi hữu và ngoạn mục khiến cho tôi mở rộng tầm mắt. Thôi, chúng ta cũng nên rời khỏi nơi đây ngay để tránh phiền phức.

Thực khách nghe người nọ nói, tất cả đều lần lượt rời khỏi quán. Ra đến đường phố ba tên ăn mày vội chạy biến vào trong các ngõ hẻm. Nhóm Văn Hiến đến nơi cột ngựa, tung người lên tuấn mã của mình rồi ra roi chạy về phía ngược lại với hướng cửa hiệu Diệp Sanh Ký. Mai là lễ hội Long Chu nên giờ này đường phố ở Hội An người qua lại tấp nập. Ba người phải khó khăn lắm mới ra khỏi khu phố, họ đồng thanh hét lớn “đi” và ba con ngựa hí vang rồi lao vút. Văn Hiến nói lớn trong gió:

- Chúng ta nên rời khỏi Hội An để tránh phiền phức cho cư dân ở đây như lời ông chủ quán. Ha ha... Chuyến này vào Giản Phố Châu chắc sẽ còn nhiều chuyện vui hơn nữa đấy.

Giọng của Bạch Mai có chút lo lắng:

- Vui thì có vui nhưng chết người như chơi đó, anh đừng xem thường.

Hồng Liệt cười lớn:

- Sư tỷ đừng lo. Tên đồ gàn biết xem tướng. Hắn nói tướng của hắn phải sống hơn bảy mươi tuổi nên hắn không chịu chết non đâu.

Ba con thiên lý mã phóng như bay trên đường quan lộ rời Hội An theo hướng tây để trở lại bến Thu Bồn. Vầng trăng mười bốn nhô lên từ từ trên nền trời xam xám phía đông. Cả ba xuống chuyến đò cuối cùng qua sông lớn. Con đò vắng tanh chỉ có ba người bọn họ và ba con ngựa. Đò ra giữa dòng sông, Bạch Mai nhìn ánh trăng lung linh phản chiếu trên sóng nước buộc miệng khen:

- Trăng đẹp quá!

Hồng Liệt nói nhỏ:

- Trăng đẹp thật! Đồ gàn, ngươi trổ tài xuất khẩu thành thơ tặng sư tỷ một bài đi.

Bạch Mai vỗ tay reo lên:

- Đúng đó! Tôi cũng muốn biết tài “thất bộ đề thi” (bảy bước làm thơ) của anh xem có hơn Tào Thực và Vương Bột ngày xưa không.

Văn Hiến cười:

- Tên trộm này có ý làm khó tôi mà thôi. Tôi làm gì có tài xuất khẩu hay “thất bộ đề thi”. Bạch tiểu thư đừng tin lời hắn.

Bạch Mai chu đôi môi xinh xắn lên lắc đầu:

- Tin! Tôi tin lời nói của Đinh huynh. Anh đừng tìm cách thoái thác nữa. Thôi, cho anh thời gian từ đây đến khi con đò cập bến. Như vậy là dễ dàng cho anh rồi đó.

Văn Hiến vò đầu:

- Tên ăn trộm chết tiệt kia, ngươi không làm khó ta chắc là ăn cơm không ngon phải không?

Tuy nói thế nhưng mắt chàng đã hướng về vầng trăng tròn treo lơ lửng trên trên cao. Bóng trăng lồng trong dòng nước lấp lánh trên sông Thu Bồn đã phản chiếu lên khuôn mặt sáng ngời của Bạch Mai, trông nàng xinh đẹp tuyệt trần. Sau một chốc im lặng xuất thần, chàng cất tiếng ngâm nga:

Kim dạ thanh thiên mãn nguyệt luân

Thu Bồn giang thượng hữu giai nhân

Tu hoa bế nguyệt mai khôi diện

Nhất tiếu ngư trầm thủy thượng vân

Huyền mấn như ti thanh ngọc khánh

Tư phong yểu điệu hàm đan tâm

Thập niên vĩnh phụ vô phương diện

Vạn lý đơn thân hiếu nữ tầm.

Dịch nghĩa:

Đêm nay một vầng trăng đầy treo trên nền trời trong

Trên sông Thu Bồn có một người đẹp

Mặt như ngọc sáng khiến hoa nhường nguyệt thẹn

Nàng cười khiến cho cá phải lặn, mặt nước gợn lăn tăn

Tóc đen mượt như tơ, tiếng trong như khánh vàng

Phong thái yểu điệu ẩn chứa một trái tim son

Mười năm cách biệt cha không thể gặp

Một mình vượt ngàn dặm hiếu nữ tìm cha.

Tiếng ngâm vừa dứt, Bạch Mai đứng lặng người với nỗi lòng nao nao khó tả. Nàng chưa bao giờ có được cảm giác vừa sung sướng, vừa hạnh phúc lại vừa kiêu hãnh như thế trong đời. Thâm tâm nàng hết sức cảm mến và kính phục chàng thư sinh mảnh khảnh nhưng rất mực tài hoa mới quen này. Hồng Liệt khi nghe xong bài thơ liền vỗ tay khen:

- Tuyệt! Cái gì mà “Tu hoa bế nguyệt mai khôi diện, nhất tiếu ngư trầm thủy thượng vân”. Hay quá! Ha ha... Như vậy là Bạch Mai sư tỷ đáng được liệt vào “Đại Việt – Lục Đại Mỹ Nhân” rồi. Nhưng ta thích nhất hai câu “Tư phong yểu điệu hàm đan tâm” và “Vạn lý đơn thân hiếu nữ tầm”. Hai câu này mới nói lên được một cách trọn vẹn con người của sư tỷ. Đệ xin chúc mừng sư tỷ được tặng một bài thơ miêu tả thật chính xác về mình. Ta cũng có lời khen tặng tên đồ gàn ngươi. E rằng tài của ngươi còn hơn cả Tào Thực và Vương Bột năm xưa.

Văn Hiến mỉm cười:

- Ngươi đừng quá khen. Ta chỉ là mượn chữ của cổ nhân ghép lại mà thôi chứ chẳng có tài cán gì đâu.

Hồng Liệt phản đối:

- Ngôn ngữ là của chung thiên hạ chứ nào phải của riêng ai. Những ai biết sắp xếp sao cho ngôn từ đạt ý, đạt lý đều là những kẻ có tài. Hơn nữa, ngươi đối cảnh sinh tình mà nghĩ ra chứ cổ nhân nào đã biết sư tỷ đẹp ra sao mà đề ra được bài thơ tuyệt tác như thế.

Văn Hiến chắp tay vái:

- Thôi được ta thua ngươi. Nhưng điều quan trọng là vì ở đây có cảnh đẹp mà người cũng đẹp nên ta mới có thể đối cảnh mà sinh ra được lắm tình như thế chứ. Ngươi có đồng ý không?

Hồng Liệt cười lớn:

- Đồng ý, nhất định là đồng ý rồi!

Bạch Mai bây giờ mới bước ra khỏi cơn mơ hạnh phúc, nàng nghe hai người tán qua tán lại vẻ đẹp của mình trong lòng vui lắm nhưng làm bộ phụng phịu:

- Thôi cho tôi xin đi! Hai người đừng kẻ tung người hứng để tìm cách nhạo người ta nữa. Cái gì là “bế nguyệt trầm ngư” lại còn “Đại Việt – Lục Đại Mỹ Nhân” nữa chứ. Chỉ là những sáo ngữ hão huyền. Mà này, họ là những ai vậy?

Hồng Liệt cười nói:

- Một là nàng công chúa Mỵ Châu con vua An Dương Vương, người con gái Việt có một tâm hồn hết sức trong sáng và một trái tim yêu rất mực chung tình. Hai là Nguyên phi Ỷ Lan, người thôn nữ làng Siêu Loại, đẹp nết, đẹp người lại đa tài, đã giúp vua Lý Thánh Tông trị quốc bình thiên hạ trong gần nửa thế kỷ. Ba là An Tư công chúa con vua Trần Thái Tông, người đã hy sinh đời công chúa cành vàng lá ngọc của mình để gả cho Thoát Hoan, khiến cho tên tướng nhà Nguyên này mê mẩn, giúp nhà Trần chiến thắng quân Mông Cổ. Bốn là Huyền Trân công chúa, cháu của công chúa An Tư, người được xem là đệ nhất mỹ nhân với nét đẹp cao quí và thanh khiết như đóa sen trắng, đã khiến cho vua Chiêm Chế Mân chỉ nghe tiếng thôi đã đem dâng hai châu Ô, Rí làm sính lễ cầu hôn. Năm là công nữ Ngọc Vạn, con của Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, người đã sánh duyên cùng vua Chân Lạp Chay Chetta II. Vùng đất trù phú miền Nam ngày nay thuộc về chúng ta cũng là nhờ bước đi mở cõi này của nàng. Nay thêm sư tỷ nữa là sáu người. Là “Đại Việt – Lục Đại Mỹ Nhân” đó.

Bạch Mai làm bộ dỗi, nàng nguýt Hồng Liệt:

- Anh chỉ giỏi bịa ra để chọc người ta thôi. Làm gì có “Đại Việt – Lục Đại Mỹ Nhân”? Trương huynh, anh nói đi, chuyện bịa cả phải không?

Văn Hiến mỉm cười nhưng giọng nói hết sức nghiêm nghị:

- Là thật đấy! Những người mà tên trộm vừa kể đều là những tuyệt đại mỹ nhân của Đại Việt. Họ không những rất đẹp mà sự đóng góp và hi sinh của họ đối với dân tộc ta cũng lớn lao vô cùng.

Hồng Liệt làm mặt nghiêm chỉnh, giọng tỉnh khô như thật:

- Thấy chưa! Tỷ giờ là đệ lục mỹ nhân rồi. Về nhân phẩm thì đồ gàn đã tặng cho bốn chữ “đan tâm, hiếu nữ”, như thế cũng tạm đủ. Nhưng mà sau này tỷ chịu sang lấy vua Cao Miên để đổi lấy thêm đất hai châu của Miên quốc nữa thì càng tuyệt hơn.

Bạch Mai đưa tay đấm vào ngực Hồng Liệt hai cú thật mạnh:

- Anh ác vừa chứ! Tôi trả cái danh hiệu đệ lục, đệ thất mỹ nhân gì gì lại cho anh đó. Tôi nhất định không chịu sang Cao Miên làm hoàng hậu đâu.

Hồng Liệt giả bộ ôm ngực la bai bải:

- Trời ơi chết tôi rồi! Yểu điệu thục nữ gì mà đấm mạnh đến bể phổi người ta rồi.

Bộ tịch của chàng khiến cả ba người đều phá lên cười. Cùng lúc đó, con đò đã cập bến. Họ rời đò lên bờ rồi tiếp tục phi ngựa đi dưới trăng. Hồng Liệt nói:

- Đêm nay chúng ta nghỉ tại nhà trạm Long Phúc[1] nhé?

Văn Hiến đồng ý:

- Tốt đấy! Để cho Bạch tiểu thư nghỉ ngơi nữa.

Bạch Mai nói:

- Trương huynh bỏ hai tiếng “tiểu thư” cho em nhờ có được không? Sao mà nghe khách sáo và xa lạ quá, em không thích chút nào.

Văn Hiến vội vàng chữa:

- Xin lỗi, tôi quen miệng rồi. Thôi được, từ giờ gọi là Bạch muội nhé?

Bạch Mai gật đầu:

- Như thế có phải thân mật hơn không. Cả Đinh huynh nữa, bỏ cái tiếng “sư tỷ” đi. Em cho anh làm sư huynh đó. Người ta nhỏ tuổi hơn nhiều mà bắt làm chị để vòi vĩnh hả?

Thấy nàng vui vẻ và tự nhiên như thế, Hồng Liệt nhìn sang Văn Hiến gật đầu làm dấu rồi cả hai đồng thanh gọi:

- Bạch muội!

Bạch Mai cười khúc khích:

- Có em đây, hai vị đại ca muốn sai xử việc chi?

Cả ba lại phá lên cười. Gió mát trăng thanh, ba con ngựa phóng nhanh, lòng người lại vui nên hành trình dường như thu ngắn lại. Đầu giờ hợi thì ba người đã đến trạm Long Phúc. Họ vào quán ăn tối. Trong khi ăn, Văn Hiến hỏi:

- Bạch muội lúc trước từ Gia Định ra đây bằng phương tiện gì?

- Em theo thuyền buôn của nhà họ Cao ở đầm Hải Hạc ra Quy Nhơn, sau đó lại theo thuyền của họ ra Phú Xuân. Khi đến Phú Xuân, em mới biết ngài Hình bộ thượng thư vừa đi kinh lý Phù Ly nên vội vã trở vào tìm. Họ Cao ở Quy Nhơn là khách hàng quen thuộc của Thần Quyền Môn.

- Khi nào thì họ khởi hành vào lại?

- Cuối tháng này thuyền của họ sẽ chở hàng vào Đại Phố Châu. Họ có mời muội ngày hai mươi sáu này vào dự lễ thôi nôi của tiểu thư Cao Đại Hồng nhà họ. Có lẽ chúng ta nên có mặt ở Quy Nhơn trước ngày đó.

Hồng Liệt mỉm cười hỏi:

- Nghe nói họ Cao ở đầm Hải Hạc là tay giàu có lớn. Không biết tên trộm như ta vào nhà họ có sợ không?

Bạch Mai đáp:

- Có em bảo lãnh thì họ còn sợ gì nữa.


*****​


[1] Năm Minh Mạng thứ ba đổi tên trạm lại là Nam Phúc.
 

hi1103

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
16/5/16
Bài viết
36
Gạo
0,0
Phải nói là em chờ truyện này ngay từ khi đọc được phần giới thiệu ở trong mục xét duyệt quyền tác giả.
Đọc một lèo không ngừng nghỉ từ trên xuống dưới, em chỉ có một từ để nhận xét thôi, quá tuyệt!
Em rất khâm phục tác giả về lượng kiến thức lịch sử sâu rộng, không những vậy còn có những kiến thức về các lĩnh vực cổ xưa, hình như đây là chuyên môn của tác giả ạ?
Điều thứ hai em muốn nói là văn phong của tác giả quá mượt mà, uyển chuyển và cách dẫn dắt truyện cực kỳ lôi cuốn, làm em đọc liền một mạch.
Từ ngữ tác giả sử dụng rất cổ đại nhưng không hề lậm văn Trung Quốc, có thể thấy rõ ngôn ngữ riêng của người Việt xưa.
Thế giới trong truyện rộng lớn và trải dài qua cả một thời kỳ lịch sử của dân tộc, em đọc và cảm thấy mở mang tầm mắt, cũng như cảm thấy hổ thẹn vì bản thân hiểu biết quá nông cạn.
Em không biết nói gì nữa, cả một chương truyện trơn tru không có lỗi nào để chê, có thể thấy tác giả đã đầu tư và tâm huyết với truyện như thế nào. Thêm cái "Tình trạng sáng tác" là đã hoàn thành càng làm em vững tin và quyết tâm nhảy hố, không lo tác giả sẽ ngưng truyện giữa chừng.
Theo em dự đoán thì truyện này sẽ trở thành một cú hích lớn cho coi!
 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Hồi thứ tám

Dân biên tái tìm vui nơi chợ rượu
Khách yêu hoa say đắm Ngọc Lan Hương

*
Sáng hôm sau, họ rời trạm Long Phúc sớm để tiếp tục cuộc hành trình. Khi đến Phù Ly, biết Tôn Thất Dục và Đoàn Phong đã vào Quy Nhơn để chủ trì vụ xử án bọn Trần Đại Chí, họ bèn lên đường vào thẳng phủ thành Quy Nhơn. Bọn lính canh đưa họ vào quán dịch ngồi chờ, một lát sau Đoàn Phong cùng Ngô Mãnh đến. Mọi người vui vẻ chào hỏi nhau xong, Đoàn Phong lên tiếng:

- Chúc mừng Bạch tiểu thư đã hoàn thành tâm nguyện của mình.

Bạch Mai nhìn Ngô Mãnh bằng ánh mắt cảm ơn:

- Cũng nhờ Dục thúc thúc và Ngô huynh đây giúp đỡ cho. Tiểu muội thật không biết nói gì hơn để bày tỏ lòng tri ân.

Ngô Mãnh gặp lại Bạch Mai trong lòng vui lắm nhưng tính chàng ít nói lại vụng về nên chỉ đáp lại được mấy tiếng đơn giản cộc lốc:

- Có gì đâu. Bạch tiểu thư đừng ngại.

Chỉ đơn giản thế thôi mà mặt chàng tự dưng đỏ gay lên. Văn Hiến hỏi:

- Kết quả vụ án thế nào?

Đoàn Phong đáp:

- Quan ngoại tả gởi cho Dục thúc một bức thư xin giảm tội cho bọn Đại Chí đồng thời ra lệnh cách chức quan huyện Huỳnh Hảo Hớn và quan huyện Chương Nghĩa. Cả bọn Khắc Tuyên và Huỳnh Công Đức cũng nói thêm vào nên cuối cùng Dục thúc chỉ phạt vạ bọn Đồng Bách, Thừa Ân năm ngàn quan, tịch thu hiện vật. Còn Trần Đại Chí phải bị tù năm tháng. Phần Huỳnh Hảo Hớn tôi có ngỏ lời bênh vực cho hắn vì biết hắn cũng là tay hảo hớn nhưng Dục thúc nói quan ngoại tả dặn nhất định phải cách chức hắn. Người không muốn vì chuyện đó mà mất lòng quan ngoại tả nên đành để hắn trở về dân dã.

- Như thế cũng được. Đại Chí bị giam năm tháng, bọn Dương Tử Tam Kiếm đã trở về Phúc Kiến, việc Trần gia chúng ta tạm thời đỡ phải lo.

- Thế chừng nào mọi người vào Giản Phố?

Bạch Mai đáp:

- Bọn muội định cuối tháng này sẽ theo thuyền của Cao Đường ở đầm Hải Hạc trở vô Trấn Biên. Muội muốn gặp Dục thúc thúc để nói lời cảm ơn và từ biệt người.

Đoàn Phong vui vẻ:

- Mời tiểu thư theo tôi.

Chàng đưa Bạch Mai vào trong phủ gặp Tôn Thất Dục. Hai người vừa bước vào, Tôn Thất Dục đã mỉm cười nói ngay:

- Xin chúc mừng Bạch tiểu thư đã hoàn thành tâm nguyện của mình.

Bạch Mai chắp hai tay vái dài, giọng của nàng hết sức trang trọng:

- Mọi việc cũng nhờ ơn thúc thúc đã giúp đỡ cho. Cháu xin thay mặt Trần gia cảm tạ tấm lòng của thúc thúc và các huynh ở đây.

- Chỉ là sự đền đáp nhỏ bé so với công đức to lớn mà Trần gia đã cống hiến cho đất nước này. Khi nào tiểu thư về Trấn Biên, cho ta gởi lời thỉnh an tới Trần bá mẫu và Trần Hầu nhé.

- Dạ, cháu sẽ thưa lại với bá mẫu và anh Đại Lực. Cháu có ý đến đây từ biệt thúc thúc để trở vô Giản Phố. Cầu thúc thúc ở lại vạn sự an khang.

- Chúc tiểu thư lên đường bình an. Khi nào thì khởi hành? Bọn Văn Hiến và Hồng Liệt cùng đi với tiểu thư chứ?

- Dạ, cuối tháng này ạ. Hai huynh ấy cũng cùng đi với cháu.

- Như thế ta sẽ an tâm hơn. Về sau tiểu thư không nên một mình xông pha ngàn dặm như thế nữa.

- Dạ, cháu biết rồi ạ. Cháu xin phép cáo từ.

- Tiểu thư đi bình an.

Bạch Mai và Đoàn Phong lại cùng trở ra quán dịch. Đoàn Phong nói:

- Trước khi Bạch tiểu thư và các bạn đi Giản Phố còn bọn tôi thì trở lại Phú Xuân, tôi muốn mời mọi người xuống chợ rượu Phú Đa để uống một bữa chia tay và nghe ca hát. Các bạn thấy thế nào?

Hồng Liệt vỗ tay tán thành:

- Ý kiến hay đấy! Tôi nghe nói ở chợ rượu Phú Đa tại Tửu Quán Bên Đường có bán đủ các loại rượu ngon ở phủ Quy Nhơn, lại có nàng Ngọc Lan Hương vừa xinh đẹp vừa ca hay nổi tiếng khắp phủ nữa đấy.

Đoàn Phong cười:

- Rõ là tên trộm, nơi nào có đồ quí hiếm hắn đều biết hết. Tôi cũng vừa nghe thiên hạ ở Quy Nhơn đồn đãi nên có ý mời các bạn đến nơi đó để thưởng thức. Nghe nói Ngọc Lan Hương chỉ hát ở đó mỗi tháng có ba lần. Hôm nay may mắn đúng vào dịp đầu phiên chợ cuối tháng, là ngày diễn của nàng nên chợ rượu sẽ đặc biệt đông vui nhộn nhịp đây. Bạch tiểu thư đừng chê bọn tôi là những kẻ phong lưu nhé?

Bạch Mai lườm chàng:

- Đâu dám. Cánh nam nhi của các người ai chẳng quen thói phong lưu.

Nói xong nàng nở nụ cười đẹp đến mê hồn.

- Muội nói cho vui thế thôi. Muội cũng muốn nghe nàng Ngọc Lan Hương gì đó hát nữa. Nhưng để các huynh tự nhiên hơn, muội sẽ cải nam trang. Như vậy được không?

Hồng Liệt vỗ tay:

- Như vậy mới xứng là nữ lưu chi thượng chứ!

Nói rồi, chàng liền ngâm nga lại bài thơ mà Văn Hiến vừa làm tặng Bạch Mai đêm trước. Đoàn Phong nghe qua bài thơ vỗ tay khen:

- Gã trộm này mà cũng sáng tác được một bài thơ tuyệt vời thế ư?

Hồng Liệt cười nói:

- Tôi mà thơ với thẩn cái nỗi gì. Là tên đồ gàn đã đối cảnh trên sông Thu Bồn mà đề ra để tặng sư tỷ tôi đấy.

Ngô Mãnh nãy giờ ngồi im chợt lên tiếng:

- Bài thơ vừa hay, vừa miêu tả thật chính xác.

Đoàn Phong tiếp lời:

- Đúng vậy!

Bạch Mai hổ thẹn xua tay:

- Thôi thôi. Các người ỷ đông ăn hiếp muội. Muội sẽ trốn đi Giản Phố một mình cho mà coi.

Đoàn Phong vội nói:

- Xin lỗi, xin lỗi. Bạch tiểu thư đừng giận. Thôi sửa soạn đi, đã trễ rồi đấy.

Chờ Bạch Mai vào trong cải trang xong, năm người bọn họ cưỡi ngựa ra khỏi phủ, thả dọc theo đường quan lộ đi về hướng nam, rồi quẹo xuống hữu ngạn con sông nhỏ Thạch Đề, xuôi về đông một đoạn ngắn nữa thì đến chợ rượu Phú Đa. Chợ vốn thuộc tổng Háo Đức Thượng (nay là xã Nhơn An, huyện An Nhơn). Nơi đây được xem là chốn phồn hoa đô hội bậc nhì, chỉ thua có mỗi kinh thành Đồ Bàn xưa. Dọc đường đi, Đoàn Phong kể:

- Đêm hôm trước Nguyễn Khắc Tuyên có mời Dục thúc cùng tôi và Ngô huynh đến nhà riêng của ông ta uống rượu. Ông ta mang ra bộ bình chén rượu của Huỳnh Hảo Hớn đã tặng cùng một vò rượu Tiên, loại rượu đặc biệt dành cho các vua Chiêm uống. Thật là tuyệt! Ông ta có kể cho chúng tôi nghe về lịch sử và đời sống sinh hoạt của khu chợ rượu này. Chợ có truyền thống từ xa xưa, có thể là đã có mặt cùng lúc với thành cũ Đồ Bàn của đế chế Chiêm Thành cũng nên. Và nó cũng đã từng chết đi cùng với đất nước Chămpa vào thế kỷ 15 trong một thời gian. Sau này, các đời chúa Nguyễn của chúng ta đã không ngừng di dân vào để tái tạo vùng kinh đô cũ. Nhờ đó, chợ rượu Phú Đa cũng sống lại và thành nơi tụ hợp cho những tay anh hào tứ chiếng và cho cả đám người xiêu tán đến vùng biên tái xa xôi này.

Bạch Mai chen vào:

- Phong huynh kể làm đệ nhớ lại chuyện khai hoang lập đất của vùng Cù lao Phố mà người Việt địa phương gọi là Giản Phố. Đúng là ở những vùng đất mới, chợ rượu, quán rượu bao giờ cũng là nơi qui tụ đông đảo những gã đàn ông tha phương đến mua vui sau những giờ làm việc vất vả.

- Bạch huynh đệ nói đúng. Đối với cánh đàn ông chúng tôi, nhất là với những người tha phương lập nghiệp khai núi phá rừng, men cay của rượu bao giờ cũng là chất liệu cần thiết để xua đi mệt nhọc, phiền muộn cũng như niềm tưởng nhớ cố hương. Chợ rượu Phú Đa sống trở lại và phát triển nhanh ở vùng đất mới này là vì vậy. Dần dà, cùng với đà phát triển của phủ Quy Nhơn, nơi đây trở thành chốn tụ tập ăn chơi hưởng thụ của giới quan quyền và thượng lưu giàu sang khắp vùng. Vì vậy chợ rượu thu hút gần như tất cả các giai nhân, tài tử tứ phương cùng với nhiều loại danh tửu trong thiên hạ. Xưa có rượu Tiên, nay thì có đệ nhất rượu đế Bầu Đá ngon và nổi tiếng khắp phủ Quy Nhơn.

Hồng Liệt cười nói:

- Chỉ nghe Phong huynh mô tả khu chợ rượu không thôi cũng đủ làm tôi say ngất rồi. Nhưng đó là chuyện thời nay. Đồ gàn, ngươi thử nói chuyện rượu của cổ nhân cho mọi người nghe xem nào. Theo ngươi thì rượu có từ bao giờ?

Văn Hiến hắng giọng một tiếng đáp:

- Tương truyền rượu có từ thời Phục Hy khi người dân trong một bộ lạc Bách Việt tình cờ để trái cây lên men tạo thành một thứ nước uống như rượu. Đến đời vua Thần Nông, ông dạy dân Bách Việt ta trồng lúa và ngũ cốc rồi theo đó ủ ra men, chế thành rượu thì rượu mới hoàn chỉnh và trở nên thông dụng trong sinh hoạt con người. Trong “Chiến Quốc sách” có viết:

Đế Phi Nghi Địch tạo tửu

Tiến chi vu Vũ.

Nghĩa là:

Bà Đế Phi (vợ vua Vũ) chế ra rượu

Tiến dâng lên vua Vũ.

Còn trong kinh “Chu Lễ” thì viết:

Quán dụng Uất Xưởng

Vị hữu phồn hương.

Nghĩa là:

Dùng rượu Uất Xưởng rót xuống mà tế. Chưa có lệ đốt hương.

Nhà Chu thời ấy vẫn chưa có lệ dùng hương trong việc cúng tế mà chỉ dùng rượu nên có cả chức quan Tế Tửu để trông coi việc tế tự này. Cho đến đời Lương Vũ Đế thì mới dùng hương để tế trời:

Lương Vũ Đế tự thiên thủy dụng trầm hương.

Tạm dịch là: Lương Vũ Đế tế trời bắt đầu dùng trầm hương.

Đại khái xuất xứ và cái dụng của rượu ngày xưa là vậy. Ngươi còn muốn nghe điều gì nữa không?

Đinh Hồng Liệt định hỏi thêm thì mọi người đã vào đến khu vực chợ rượu. Phiên chợ cuối tháng mở suốt năm ngày liền. Hôm nay nhằm ngày đầu tiên nên rất đông vui, mùi rượu thơm nồng, sực nức cả một vùng không gian rộng lớn, tiếng nói cười ồn ã. Ngoài những gian hàng, tửu lầu cố định còn có rất nhiều hàng gánh do những cô gái trẻ mang rượu tự nấu ở nhà đến đây để bán cho nên khách uống rượu có thể thưởng thức đủ mọi loại rượu trong miền. Ở đây có rượu nếp hương, rượu nếp Phú Đa, Háo Lễ, rượu gạo tăm Cảnh Hàng, rượu Sen Hồng với loại gạo Hồng Tiên hạt to lông màu hồng và đỏ... Cả những ché rượu Cần của người thiểu số từ mạn ngược trên cao nguyên chở xuống cũng qui tụ về đây. Rượu đã nhiều, toàn loại rượu ngon, lại được những bàn tay xinh đẹp của các cô hàng rượu rót mời khiến cho khách mua men một khi đã đến đây thì chẳng muốn trở về. Mà nếu có trở về thì lòng say chếnh choáng, chỉ mong sớm đến phiên chợ lần sau để được dịp trở lại đắm mình trong men rượu lẫn men tình bên những cô hàng rượu xinh tươi duyên dáng.

Bọn năm người Đoàn Phong đến trước cửa Tửu Quán Bên Đường thì nhảy xuống ngựa, trao cương cho người giữ ngựa của quán rồi bước vào trong khuôn viên quán. Cái tên “Tửu Quán Bên Đường” tự nó đã gieo trong đầu khách một ý tưởng thơ mộng và lãng mạn. Đến nơi mới biết cái cảm tưởng đó không sai với sự thật là mấy. Chủ quán hẳn là tay sành sỏi về nghệ thuật nên mới xây dựng và trang trí ngôi tửu lâu theo phong cách vừa văn nhã, vừa thơ mộng thật giống với cái tên của nó. Chẳng những thế, mọi quy cách xây dựng và trang trí đều hợp phong thủy, từ hòn giả sơn với suối nước cho đến các cấu trúc xung quanh đều ứng hợp với Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước và Huyền Vũ. Văn Hiến đưa mắt quan sát quang cảnh tửu lầu một hồi, tặc lưỡi khen:

- Người chủ ngôi tửu lầu này quả là tay sành điệu cả về tri thức lẫn nghệ thuật. Thảo nào ngôi tửu lầu này nổi tiếng khắp nơi. Hay lắm! Phong huynh đưa chúng ta đến nơi này quả không uổng một chuyến du ngoạn.

Bạch Mai thêm vào:

- Đệ cũng có ý nghĩ giống Trương huynh vậy. Đây đúng là nơi uống rượu tốt cho các bậc tao khách.

Mọi người bước vào bên trong. Tửu lầu rất rộng, có hai tầng, tầng dưới chỉ bán rượu bình thường, lúc này tửu khách đã ngồi chật hết các bàn, tiếng nói cười chộn rộn khắp nơi. Kẻ nói chuyện khai phá vùng đất mới đến ở, người lưu tâm đến thời cuộc thì bàn tán về vụ án bọn Trần Đại Chí vừa mới xử xong. Ở một chiếc bàn lớn kê gần giữa quán đang có một người thao thao kể lại chuyện hai vị đồn thủ trẻ ở cửa An Dũ và Đại Cổ Lũy đã hạ hai tên buôn lậu người Tàu nhanh chóng bằng những thế võ siêu phàm như thế nào. Hắn miệng vừa nói, tay vừa múa ra chiêu mô phỏng lại các thế đánh y như tận mắt chứng kiến hai sự việc xảy ra cùng một lúc ở hai nơi cách xa nhau vậy. Tuy biết hắn chỉ kể lại những điều tai nghe mắt không thấy nhưng vì hắn có cách kể chuyện rất hấp dẫn nên khách ngồi nghe cũng tỏ ra hào hứng vô cùng. Bọn Đoàn Phong đưa mắt nhìn nhau mỉm cười rồi bước lên trên.

Tầng trên được trang trí đẹp và sang hơn nhiều. Ở đó có sân khấu nhỏ để ca hát và chỉ bán những loại rượu hảo hạng. Khách muốn lên trên lầu phải xem lại cái hầu bao của mình vì tiền rượu cộng thêm tiền phí xem hát được tính rất đắt. Hôm nay đặc biệt có nàng Ngọc Lan Hương trình diễn, phí xem hát lại càng cao hơn. Bởi vậy, đa số những người lao động chỉ ngồi ở tầng dưới và bảo nhau im lặng để có thể vừa uống rượu vừa nghe được tiếng hát của nàng Ngọc Lan từ tầng trên vọng xuống. Nhưng một thời gian sau, mỗi lần đến phiên trình diễn của Ngọc Lan, chủ quán cũng tính luôn tiền phí nghe hát đối với tất cả những ai vào uống ở tầng dưới, tất nhiên là rẻ hơn rất nhiều so với khách sang ở tầng trên. Ban đầu, đám khách nghèo lên tiếng phản đối nhưng sau cũng đành bóp bụng vào nghe.

Tửu Quán Bên Đường là một trong những tửu lầu có mặt ở chợ rượu Phú Đa lâu đời nhất. Họ thay nhau cha truyền con nối giữ cái quán này có đến ba đời là ít. Họ có một cái lệ nghiêm khắc là không ai được quyền đánh nhau trong quán, bất kể khách là người thế nào, có xích mích với nhau ra sao. Nếu ai vi phạm thì sẽ bị chủ quán ra tay trừng trị đích đáng. Còn một khi khách đã ra khỏi quán thì dù có hạ sát nhau ngay trước cửa, chủ quán cũng chỉ khoanh tay đứng nhìn, tuyệt không can thiệp vào. Tửu Quán Bên Đường giữ được cái bảng hiệu của mình lâu đời như thế cũng là nhờ vào hai điều: Một là họ buôn bán ở đây lâu, lại có tiền nên quan phủ huyện nhà đều là chỗ quen biết cả; hai là các đời chủ quán và đám gia nhân ai nấy cũng đều có võ nghệ tuyệt luân, dám thẳng tay trừng trị những vị khách rượu quá chén vi phạm luật cấm. Nhờ vậy khách vào đây có thể an tâm thưởng thức hương vị ngon lạ của các loại danh tửu bốn phương mà không bị phiền hà về việc gây gổ, ẩu đả nhau của những tay tứ chiếng khi đã quá chén la đà.

Chủ quán thấy năm con tuấn mã chở năm chàng trai lạ mặt, người tướng mạo đường đường lẫm liệt, kẻ phong cách lịch thiệp hào hoa thì biết ngay họ là những người thuộc giới quyền quí, chính nhân hiệp sĩ từ phương xa tới nên đặc biệt đích thân ra đón. Ông ta tuổi ngoài bốn mươi, người cao lớn khỏe mạnh, chòm ria mép đen nhánh cắt ngắn gọn rất ra tướng con nhà võ. Ông vui vẻ và niềm nở chào bọn Đoàn Phong. Tất cả các bàn chung quanh bốn vách tường và một số bàn ở giữa đã có khách ngồi kín, chỉ còn hai chiếc bàn trống ở hàng thứ hai trước sân khấu. Riêng chiếc bàn lớn duy nhất đặt sát sân khấu đã có bốn người khách ngồi. Chủ quán đưa năm người khách lạ đến chiếc bàn trống, mời khách ngồi rồi lịch sự hỏi:

- Quí công tử chắc là người từ phương xa mới đến phủ Quy Nhơn phải không? Lần đầu tiên nhà quán chúng tôi được đón tiếp quí khách quả thật là điều vinh hạnh lớn. Cũng xin nói qua để quí khách thông cảm, đêm nay những chiếc bàn ở trước sân khấu, càng gần bao nhiêu thì phụ phí càng cao bấy nhiêu, do đó mới còn lại hai chiếc bàn trống này. Quí khách hiểu cho, chúng tôi tin tưởng sau khi uống rượu và nghe Ngọc Lan Hương hát xong quí khách sẽ chẳng còn lưu tâm đến việc phụ phí cao hay thấp nữa. À, nhưng không phải vì thế mà chúng tôi áp giá cắt cổ đâu. Chúng tôi là những người rất biết cách làm vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi mà.

Hồng Liệt cười nói:

- Nghe ông chủ nói làm tôi cứ tưởng mình sắp được nghe tiên trên trời giáng trần hát khúc nghê thường.

Ông chủ quán tươi cười:

- Vị hiệp sĩ này nghĩ là tôi quảng cáo quá đáng phải không? Chờ sau khi tan đêm hát sẽ biết ngay lời tôi nói là thật hay giả. Tôi sẽ trở lại trò chuyện với các vị vào lúc ấy. Giờ quí khách muốn thưởng thức loại danh tửu nào ở đây xin cho biết?

Đoàn Phong mỉm cười:

- Ông chủ thật là người mẫn tiệp và tinh tế. Chúng tôi từ xa đến, lẽ ra phải thưởng thức loại hảo phẩm Bàu Đá Quy Nhơn nhưng mấy hôm nay đã có dịp nếm qua rồi nên giờ muốn thử món rượu Cần của người Bana cho biết hương vị vùng cao nguyên thế nào. Ở đây chắc là có loại rượu đó chứ?

Chủ quán vui vẻ:

- Có chứ, tất nhiên phải có chứ!

Rồi ông vừa đẩy tờ thực đơn về phía Đoàn Phong vừa nói:

- Quí khách tự nhiên chọn món đi.

Đoàn Phong đưa mắt hỏi ý kiến của Bạch Mai. Nàng hiểu ý lên tiếng:

- Phong huynh cứ chọn đi. Đệ thế nào cũng được.

Đoàn Phong quay sang chủ quán:

- Đã uống rượu cao nguyên thì phải nhắm thịt rừng cho hợp vị. Ông chủ cho chúng tôi ba cân thịt heo rừng, hai cân thịt nai, nấu theo kiểu đặc biệt nhất của nhà quán và một vài loại rau quả thích hợp. Mang trước cho chúng tôi một tiềm rượu cơm nếp Phú Đa và năm cái chén nhỏ nhé. Bạch đệ thưởng thức món này xem, sẽ rất thú vị.

Bạch Mai miệng chúm chím cười:

- Đa tạ Phong huynh!

Chủ quán đưa ngón tay cái lên bày tỏ sự khâm phục.

- Quí khách thật là người sành điệu! Chờ nhà quán chúng tôi một lát, mọi thứ sẽ được đưa lên ngay.

Nói xong, ông ta lễ phép cúi chào mọi người rồi đi vào trong. Khi ông ta đi ngang qua chiếc bàn đặt sát sân khấu, người khách ngồi ở đó đưa tay ra cản lại nói:

- Ông Điền, đến giờ trình diễn rồi đó.

Chủ quán đáp:

- Vâng, tôi sẽ cho bắt đầu ngay. Cao đại gia nóng ruột rồi hả?

Xong ông cười ha hả bước vào trong. Bạch Mai nhìn sau lưng người đàn ông được gọi Cao đại gia tỏ vẻ ngạc nhiên rồi nói nhỏ với mọi người:

- Người đó là Cao Đường ở đầm Hải Hạc. Chúng ta có nên sang chào hỏi không?

Hồng Liệt định lên tiếng thì lúc ấy có ba người đàn ông với bộ mặt hung dữ, lưng giắt đao kiếm bước lên lầu. Tên đi đầu người cao trung bình nhưng vạm vỡ, trên má phải có một vết sẹo lớn chạy dài làm bộ mặt âm trầm của hắn trông càng dữ tợn. Tên đi kế sau người nhỏ thó, mặt choắt như mặt chuột, mắt ti hí nhưng tia nhìn giảo hoạt khiến người ta dễ liên tưởng tới loài cáo đang rình mồi. Tên thứ ba cao lêu nghêu, mặt dài như mặt ngựa, miệng rộng hoác, tóc dài được cột lại bởi một sợi vải đỏ buộc từ trước trán ra phía sau. Ba tên đưa mắt nhìn khắp phòng rồi cùng nhau tiến đến ngồi nơi chiếc bàn trống duy nhất còn lại trên lầu. Bọn chúng đặt vũ khí lên bàn rõ mạnh, tên buộc vải đỏ quanh trán lớn giọng kêu:

- Mang rượu uống đi ông chủ quán ơi! Rượu nanh chồn nấu bằng lúa Hỏa Mễ thượng hạng đấy nhé.

Tiếng của hắn nghe rặc giọng người Đàng Ngoài. Tất cả thực khách trong quán đều hướng mắt về ba người khách lạ vừa mới đến. Ba tên lạ mặt điềm nhiên coi thiên hạ như không có, tên buộc vành khăn đỏ quanh trán lớn giọng:

- Đại ca, đêm nay nàng Ngọc Lan Hương sẽ diễn ở đây. Chà, đệ nghe người ta ca ngợi nàng ta đẹp tuyệt trần mà lại thơm như hoa lan vậy. Để xem tiếng đồn có thật hay không.

Tên mặt chuột lên tiếng:

- Chắc là không ngoa đâu. Chú mày không thấy cả quán rượu từ trên lầu xuống dưới đất đều đông nghẹt khách mê hoa đó sao? Ta cũng nóng lòng muốn nhìn mặt mỹ nhân một lần cho thỏa mắt.

Lúc ấy có một tên phục vụ chạy đến bàn ba người khách lạ lễ phép hỏi:

- Ba vị khách quan dùng rượu và thực phẩm gì ạ?

Tên buộc khăn đỏ đáp:

- Lúc nãy ta đã gọi rượu nanh chồn hảo hạng, ngươi điếc tai hay sao mà không nghe? Mang cho ta một hũ lớn và ba cân thịt bê thui. Nhanh lên!

Người phục vụ lễ phép nhắc khéo:

- Dạ có ngay ạ, quí khách chờ nhà quán một lát nhé, mọi thứ sẽ được mang lên ngay. Sắp đến giờ hát rồi đó, mời quí khách yên lặng thưởng thức.

Tên buộc khăn đỏ nói:

- Rượu vào thì lời ra, ngươi không biết sao mà bảo bọn ta yên lặng? Mang rượu ra nhanh lên đi, đừng nhiều chuyện nữa.

Người phục vụ vâng dạ rồi quay vào trong, mặt lộ vẻ bất bình. Đoàn Phong nói nhỏ:

- Tôi có nghe quan huyện Phù Ly và Nguyễn Khắc Tuyên nói đến một bọn cướp mới nổi lên chiếm cứ vùng Truông Mây trong Núi Bà. Chúng cướp bóc các thôn xã quanh vùng lại ra tay rất ác độc với những người phản kháng. Chúng có ba tên cầm đầu nhưng lúc hành sự luôn bịt mặt nên chưa ai biết được mặt thật của ba tên đầu đảng này. Bọn này trông có vẻ giống bọn cướp đó lắm. Hãy để xem chúng làm gì đêm nay.

Lúc đó, một nữ phục vụ ăn vận rất đẹp, mặt xinh xắn mang tiềm rượu cơm nếp trắng ra bàn. Cô thong thả múc những viên rượu nếp ra năm chiếc chén nhỏ cho mọi người rồi nói:

- Mời quí khách thưởng thức món rượu nếp Phú Đa. Hương vị vừa ngọt vừa thơm nồng sẽ khiến các vị nhớ hoài không quên.

Cô nàng vừa nói vừa nháy mắt nhìn Bạch Mai. Bạch Mai mỉm cười:

- Chưa biết ta có quên được hương vị của rượu hay không nhưng chắc chắn là sẽ không quên nụ cười xinh đẹp của cô em đây rồi.

Cô gái nguýt dài một cái, mặt ửng hồng cúi đầu thẹn thùng nói:

- Hiệp sĩ lại nói đùa với em rồi. Các chàng hồ thỉ tứ phương, gặp gỡ thiếu gì giai nhân đài các ở những nơi đô hội thì làm gì có chuyện nhớ đến cô phục vụ quê mùa ở quán rượu miền biên tái này chứ?

Bạch Mai liếc mắt thật tình tứ:

- Hải đường, nguyệt quế ở vườn thượng uyển đôi khi lại không đẹp bằng một đóa hoa lài bên hàng giậu làng quê.

Mặt cô gái đỏ hơn, miệng nở nụ cười bẽn lẽn nhưng ánh mắt lại hiện rõ niềm vui vô hạn:

- Thôi, mời quí khách thưởng thức đi, đừng mỉa mai em nữa. Nếu không, lát nữa chị Ngọc Lan xuất hiện sẽ không còn ngôn ngữ để cho quí khách tâng bốc đâu. Em xin phép vào mang thức ăn và rượu cần ra.

Nói xong cô lễ phép cúi chào mọi người rồi lui vào trong mang thức ăn và rượu ra. Bạch Mai múc một viên rượu nếp bỏ vào miệng và chờ một lúc cho nó tan ra. Nàng nuốt xong viên rượu nếp liền buột miệng khen:

- Ui chao! Thật là ngon! Vừa mềm, vừa ngọt, vừa the nồng. Tuyệt quá! Cảm ơn Phong huynh. Nhưng thứ này là món của nữ nhân, các huynh chắc là không hảo lắm phải không?

Đoàn Phong mỉm cười:

- Hảo chứ! Coi như là một món khai vị để kích thích vị giác trước khi ăn vậy.

Một nam phục vụ bê ché rượu cần đặt trên bàn, cô gái lúc nãy tay cầm năm chiếc cần cẩn thận cắm vào bình, châm nước vào chờ một lát cô hỏi:

- Quí khách đã uống qua rượu cần chưa? Chưa à? Thế này nhé, trước tiên quí khách hút nhẹ một hơi cho rượu lên đến miệng, sau đó nín thở hút mạnh một hơi dài cho đầy rồi nuốt xuống. Chỉ trong chốc lát, quí khách sẽ cảm thấy hơi nóng bốc lên từ trong bao tử, qua lồng ngực rồi toát ra khắp các bộ vị trên mặt. Cảm giác sẽ thật thú vị. Vị công tử này cẩn thận coi chừng bị sặc rượu đó.

Cô nói xong liếc ánh mắt tình tứ nhìn sang Bạch Mai rồi cúi đầu chào và quay bước vào trong. Ở bàn bên cạnh, thức ăn và rượu được một nam phục vụ mang ra. Tên buộc khăn đỏ hỏi lớn:

- Tại sao bàn này không có nữ phục vụ mà lại do tên đực rựa như mày mang ra vậy? Mày vào kêu cô gái phục vụ bàn bên kia ra đây phục vụ cho bọn tao. Đi đi!

Người phục vụ lễ phép nói:

- Dạ, mỗi bàn có một người phục vụ riêng đã được phân công từ trước rồi ạ. Xin quí khách thông cảm cho, không thể đổi được ạ.

Tên buộc vải đỏ xì một tiếng:

- Có mẹ gì mà không thể đổi! Mày cứ cút vào trong bảo cô gái đó ra đây. Lảm nhảm bẩn tai, tao cho ăn bạt tai bây giờ. Đi nhanh lên!

Người phục vụ vẫn giữ thái độ lễ phép nói:

- Dạ, không thể đổi được ạ. Đến giờ trình diễn rồi, xin quí khách giữ yên lặng để mọi người cùng thưởng thức ạ.

Tên vấn khăn đỏ định nổi đóa với người bồi bàn thì vừa lúc đó một số đèn được tắt bớt, còn chừa lại ánh sáng vừa đủ để thực khách ăn uống. Sân khấu bỗng nổi bật lên với ánh đèn lồng được bọc đủ màu sắc, kết hợp cùng những tranh họa trên những bức vách chung quanh khiến cho nó trở thành một chốn non bồng, nước nhược. Mọi người, kể cả tên vấn khăn đỏ lắm mồm, vụt trở nên im lặng và hướng mắt về sân khấu.

Tiếng sáo du dương từ phía sau sân khấu chợt vút lên một khúc nhạc thật ai oán. Khúc tiêu này tương truyền là của chàng Trương Chi ngày xưa thường thổi trong những đêm trăng trên dòng sông Hát để thể hiện nỗi lòng tương tư nàng Mỵ Nương đài các. Tiếp đó là tiếng đàn nguyệt trỗi lên theo từng bước đi uyển chuyển của một cô gái áo hồng, nàng vừa đi vừa khảy cây đàn cầm trên tay. Nàng đến ngồi xuống chiếc ghế đặt bên phải sân khấu, tay vẫn tiếp tục đánh đàn hòa vào điệu sáo mê hồn kia. Liền sau đó, bên trong lại vang lên tiếng đàn nhị và một cô gái áo xanh với cây nhị trên tay, gáo đàn được tì vào chiếc eo lưng nhỏ nhắn, vừa đi vừa kéo đàn. Nàng đến chỗ chiếc ghế bên trái sân khấu và ngồi xuống. Tiếp theo là tiếng đàn hồ, loại đàn giống đàn nhị nhưng gáo phát âm lớn hơn nên âm thanh trầm hơn, được tấu lên bởi một cô gái mặc áo màu tím, nàng nhẹ nhàng bước ra và ngồi vào chiếc ghế phía sau bên phải. Cùng ra với cô gái áo tím là cô gái áo vàng, trên tay ôm một cây đàn thập ngũ huyền cầm (đàn tranh, sau này đàn thêm vào một dây nữa thành đàn thập lục) đến ngồi nơi chiếc ghế ở giữa phía sau. Cô gác một đầu cây đàn trên chiếc bàn nhỏ bên cạnh, đầu còn lại kê trên chân mình rồi bắt đầu hòa tiếng đàn tranh vào âm thanh của những chiếc đàn kia. Đến lượt người thổi sáo xuất hiện trên sân khấu. Đó là một thanh niên vận chiếc áo dài màu trắng, mặt hóa trang xấu xí. Tiếng sáo trúc trên tay anh ta vẫn vút cao và não nùng khiến cho người nghe tưởng chừng có thể rơi lệ. Anh đến ngồi trên chiếc ghế đặt phía sau bên trái.

Còn một chiếc ghế trống duy nhất được đặt chính giữa sân khấu có phủ tấm vải điều nữa. Mọi người đều biết đó là chiếc ghế dành cho Ngọc Lan Hương. Bao nhiêu cặp mắt đổ dồn về ô cửa ở phía sau sân khấu, nơi các nhạc công vừa bước ra để chờ đón Ngọc Lan.

Những tiếng đàn họa bỗng ngưng bặt để cho tiếng sáo vút lên giai điệu ai oán. Tiếng sáo như mang theo âm hưởng của những tiếng nấc nghẹn nơi cõi lòng một kẻ tương tư trong tuyệt vọng. Ngay thời điểm giai điệu tiếng sáo não nùng nhất, một tiếng hát từ sau hậu trường chợt cất cao lên. Giọng hát thật trong trẻo, thật ngọt ngào và cũng thật thê lương như lời ca của khúc hát:

Hát Giang! Hát Giang!

Vì đâu mà nhỏ lệ?

Để tiếng tiêu sầu chạnh lòng nhân thế

Vì đâu mà quạnh quẽ

Để tiếng hát buồn trăn trở khách hồng nhan.

Ơ... Đời đa đoan!

Ớ... Tình đa đoan!

Tài hoa chết giữa cô đơn

Phù dung rũ cánh... Ơ... Ơ... lầu son úa tàn...[1]

Tiếng hát vừa dứt, một cô gái trong chiếc áo lụa dài màu hoàng yến có tấm the trắng thật mỏng khoác qua vai, mái tóc đen tuyền búi cao bằng những chiếc trâm vàng đính những hạt minh châu nhỏ lóng lánh dưới ánh đèn, trên tay ôm một chiếc đàn tỳ bà, từ nơi ô cửa nhẹ nhàng bước ra sân khấu. Tiếng vỗ tay vang lên rõ to từ chiếc bàn lớn kê sát sân khấu. Rồi như một hiệu ứng dây chuyền, những tiếng vỗ tay lan ra khắp tầng trên tửu lầu, xuống đến cả tầng dưới. Bằng những bước uyển chuyển, cô gái đi quanh sân khấu một vòng rồi dừng lại trước chiếc ghế đặt giữa sân khấu, nhún khẽ hai chân cúi chào khán giả. Dáng người yểu điệu, cử chỉ duyên dáng đáng yêu khiến cho mọi người như nín thở dõi theo. Những tiếng vỗ tay lại vang lên mạnh hơn, như những tràng pháo nổ ran khắp nơi. Chờ cho tiếng vỗ tay ngớt lại, cô gái cất tiếng:

- Ngọc Lan xin cảm tạ thịnh tình của tất cả khách yêu thích âm nhạc và những đệ tử của Lưu Linh[2] đến với Tửu Quán Bên Đường đêm nay. Ngọc Lan hi vọng rằng những tiếng nhạc, lời ca của chị em Ngọc Lan sẽ giúp tăng thêm phần nào tửu hứng cho quí khách khi thưởng thức những hương vị đặc biệt của các loại danh tửu ở Tửu Quán Bên Đường này.

Tiếng nói của nàng êm như rót mật vào tai người. Khuôn mặt nàng thật đẹp, vẻ đẹp dịu dàng của một tiên nữ trong tranh. Nhìn nàng đứng trên sân khấu dưới ánh đèn màu, người ta cứ ngỡ như mình đang lạc vào chốn thiên thai và gặp được một nàng tiên kiều diễm. Những tiếng vỗ tay đồng loạt vang lên. Tên vấn khăn đỏ lại oang oang:

- Đẹp quá! Tiếng nói như chim sơn ca hót ấy. Đại ca, thiên hạ quả đồn không sai tí nào cả.

Mặc dù tiếng nói của hắn chìm trong trong tiếng vỗ tay nhưng vẫn khiến cho một số người tỏ vẻ bất bình, nhăn mặt khó chịu. Trương Văn Hiến sực nhớ đến bạch y công chúa và thầm đem nàng ta so sánh với nàng Ngọc Lan trước mặt. Cả hai đúng là mỗi người một vẻ mười phân vẹn cả mười, duy có điều hai vẻ đó khác nhau hoàn toàn. Một thật ấm áp, dịu dàng, tinh khiết, còn một thật lạnh lùng, sắc sảo, kiêu sa. Bạch Mai ngồi kế bên bỗng khe khẽ lên tiếng:

- Trương huynh, bài thơ trên sông Thu Bồn huynh nên để dành tặng cho cô nàng Ngọc Lan này sẽ hợp hơn. Nhìn nàng, muội thấy mình thật xấu xí, thô kệch.

Văn Hiến mỉm cười:

- Mỗi người mỗi vẻ, Bạch muội đừng tự hạ mình.

Hồng Liệt thì thào:

- Mỗi người một vẻ, vậy đồ gàn ngươi làm một bài thơ cho vẻ đẹp của Ngọc Lan xem khác Bạch Mai chỗ nào.

Văn Hiến đưa ngón tay lên miệng ra dấu bảo yên lặng. Tiếng Ngọc Lan như mật rót lại vang lên:

- Giai điệu và khúc hát chị em Ngọc Lan gởi đến quí khách vừa rồi đó là đoạn mở đầu của bản tình ca Trương Chi – Mỵ Nương. Đêm nay Ngọc Lan mời quí khách cùng thưởng thức những khúc ca ai oán của bản tình ca tuyệt trần này.

Nàng vừa dứt lời giới thiệu thì những tràng vỗ tay lại rộn lên. Ngọc Lan chậm rãi ngồi xuống chiếc ghế phủ khăn điều, chàng thanh niên xấu xí đưa sáo trúc lên miệng và một điệu nhạc thê lương lại vút lên. Ngọc Lan với những ngón tay nhỏ xinh, thon dài đẹp như búp măng lướt trên phím đàn tỳ bà. Tiếng đàn của nàng khiến người nghe có một cảm giác xốn xang, đau buồn khôn tả. Nàng lại cất tiếng ca:

Ôi Hát Giang!

Ôi Tiêu Lang!

Chàng là ai?

Chàng là ai?

Là hồn nguyệt bạch?

Sông dài mênh mang?

Ơ... Ơ...

Biết ai gởi đến cho chàng tình ta?

...

Ơ... Ơ... Người đi... i... i...

Thôi người đi... í... i...

Gặp chi để hận biệt ly

Thì thôi chỉ là số kiếp

Hờn cho mối duyên bẽ bàng

Giấc mộng xuân tàn. Còn chi...

Ơ... Ơ... Còn chi...

Ơ... Ơ... Còn lại đây trăng bến Ngọc Tuyền

Dòng sông xưa đâu bóng thuyền câu

Và khúc hát thiết tha giang đầu

Đã chìm sâu.

Ớ...Ơ...

Chìm trong dòng sâu!

...

Ơ...Ơ...

Giọt lệ rơi đáy cốc... í... i...chung tình...i... i...

còn vương bóng ai...i... i...

A ha... Một khối tương tư

Một tấc thành

Lệ đá tan quyện nên khói tình

Non nước... ơ... ơ...

khóc cho mối tình

Ờ... ơ... Ngàn xưa đến giờ...[3]

Bài ca về một chuyện tình đẫm lệ, tiếng sáo thê lương, tiếng đàn ai oán, tiếng hát não nùng. Cả không gian ngôi tửu lầu như chùng xuống. Mọi người nín thở để lắng nghe rồi trầm mình vào nỗi bi thương của hai kẻ yêu nhau trong thương đau, oan nghiệt được diễn tả qua tiếng hát tuyệt vời của Ngọc Lan. Những ly rượu đầy không ngừng được mọi người rót ra rồi uống cạn trong lặng lẽ như một cách để nuốt trôi đi cái nghèn nghẹn ở cổ mình. Hai dòng lệ âm thầm chảy xuống hai má của Bạch Mai lúc nào không hay.

Những câu hát cuối cùng đã chấm dứt một lúc lâu mà mọi người vẫn còn bàng hoàng như đang trong cơn mơ. Rồi sau đó tất cả mới bừng tỉnh và dành tặng những tiếng vỗ tay cảm phục tự đáy lòng. Đây đó trong khắp gian phòng có những ánh mắt long lanh ướt dưới ánh đèn mờ ảo. Bạch Mai giờ mới nhận ra mình đã khóc, nàng vội vàng đưa tay áo chặm nhanh nước mắt. Ngọc Lan đứng lên nói lời tạm biệt. Nơi chiếc bàn đầu, Cao Đường và ba người ngồi chung đồng đứng lên vỗ tay tiễn Ngọc Lan. Năm người bọn Đoàn Phong cũng đứng lên, rồi tất cả mọi người trên tửu lầu đồng loạt đứng lên. Những tràng pháo tay tiễn đưa xen lẫn với những tiếng thì thầm luyến tiếc. Ngọc Lan và mấy cô gái đánh đàn cùng chàng thanh niên thổi sáo đồng cúi chào lần nữa rồi quay vào trong.

Những cầy đèn sáp được thắp sáng choang trở lại. Mọi người ngồi xuống, tiếp tục ăn uống và râm ran bàn tán về đêm diễn của nàng Ngọc Lan. Lại nghe tiếng nói của tên vấn khăn đỏ oang oang:

- Đại ca, nàng Ngọc Lan đó quả thật là xinh đẹp tuyệt trần, lại có giọng ca như hút hết hồn phách của đệ. Nàng còn đẹp hơn cả tiên nữ nữa đó. Úy chà! Nếu mà được ôm nàng ta hôn một cái thì có chết đệ cũng cam lòng. Ha ha...

Tiếng cười bỗng tắt ngang vì bị một chiếc xương từ bàn đầu bay véo đến đập thật mạnh vào hàm răng trắng hếu của hắn. Hắn đau đớn la “ui da” một tiếng rồi đưa hai tay ôm miệng. Một lúc sau khi cơn đau giảm đi, hắn đứng lên nhìn về phía bàn đầu chỉ tay hét lớn:

- Tên khốn kiếp kia dám đánh lén ông nội mày à? Chán sống rồi hả con?

Nói xong, hắn hùng hổ định bước tới bàn của Cao Đường. Tên mặt sẹo được gọi là đại ca đưa tay kéo hắn lại, giọng đục ngầu:

- Đừng gây sự trong quán. Hãy đợi ra bên ngoài đã.

Tên vấn khăn đỏ tức tối hét toáng lên:

- Tên kia, có phải anh hùng thì ra ngoài kia! Ông nội mày mà không dạy cho mày một bài học về tội hỗn láo thì ông đây không phải là người!

Hắn đưa tay chụp thanh kiếm trên bàn rồi hùng hổ bước nhanh đến bên cửa sổ. Như sợ người nọ không dám xuống sân, hắn quay mặt lại nói lớn:

- Tên hèn nhát kia, ngươi mà không dám ra đây gặp ta thì từ nay ở nhà bú sữa đi, đừng bao giờ đến những nơi anh hùng tụ hội này nữa!

Nói xong hắn tung mình qua cửa sổ nhảy xuống sân tửu quán. Hai tên đồng bọn của hắn cũng đứng lên, tên mặt chuột móc trong túi ra một nén bạc lớn bỏ lên bàn rồi cùng nhau bước đến cầu thang đi xuống.

Có tiếng ai đó vang lên ở góc phòng:

- Cho bọn khốn kiếp đó một bài học đi! Đồ du thủ du thực!

- Đúng vậy, để đó cho tôi! Bọn hạ cấp như thế mà cũng vác mặt đến đây nghe hát.

Rồi mỗi người một câu chêm vào khiến cả tầng lầu nhốn nháo hẳn lên. Nơi bàn của Cao Đường, một người thanh niên tuổi ngoài hai mươi, mình mặc võ phục đen đứng lên nói:

- Cao gia, để tôi xuống dạy chúng một bài học nhé?

Cao Đường gật đầu. Hai người nữa trong bàn cũng đứng lên. Một người lên tiếng:

- Bọn chúng ba tên, để hai chúng tôi giúp chú mày một tay.

Cả ba cùng xuống lầu. Khách trong quán rượu đa phần hiếu sự, lại ghét ba tên vô lại nên cũng lần lượt thanh toán tiền rồi xuống dưới đất để chứng kiến cuộc đấu. Cao Đường vẫn ung dung ngồi lại uống rượu một mình. Ông chủ quán từ phía sau bước ra, tiến đến bên Cao Đường xoa hai tay vào nhau xin lỗi:

- Thật xin lỗi đã khiến cho Cao đại gia mất cả tửu hứng. Ba tên này không biết từ đâu đến mà mặt mũi và thái độ hung hăng đến thế. Cũng nên dạy cho bọn chúng một bài học để chúng biết đây là nơi nào. Cao đại gia uống rượu tự nhiên nhé, tôi xin phép ra ngoài xem.

Cao Đường khoác tay:

- Cứ để cho bọn chúng thanh toán với nhau. Này, việc tôi nhờ ông có chút hi vọng gì không?

- Tôi đã nói cho nàng ta biết lời cầu hôn của Cao đại gia rồi. Nàng nói, phu nhân ngài mới mất chưa tròn năm, việc ấy để nàng suy nghĩ lại.

- Phu nhân nhà tôi không may qua đời sau khi sinh Đại Hồng, nay sắp đến ngày thôi nôi của cháu rồi còn gì. Ông hãy ráng thuyết phục nàng đi. Tôi thật không an lòng khi thấy nàng đem thân ca hát để mua vui cho thiên hạ thế này. Ông thấy không, gặp những tên du côn như tên lúc nãy, nếu xảy ra chuyện gì không hay cho nàng thì tôi sẽ chết mất.

- Cao đại gia an tâm, có Lê Trung anh nàng và tôi ở đây thì không ai dám động đến nàng đâu. Tôi tin chắc rằng suốt bốn tháng qua, lần diễn nào của nàng cũng có mặt Cao đại gia ngồi ở chiếc bàn này, thịnh tình ấy thế nào cũng sẽ làm động lòng nàng thôi. Cho nàng một chút thời gian nữa nhé. Giờ tôi xin phép ra xem bọn chúng thế nào rồi.

Nói xong ông xuống dưới lầu. Bạch Mai thấy chỉ còn một mình Cao Đường nên đứng lên bước sang chào:

- Chào Cao gia. Cao gia thật là người phong nhã.

Cao Đường giật mình ngước nhìn chàng thanh niên đẹp trai, sau một chốc bỡ ngỡ, ông sực nhớ ra nên liền đứng dậy reo lên:

- A! Chào Bạch tiểu... ơ... Bạch công tử. Công tử cũng có mặt ở đây à? Chuyến đi Phú Xuân kết quả thế nào rồi? Mời ngồi xuống đây uống với tôi chung rượu.

Bạch Mai tươi cười nói:

- Cảm ơn Cao gia, tôi gặp nhiều điều may mắn nên mọi việc rất tốt đẹp. À, tôi đang đi chung với mấy vị huynh trưởng. Cao gia có thể ghé sang bàn kế bên để tôi giới thiệu với mấy người bằng hữu của tôi hay không?

- Được chứ!

Bạch Mai quay bước đi trước trở lại bàn, Cao Đường theo sau. Mọi người thấy Bạch Mai đưa Cao Đường sang vội đứng lên chào. Bạch Mai giới thiệu:

- Giới thiệu với các huynh đây là Cao gia ở đầm Hải Hạc mà đệ đã nói lúc nãy.

Mọi người vui vẻ gật đầu chào. Văn Hiến đoán chừng Cao Đường tuổi khoảng ngoài ba mươi. Nhìn phong thái và khuôn mặt phương phi với hàm râu đen mịn trên đôi môi hơi mỏng của Cao Đường, chàng đoan chắc người này hẳn là tay lão luyện, khôn ngoan, đúng mẫu người thành công trên thương trường. Đoàn Phong lên tiếng:

- Nghe tiếng Cao gia ở đầm Hải Hạc đã lâu mà nay mới được gặp mặt. Hân hạnh!

Cao Đường ôm quyền đáp lễ:

- Quá lời rồi. Hân hạnh được biết các vị hiệp sĩ...

Bạch Mai vội đỡ lời, nàng giới thiệu mọi người với nhau. Cao Đường nghe Bạch Mai giới thiệu tên tuổi của bốn người thì giật mình. Ông vội vàng nói:

- Không ngờ hôm nay Cao Đường tôi lại có vinh dự lớn được quen biết với những vị hiệp sĩ tiếng tăm lừng lẫy một phương. Thật là vạn hạnh! Nhờ phúc Bạch công tử!

Hồng Liệt vốn từ lâu không có thiện cảm với bọn nhà giàu nên cười nói:

- Tên trộm như tôi mà được Cao gia tặng cho danh hiệu hiệp sĩ, không sợ làm tôi hổ thẹn sao?

Cao Đường vội xua tay cười:

- Không, không. Tôi không phải nói lời sáo ngữ đâu. Thần Thâu chuyên cướp của nhà giàu và ác bá để cấp phát cho dân nghèo, hiệp danh lừng lẫy cả ba phủ, ai ai cũng biết, đó là sự thật đấy chứ. Chỉ sợ Cao Đường tôi là người thất đức, thế nào cũng có ngày hiệp sĩ viếng thăm mà thôi. Ha ha...

Văn Hiến chen vào:

- Tứ hải giai huynh đệ. Gặp nhau là vui rồi, chúng ta hãy cùng nhau ngồi xuống uống một chung rượu mừng gặp mặt trước đã.

Nói xong, chàng gọi cô gái phục vụ mang ra một bình rượu Bàu Đá. Mọi người ngồi xuống cạn ly sơ ngộ. Cao Đường hỏi:

- Công việc đã hoàn tất, Bạch công tử định khi nào trở về Giản Phố?

Bạch Mai đáp:

- Tôi, Trương huynh và Đinh huynh dự định đi nhờ thuyền của Cao gia chuyến này để trở vào trong ấy, không biết như thế có tiện không?

Cao Đường mừng rỡ đáp:

- Như thế thì còn gì vui bằng! Nhân thể cho phép tôi được mời bốn vị, ngày mai ghé lại tệ trang để dự lễ mừng thôi nôi cháu gái nhà tôi được chăng?

Bạnh Mai đưa mắt nhìn Đoàn Phong và Ngô Mãnh. Đoàn Phong nói:

- Cảm ơn lời mời của Cao gia, đáng tiếc là ngày mai hai chúng tôi phải đi cùng ngài khâm sai trở lại Phú Xuân. Lịch trình đã định sẵn rồi, Cao gia cho chúng tôi hẹn lại một dịp khác vậy.

Cao Đường tỏ vẻ tiếc rẻ:

- Quả thật đáng tiếc! Đã thế thì khi nào có dịp, mời nhị vị ghé chơi. Cửa nhà tôi luôn rộng mở để đón chào nhị vị.

Đoàn Phong vui vẻ:

- Chúng tôi nhất định sẽ ghé thăm Cao gia. À này, ba tên lúc nãy coi bộ giống ba tên đầu đảng của bọn cướp trong Núi Bà, xem chừng võ nghệ của chúng rất khá, những người bạn của Cao gia...

Cao Đường nói:

- Ba người của tôi cũng khá lắm, chắc chẳng đến nỗi nào.

Ngô Mãnh từ đầu vẫn im lặng bỗng lên tiếng:

- Chúng ta ra ngoài đi. Tôi muốn xác định xem ba tên này có phải là đầu đảng của bọn cướp đó không.

Cao Đường vội nói:

- Đã thế thì chúng ta xuống dưới thử xem.

Ông gọi cô gái phục vụ và dặn:

- Tất cả đều là phần của tôi nhé.

Cô gái lễ phép nói:

- Dạ, em biết rồi Cao gia.

Xong cô gái liền đưa mắt liếc nhìn Bạch Mai như có ý mời chàng trở lại quán. Bạch Mai cũng liếc mắt tình tứ và nở nụ cười thật đẹp:

- Tạm biệt đóa hoa lài của tôi. Một ngày kia tôi sẽ trở lại thăm cô em nhé.

Mọi người xuống đến sân đã thấy một vòng người đứng bao quanh chật kín đấu trường. Bên trong vòng tròn, thủ hạ của Cao Đường và tên đầu vấn khăn đỏ đang đánh nhau đến hồi quyết liệt. Tên vấn khăn đỏ tuy cao hơn, động tác tay chân nhanh lẹ có ưu thế hơn nhưng người thủ hạ của Cao Đường lại có bộ pháp trầm ổn, đường quyền kín đáo, khi thủ thì vững vàng, khi công lại nhanh như chớp. Tên vấn khăn đỏ đã bị trúng mấy đòn rất nặng. Hắn vừa đánh vừa la hét liên mồm có vẻ tức tối lắm. Tên mặt chuột đứng bên ngoài thấy đồng bọn của mình yếu thế hơn bèn đưa một thanh kiếm ra và nói lớn:

- Lão Tam, kiếm đây!

Tên vấn khăn đỏ vội đấm một quyền rồi nhảy lui lại rút kiếm. Một người thủ hạ khác của Cao Đường đứng bên ngoài thấy vậy cũng vội ném đoản côn cho bạn mình, miệng la lớn:

- Hồ Nghị, côn của ngươi đây!

Hồ Nghị vừa đưa tay đón khúc côn thì lưỡi kiếm của Lão Tam đã đâm tới nơi. Anh ta vội nhảy lui một bước né rồi vung côn tấn công trở lại. Hai người một côn, một kiếm lao vào nhau. Dưới ánh sáng lờ mờ của vầng trăng già cuối tháng và ánh lửa chập chờn của những bó đuốc đã được một số người đứng xem đốt lên, hai người thi triển những đòn công thủ đẹp mắt. Một lúc sau bỗng nghe Hồ Nghị thét lớn:

- Trúng!

Tức thì một tiếng “keng” chát chúa do sự va chạm của hai món vũ khí vang lên. Ngay sau đó là tiếng la đau đớn của Lão Tam. Hắn bị Hồ Nghị sử dụng thế “Hồi Tiểu Kim Kê Đả Trung Lang” đâm đầu côn vào trúng bụng, người bắn ra sau té xuống đất nằm sóng soài không đứng dậy nổi. Hồ Nghị đứng thẳng người lên chống côn nhìn hắn nói:

- Cho ngươi một bài học, từ nay về sau đừng ăn nói bừa bãi nữa. Nhất là đối với phụ nữ.

Tên đại ca mặt sẹo bảo tên mặt chuột:

- Ngươi chăm sóc cho hắn. Để ta ra lãnh giáo hắn một phen.

Nói xong hắn từ từ bước ra đứng đối diện với Hồ Nghị rồi hất hàm nói:

- Côn pháp khá lắm, ta cũng muốn ngươi dạy cho ta một bài học. Được chứ?

Hồ Nghị định trả lời thì một trong ba thủ hạ của Cao Đường đã vào giữa vòng lên tiếng đáp thay:

- Ta thấy anh bạn tay cầm đao mà học côn làm gì? Ta cũng biết múa vài đường đao thô thiển, anh bạn có muốn học không?

Tên mặt sẹo trầm mặt xuống lạnh lùng đáp:

- Càng hay! Xuất chiêu đi!

Hắn nói xong thì hoành đao thủ bộ có ý nhường cho địch thủ ra tay trước. Người bên phe Cao Đường nói:

- Khí phách lắm! Trước khi Đỗ Trọng ta xuất chiêu, xin anh bạn cho biết danh tánh để tiện xưng hô có được chăng?

Tên mặt sẹo vẫn giữ giọng lạnh lùng:

- Không cần thiết! Ra tay đi!

Đỗ Trọng nghe vậy liền hoành đao nói:

- Đã thế thì ta ra chiêu đây, chú ý mà học nhé.

Nói xong Đỗ Trọng liền múa đao tấn công luôn. Đường đao xé gió đi như chớp chém xéo vào vai đối phương. Tên mặt sẹo nhảy lùi nửa bước né tránh, miệng khen:

- Đao nhanh! Đến lượt ta!

Dứt câu, ánh đao trong tay hắn chớp lên. Hắn tấn công liền mấy chiêu, chiêu nào cũng nhanh và hiểm độc vô cùng. Đỗ Trọng chân đảo bộ né tránh đồng thời tay ra chiêu phản công trở lại. Hai người tầm vóc như nhau, sức lực có vẻ tương đồng nên thanh đao trong tay cả hai khi tung ra tạo tiếng gió rít vù vù, hàn quang lạnh buốt, tiếng thép chạm nhau phát ra những âm thanh rợn người. Đám đông đứng chung quanh thấy vậy liền tự động dãn ra xa hơn. Đoàn Phong quan sát cuộc đấu nói nhỏ:

- Nhìn bộ pháp nhanh nhẹn, cách phòng thủ nghiêm mật nhưng khi xuất chiêu lại thần tốc và hiểm ác, cùng với giọng nói hơi nặng, tôi đoán chắc tên mặt sẹo này thuộc phái võ Hét ở miền Thanh Hóa. Hành sự và tôn chỉ của võ phái Hét rất nghiêm cẩn nhưng sao hắn ta lại giống như phường thảo khấu thế này?

Văn Hiến nói:

- Phái võ Hét ở miền Thanh – Nghệ đã có từ rất lâu trong làng võ Việt, thuở còn là Châu Hoan – Châu Ái. Đây là phái võ thuần Việt của chúng ta. Vì tính sát thương cao mà phòng thủ lại vững vàng nên thời nhà Hồ, triều đình đã tuyển rất nhiều cao thủ trong phái võ này vào để bảo vệ vua chúa và công hầu. Trăm ngàn môn sinh tất phải có kẻ thiện người ác. Tên này bỏ xứ vào đây hẳn thuộc loại cuồng đồ của môn phái Hét cũng nên.

Trong khi hai người nói chuyện với nhau thì trận đấu đang đến hồi quyết liệt nhất. Dưới ánh sáng lờ mờ, hai đấu thủ lại bị bao phủ trong màn đao ảnh khiến cho người xem khó lòng phân biệt được ai là ai. Bỗng một tiếng “chát” vang lên cùng lúc với hai tiếng “a” khác nhau rồi hai bóng người nhảy dạt tách nhau ra, cả hai tay đao cùng buông thõng xuống. Đỗ Trọng ôm bụng, tên mặt sẹo ôm ngực, máu từ vết thương của cả hai chảy ra ướt vạt áo trước, từ từ nhỏ giọt xuống đất. Xem chừng cả hai đều bị thương như nhau nhưng có lẽ không nguy hiểm đến tính mạng. Đỗ Trọng nói qua hơi thở mệt nhọc:

- Đao pháp của ngươi khá lắm. Ngươi thuộc môn phái Hét ở Thanh Hóa à?

Tên mặt sẹo ậm ừ:

- Nhãn quan khá lắm. Ta sẽ còn tìm ngươi để phân cao thấp. Giờ cáo từ.

Hắn nói xong ra hiệu cho hai tên đồng bọn rồi nặng nhọc bỏ đi đến nơi giữ ngựa. Tên được gọi là Lão Tam đã qua khỏi cơn đau, hắn trừng mắt nhìn Hồ Nghị nói:

- Món nợ này ta sẽ thanh toán sau! Đợi đấy!

Ngô Mãnh nhìn Đoàn Phong như hỏi ý kiến. Đoàn Phong nói:

- Nói cho Khắc Tuyên biết để cho ông ta tự lo liệu. Chúng ta không nên ra mặt lúc này làm gì.

Trận đấu đã kết thúc, đám đông cũng bắt đầu giải tán. Cao Đường bước đến hỏi Đoàn Phong:

- Đêm nay các vị nghỉ ở đâu?

Đoàn Phong đáp:

- Chúng tôi nghỉ trong phủ. Giờ xin cáo từ Cao gia, hi vọng còn có cơ duyên gặp lại.

Cao Đường chắp tay đáp:

- Hi vọng được gặp lại! Chúc hai vị lên đường bình an!

Ông quay sang Bạch Mai:

- Bạch công tử và hai vị huynh đệ đây cùng về đầm Hải Hạc với chúng tôi bây giờ hay sao?

Bạch Mai đáp:

- Dạ chưa. Ngày mai tiễn hai vị huynh trưởng này cùng Dục thúc đi xong, chúng tôi sẽ đến Cao gia làm khách.

Cao Đường chào mọi người lần nữa rồi quay vào trong quán. Hai người thủ hạ dìu Đỗ Trọng đi vào theo. Bọn Đoàn Phong cũng lấy ngựa trở về phủ Quy Nhơn. Trời lúc ấy đã quá nửa khuya.



*****​
[1] Trích từ trường thi Tình thơ Trương Chi – Mỵ Nương, Vũ Thanh.


[2] Một nhân vật trong nhóm Trúc Lâm Thất Hiền, nổi tiếng về uống rượu – ngàn chén không say.


[3] Trích từ nhạc phẩm Giọt lệ Mỵ Nương, Vũ Thanh
 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Hồi thứ chín

Gặp bão tố rơi vào tay thảo khấu
Trại Ức Trai lập kế cứu mỹ nhân.

*
Sáng hôm sau quan huyện Phù Ly Bùi Thế Phát và Võ Trụ có mặt tại phủ Quy Nhơn để chuẩn bị tiễn quan khâm sai ra bến My Lăng, rồi đi thuyền xuống cửa Nước Mặn, theo đường biển trở về Phú Xuân. Võ Trụ cưỡi con Huyết Câu đi giữa. Đoàn Phong, Ngô Mãnh, Văn Hiến, Hồng Liệt và Bạch Mai cưỡi ngựa đi hai bên. Cả sáu người đi sau cùng đoàn người ngựa. Võ Trụ lên tiếng:

- Mọi người có dịp vào lại Quy Nhơn đừng quên ghé thăm chúng tôi nhé.

Đoàn Phong nói:

- Tất nhiên rồi! Công việc ở mỏ vàng có làm anh thích thú không?

Võ Trụ thở dài:

- Tôi đã là phế binh, dự tính sẽ sống trọn cuộc đời còn lại như một người dân thường để nuôi con. Nay lệnh chúa buộc phải dính vào chốn cửa quyền, thú thật với các anh tôi chẳng hứng thú chút nào. Hơn nữa vàng là thứ kim loại có sức mạnh kỳ lạ vô cùng, nó có thể khiến con người ta dễ sanh tâm tham ố và biến thành kẻ xấu. Hà! Ngài khâm sai về rồi, tôi còn chưa biết rồi sẽ xảy ra chuyện gì với cái mỏ có trữ lượng khá lớn này đây.

Đoàn Phong cũng thở ra:

- Nội chính của phủ Chúa hiện nay đã có nhiều dấu hiệu suy đồi. Tôi đã trải qua một thời gian với tên bạo chúa Trịnh Giang nên mùi vị của bạo quyền tôi ngửi thính lắm. Anh nên cẩn thận. Đối với những món ăn ngon như vàng, sẽ có bao nhiêu con mắt tham lam ngó vào rồi dùng đủ mọi thủ đoạn bỉ ổi để giành giật. Tôi về Phú Xuân sẽ cố lưu tâm nhắc nhở Dục thúc về việc này. Chỉ hi vọng người và quan nội hữu Trương Văn Hạnh có đủ lực để kiềm tỏa quan ngoại tả Trương Phúc Loan.

- Tôi chỉ e mọi việc sẽ không tốt đẹp như anh muốn. Hãy nhìn thử xem trong cái phủ Quy Nhơn này, từ tuần phủ, khám lý tới huyện quan, tất cả đều là tay chân của quan ngoại tả. Ngay cả tên Trịnh Hiệp Thành trẻ măng mới được bổ về làm tri huyện Bồng Sơn cũng là do ông ta chỉ định. Theo sự suy diễn của tôi, e rằng quan chức khắp Đàng Trong này đều là người của quan ngoại tả cả rồi. Những ai chưa quy thuận ông ta, chẳng sớm thì muộn cũng phải theo về hoặc bị sa thải. Tình hình bên ngoài đã hiện rõ, còn bên trong nội triều ra sao thì tôi chưa biết.

- Anh nhận xét thật đúng. Trong triều bây giờ hầu hết các chức vụ trọng yếu đều đã thuộc vào tay con cháu và bộ hạ của Phúc Loan. Hắn thuyết phục Chúa Võ gả hai công chúa thứ hai và thứ bảy cho hai người con trai của hắn là Phúc Thăng và Phúc Nhạc, rồi giao cho giữ chức Chưởng dinh và Cai cơ nắm trọn binh quyền trong thành nội. Cả tên thuộc hạ thân tín của hắn là Thúc Sinh cũng được giao cho giữ chức Thượng thư bộ hộ. Trong triều giờ đây chỉ còn lại rất ít người đứng ở phe đối lập với Phúc Loan mà thôi.

- Thời thế như bây giờ, những kẻ có lòng với quốc gia, dân tộc và hạnh phúc của đồng bào thật khổ sở. Tham chính thì thế cô lực bạc, lại phải chứng kiến bao nhiêu trò bỉ ổi diễn ra hàng ngày và chịu đựng cảnh bè phái tranh giành hãm hại nhau, trong khi vua chúa thì hôn mê vô lực. Rút lui bỏ mặc cho non sông đắm chìm, nhân dân đói khổ thì lại tự thẹn với lương tâm. Hà! Thời thịnh trị “vi nhân” đã “nan”, thời buổi này “vi nhân” phải đến “vạn nan”.

Ngô Mãnh bỗng lên tiếng:

- Cảm thấy đáng thì ta phục vụ, không đáng thì phủi tay bỏ đi. Anh cần gì lao tâm khổ tứ như thế?

- Làm được như Ngô huynh thì còn gì thoải mái cho bằng? Nhưng cái nợ của nam nhi thường bị trói buộc bởi “nhân tình” và “đạo lý”. Hai thứ này quấn quít vào nhau tạo thành một sợi dây vô hình trói buộc con người, khó mà tháo gỡ cho sạch. Chỉ còn cách thoát khỏi vòng tục lụy như thầy tôi thì mới mong dứt bỏ được nó mà thôi.

- Mãnh tôi không biết nhiều về đạo lý mà chỉ biết đến nhân tình. Còn có thể có tình với nhau thì lưu luyến, đã không thể thì dứt áo ra đi. Đạo lý đôi khi bó buộc khiến con người ta khổ sở.

Đoàn Phong thở dài:

- Tôi đã một lần dứt áo ra đi, lương tâm đến giờ vẫn còn ray rứt. Nay nếu phủi tay lần nữa thì tráng chí nam nhi đành chôn vùi nơi thảo dã mà thôi.

Võ Trụ nói:

- Hai anh còn có cơ hội để thực hiện cái tráng chí của mình, đừng vội chán nản. Nếu tất cả anh tài trong nước đều sớm phủi tay bỏ đi thì đất nước này sẽ chìm ngay vào vũng sình nô lệ đấy. Riêng tôi dù chỉ giữ trong tay một phần nhỏ xíu của xã hội nhưng cũng sẽ quyết giữ cho nó sạch sẽ, trong lành.

Đoàn Phong gật gù:

- Nói hay lắm! Trương huynh này, anh là người thân của quan nội hữu sao không vào triều giúp cho ông ta một tay? Tài trí như anh sẽ góp phần rất lớn trong việc ngăn chặn cường quyền của quan ngoại tả. Dục thúc cũng nhắc đến anh luôn.

Văn Hiến đáp:

- Quan nội hữu cũng có đề cập vấn đề này nhưng tôi vẫn còn do dự. Có lẽ đã quen với cuộc sống an nhiên tự tại rồi nên khi nghĩ đến cảnh phải chịu bó buộc trong kỷ cương triều chính, tôi thấy ngại làm sao ấy.

Đoàn Phong thuyết phục:

- Đôi khi chúng ta cần phải hi sinh những khổ sở cá nhân để lo cho đại cuộc. Mong rằng xong việc ở Cù lao Phố anh sẽ vào giúp cho triều đình một tay.

- Vâng, tôi sẽ suy nghĩ về việc này.

Võ Trụ thêm vào:

- Ý kiến của Phong huynh rất đúng, Trương huynh đừng bỏ phí tài trí của mình như vậy. Thôi, đến lúc chúng ta chia tay rồi, chúc mọi người lên đường bình an.

Họ xuống ngựa nói lời tạm biệt với mọi người rồi phái đoàn của quan khâm sai xuống thuyền xuôi dòng Côn giang. Chỉ một lúc sau con thuyền đã khuất dạng sau những lũy tre hai bên bờ. Chờ đoàn người của phủ Quy Nhơn đi rồi Văn Hiến nói với Võ Trụ:

- Chúng ta chia tay ở đây. Bọn tôi xuống đầm Hải Hạc rồi vào Giản Phố Châu, có tin gì tôi sẽ thông báo cho anh hay.

Võ Trụ vui vẻ:

- Chúc ba người thượng lộ bình an!

Hồng Liệt cười:

- Thượng thủy chứ?

Võ Trụ cũng cười:

- Ừ, thì thượng thủy!

Bạch Mai nói:

- Cảm ơn Võ huynh về con bạch mã này. Muội quí nó lắm, muội sẽ đem nó theo. Không biết nó có chịu được sóng biển hay không?

- Bạch tiểu thư khách sáo rồi. Về chuyện đi biển, tôi tin chắc là nó không có việc gì đâu.

- Tạm biệt, không biết muội có dịp nào trở lại Quy Nhơn nữa không. Chuyến đi này muội sẽ nhớ suốt đời.

- Chúc tiểu thư thượng thủy bình an.

***​

Cao gia trang tọa lạc trên một khuôn viên rộng lớn nhìn ra biển Quy Nhơn, cách đầm Hải Hạc chừng hai dặm và bến Thạch Kiều ở hải tấn Quy Nhơn khoảng bốn dặm. Nhà họ Cao sinh sống ở Quy Nhơn đã lâu đời, cha truyền con nối làm nghề buôn bán bằng đường hàng hải nên rất giàu có. Đội thương thuyền của họ có cả chục chiếc, đi khắp các miền đất của Đàng Trong, từ Phú Xuân vào đến Giản Phố Châu. Cao Đường là con trai một của họ Cao, vừa tiếp nhận quyền thừa kế từ cha khoảng ba năm nay khi thân phụ ông lâm bệnh qua đời. Người vợ quá cố của Cao Đường là con gái một của một thương gia người Hoa rất giàu có đã sống nhiều đời ở cảng Nước Mặn, còn mẹ là người Việt. Với dòng máu lai, Cao phu nhân là một phụ nữ xinh đẹp tuy tính tình có hơi cứng rắn, đôi khi đến cay nghiệt. Sau gần một năm cưới vợ cho con, Cao ông lâm bệnh qua đời trao quyền thừa kế lại cho Cao Đường. Hai năm sau, Cao phu nhân hạ sinh cho họ Cao một cô con gái kháu khỉnh nhưng nửa tháng sau đó bà cũng đã qua đời vì chứng sản hậu.

Hai cái tang lớn đến liên tục trong vòng hai năm ngắn ngủi khiến Cao Đường khốn đốn một thời gian cả về mặt tâm lý lẫn tài chính. Cũng may vì công việc buôn bán đã có nề nếp từ lâu nên rồi đâu cũng vào đấy. Chính trong những lúc buồn bã đó, Cao Đường đã ghé đến chợ rượu Phú Đa để giải sầu và gặp nàng ca kỹ Ngọc Lan Hương. Ông say mê nàng ta đến độ từ dạo đó, không một đêm diễn nào của Ngọc Lan mà ông vắng mặt ở chiếc bàn đầu kê sát ngay sân khấu. Tháng trước đây, ông nghĩ rằng vợ mình khuất đã tròn năm, phần thương đứa con gái không người chăm nom, dạy dỗ sau này nên ông quyết định nhờ ông chủ Tửu Quán Bên Đường ngỏ lời cầu hôn giúp nhưng nàng vẫn còn chưa chấp thuận.

Sau buổi tiệc lớn mừng thôi nôi của Đại Hồng, đoàn thuyền buôn ba chiếc lớn của Cao gia rời bến cảng vào sáng sớm để chở hàng đi Giản Phố. Bọn ba người Bạch Mai cũng có mặt trên chiếc thuyền lớn nhất của đoàn, do Đặng Hữu Dụng, người đã làm việc cho Cao gia gần hai mươi năm làm thuyền trưởng mà cũng là trưởng đoàn. Bạch Mai đem theo lên thuyền con Bạch mã của mình.

Chiều hôm đoàn thuyền ngang qua ngoài khơi của đầu địa phận Diên Khánh, Đặng Hữu Dụng cùng bọn Văn Hiến ngồi trên sàn phía trước mũi thuyền uống rượu, ông đưa tay chỉ vào bờ nói:

- Đó là núi Đá Bia, năm 1471 vua Lê Thánh Tông đánh đuổi quân Chiêm Thành đến đây đã khắc bia trên hòn đá đó để làm cột mốc cực Nam biên giới cho Đại Việt. Nay thì toàn bộ miền Nam này đã thuộc về nước ta rồi. Phải nói các đời Chúa Nguyễn thật có công rất lớn đối với dân tộc Việt của mình.

Bạch Mai nói, lúc này nàng vẫn giữ nguyên lốt nam trang:

- Hòn đá đó nhìn xéo một chút trông giống tượng đá vọng phu quá.

Hữu Dụng mỉm cười:

- Nhiều người cũng cho là như vậy, nhưng không phải.

Văn Hiến hỏi:

- Chúng ta sẽ mất bao lâu để vào đến Cù lao Phố?

- Còn tùy vào thời tiết và hướng gió thuận nghịch. Trung bình cũng phải mất nửa tháng, hai mươi ngày mới đến nơi. Đã gần trung thu, những đợt gió mùa Đông Nam và Tây Nam đôi khi chuyển thành gió Nam thổi ngược làm cho thuyền đi chậm. Nay đang vào mùa mưa lớn và bão, nếu chúng ta qua khỏi được vùng Bình Thuận sớm thì sẽ an toàn hơn.

Hồng Liệt hỏi:

- Đã biết vào thời điểm nguy hiểm sao chú lại cho thuyền khởi hành trong lúc này?

- Thời tiết thay đổi là chuyện của trời đất, chúng ta không thể biết được, cùng lắm là một số kinh nghiệm dựa theo các hiện tượng xảy ra để dự đoán mà thôi. Có năm rất yên ổn, có năm lại rất dữ dội. Nghề này là vậy đó, sống chết, rủi may đều do ở trời cả. Có lênh đênh trên biển cả mới thấy con người thật nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Nhưng nếu cứ lo sợ nguy hiểm, chẳng lẽ chúng ta phải bó gối ở nhà suốt cả nửa năm ư? Tuy vậy, vào mùa này chúng tôi cũng đã giảm số thuyền bè đi lại trên biển.

Lúc này trời đã tối hẳn, biển cả mênh mông chỉ toàn một màu đen như mực khiến cho những vì sao trên bầu trời dường như lấp lánh hơn. Nhìn lên bầu trời với muôn vạn vì sao, Văn Hiến nói với Hữu Dụng:

- Chú ở trong nghề đã hai mươi năm, chắc về thiên văn, thiên tượng phải thông suốt lắm?

- Chỉ là một số kiến thức cơ bản để có thể nhận biết vị trí các vì sao mà định phương hướng thôi chứ nói thông suốt thì hơi quá.

Bạch Mai chen vào:

- Cháu thường nghe nói đến “Nhị thập bát tú”, chú thử chỉ cho cháu xem chúng là những ngôi sao nào.

Hữu Dụng đáp:

- “Nhị thập bát tú” là hai mươi tám vì sao lớn được chia ra làm bốn chòm ở bốn phương. Chòm sao Thanh Long ở phương Đông gồm có các sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. Chòm sao Bạch Hổ ở phương Tây gồm các sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm. Chòm Chu Tước ở phía Nam gồm: Tỉnh, Quỉ, Liễu, Trương, Tinh, Dực, Chẩn. Và chòm sao Huyền Vũ ở phía Bắc là: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Trong khi liệt kê tên bốn chòm sao, ông đưa tay chỉ vào vùng phân chia của chúng trên bầu trời cho Bạch Mai xem. Rồi ông nói tiếp:

- Liệt kê ra thì nhiều như thế nhưng những kẻ lênh đênh trên biển cả như chúng tôi thật ra chỉ cần biết bốn vì sao chính của bốn chòm sao để định phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc mà thôi. Đó là bốn vì sao Giác, Khuê, Tỉnh, Đẩu.

Bạch Mai lại hỏi tiếp:

- Những ngôi sao đó ảnh hưởng thế nào đến chúng ta hở chú?

- Cái này tôi không rõ lắm, xin Bạch công tử đừng cười. Nghe nói Trương công tử là người tinh thông kim cổ, công tử có thể nói rõ cho mọi người nghe được không?

Văn Hiến mỉm cười:

- Ai nói cháu là người tinh thông kim cổ vậy? Họ quá lời rồi.

Hồng Liệt xen vào:

- Đồ gàn, ngươi thường nói với ta làm người là phải cố học sao cho trên thông thiên văn, dưới rõ địa lý, giữa hiểu nhân tâm mà? Khiêm tốn làm gì, ở đây đều là người thân cả.

Văn Hiến biết là không thể từ chối được nên nói:

- Vì người xưa tin rằng trời dùng những hiện tượng để chỉ dạy các bậc vua chúa, thánh nhân biết mà trị dân. Cho nên Kinh Dịch viết: “Thiên thùy tượng, thánh nhân tắc chi” nghĩa là “trời cho thấy các hiện tượng, thánh nhân theo đó mà bắt chước”. Do đó, thiên văn học ra đời. Đối với thiên văn thì tượng là: nhật, nguyệt, tinh tú, gió, sấm, mây, bão. Vì thế mà người xưa hết sức lưu ý đến những sự thay đổi của nhật, nguyệt, gió, mây; hết sức chú trọng đến các tường vân, thụy khí, yêu khí để đoán biết ý trời, đoán biết cát hung, cũng như sự hưng suy của các triều đại. Nhờ vào các thiên tượng, từ đó phân chia ra từng vùng, tương ứng với từng vì tinh tú để biết sự thịnh suy của những chư hầu đó. Sự phân chia như thế gọi là phân dã.

Bạch Mai hỏi:

- Chúng ta hiện ở trong khu vực sao nào?

- Nước Việt ta thuộc phân dã của sao Dực và sao Chẩn, tức là cái đuôi con Chu Tước ở khoảng trời Nam. Nhưng vào đến vùng Gia Định thì lại gần khu vực của sao Tỉnh, tức cái mỏ của con Chu Tước.

- Nghe nói nhìn sao cũng có thể đoán biết được mưa bão phải không Trương huynh?

- Để đoán mưa bão thì hiện tượng rõ ràng nhất là nhiệt độ cùng với sự tích tụ, hình dáng và màu sắc của mây. Đó sự quan sát bình thường qua kinh nghiệm, còn những nhà thiên văn, quân sự đại tài thì họ có thể quan sát sự vận hành và đặc tính của các vì sao mà đoán biết mưa bão. Ví dụ như sao Cơ thì chủ gây ra gió, còn sao Tất thì chủ gây ra mưa. Nếu thấy sao Tất đi phạm vào vùng sao Thái Âm, có thể đoán trời sẽ mưa dầm.

Đi biển mà nói chuyện mưa bão, đôi khi chỉ là chuyện tò mò tình cờ nhưng lại là điềm báo trước của sự việc. Sáng hôm đó, khi thuyền sắp qua khỏi Diên Khánh, Bình Khang để vào địa phận Bình Thuận (vùng Phan Rang, Phan Thiết bây giờ), Hữu Dụng đứng trước mũi thuyền nhìn lên bầu hướng Đông nói với Văn Hiến:

- Cậu hãy nhìn kìa! Đó là loại mây có hình dạng như vảy tê tê, chúng đang di chuyển từ từ về phía Tây. Theo kinh nghiệm thì nay mai sẽ có bão từ ngoài khơi biển Đông đổ về hướng chúng ta. Bão lớn nhỏ còn tùy vào hình dạng mây cấu thành trước khi bão đến gần. Chúng ta nên chuẩn bị đón bão là vừa.

Văn Hiến hỏi:

- Chuẩn bị thế nào?

- Cách tốt nhất là cho thuyền đi sát vào bờ. Nếu bão lớn thì ghé vào nơi nào đó an toàn để tránh bão. Chúng ta có lẽ sẽ phải ghé vào trú ở vùng tấn Phan Rang rồi.

- Ở đó không an toàn lắm hay sao mà chú có vẻ miễn cưỡng vậy?

- An toàn về bão nhưng lại không an toàn về người bản địa. Vùng Phan Rang gần đây có một bọn cướp biển người Chiêm Thành, tên đầu đảng là hậu duệ hai đời của vua Bà Tranh, người phản lại phủ Chúa rồi bị đánh dẹp năm 1693. Chúng hung dữ lại rất thù người Việt mình. Thuyền ghé vào trú bão ở vùng này e sẽ gặp nguy hiểm.

- Phủ Chúa không có biện pháp gì đối với bọn chúng à?

- Có chứ! Đầu năm nay phủ Chúa đã ra lệnh cho quan binh từ Diên Khánh vào đánh dẹp, tuy chúng đã tan rã nhưng tên cầm đầu vẫn chưa bị bắt. Nghe nói chúng lại tụ tập tàn dư và tiếp tục cướp phá thuyền buôn qua lại vùng này. Điều lo ngại là sào huyệt mới của chúng ở đâu hiện chưa ai biết được.

- Còn nơi nào an toàn nữa không chú? – Bạch Mai hỏi, giọng lo lắng.

- Nếu bão vào trễ, chúng ta vào được tấn Cà Ná hoặc Mũi Né thì an toàn. Bạch công tử nên giữ lốt nam trang như thế sẽ tốt hơn.

Lời dự đoán của Hữu Dụng đã thành sự thật. Trưa hôm sau đã có gió lớn từ biển Đông thổi mạnh vào. Đến chiều thì mây đen vần vũ khắp bầu trời, mưa lớn đổ xuống như trút nước, sóng to nổi lên từng đợt đập vào mạn thuyền, tràn lên cả boong. Ba chiếc thuyền của đoàn đã hạ tất cả buồm xuống và ghé sát vào bờ nhưng suốt một dải dài chỉ thấy toàn vách núi, đá dựng lởm chởm nên không thể tấp thuyền vào trốn gió được. Những thủy thủ cố sức chèo cho thuyền kịp ghé vào tấn Phan Rang nhưng bão lớn đã đến quá nhanh nên cuối cùng Hữu Dụng đành ra lệnh cho thủy thủ đưa thuyền vào một cái vịnh nhỏ, thuận theo những đợt sóng lớn mà húc mũi lên một bờ cát trắng phau. Tuy đã sớm chuẩn bị nhưng một trong ba chiếc thuyền cũng đã bị vỡ và chìm trước khi lên cạn. Toán thủy thủ đành bỏ thuyền bơi vào bờ.

Vịnh này chỉ có một cửa nhỏ mở ra biển, còn ba mặt là núi non bạt ngàn. Qua làn mưa bão mịt mờ, trông những vách đá dựng đứng như bị cắt thẳng từ trên đỉnh xuống. Tuy được ba vách núi che chắn nhưng gió lớn vẫn đưa những con sóng to vỗ vào bờ tạo ra âm thanh vang dội khắp một vùng thung lũng hoang sơ. Cả đoàn người trên thuyền ai nấy đều bơ phờ vì phải chống chọi với cơn bão trong một thời gian khá dài, tuy vậy mọi người đều rất vui mừng vì đã thoát khỏi nguy hiểm. Bạch Mai vốn không quen với sóng nước nên nàng đã kiệt sức vì ói mửa và đã ngất đi. Hồng Liệt ra sức chăm sóc cho nàng, chàng lo lắng hỏi Hữu Dụng:

- Tình trạng thế này có nguy hiểm lắm không chú?

- Không sao đâu. Chỉ vì công tử không quen với sóng gió nên bị nôn mửa nhiều đâm ra mất sức. Nghỉ ngơi ít lâu sẽ hồi phục lại thôi. Nhưng trước tiên là phải sưởi cho ấm đã, sau đó xoa bóp các huyệt đạo để kích thích thân nhiệt lên cao.

Họ đã tìm được một hang đá kín đáo để trốn. Gió bên ngoài vẫn rít từng cơn rùng rợn và thổi từng đợt mưa rát lạnh quanh cửa hang. Hữu Dụng bảo bọn thủy thủ:

- Tìm cho được một ít củi khô vào đây để sưởi cho Bạch công tử.

Bọn thủy thủ liền tỏa nhau đi kiếm củi khô. Động khá lớn nhưng chẳng thấy cây củi nào, họ đành phải chạy ra bên ngoài để tìm mấy cành cây khô tuy đã bị ướt bởi nước mưa. Họ dùng dao nạo sơ lớp vỏ ngoài và sau một lúc hì hục thì họ cũng đã đốt lên được một đống lửa lớn. Hồng Liệt mang Bạch Mai đến bên đống lửa để sưởi ấm, xoa bóp các huyệt đạo trên người nàng. Được một lúc thì Bạch Mai từ từ tỉnh lại. Giọng nàng run run vì lạnh hỏi Hồng Liệt:

- Muội bị ngất lâu chưa? Mấy cái cái hòm cốt huynh có giữ không? Con Bạch mã thế nào rồi?

- Tôi vẫn đeo nó trên vai đây. Cứ an tâm nghỉ ngơi cho mau lại sức. Con Bạch mã không chịu nổi sóng lớn nên đã rơi xuống biển rồi. Ta tìm lại con khác vậy.

Bỗng nghe một thủy thủ la lớn:

- Nhìn kìa! Có một chiếc thuyền lớn vừa mới tấp vào bờ. Coi bộ thuyền đó bị thiệt hại nặng lắm nên đã khẳm sâu. Không biết mọi người trên thuyền có bị gì không?

Hữu Dụng la lớn:

- Anh em nào còn khỏe mau ra giúp đưa bọn họ vào đây trú bão trước đã!

Văn Hiến nói:

- Đúng vậy, chúng ta ra giúp họ một tay đi.

Văn Hiến và Hồng Liệt từ bé đã lặn lội trên sông nên đối với việc sông nước cơ thể của họ đã quá quen thuộc. Do đó dù vừa trải sóng to gió lớn nhưng cả hai vẫn còn thừa sức chịu đựng không khác gì những người thủy thủ chuyên nghiệp. Cả hai vội chạy ra ngoài bãi cát, năm sáu thủy thủ trong đoàn cũng chạy theo đến chỗ chiếc thuyền vừa dạt vào. Lúc ấy, trên chiếc thuyền bị nạn đã có mấy người thủy thủ mặc quần áo đen nhảy xuống nước, sau đó bọn trên thuyền khiêng một chiếc cáng trên có một thiếu nữ mặc đồ trắng nằm im thiêm thiếp. Hai thủy thủ khác bồng trên tay mỗi người một cô gái, cả hai đều trong tình trạng ngất xỉu. Gió lớn thổi những hạt mưa quất mạnh vào mặt rát buốt, sóng vẫn vỗ ầm ầm không ngớt. Văn Hiến đội mưa, vượt sóng chạy đến nơi gọi lớn:

- Mau đem họ vào nơi động đá kia, ở đó kín gió và an toàn lắm!

Bọn thủy thủ nghe nói vội đem ba thiếu nữ chạy vào động đá. Sau đó, cả bọn thủy thủ gần hai mươi người nữa cũng chạy theo vào động. Trong bọn họ có đến năm người đã bị kiệt sức phải nhờ người dìu đi.

Người thiếu nữ áo trắng nằm trên cáng cùng hai cô gái cũng ở vào tình trạng giống như Bạch Mai nhưng có phần trầm trọng hơn, có lẽ vì ở lâu hơn ngoài biển động. Họ mang ba cô gái đặt cạnh đống lửa, cả ba đều kiệt sức đến ngất đi vì nôn mửa quá nhiều, cơ thể lạnh băng như ướp đá. Bọn thủy thủ người nào người nấy đều tỏ vẻ vô cùng lo lắng đối với sức khỏe của thiếu nữ nằm trên cáng. Văn Hiến bước đến định xem tình trạng của nàng ta thì suýt tí nữa đã phải la lên vì kinh ngạc. Thì ra thiếu nữ áo trắng đó chính là nàng Bạch y công chúa mà chàng đã gặp và giao đấu tại quán Cao Lầu ở Hội An. Một tên thủy thủ trong bọn, chính là tên hộ vệ đứng sau lưng nàng hôm trước cũng nhận ra chàng. Hắn nói:

- Không ngờ chúng ta lại gặp nhau ở đây trong hoàn cảnh này.

Văn Hiến nói:

- Thật không ngờ! Nhưng chuyện gì thì cũng phải gác sang một bên chờ qua khỏi cơn hoạn nạn này đã. Tình trạng công chúa của anh bạn và hai vị tiểu thư kia thế nào rồi?

- Không quen sóng gió lớn, lại phải trải qua một thời gian khá lâu trên biển động nên ngất đi vì kiệt sức, lại còn bị nhiễm lạnh nữa. Ta đang lo quá mà chẳng ai dám động vào người của công chúa cả. Thật là nan giải vô cùng!

- Ngộ biến phải tùng quyền. Ta không tin công chúa lại quở trách anh bạn trong trường hợp này.

- Anh bạn không biết tính công chúa của ta đâu. Trường hợp nào rồi sau đó bọn ta cũng bị hình phạt nặng, có khi mất mạng không chừng.

Văn Hiến cau mày:

- Sao lại vô lý đến thế? Giờ anh bạn định bỏ mặc cho nàng ta nằm như thế này à?

Tên vệ sĩ gãi đầu bối rối:

- Ta thật không biết nên làm thế nào nữa đây?

- Anh bạn sợ như vậy thì ta xin phép được giúp một tay, sau này cứ để ta tạ tội. Nếu cứ để tình trạng hôn mê kéo dài sẽ làm thương tổn tới hệ thần kinh tiền não bộ, có khi phải mất mạng vì hàn khí xâm nhập vào tim và phổi.

Tên vệ sĩ nhăn nhó:

- Đành phải phiền đến anh bạn vậy. Ta thật cảm ơn.

- Anh bạn hãy chăm sóc cho hai vị tiểu thư kia đi. Trước hết bấm vào huyệt nội quan nơi cổ tay để kích thích và điều chỉnh lại hệ thần kinh đã nhiễu loạn vì say sóng, đồng thời tay kia áp vào huyệt đản trung trước ngực, truyền nội lực vào để điều hòa lại nhịp thở và sự hô hấp, cũng như kích thích năng lượng trong cơ thể của họ, tránh tình trạng hàn khí xâm nhập sâu vào nội tạng. Sau đó lại phải xoa bóp một số huyệt đạo chính trên người họ để dẫn nhiệt đi khắp châu thân.

Vừa nói chàng vừa thực hiện các động tác trị liệu. Tên hộ vệ cùng một tên khác làm theo chàng để cứu chữa cho hai cô gái trẻ. Một lúc sau, cơ thể của ba cô gái đã ấm lên dần, hơi thở trở nên điều hòa hơn. Văn Hiến và hai tên hộ vệ đỡ họ ngồi dậy, tiếp tục xoa bóp các huyệt đạo sau lưng. Chừng nửa khắc sau đã thấy nàng Bạch y công chúa từ từ mở mắt, phản ứng đầu tiên của nàng là quay phắt lại để xem ai đang xoa bóp sau lưng mình. Vừa nhận ra kẻ đó chính là tên thư sinh đã làm nhục mình hôm trước, nàng vội giáng cho Văn Hiến một cái tát thật mạnh. Cũng may nàng vừa hồi phục, sức khỏe còn yếu, nếu không với cú tát đó Văn Hiến ít nhất cũng phải rụng vài ba cái răng. Bạch y công chúa nói như hét:

- Hỗn láo! Ngươi dám...

Văn Hiến rút tay về xoa lên má, giọng điềm đạm:

- Tôi vì ngộ biến phải tùng quyền. Nếu không làm như thế e công chúa sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng, hay ít nhất thần kinh sẽ bị thương tổn. Thật xin lỗi, công chúa còn cần phải nghỉ ngơi thêm, không nên cử động vội, sẽ gây hại cho cơ thể.

Nét mặt Bạch y công chúa từ trắng bệch đã đỏ dần lên bởi tức giận và hổ thẹn. Đây là lần đầu tiên trong đời có một nam nhân dám đụng đến thân thể nàng, mà lại ngay trước mặt nhiều người như thế. Nàng gắt giọng:

- Việc gì đến ngươi? Ta không biết tự lo cho ta hay sao?

Nói xong nàng định tát cho Văn Hiến cái nữa nhưng vừa đưa tay lên thì nàng đã phát ho sù sụ, đành ôm bụng nôn thốc tháo. Xong nàng thở hổn hển ra chiều mệt mỏi. Văn Hiến nói nhanh:

- Công chúa không nên tức giận. Như vậy sẽ làm đảo nghịch khí huyết trong người. Mọi việc cứ chờ khỏe lại đã, tôi sẽ tạ lỗi cùng nàng sau.

Nàng nghiến răng nói qua hơi thở:

- Cấm ngươi không được...

Và nàng gục xuống ngất đi lần nữa. Văn Hiến vội vàng đỡ lấy người nàng, đặt nằm ngay ngắn xuống đất rồi ra tay điểm nhanh một số huyệt đạo, truyền lực vào người nàng, miệng lẩm bẩm:

- Con người này thật vô lý và bướng bỉnh.

Tên vệ sĩ cười khổ:

- Anh bạn sẽ bị khổ to vì chuyện cứu người lần này đây. Thật phiền cho anh bạn!

Văn Hiến mỉm cười:

- Không sao. Cứu được nàng ta trước đã, còn khổ thế nào tính sau.

Bạch Mai chen vào:

- Ráng tí nữa khá hơn, tôi sẽ thay cho huynh.

Lúc này hai cô gái trẻ cũng đã tỉnh lại. Một cô lo lắng hỏi:

- Âu Dương Long huynh, công chúa thế nào rồi?

Tên vệ sĩ tên Âu Dương Long đáp:

- Công chúa tỉnh lại rồi nhưng vì nổi giận nên đã ngất tiếp. Vị bằng hữu kia đang cố gắng giúp công chúa hồi tỉnh trở lại.

Cô gái thứ hai nói:

- Lần này thế nào chúng ta cũng sẽ bị công chúa quở phạt nặng cho coi.

Tên vệ sĩ thở dài:

- Đành chịu vậy! Hai cô dưỡng sức cho chóng bình phục để hầu hạ công chúa. Đừng nói nhiều nữa.

Hai cô gái nghe nói liền ngồi yên nhắm mắt điều tức dưỡng thần. Văn Hiến vẫn đang tiếp tục truyền lực vào người Bạch y công chúa, một lúc sau thấy người nàng đã ấm lên, nhịp tim và hơi thở trở lại bình thường, chàng rụt tay về rồi dịch người ra xa, ngồi nhắm mắt dưỡng thần. Ngoài kia gió vẫn lộng từng cơn thốc vào cửa động tạo nên những tiếng rú ghê rợn. Mưa nhẹ hạt dần rồi lại đột ngột đổ ào xuống, gió mạnh quất những hạt mưa vào vách động bắn tung tóe vào cả bên trong. Hữu Dụng bỗng lên tiếng:

- Tâm bão hình như đã qua rồi, chừng rạng sáng ngày mai là êm thôi. Cơn bão đến càng nhanh và dữ dội bao nhiêu thì cũng sẽ qua nhanh như khi nó đến. Anh em lên thuyền coi thử còn gì để ăn đỡ đói không? Tìm thêm ít cây khô nữa cho đủ đốt qua đêm. Mang nước vào đây cho mọi người uống. Sau cơn say sóng cơ thể rất cần nước để hồi phục.

Bọn thủy thủ dạ ran rồi chạy ra ngoài động chia nhau làm việc. Hữu Dụng quay sang hỏi Âu Dương Long:

- Anh là trưởng thuyền à?

Âu Dương Long gật đầu:

- Có thể nói như thế.

- Tình trạng chiếc thuyền thế nào?

- Hư hại khá nặng, bị gãy bánh lái và thủng một chỗ.

- Các anh vào Gia Định à?

- Giản Phố.

- Thế à? Chúng tôi cũng vào Cù lao Phố. Trường hợp thuyền không sửa chữa được, các anh có thể đi cùng chúng tôi.

- Cù lao Phố ở đâu?

- Là Giản Phố. Người Hoa của các anh gọi Giản Phố, người dân Việt ở địa phương gọi là Cù lao Phố vì hình dáng hòn đảo nổi lên giữa sông giống một con cù.

- Ra là thế! Cảm ơn. Quí danh của ông là...

- Hữu Dụng. Đặng Hữu Dụng.

- Cảm ơn sự tương trợ. Cứ để ngày mai xem lại tình trạng thuyền thế nào đã. Mọi việc do công chúa quyết định.

Bạch y công chúa lúc ấy cũng vừa hồi tỉnh trở lại. Nàng gượng ngồi ngay dậy nhìn quanh. Âu Dương Long vội vàng bước đến trước mặt nàng cung kính nói:

- Xin công chúa tiếp tục nghỉ ngơi dưỡng sức, đừng để hao tổn mình vàng. Mọi việc khác cứ để bọn nô tài lo liệu.

Bạch y công chúa giọng mệt mỏi hỏi:

- Hai chiếc thuyền thế nào?

- Thưa, một chiếc đã chìm trước khi vào đây. Chiếc còn lại bị hư khá nặng.

- Ngươi tính thế nào?

- Thưa, sáng mai xem lại tình trạng thuyền mới biết. Xin công chúa an tâm nghỉ ngơi, mọi việc cứ để cho nô tài lo liệu.

Bạch y công chúa khẽ liếc ánh mắt lạnh lùng sang Văn Hiến, chàng vẫn đang ngồi nhắm mắt dưỡng thần. Nàng máy môi định nói gì đó nhưng rồi im lặng nhắm mắt lại điều tức. Bên ngoài cửa động trời tối đen như mực, gió rít lên từng cơn. Bọn thủy thủ trở về mang theo nước và lương khô cùng một số cây khô bị gãy đổ vì bão. Hai cô gái trẻ lúc này đã khỏe lại vội bước đến bên cạnh công chúa chờ đợi phục thị khi nàng cần. Hữu Dụng nói:

- Tứ hải giai huynh đệ, huống chi lúc này đang trong cơn hoạn nạn. Xin mời các bạn của Âu Dương hiệp sĩ dùng đỡ ít lương khô đỡ đói. Hai vị tiểu thư mới hồi phục lại nên uống nước nhiều vào để bảo đảm sức khỏe cho cơ thể.

Âu Dương Long chắp tay nói:

- Cảm ơn. Ngày sau nguyện báo đáp. Anh em đừng khách sáo. Thu Hồng và Bạch Cúc, hai cô chuẩn bị phần ăn và nước uống cho công chúa rồi cũng nên ăn một chút cho khỏe.

Cô gái áo hồng tên Thu Hồng liền lấy một phần thức ăn và một bát nước đem để trước mặt công chúa. Xong hai cô ngồi xuống bên cạnh nàng cùng mọi người quây quần quanh đống lửa để ăn uống. Thu Hồng lo lắng quay sang Âu Dương Long hỏi nhỏ:

- Thuyền hư như vậy biết bao giờ mới đưa công chúa đến nơi?

- Đừng lo quá sẽ làm cho công chúa bất an. Mọi việc cứ để ngày mai xem sao đã.

(còn tiếp)
 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Đêm đã khuya, mọi người sau một ngày vật lộn với cơn bão đều cảm thấy mệt mỏi nên nằm quanh đống lửa ngủ say. Chỉ có Thu Hồng, Bạch Cúc và Âu Dương Long tuy mệt mỏi nhưng vẫn phải thức canh công chúa của họ vì nàng vẫn đang ngồi im nhắm mắt dưỡng thần. Ngoài kia, gió rít u u hòa vào tiếng sóng vỗ ầm ầm. Bên trong thỉnh thoảng vang lên vài tiếng lửa nổ lách tách. Hai cô gái mắt đã trĩu nặng nhưng vẫn cố không dám ngủ gục, ngồi chờ công chúa thức dậy để chăm sóc cho nàng ăn uống. Bỗng bạch y công chúa bỗng mở mắt nói:

- Các ngươi ngủ đi!

Thu Hồng nghe tiếng công chúa, nàng mừng rỡ vội nói:

- Công chúa tỉnh lại rồi! Công chúa nên ăn một chút và uống nước nhiều vào để cơ thể chóng phục hồi. Tiểu tì có để phần thức ăn và nước uống cho công chúa đây.

Nói xong, nàng hai tay bưng bát nước đưa lên cho công chúa. Công chúa lắc đầu đưa tay gạt bát nước ra:

- Ta làm sao nuốt trôi những thứ này?

- Công chúa phải ráng. Đây là lúc hoạn nạn, tiểu tì không làm sao có hơn được. Sau cơn say sóng, người cần phải uống thật nhiều nước.

Nàng đưa bát nước đến môi công chúa. Bạch y công chúa nhắm mắt hé môi nhấp một ngụm. Nàng định chỉ nhấp một miếng cho đỡ khô cổ nhưng vì khát quá nên cuối cùng đã uống cạn bát nước. Thu Hồng mừng rỡ nói:

- Bây giờ công chúa phải ráng ăn một chút. Có khó nuốt cũng phải cố, nếu không sẽ không đủ sức vượt qua tai nạn này đâu. Chúng ta còn phải chờ sửa thuyền lại, ít nhất cũng mất vài ngày. Vả lại, đường vào Giản Phố còn xa lắm.

Bạch y công chúa tuy cảm thấy đói lắm nhưng vì vừa mới nôn quá nhiều, bụng còn nôn nao khó chịu nên nàng dù cố nuốt vẫn chỉ được vài ba miếng rồi thôi. Thu Hồng biết ý nên nói:

- Công chúa nằm xuống nghỉ đi. Mai tiểu tì sẽ tìm món gì đó dễ nuốt hơn cho công chúa.

Thu Hồng đỡ công chúa nằm xuống rồi cùng Bạch Cúc ngồi bên xoa bóp cho nàng. Công chúa bảo:

- Ba ngươi ngủ đi.

Nàng nhắm mắt lại. Cả ba người bây giờ mới dám nằm xuống, chỉ chốc lát họ đã ngủ thiếp đi. Tảng sáng hôm sau mọi người đều thức dậy và kéo nhau ra ngoài động để xem tình trạng mấy chiếc tàu. Trong hang chỉ còn lại Bạch Mai, Bạch y công chúa và hai tiểu tì nằm nghỉ. Trời vẫn còn mây đen u ám nhưng sức gió đã giảm nhẹ rất nhiều, mang theo một vài đợt mưa nhẹ. Vịnh này chỉ có một cửa hẹp thông ra biển nên lúc này sóng biển đã êm lại, mực nước biển lùi ra xa khiến hai chiếc thuyền của Hữu Dụng nằm trơ trên bãi cát nơi mép nước. Chiếc thuyền của Âu Dương Long bị mắc cạn xa hơn, một nửa thân thuyền chìm trong nước. Các thủy thủ hai đoàn nhanh chóng bắt tay vào làm việc, kẻ tát nước trong thuyền ra ngoài, người lo thu xếp các vật dụng đã bị đổ ra bừa bãi khắp nơi trong thuyền. Văn Hiến và Hồng Liệt cũng xắn tay vào phụ giúp các thủy thủ. Đến khoảng giờ tị thì mây thưa dần, ánh mặt trời bắt đầu chiếu xuống những tia yếu ớt. Vùng vịnh sáng dần lên, trông như cảnh thần tiên với nét hoang sơ, hùng vĩ và hữu tình. Đứng trên sàn thuyền ngắm nhìn quang cảnh của vịnh, Văn Hiến hỏi Hữu Dụng:

- Chú Dụng, vịnh này có tên là gì vậy chú? Phong cảnh thật là hùng vĩ nên thơ.

- Tôi không chắc lắm. Vài lần ghé Phan Rang tôi có nghe người địa phương đề cập đến một cái vịnh nhỏ tên Vĩnh Hy, không biết có phải họ nói đến cái vịnh này không.

- Buông bỏ được việc đời để về đây sống với cảnh thiên nhiên, giữa biển trời non nước thế này mới đúng là chân lạc thú. Chú thấy cháu nói có đúng không?

- Đó là điều ai cũng muốn cả nhưng rất ít người làm được. Đã sinh ra làm người trong đời, việc khó nhất là buông bỏ nó. Ngoại trừ thánh nhân hay các bậc hiền nhân ẩn sĩ. Tất cả cũng chỉ vì những thứ này nó ràng buộc chúng ta.

Ông nói xong rung rung xâu tiền đồng khá lớn đang nắm trong tay rồi đưa nó sang cho Văn Hiến cầm và hỏi:

- Cậu có cảm giác thế nào khi chỉ có hai bàn tay không và khi có một xâu tiền vàng trong tay? Cứ coi như nó là sở hữu của cậu đi.

- Trong hoàn cảnh hiện giờ xâu tiền này trở thành vô dụng chú ạ.

- Nếu cậu đang ở giữa chốn phồn hoa đô hội thì sao?

- Tất nhiên cảm giác khi có xâu tiền trong tay sẽ sung sướng và thú vị hơn.

- Vậy đó. Trong một trăm người thì hết chín mươi chín người có cùng cảm giác như cậu vừa nói. Cho nên tôi mới nói buông bỏ việc đời là việc rất khó. Đồng tiền tự nó là một vật vô tri nhưng từ khi con người gán cho nó một giá trị trao đổi thì con người bỗng trở thành nô lệ của nó, suốt đời cứ phải bỏ công sức giành giật kiếm tìm rồi nâng niu, trân quí nó còn hơn cả tính mạng của mình.

Hai người đang nói chuyện thì chợt nghe một tiếng “bắn” từ trên núi gần hang động vang tới. Tức thì, hàng loạt mũi tên từ trên cao bắn xuống như mưa rào, nhắm vào đám thủy thủ đang loay hoay sửa thuyền, hết loạt tên này lại liên tiếp đến loạt tên khác. Vì bất ngờ nên hơn nửa số thủy thủ đang làm việc trên hai chiếc thuyền của Hữu Dụng bị trúng tên kêu la inh ỏi. Số còn lại nhanh chân nhảy xuống lòng tàu hay bãi cát để núp vào phía bên kia con tàu, trong đó có Hồng Liệt. Chiếc thuyền của bọn Âu Dương Long ở xa hơn nên số người bị trúng tên ít hơn. Phần Văn Hiến khi nghe tiếng hô, chàng lập tức xô Hữu Dụng, cả hai nằm xuống núp sát vào be thuyền. Họ hết sức ngạc nhiên vì biến cố đột ngột này. Hữu Dụng đoán ra sự tình, nói lớn:

- Anh em cẩn thận! Chúng ta lọt vào ổ phục kích của bọn cướp Chiêm Thành rồi! Anh em nào ở dưới hầm tàu, tìm cách đưa số vũ khí ở dưới đó lên trên nhanh lên.

Mấy thủy thủ bên dưới gom vội những chiếc mộc che tên và một số vũ khí gồm đao kiếm đủ loại ném lên trên. Đối với những người đi biển, nguy hiểm nhất là bão tố, thứ đến là cướp biển cho nên trên thuyền lúc nào cũng có đầy đủ gươm đao, cung tên và mộc chắn tên dự phòng khi bị cướp tấn công. Tên từ trên núi, tên vẫn tiếp tục bắn xuống hàng loạt. Văn Hiến vội mở xâu tiền đồng bỏ đầy vào hai túi. Chàng gọi lớn:

- Tên trộm, ngươi có sao không? Đang ở đâu vậy?

Có tiếng Hồng Liệt dưới nước vang lên:

- Ta không sao. Đang ở phía bên này con tàu. Ngươi có bị trúng tên không?

- Không! Giữ cái này làm ám khí, đây!

Nói xong chàng tung xâu tiền còn lại về phía có tiếng nói của Hồng Liệt. Hồng Liệt ở bên dưới đưa tay bắt gọn. Anh cũng trút số tiền đồng vào hai túi rồi lên tiếng:

- Đồ gàn, bọn cướp đứng trên núi rất đông! Chúng đứng ngay trên nóc hang đá. Làm sao để cứu bốn cô gái còn nằm trong đó bây giờ?

- Chúng bắn tên rát quá, đợi ta tìm được mộc che tên đã rồi sẽ tính.

Chàng trườn người đến cầm lấy hai cái mộc che tên đưa cho Hữu Dụng nói:

- Chú che cho cháu nhé.

Số mộc còn lại chàng tung xuống biển nơi bọn Hồng Liệt đang núp. Sau đó, chàng lại ném vũ khí cùng cung tên cho họ. Bọn cướp trên núi thấy có người trên thuyền nhúc nhích liền bắn xuống một cơn mưa tên. Những mũi tên cắm vào hai cái mộc trên tay của Hữu Dụng và trên mặt thuyền tua tủa như lông nhím. Thực hiện xong việc phân phát vũ khí, Văn Hiến nép mình vào be thuyền quan sát. Bọn cướp lớp đứng trên núi, lớp khác đã nhảy xuống bãi cát và bao quanh sơn động. Đã có mấy tên xông vào bên trong rồi có tiếng la hét của mấy cô gái. Văn Hiến la lớn:

- Các cô gái đang gặp nguy hiểm! Anh em một người che mộc một người bắn tên, chúng ta phải triệt hạ bớt những tên cung thủ trên núi, sau đó bắn bảo hộ cho tôi và Hồng Liệt vào cứu người. Anh em chuẩn bị chưa? Chúng ta chia nhau bắn nhé, nhóm ở thuyền này từ phải qua trái, nhóm ở thuyền bên đó từ trái qua phải, chúng ta phải triệt hạ bọn cung thủ trước. Anh em nghe rõ không?

Có tiếng trả lời “rõ” từ chiếc thuyền bên. Văn Hiến lại hô lớn:

- Một, hai, ba! Bắn!

Tức thì một loạt tên từ dưới hai chiếc thuyền lao vút lên núi. Bọn cướp ít nhất cũng có gần mười tên bị trúng tên ngã xuống. Có nhiều tên rơi từ trên cao xuống bãi cát cùng với tiếng rú thất thanh. Loạt tên đầu đắc thủ, anh em thủy thủ lại bắn tiếp loạt tên thứ hai. Lúc này bọn cướp còn lại trên núi đã nằm rạp xuống núp, có tên nhổm người giương cung bắn trả lại. Rồi có tiếng la cảnh cáo đồng bọn:

- Anh em cẩn thận! Chúng bắn đấy!

Trên thuyền, Văn Hiến cố gắng hét lớn hơn để cho bọn thủy thủ bên tàu của Âu Dương Long nghe:

- Anh em tiếp tục bắn, đừng cho bọn cung thủ có điều kiện ra tay nhé. Âu Dương huynh bên đó thế nào rồi? Chúng ta phải hành động cùng một lúc thì bọn cướp mới không kịp trở tay. Chúng tôi xông lên bờ đây.

Âu Dương Long lớn tiếng đáp:

- Chúng tôi cũng đã sẵn sàng! Nào lên!

Âu Dương Long hô xong liền ném hai mảnh gỗ xuống mặt nước biển, sau đó tung người từ trên thuyền đạp nhẹ lên một miếng gỗ thứ nhất, mượn đà nhảy tiếp sang miếng gỗ thứ hai rồi đáp xuống bờ cát. Bên này, Văn Hiến cũng tung người xuống bãi cát rồi cùng Hồng Liệt lao nhanh đến bọn cướp đang đứng trước cửa hang núi. Để dọn đường, những đồng tiền của họ liên tiếp bay ra, nhắm vào các huyệt đạo của bọn cướp mà lao vút đến. Đã có năm, sáu tên cướp trúng ám khí té nhào chưa kịp la lên một tiếng. Bọn cung thủ trên núi thấy có ba người từ dưới nước lao lên bãi cát liền nhô người nhả tên. Bọn Văn Hiến vội múa đao kiếm gạt tên và tiếp tục lao tới. Trong khi đó, các cung thủ dưới thuyền cũng lập tức buông tên. Mấy tên cung thủ nữa ở trên núi trúng tên nhào xuống đất.

Ba người bọn Văn Hiến vừa đến cửa hang liền ra tay tấn công bọn cướp. Chúng vung vũ khí đánh trả và bao vây họ, cuộc chiến diễn ra ác liệt. Đám lâu la tuy đông nhưng không phải là đối thủ của ba tay kiếm thượng thặng như Văn Hiến, Hồng Liệt và Âu Dương Long. Chỉ sau một hồi giao đấu đã có thêm rất nhiều tiếng rú thất thanh của bọn cướp vang lên. Văn Hiến tay vung kiếm chém bọn cướp, giọng lo lắng nói lớn:

- Mấy cô gái trong hang chắc đã bị bắt cả rồi hay sao mà không nghe động tịnh gì cả?

Âu Dương Long càng nóng ruột hơn vì lo cho sự an nguy của công chúa. Chàng ta lên tiếng đáp:

- Chắc là như vậy rồi! Hai bạn thanh toán bọn này nhé, để tôi xông vào trong cứu họ.

Dứt lời, chàng ta vũ lộng thần uy tung đòn sấm sét vào một tên cướp. Tên cướp trúng đao của Âu Dương Long bay mất thủ cấp, chiếc đầu rơi xuống lăn lông lốc trên bãi cát. Âu Dương Long liền tung mình thoát khỏi vòng vây theo khe trống đó rồi phóng người vào hang. Có tiếng la lớn của Hữu Dụng bên ngoài vòng vây:

- Để bọn này cho chúng tôi và Hồng Liệt, Trương công tử hãy vào giúp cho Âu Dương Long.

Tức thì có thêm một tiếng rú nữa vang lên, một tên trong bọn cướp trúng đao từ bên ngoài chém vào của Hữu Dụng và người thuyền phó. Văn Hiến lao người ra khỏi vòng vây chạy theo Âu Dương Long. Bỗng thấy Âu Dương Long bước từng bước thụt lùi ra đến cửa hang. Văn Hiến vừa nhìn thấy cũng bước từng bước lùi lại giống như Âu Dương Long. Từ trong động, bốn tên cướp kề dao vào cổ bốn cô gái, mỗi tên đẩy một cô bước tới trước. Hai tay các cô gái bị bốn tên cướp nắm chặt phía sau, quần áo của các cô xộc xệch và có nhiều vết máu chứng tỏ các cô vừa trải qua một trận giao chiến với bọn cướp. Chiếc khăn bịt đầu của Bạch Mai đã rơi mất, mái tóc xõa xuống vai bơ phờ.

Đi đầu là một tên cướp có thân hình to lớn với sắc da ngăm đen của người Chiêm Thành. Bộ râu quai nón trên mặt càng làm cho cặp mắt lồ lộ của hắn tăng thêm phần sát khí. Hắn phanh ngực áo ra, để lộ rõ hình một con chim phượng hoàng màu xanh xăm trên ngực, loại chim tổ của dân tộc Chiêm Thành. Tay hắn cầm một thanh đao sáng loáng. Khí thế của hắn trông thật đáng sợ. Đi cạnh hắn là một tên có nét mặt hung tợn không kém, có lẽ là tên phó tướng cướp. Phía sau bốn tên cướp đang khống chế các cô gái là năm tên cướp khác, có ba tên bị thương ở mặt, máu chảy tèm lem xuống cả vạt áo trước ngực. Có lẽ bọn chúng đã trúng quyền của bốn cô gái trước khi các cô bị bắt. Ra khỏi động, tên thủ lĩnh liền hét lớn:

- Dừng tay! Tất cả các ngươi buông vũ khí xuống và tập trung lại đây. Cả những tên trên thuyền nữa! Còn tên nào dưới thuyền ta sẽ cho các cô gái này về chầu diêm vương ngay. Ta đếm mười tiếng, các ngươi phải có đủ mặt. Một... hai... ba...

Những người đang đánh nhau nghe tiếng hét của hắn thì dừng tay. Những tên cướp rút về phía sau lưng tên thủ lĩnh, mấy tên cung thủ trên núi cũng tung mình nhảy xuống nhập bọn. Văn Hiến tính nhẩm có ít nhất cũng ba mươi tên. Bọn Hữu Dụng bước đến đứng bên Văn Hiến và Âu Dương Long. Từ dưới ba chiếc thuyền, bọn thủy thủ nghe nói cũng ra khỏi chỗ núp rồi lục tục kéo nhau lên. Tên thủ lĩnh bọn cướp nói lớn:

- Còn tên nào trên thuyền không? Ta nhắc lại, còn một tên là ta sẽ giết một cô. Ném tất cả vũ khí sang bên này!

Bọn Văn Hiến đành ném vũ khí sang chỗ bọn cướp. Tên thủ lĩnh lại nói tiếp, giọng hắn chứa đầy sự thù hằn:

- Bọn ngươi bị ma dẫn lối quỉ đưa đường nên mới lọt vào chỗ ở của ta. Hà hà... Ta vốn thù bọn người Việt các ngươi thấu xương và đã thề rằng hễ gặp người Việt là ta giết sạch. Các ngươi có chết cũng đừng oán ta, có oán thì oán cha ông các ngươi ngày xưa đã tàn sát người Chiêm và chiếm đoạt giang san tổ quốc của ta. Ha ha...

Hắn nói xong cười lớn, giọng cười chất chứa sự phẫn nộ và căm hờn. Chờ hắn dứt tràng cười, Văn Hiến lên tiếng hỏi:

- Người ta nói oan có đầu, nợ có chủ, ngươi vì trả thù mà giết người bừa bãi như thế không thấy trái với lương tâm, không sợ bị trời đất báo ứng ư?

Tên cướp gầm lên:

- Lương tâm, trời đất là cái gì? Cha ông các ngươi khi tàn sát dân ta, chiếm lãnh thổ nước ta thì có nghĩ đến lương tâm và trời đất báo ứng không?

- Nghe khẩu khí của ngươi thì hình như anh bạn thuộc dòng dõi vua chúa nước Chiêm?

- Đúng vậy! Ông nội ta chính là Quốc vương Po Saot (Bà Tranh). Chúng ta chỉ còn một mảnh đất nhỏ ở đây để nương thân vậy mà bọn vua chúa các ngươi vẫn chưa thỏa mãn lại đem quân đánh giết, bắt ông nội ta mang về Phú Xuân để người chết dần chết mòn ở đó.

- Thì ra ngươi là hậu duệ của vua Po Saot. Chúa ta sở dĩ bắt ông nội của ngươi là vì vua Po Saot bỏ việc tiến cống của một nước chư hầu.

- Chư hầu? Ha ha... Các ngươi ỷ mạnh bắt ép người thái quá nên ông nội ta mới phản kháng lại. Nhân dân chúng ta phải vùng lên để đòi lại lãnh thổ của tổ tiên. Các ngươi đã từng làm như thế đối với bọn người Hán có phải không?

Văn Hiến nghe hắn nói thì không biết đáp lại thế nào cho phải, vì đó là sự thật. Chàng chậm rãi nói:

- Ngươi có lý của ngươi, ta không phản đối. Nhưng Chúa ta đã chẳng để cho con cháu vua Po Saot được tiếp tục cai trị vùng đất này đó sao? Lý do gì khiến ngươi không nhận vương tước mà lại đi làm cướp biển?

- Ta thèm vào cái hư vị do chúa các ngươi thí cho! Ta muốn đòi lại quyền độc lập và tự trị cho dân ta. Ngươi rõ chưa?

- Ngươi đã thể hiện đúng tinh thần của một người yêu nước. Nhưng cho dù là thế ngươi cũng không nên giết người bừa bãi. Giết người bừa bãi không phải là cách đấu tranh chính đáng mà chỉ là sự trả thù nhỏ mọn của những kẻ không có lương tâm, không có chính nghĩa.

Tên chúa đảng cười ngặt nghẽo:

- Lương tâm và chính nghĩa... Ha ha... Ta cần quái gì những thứ đó! Đối với ta, trả thù cho dân tộc ta, cho ông nội ta mới là điều quan trọng. Mà đã trả thù thì còn kể gì đến lương tâm với chính nghĩa?

Văn Hiến lợi dụng khi hắn đang cười liền liếc mắt ra hiệu cho Hồng Liệt và Âu Dương Long cùng Hữu Dụng. Họ đọc được ngay ánh mắt của Văn Hiến. Chàng lại nói tiếp với tên chúa đảng:

- Bọn ta đã lọt vào tay ngươi thì sống chết tùy nơi ngươi quyết định. Có điều ta chỉ xin ngươi niệm chút đức hiếu sinh mà tha cho những cô gái vô tội này.

Vừa nói, chàng vừa đưa mắt nhìn các cô gái đang bị bốn lưỡi đao kề nơi cổ. Bốn cô gái thoáng nhìn ánh mắt đó thì liền hiểu ý chàng. Tên tướng cướp gằn giọng đáp:

- Ta đã thề và chưa bao giờ phá bỏ lời thề của mình. Ha ha... Hơn nữa, bốn cô gái này cô nào cô nấy đẹp như tiên thì ta tha làm sao được? Bây giờ các ngươi đưa hai tay ra cho bọn ta trói lại. Tên nào có ý phản kháng ta sẽ giết họ trước. Một tên phản kháng giết một cô. Ta muốn các ngươi chứng kiến cảnh bọn ta làm nhục bọn nữ nhân này trước mặt các ngươi ngay tại đây. Ha ha... Tất cả đưa hai tay lên trời! Một... hai...

Hắn đắc ý cười vang, đôi mắt chiếu hung quang ngời ngời trông rất dễ sợ. Văn Hiến tỏ vẻ mặt chán nản và bất lực nhìn sang đồng bọn rồi từ từ đưa hai tay lên. Bọn Hồng Liệt cũng từ từ đưa hai tay lên. Nhưng nhanh như chớp, Văn Hiến và Hồng Liệt thọc hai tay vào túi mình bốc một nắm tiền đồng rồi la lớn:

- Cúi xuống!

Bốn cô gái lập tức cúi đầu xuống. Tức thì bốn đồng tiền đã rời khỏi bốn bàn tay của Văn Hiến và Hồng Liệt, chúng xé gió lao vút đến ghim ngay vào huyệt mi tâm giữa hai chân mày của bốn tên cướp. Cả bốn tên chưa kịp la lên được tiếng nào thì đã ngã ra chết tại chỗ. Phóng xong hai đồng tiền, Văn Hiến lao nhanh vào tên thủ lĩnh, tay ném tiếp một đồng tiền vào người hắn. Tên thủ lĩnh tuy bị tấn công bất ngờ nhưng đã kịp bình tĩnh đưa thanh đao lên đỡ ám khí. Keng một tiếng, đồng tiền bị mặt thanh đao đỡ trúng văng ra xa. Nhưng đó chỉ là đồng tiền mở lối, tức thì đồng tiền thứ hai đã bắn trúng vào bàn tay cầm đao của hắn. Hắn la lên “a” một tiếng, thanh đao rơi xuống cát. Cùng lúc với Văn Hiến, Âu Dương Long cũng đã lao vào tên phó tướng cướp, tung một cú đấm thôi sơn tấn công hắn, trong khi đó thì bọn Hồng Liệt, Hữu Dụng cùng các thủy thủ lao vào tấn công bọn lâu la bảo vệ cho bốn cô gái. Hữu Dụng la lớn:

- Để bọn ta bảo vệ các cô gái, anh em lấy lại vũ khí trước đã. Bọn này đáng chết lắm, giết chết không tha!

Bọn thủy thủ nghe nói liền xông lại đống vũ khí vừa quăng đi lúc nãy. Họ chuyền tay vũ khí cho nhau. Thoáng chốc các thủy thủ đã có đủ vũ khí, cuộc giao chiến diễn ra ác liệt. Bọn cướp tuy đông nhưng đám thủy thủ cận vệ của bạch y công chúa đều võ nghệ cao cường, cả đám thủy thủ của Hữu Dụng cũng toàn là tay hảo thủ nên chỉ một lúc họ đã đả thương và hạ thủ rất nhiều tên cướp. Bốn cô gái vừa trải qua cơn bão và trận đấu lúc nãy cho nên sức đã kiệt, chỉ có thể đứng ngoài quan sát trận ác chiến.

Âu Dương Long tay không đấu với tên phó tướng tuy lúc đầu có hơi lúng túng nhưng chỉ một lát đã nhanh chóng chiếm được thế thượng phong. Đường quyền của chàng ta rất cương mãnh, mỗi cú đấm rít gió vù vù khiến cho tên phó tướng tuy có thanh đao trong tay nhưng cũng phải khiếp hãi. Đã hơn mười hiệp, có vũ khí trong tay mà hắn vẫn không làm được gì, lại suýt bị trúng đòn mấy lần. Tên phó tướng vừa sợ vừa giận, hắn gầm to:

- Ta không giết được ngươi thề không làm người!

Hét xong hắn chuyển thế đao chém ngang bụng Âu Dương Long một đường sấm sét. Âu Dương vội tháo bộ né tránh. Tên cướp rút đao về, chân phải bước tới, tay đao đâm thật nhanh vào ngực đối phương. Âu Dương xoay người một chút để cho mũi đao lướt qua trước ngực, đồng thời tay trái chặt mạnh xuống tay đao địch thủ, tay phải biến thành cương đao phạt thẳng vào cổ đối phương. Động tác nhanh như gió khiến tên cướp không kịp trở tay, yết hầu của hắn bị trúng phải đòn cương đao, “ặc” lên một tiếng rồi ngã ngửa ra chết tại chỗ, hai con mắt lồi hẳn ra ngoài, máu chảy ràn rụa trông thật dễ sợ. Âu Dương Long dùng mũi chân hất cây đao lên cầm trên tay rồi quay qua quan sát đấu trường. Thấy bên mình đã tiêu diệt gần hết bọn cướp, chàng an lòng bước đến trước mặt công chúa cúi đầu tạ tội:

- Nô tài bất tài đã khiến cho công chúa phải hoảng sợ.

Bạch y công chúa vẻ mặt tức giận nói:

- Lo thanh toán sạch bọn này đi! Không chừa một tên nào!

Bạch Mai đứng kế bên nói:

- Bọn chúng tuy là ăn cướp nhưng cũng chỉ là đám thủ hạ, không đáng để chúng ta phải giết sạch đâu. Xin nương tay cho chúng.

Bạch y công chúa giọng lạnh băng:

- Những kẻ dám làm nhục ta đều phải chết!

Âu Dương Long nghe công chúa nói thế biết là không thể không tuân lệnh, anh ta liền “dạ” một tiếng rồi xông vào bọn cướp. Bạch Mai nhảy ra cản Âu Dương Long lại, nàng nói lớn để tất cả cùng nghe:

- Chỉ nên phế bỏ võ công để chúng khỏi hung tàn gây ác nữa nhưng hãy tha chết cho chúng. Ta giết sạch bọn họ như thế thì có khác gì những kẻ sát nhân khát máu đâu?

Âu Dương Long nhìn công chúa chờ đợi ý kiến. Chỉ thấy công chúa liếc nhìn Bạch Mai với ánh mắt sắc lẻm rồi quay sang theo dõi trận đấu của Văn Hiến và tên chúa đảng. Âu Dương Long thở phào nhẹ nhõm. Chàng ta xông vào đám cướp ra tay điểm huyệt những tên cướp đang còn chiến đấu. Chỉ phút chốc bọn cướp đã nằm lăn ngổn ngang trên bãi cát. Thanh toán xong đám lâu la, mọi người bèn đứng thành vòng tròn để xem trận đấu duy nhất còn lại giữa Văn Hiến và tên tướng cướp.

Tên tướng cướp rất có bản lĩnh, hắn cùng Văn Hiến giao đấu đã hơn năm mươi hiệp mà vẫn chưa bên nào hạ được bên nào. Đường quyền của hắn rất quái dị, chuyên về nhập nội cận chiến lại sở trường về đầu gối, cùi chỏ và cánh tay. Hắn vừa khỏe lại sử dụng cả hai tay, hai chân nên phòng thủ kín đáo, ra đòn ngắn nhưng rất hiểm hóc. Thỉnh thoảng, hắn lại tung ra những cú đấm và cú đá dài, kết hợp với cú đánh gót thật hiểm khiến Văn Hiến bị trúng mấy đòn và phải mất một lúc lâu mới tìm ra được lối đánh thích hợp để trả đòn. Chàng di chuyển bộ pháp nhanh hơn, dùng miên quyền ra đòn ở cự ly xa. Tên tướng cướp đánh mãi vẫn không hạ được đối thủ, lại thấy bọn bộ hạ đã bị tiêu diệt sạch nên trong lòng nóng nảy vô cùng. Hắn vừa đánh vừa gầm thét như hổ dữ, luôn tìm cách xông vào tấn công đối phương. Dù vậy Văn Hiến luôn nắm thế chủ động né tránh rất tài tình.

Bạch Mai đứng ngoài tỏ vẻ lo lắng nói với Hồng Liệt:

- Tên cướp này đang sử dụng môn võ công thượng thặng của vương quốc Xiêm La, thường chỉ thấy ở những toán dũng sĩ bên cạnh nhà vua. E rằng Trương huynh không phải là đối thủ của hắn.

Hồng Liệt mỉm cười:

- Đừng lo. Hắn đang nghiên cứu môn võ quái dị này nên chưa muốn hạ thủ thôi. Biệt tài của hắn là có thể học cách đánh lẫn cách phá giải các môn võ đặc dị của đối phương trong lúc giao đấu. Tên này sắp bị hắn hạ rồi đó.

Hồng Liệt vừa nói dứt câu thì đã nghe tên cướp hét lớn một tiếng rồi tung người bay lên cao, dùng một đòn song phi nhắm ngay mặt của Văn Hiến đá tới. Cú đá thật mãnh liệt có thể bể đá nát bia. Văn Hiến vội xuống tấn, bước xéo chân một chút chờ cho hai chân địch thủ lao tới thì liền xoay tròn tay phải, dùng miên quyền uyển chuyển vuốt dọc theo chân địch rồi xô nhẹ sang bên, tay trái đồng thời vỗ mạnh vào ngực tên cướp. Một tiếng “thịch” vang lên, cả thân hình tên cướp như một tảng đá rơi xuống mặt cát. Hắn ôm ngực xoay người cố đứng dậy nhưng Văn Hiến đã lướt tới, vỗ nhẹ vào huyệt bách hội trên đỉnh đầu hắn, sau đó dùng nội lực đánh thêm một đòn nữa vào huyệt phân kinh để phế bỏ toàn bộ võ công của hắn. Tên tướng cướp hét lên một tiếng hãi hùng rồi té nhào xuống mặt cát, nét mặt hắn hiện rõ sự kinh hoàng và uất hận. Hắn hét to:

- Ngươi giết ta đi!!!

Văn Hiến nhìn hắn nói:

- Ngươi đã giết biết bao người vô tội, lẽ ra ta phải giết ngươi nhưng nghĩ ngươi dù gì cũng là dũng sĩ thuộc dòng hoàng tộc của một nước, lại có lòng yêu quê hương, yêu dân tộc của mình nên ta tha chết cho ngươi. Từ nay, ngươi nên trở về với dòng họ mà sống đời sống lương thiện, đừng nuôi ác tâm thù hằn người Việt nữa. Ngươi dẫn bọn họ đi đi.

Nói xong, chàng ra hiệu giải huyệt cho bọn cướp. Thoát chết, nỗi vui mừng hiện rõ lên nét mặt từng tên cướp. Những tên còn khoẻ mạnh vội dìu đồng bọn bị thương và tên thủ lĩnh đi. Đinh Hồng Liệt bước đến hỏi tên thủ lĩnh:

- Sào huyệt của bọn ngươi ở trong vịnh này phải không?

Hắn trừng mắt căm thù nhìn Hồng Liệt im lặng không đáp. Hồng Liệt nhìn hắn cười:

- Ngươi không nói tưởng ta không tìm ra hay sao? Khôn hồn thì nói đi, ta chia của cho để có cái mà trở về làm ăn sinh sống. Cứng đầu thì cả bọn sẽ mang cái mạng không đi đó.

Một tên cướp có chút vai vế trong bọn nhìn tên thủ lĩnh một lúc rồi đáp:

- Đúng vậy!

- Ở đâu?

- Sau bờ đá dựng phía bên kia. – Hắn vừa chỉ tay về bờ đá dựng phía bên kia vịnh vừa nói.

- Đưa chúng ta đi rồi ta sẽ chia cho một ít tài sản. Bọn ngươi phải bỏ hẳn nghề ăn cướp để trở về sống đời lương thiện. Sào huyệt này chúng ta sẽ phá hủy. Bọn ngươi có bao nhiêu chiếc thuyền?

- Ba.

- Lớn chứ?

- Có thể đi xa ngàn dặm và vượt bão tố.

- Tốt! Chúng ta sẽ trưng dụng chúng. Tài sản tích tụ nhiều chứ?

- Đã bị triều đình truy sát một lần nên hiện nay không còn nhiều lắm.

- Ta sẽ chia lại cho bọn ngươi để trở về làm ăn. Đừng theo nghề ăn cướp nữa.

Trong khi đó, Hữu Dụng và Âu Dương Long kiểm tra lại người của mình thì thấy có hơn mười người bị thương vì tên bắn và trong trận đánh vừa qua. Sau khi băng bó vết thương cho bọn họ xong, Âu Dương Long chắp tay nói với Văn Hiến:

- Nhờ tài trí của anh mà chúng ta xoay chuyển được tình thế, nếu không hậu quả thật khó lường.

Văn Hiến mỉm cười:

- Cũng nhờ bọn chúng khinh thường bọn ta, nếu không chúng uy hiếp các cô gái rồi giết từng người một thì có lẽ chúng ta cũng đành phải dâng mạng cho chúng thôi.

Bạch Mai chợt hỏi:

- Nếu lúc đó tên cướp bảo Trương huynh tự sát thì Trương huynh có làm theo không?

Văn Hiến cười:

- Đành phải làm theo lời của hắn thôi. Tôi đâu nỡ lòng chứng kiến cảnh các cô bị giết. Nhưng trước khi tự sát tôi phải giết hắn trước.

Bạch y công chúa lườm Văn Hiến, còn Bạch Mai chu môi lên vẻ giễu cợt:

- Trương huynh làm sao giết hắn trước được?

- Bạch muội không thấy bây giờ hắn đã sống không bằng chết đó sao?

Bạch Mai “xí” một tiếng:

- Trương huynh thật miệng lưỡi không ai bằng.

Hồng Liệt quay sang nói với mọi người:

- Ai cùng đi với tôi xem sào huyệt bọn này có gì. Chúng ta phá hủy nó đi để trừ hậu hoạn.

Âu Dương Long nói:

- Mọi người đi đi! Chúng tôi phải lo tu sửa lại thuyền để tiếp tục cuộc hành trình.

- Sao không xem thử ba chiếc thuyền của bọn cướp thế nào? Nếu thuyền hư nặng, chúng ta có thể dùng ba chiếc thuyền đó, khỏi mất thời gian sửa chữa.

Âu Dương Long đưa mắt nhìn công chúa xin ý kiến. Nàng gật đầu. Dương Long quay sang Thu Hồng nói:

- Hai cô đưa công chúa vào động nghỉ ngơi đi. Hành trình còn dài lắm.

Rồi quay sang Hồng Liệt:

- Chúng ta đi!

Họ đi dọc theo bãi cát hình lưỡi liềm đến đầu bên kia cửa vịnh cùng bọn cướp. Một vách đá sừng sững nhô ra trong lòng vịnh tạo thành một khoảng trống kín đáo để neo thuyền trốn gió. Có ba chiếc thuyền lớn đang neo ở đó. Trên sườn núi ở đây cũng có một hang động, cạnh hang động là mấy dãy nhà lá ẩn kín dưới những tàng cây cổ thụ nép sát vách núi. Cơn bão vừa rồi đã làm cho nhiều căn bị ngã sập. Có khoảng mười tên cướp ở lại giữ trại, chúng thấy cả bọn thất thểu trở về thì hết sức ngạc nhiên. Tên cướp lúc nãy đã trao đổi với Hồng Liệt nói với chúng:

- Đại vương đã bị thương nặng còn nhị ca đã chết. Chúng ta giải tán, phá bỏ nơi này. Từ nay trở về làm ăn lương thiện. Anh em thu xếp đi.

Hồng Liệt nói:

- Các ngươi vào mang hết tài sản ra đây, ta phân chia đều cho mọi người. Sau đó đốt bỏ trại này. Chúng ta sẽ trưng dụng ba chiếc thuyền, các ngươi trở về nhà bằng cách nào?

- Bằng đường núi. Có đường đèo từ đây thông với quan lộ đến Phan Rang.

Tất cả tài vật đã được mang ra. Tên cướp không nói dối, vàng bạc của cải không nhiều lắm. Hồng Liệt chia đều cho bọn cướp, giữ lại một số lương thực rồi phóng hỏa đốt rụi sào huyệt. Bọn cướp lần lượt dắt díu nhau đi vào trong núi. Có những ánh mắt vừa căm hờn vừa luyến tiếc ngoái nhìn lại, nhưng cũng có những ánh mắt lộ rõ niềm vui. Bọn Hồng Liệt mang số lương thực lên ba chiếc thuyền, dong buồm khua mái trở lại nơi hang đá. Phía sau lưng, ngọn lửa vẫn bừng bừng cháy.

Ba chiếc thuyền của bọn cướp khá lớn và vững vàng, có thể vượt biển đi xa. Người Chiêm Thành từ xưa vốn thiện nghề thủy chiến, thủy lộ nên thuyền bè của họ được đóng và trang bị rất tốt. Hôm sau mọi thứ đã sẵn sàng, năm chiếc thuyền giương cao buồm ra khỏi vịnh, nhắm hướng nam thẳng tiến về Cù lao Phố. Sau cơn bão, trời quang mây tạnh, biển êm như mặt hồ. Cùng nhau trải qua cơn hoạn nạn, hai đoàn người xa lạ, đã có lúc đấu nhau sống chết bỗng trở nên thân thiện. Bạch y công chúa nét mặt vẫn lạnh như tiền. Bạch Mai có vẻ bất mãn nói với Hồng Liệt:

- Con người của nàng thật kiêu ngạo lạnh lùng. Không có Trương huynh thì chưa biết giờ đây số phận của nàng ta sẽ thế nào. Thật vô ơn!

Hồng Liệt mỉm cười:

- Các cô gái tuy ngoài mặt lạnh lùng nhưng trong lòng ai biết họ đang nghĩ gì. Vả lại những người ngoài mặt càng lạnh thì trong lòng lại càng nồng cháy.

Bạch Mai nguýt chàng một cái:

- Huynh rành tâm lý phụ nữ quá há? Đoán xem trong lòng muội đang nóng hay lạnh nào?

Hồng Liệt xua tay cười:

- Chịu thua! Huynh đâu có rành tâm lý. Chỉ nói bừa cho vui mà thôi.

Thuyền ra khỏi vịnh, Văn Hiến lưu luyến nhìn nói với Hữu Dụng:

- Vịnh này thật kín đáo và thật đẹp. Vẻ đẹp hoang sơ kỳ thú. À chú, chúng ta quên hỏi bọn cướp xem tên nó là gì.

– Ừ nhỉ! Thôi cứ gọi là Vĩnh Hy như tôi đã từng nghe qua lúc trước đi.

*****
 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Hồi thứ mười

Thuyền buôn tấp nập về Giản Phố
Trăng rằm sóng sánh rượu mỹ nhân.

*
Đại Phố Châu hay Giản Phố Châu còn được gọi là Cù lao Phố vốn là một cồn đất nổi lên như con cù. Nó được bao bọc chung quanh bởi khúc sông lớn Phước Giang (sông Đồng Nai) ở phía tây nam và một nhánh nhỏ của nó là sông Sa Hà (Rạch Cát) ở phía tây bắc chạy vòng đến góc tây nam. Đoàn thuyền của Hữu Dụng và Âu Dương Long vào cửa Cần Giờ, ngược dòng Đồng Nai, qua Thất Kỳ Giang (Ngã bảy) để vào vùng đất Trấn Biên (Biên Hòa) và đến Giản Phố Châu. Giờ sắp đến Tết Trung Thu nên cả khu phố đã giăng đèn lồng khắp nơi.

Hơn nửa thế kỷ về trước, cồn đất này hãy còn là một bãi sa bồi hoang dại, cây cỏ um tùm, chỉ có một số ít người Việt và người Mạ sinh sống quanh ngôi chùa Đại Giác. Đến đầu năm 1679, hai bại tướng của nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên đã dẫn hơn ba ngàn binh lính chạy sang cửa Tư Dung vào xin Chúa Nguyễn cho dung thân. Vì không thể để cho một lực lượng quân đội lớn như thế ở cạnh mình, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần thấy miền đất Đồng Nai mới chiếm được của Chân Lạp còn hoang vu lại rộng mênh mông đang thiếu người khai thác nên đã chấp thuận cho toán bại binh Minh Hương vào đó đồng thời cho họ được giữ nguyên chức vụ cũ của mình. Tổng binh Long Môn, Quảng Tây là Dương Ngạn Địch dẫn thủ hạ của mình vào nam, xuống tận Mỹ Tho sâu trong đất Miên và canh tác trên mảnh đất phì nhiêu bên lưu vực sông Cửu Long. Trần Thượng Xuyên đem thủ hạ thuộc ba châu Cao, Lôi, Liêm của mình vào trú ngụ tại vùng Bàng Lân (còn gọi là Bằng Lăng, vì vùng đất này có nhiều cây bằng lăng tím) ở Biên Hòa.

Khi phát hiện ra vùng cù lao rộng lớn, bao bọc bởi hai nhánh sông rất thuận tiện cho việc phát triển thương mại đường thủy, Trần Thượng Xuyên đưa toán thủ hạ của mình và một số cư dân Việt, những con cháu của nhóm người Việt mà Công nữ Ngọc Vạn đã mang theo năm 1620 khi về làm Hoàng hậu xứ Chân Lạp cùng người Mạ bản địa về khai thác. Sau khi vùng cù lao có được một bộ mặt khang trang, Trần Thượng Xuyên liên lạc với những nhà buôn lớn ở các vùng Quảng Đông, Phúc Kiến, chiêu tập họ đến đây mở thương hiệu buôn bán. Chẳng bao lâu sau, vùng cù lao hoang dại đã trở thành một trung tâm thương mại sầm uất với phố xá mọc lên san sát. Sự phồn thịnh về thương mại đã kéo theo sự xuất hiện các dịch vụ vui chơi giải trí khác nên bên cạnh những hiệu buôn lớn, Giản Phố Châu còn có rất nhiều trà đình, tửu điếm nguy nga, tráng lệ.

Ba chiếc thuyền của Hữu Dụng cập vào bến ở phía tây nam cù lao. Khúc sông ở đây rộng và sâu, tiện lợi cho tàu lớn của ngoại quốc vào đậu. Hai chiếc thuyền của Âu Dương Long đi lên một khúc nữa rồi rẽ vào sông Sa Hà cập bến nơi bờ bắc cù lao. Trước lúc chia tay, Âu Dương Long ghé thuyền mình sát với thuyền Hữu Dụng và nói lớn:

- Cảm ơn sự trợ giúp của các bạn! Chúng ta sẽ gặp nhau trên phố chứ?

Hữu Dụng vui vẻ đáp:

- Vâng, chúng ta sẽ gặp lại!

Âu Dương Long vẫy tay chào tạm biệt. Ba chiếc thuyền của Hữu Dụng cập vào bến. Bọn người hầu thấy Bạch Mai trở về, mừng rỡ chạy đi báo với môn chủ Thần Quyền Môn Trần Đại Kỳ. Đại Kỳ nghe tin vội vã ra bến cảng để đón. Vừa thấy Bạch Mai, chàng ta đã nắm tay nàng mừng rỡ rồi ngước mặt lên trời khấn nhỏ:

- Tạ ơn trời phật từ bi phù hộ cho em con được bình an trở về.

Rồi chàng nói tiếp một tràng dài:

- Trời ơi, muội đi bấy lâu làm huynh lo lắng không ngày nào yên. Chuyến đi chắc là cực nhọc lắm phải không? Coi muội xanh xao thế này là đủ biết rồi. Thôi thôi, trở về bình an là tốt rồi. Muội phải nghỉ ngơi thật nhiều cho lại sức. Có tin gì của phụ thân và sư phụ không?

Bạch Mai giọng nũng nịu:

- Ca ca làm gì mà giống y như mẹ lúc xưa vậy? Muội lớn rồi mà, mới đi có mấy tháng mà ca ca làm như cả năm không bằng. Chuyện dài lắm để từ từ muội kể. Giờ muội giới thiệu với ca ca nhị sư huynh của muội.

Đại Kỳ ngạc nhiên hỏi:

- Nhị sư huynh à? Muội gặp được sư phụ rồi phải không? Người thế nào rồi?

- Đã nói từ từ muội sẽ kể lại cho nghe mà.

Rồi nàng kéo tay Đại Kỳ đi về phía Hồng Liệt và Văn Hiến đang đứng nói chuyện với Hữu Dụng gần bến tàu. Hồng Liệt thấy hai người vội cúi đầu chào:

- Tiểu đệ xin ra mắt đại sư huynh. Sư phụ nhắc về đại sư huynh nhiều lắm.

Đại Kỳ ôm chầm Hồng Liệt cười ha hả:

- Tốt, tốt! Không ngờ ta lại có được một người sư đệ dáng cách phong trần, uy phong lẫm liệt thế này. Sư phụ sao rồi? Người vẫn an khang chứ?

Hồng Liệt buồn bã nói:

- Sư phụ vừa tạ thế hai năm nay.

- Tạ thế hai năm rồi à?

Bạch Mai chen vào:

- Việc đó để từ từ chúng ta tâm sự. Ca ca, còn đây là Trại Ức Trai Trương Văn Hiến, bạn sinh tử của nhị sư huynh.

Đại Kỳ ôm quyền nói:

- Trương huynh nghi biểu khác phàm, hẳn là bậc tài trí trên đời ít ai sánh kịp. Hân hạnh!

Bạch Mai nói:

- Ca ca nhận xét không sai một mảy may nào. Trương huynh văn võ song toàn, lục thao đầy đủ. Đúng là không ai sánh kịp.

Văn Hiến mỉm cười xua tay:

- Huynh muội các vị đừng có dựa thế tại đất nhà ỷ đông hiếp ít nhé.

Đại Kỳ cười nói:

- Không đâu. Đó là trực giác tự nhiên của tôi khi nhìn thấy huynh thôi. Nay em tôi đã nói thế thì đúng là không thể sai đâu được. Thôi, chúng ta hãy vào trong nhà đàm đạo. Mọi người chắc đường xa mệt mỏi cả rồi phải không? Chú Hữu Dụng, chuyến này mọi việc êm xuôi chứ?

Hữu Dụng cười nhăn nhó:

- Chuyến này không may gặp bão lớn nên bị đắm mất một thuyền. Hàng bị thiếu rồi.

- Bị đắm một chiếc à? Hôm trước cháu có nghe nói về cơn bão này, không ngờ đoàn của chú lại gặp phải. Nhưng không sao, tất cả được bình an là quí rồi. Hàng hóa thiếu hụt thì chúng ta bù lại ở chuyến sau vậy. Chú vào nghỉ ngơi đã. Cứ để đó cho bọn nhỏ lo.

Đại Kỳ đưa tất cả vào trong đại sảnh. Thần Quyền Môn vừa là cơ sở kinh doanh vừa là võ đường của Trần gia. Vì họ Trần là người kiến lập vùng đất này nên cơ ngơi khá đồ sộ. Thương hiệu Thần Quyền Môn chiếm một diện tích lớn trên con lộ chính dọc theo bến cảng. Từ khi Trần Đại Định chết trong ngục ở Quảng Nam, Trần mẫu dẫn con là Đại Lực về Hà Tiên thì cơ nghiệp họ Trần thuộc cả về tay Trần Đại Kỳ. Chàng đã kết hợp võ gia truyền của họ Trần cùng với sở học đã thụ giáo từ Công Tôn Vũ mà lập ra Thần Quyền Môn, vừa để phát triển võ học hai nhà vừa để tăng cường nhân sự và sức mạnh để bảo vệ việc kinh doanh.

Trần Đại Kỳ ngoài ba mươi tuổi, vóc người tầm thước, mặt vuông, mày rậm, trông oai nghiêm lẫm liệt nhưng tính tình hoạt bát vui vẻ, trọng nghĩa khinh tài, giao du rất rộng, lại là con cháu của bậc công thần nên được mọi người, mọi giới ở Giản Phố ưa thích và kính trọng.

Bọn gia nhân mang trà nóng lên. Đại Kỳ nói:

- Trương huynh và Đinh sư đệ nên nghỉ ngơi cho lại sức sau chuyến đi xa. Tối nay vừa đúng Tết Trung Thu, ở đây rất náo nhiệt. Nếu hai người có hứng thú đi xem thì tôi sẽ đưa đi. Sau đó, chúng ta cùng ghé Thướng Nguyệt Lâu trên bờ sông uống rượu ngắm trăng rằm.

Văn Hiến đáp:

- Thế thì tuyệt lắm! Tôi cũng muốn xem sự phồn thịnh và náo nhiệt của vùng đất mới này.

Hữu Dụng đứng lên:

- Các người nói chuyện nhé. Tôi phải lo cho xong chuyến hàng đã.

Nói rồi ông trở ra bến tàu, Đại Kỳ hỏi với theo:

- Tối nay chú đi uống rượu với bọn này nhé?

- Để xem.

Lúc đó, Bạch Mai đã thay đổi y phục, từ trong nhà bước ra. Nàng vận một bộ xiêm y bằng lụa màu trắng, trông nàng tươi mát và xinh đẹp như đóa hoa mai trắng trong buổi sáng đầu xuân. Đại Kỳ cười ha hả:

- Chà! Sau một chuyến giang hồ trông muội đã phong trần, già dặn hơn rất nhiều. Nhưng lại đẹp ra đấy.

Bạch Mai chu môi nũng nịu:

- Ca ca chỉ giỏi cái tài ghẹo em gái mình. Không sợ Trương huynh và nhị sư huynh cười cho là mèo khen mèo dài đuôi hay sao?

- Có đuôi dài thì cứ nói dài đuôi chứ sao? Phải không Trương huynh?

Văn Hiến mỉm cười:

- Vâng. Trần huynh thật vui tính và cởi mở. Bạch muội an tâm, tôi đồng ý không hết có đâu lại cười.

Bầu không khí trong khách sảnh thật vui vẻ và thân mật. Hồng Liệt chợt cất cao giọng ngâm bài thơ trên sông Thu Bồn dạo nọ. Đại Kỳ nghe xong khen:

- Bài thơ hay quá! Là của ai viết cho ai vậy?

Hồng Liệt cười đáp:

- Của đồ gàn Văn Hiến ứng khẩu tặng Bạch muội đó.

Đại Kỳ vỗ tay đánh bốp:

- Tuyệt lắm! Em tôi xứng đáng được tặng bài thơ này lắm! Cảm ơn Trương huynh!

Bạch Mai thẹn đỏ mặt, nàng giãy nảy:

- Bây giờ ba người hợp nhau ăn hiếp muội phải không? Muội bỏ nhà đi giang hồ nữa cho mà coi.

Đại Kỳ vội xua tay nói:

- Thôi, thôi! Muội mà đi giang hồ lần nữa thì đại ca này chỉ có chết vì lo sợ mà thôi.

- Biết thế thì đừng ghẹo muội nữa.

- Được, được! Hai người đừng cười anh em chúng tôi nhé. Chúng tôi chỉ có hai anh em, đùa với nhau từ bé như thế đã quen rồi. Thôi muội ngồi xuống kể lại chuyến phiêu lưu giang hồ nghe đi. Thân phụ thế nào? Còn sư phụ vì sao mà mất? Còn di cốt của bá phụ nữa, có tìm được không?

Bạch Mai nhìn Hồng Liệt, chàng biết ý vội lấy bọc đựng bốn hòm cốt trên vai xuống trao cho nàng. Bạch Mai mở bọc ra, cẩn thận lấy từng chiếc hòm đặt lên bàn. Sắc mặt Đại Kỳ dần trở nên căng thẳng và ảm đạm. Bạch Mai xếp những chiếc hòm ngay ngắn trên bàn rồi mới từ từ kể lại đầu đuôi sự việc. Tuy chính tay mình nhặt từng nắm xương của những người thân và đã rơi không biết bao nhiêu lệ rồi nhưng khi kể lại, nàng vẫn không cầm được nước mắt. Nàng kể chuyện qua màn lệ sụt sùi. Đại Kỳ cũng không dằn được sự thương cảm mà cứ để cho nước mắt chảy ròng, dù biết mình đang ngồi trước mặt hai người bạn mới quen. Nghe xong, cố dằn cơn xúc động, chàng nói:

- Mai là ngày rằm, chiều nay chúng ta phải đến chùa Đại Giác thỉnh ngài trụ trì thiền sư Thành Đẳng Minh Lương về lập đàn cầu siêu cho năm vị bề trên của mình và làm lễ phát tang cho chúng ta. Còn di cốt của bá phụ và hai vị thúc thúc, chúng ta sẽ cho mang về Hà Tiên giao lại cho bá mẫu và anh Đại Lực.

Bạch Mai nói:

- Bây giờ ta tạm thời đưa bốn bộ quan cốt này vào nhà thờ tổ an vị trước đã. Đại tẩu đâu sao muội không thấy?

- Chị dâu muội về bên Trấn Biên thăm mẹ rồi. Mẹ nàng bỗng dưng khó ở trong người.

Đại Kỳ nói xong đứng lên vái bốn vái trước bốn hòm cốt rồi mang vào nhà thờ tổ. Văn Hiến hỏi:

- Tôi muốn thắp một nén hương để tỏ lòng tri ân với Thượng Công và Định Sách hầu được chăng?

Đại Kỳ tươi nét mặt đáp:

- Tất nhiên là được chứ! Xin mời hai vị theo tôi!

Tổ đường họ Trần rất lớn và uy nghiêm. Tất cả đều được làm bằng gỗ quí. Chính giữa là bàn thờ Thượng Công Trần Thượng Xuyên với bức tượng bằng gỗ lớn, được điêu khắc rất khéo, mới nhìn qua cứ tưởng như người thật đang ngồi. Bên phải là bàn thờ Định Sách hầu Trần Đại Định cùng với pho tượng gỗ nhỏ hơn. Bên trái là bàn thờ đặt bài vị hờ của Trần Đại Thành, vì Đại Kỳ chưa biết tin tức của thân phụ ra sao nên chưa làm bàn thờ chính thức. Phía bên vách phải có bàn thờ ngài Quan Thánh, còn bên vách trái là bàn thờ vị tổ sư Thần Quyền Môn. Đại Kỳ đặt hòm cốt của cha mình cạnh bài vị, ba hòm cốt kia thì đặt trên bàn thờ của Định Sách hầu. Lễ xong, mọi người trở ra khách sảnh. Đại Kỳ nói:

- Bây giờ Trương huynh và sư đệ nghỉ ngơi một chút đi đã. Chiều nay, chúng ta sẽ sang thăm chùa Đại Giác, sau đó đi dạo phố coi lễ rước đèn. Ngày kia, tôi sẽ cho đám đệ tử làm lễ ra mắt nhị sư thúc của chúng.

Chiều đến, anh em Đại Kỳ cùng Văn Hiến và Hồng Liệt đến chùa Đại Giác. Ngôi Đại Giác tự ban đầu do một vị thiền sư pháp danh là Giác Liễu lập nên vào khoảng năm 1665, sau đó truyền lại cho thiền sư Thành Đẳng Minh Lương thuộc phái thiền Lâm Tế ở chùa Vạn Đức – Hội An, Quảng Nam. Cổng tam quan của chùa quay lên hướng tây bắc nhìn ra sông Phước Giang. Mai là rằm tháng tám, giờ này đạo hữu trên cù lao đã tấp nập đổ về chùa để lo phụ giúp mọi việc chuẩn bị cho đại lễ. Đến trước cổng chùa, Đại Kỳ nói:

- Ngôi chùa này thuở ban sơ không lớn lắm, chỉ có vách ván mái ngói. Khi Giản Phố phát triển, Thượng Công tổ bá phụ đã giúp xây dựng thêm nên mới có bề thế khang trang như hôm nay.

Văn Hiến hỏi:

- Nghe nói đồng thời với thiền sư Thành Đẳng, còn có thiền sư Thành Nhạc dựng nên chùa Long Thiền gần núi Châu Thới và thiền sư Thành Trí dựng chùa Bửu Phong ở núi Bửu Long nữa phải không?

Bạch Mai đáp:

- Đúng vậy! Ngày xưa muội vẫn đi cùng mẹ đến lễ ở hai chùa đó. Mai mốt muội sẽ đưa hai huynh đi thăm.

Đại Kỳ nói:

- Hai người dạo cảnh chơi nhé. Anh em tôi phải vào trong ra mắt thiền sư trụ trì để lo việc trai đàn cầu siêu ngày mai.

Anh em Đại Kỳ đi rồi, Hồng Liệt nói:

- Anh em nhà họ Trần này thật là hòa thuận. Trông họ lúc nào cũng vui vẻ và vô tư lự.

Văn Hiến đồng tình:

- Bao nhiêu sản nghiệp xây dựng nên bởi Trần Thượng Công ở Giản Phố nay đều thuộc quyền sở hữu của họ. Với số sản nghiệp đó thì bảo họ còn tư lự về cái gì nữa?

- Ta thấy bản chất của họ rất tốt. Tài sản vật chất không tạo nên được bản chất con người đâu. Có khi còn trái lại nữa.

- Ngươi nhận xét đúng. Con cháu của một bậc trung lương mẫn cán như Trần Thượng Công phải có cái gì đó hơn người chứ.

- Đi qua các phố xá ngươi thấy đời sống và con người ở đây thế nào?

- Phố xá đông đúc, buôn bán sầm uất, không có bóng dáng của ăn mày. Trên khuôn mặt mọi người ai cũng nở một nụ cười tươi vui và thân ái. Ta cho rằng Thượng Công là một người vừa có tài vừa có đức, lại trung nghĩa. Có như thế nên dù đã qua mấy mươi năm cai trị khu vực này, con người vẫn còn lưu giữ được sắc thái sinh hoạt như hôm nay.

- Ta cũng có ý nghĩ giống như ngươi vậy. Đây quả là vùng đất lành.

- Ngươi định đưa bọn trẻ vào đây?

- Ta nghĩ nên như thế, tốt cho bọn trẻ hơn. Hãy đợi xem sư huynh và sư muội tính thế nào đã.

- Còn ngươi?

Hồng Liệt trầm ngâm:

- Ở đây ai cũng sung túc cả. Ta lại quen sống chung với những kẻ cơ hàn. Nếu bọn trẻ có vào đây thì sau khi giúp chúng làm quen với môi trường mới, ta cũng sẽ quay về ngoài đó.

- Ngươi lại muốn tái lập một trại mồ côi mới ở đó phải không?

- Nếu có sức, ta còn muốn lập ra hàng trăm cái trại như vậy nữa. Tiếc là sức ta có hạn.

- Hay lắm! Ta quen ngươi thật không uổng kiếp này. Anh Đại Bằng đang có ý thành lập bang Hành Khất, ngươi giúp anh ấy một tay là hợp lý nhất.

- Ừ.

Anh em Đại Kỳ đã ra đến nơi. Họ cùng nhau dạo qua các phố chính. Hai bên những con lộ lát đá trắng là những cửa hiệu, quán ăn, kỹ viện nối nhau san sát. Tiếng người mua bán nói cười rộn rã khắp nơi. Hoàng hôn chưa kịp tắt, những chiếc đèn lồng đã được thắp lên khắp nơi làm cho khu phố cảng thêm phần lung linh. Hồng Liệt tấm tắc khen:

- Chỉ mới vài chục năm mà Giản Phố sầm uất chẳng kém gì Hội An cả.

Đại Kỳ nói:

- Đáng tiếc tôi vì bận quá nhiều việc nên chưa có dịp ghé ra Hội An của các anh.

- Sư huynh nên đi một lần cho biết. Bạch muội đã nhìn thấy rồi đó.

Bạch Mai tiếp lời:

- Sầm uất thì có sầm uất thật, nhưng sinh hoạt ở Hội An có cái gì đó xô bồ và hỗn độn lắm.

Văn Hiến hỏi:

- Trần huynh, việc trao đổi với thương khách nước ngoài có thuận tiện không? Sự bất đồng ngôn ngữ làm sao giải quyết?

Đại Kỳ đáp:

- Giản Phố vốn được xây dựng bởi một nhóm người đã từng đồng cam cộng khổ. Thượng Công lại rất khoan hậu trong việc cai trị, vì vậy từ lâu sinh hoạt ở đây đã trở nên tự giác một cách tự nhiên. Việc trao đổi hàng hóa với các thương khách ở xa tới, trong hoặc ngoài nước, đều tiến hành trên cơ sở tin tưởng nhau. Khách hàng cập bến, trao cho hiệu buôn đơn đặt hàng xong là có thể tha hồ vui chơi giải trí. Chủ buôn cứ theo đơn hàng mà cung cấp và bốc dỡ hàng hóa lên, xuống tàu cho khách. Đến ngày đi cứ thanh toán tiền dựa trên hóa đơn vì không bên nào có ý gian lận bên nào cả. Việc đặt hàng của các cửa hiệu ở đây cũng trên cơ sở tín dụng đó. Cho nên vấn đề bất đồng ngôn ngữ tuy lúc đầu cũng có, nhưng giải quyết được. Lâu dần rồi mọi người cũng học hỏi được tiếng nói của nhau nên việc trao đổi càng thuận tiện hơn.

Văn Hiến vừa nghe vừa gật gù thán phục:

- Đó là hình thức của một xã hội mà chỉ có trong truyền thuyết như thời Nghiêu, Thuấn xa xưa.

Nét mặt Đại Kỳ bỗng trở nên nghiêm trọng:

- Bây giờ thì tình hình ở đây có khác hơn xưa rồi.

Văn Hiến ngạc nhiên hỏi:

- Sao vậy?

- Mười năm trở lại đây, từ ngày hãng Diệp Sanh Ký mở ra ở khu phố phía bắc cù lao, trên bờ Sa Hà thì việc bán buôn đã mất dần tính tự giác, thân thiện. Thay vào đó là sự cạnh tranh có tính bóp chẹt và tiêu diệt nhau.

- Họ là người thế nào?

- Họ là chi nhánh của một hãng buôn lớn ở Phúc Kiến rất mạnh vốn, mạnh người. Nghe nói, họ còn thao túng cả Hội An nữa.

Hồng Liệt xen vào:

- Điều đó đúng. Khu phố Phúc Kiến ở Hội An hầu như thuộc vào tay hãng này.

Văn Hiến hỏi:

- Kim Cương Môn là của họ à?

- Sao Trương huynh biết?

- Tôi có gặp qua họ. Đồng Bách là người thế nào trong Kim Cương Môn?

- Đồng Bách là tay có hạng trong Kim Cương Môn nhưng trên hắn còn vài người nữa đáng sợ hơn nhiều.

- Anh có gặp qua họ chưa?

- Biết mặt, nhưng chưa biết tài. Chỉ biết Đồng Bách là thủ hạ của họ.

- Tên chúng là gì?

- Họ là hai anh em họ Tạ. Anh là Tạ Tam, em là Tạ Tứ. Nhưng hai người này cũng không nguy hiểm bằng tên Hà Huy. Đó là một con người trầm mặc, ít nói nhưng bụng chứa lắm chước quỉ mưu ma. Cả ba tên này chỉ mới xuất hiện năm năm nay.

- Chính quyền Trấn Biên có mặt nơi đây không?

- Từ lúc Thượng Công tổ bá phụ được phong chức Tổng trấn, cho đến Định bá phụ nối nghiệp đều để cho cư dân ở Giản Phố sinh hoạt tự do trong tinh thần tự giác, tự trọng nên người không đặt một cơ quan hành chính hay quân sự nào ở đây cả. Cường Oai hầu Nguyễn Phúc Oai về sau thay thế Định bá phụ nhận chức Lưu thủ, ông ta cũng y theo lề lối cũ, không thay đổi gì cả.

Văn Hiến chặc lưỡi:

- Sinh hoạt của khu phố đã có thay đổi thì tổ chức hành chính cũng phải thay đổi theo. Lỏng lẻo quá chỉ kích thích thêm lòng tham cho những kẻ có dã tâm.

- Trương huynh nói đúng!

Ở cuối con phố chính có một đoàn múa lân đang biểu diễn, tiếng trống vang đì đùng khắp con phố. Trên một con phố ngang cũng có một đoàn múa đang diễn, đây là đoàn múa rồng. Cả hai đoàn đang tiến đến ngã tư của phố chính. Nơi đây có một quảng trường rất lớn dùng làm nơi tụ họp chung cho cả khu phố trong những ngày lễ lạc.

Đại Kỳ giải thích:

- Đoàn múa lân là của những người Việt sinh sống ở đây, còn đoàn múa rồng là của người Hoa. Họ sẽ gặp nhau ở quảng trường để cùng múa cho dân chúng chung vui, sau đó sẽ tỏa ra khắp các khu phố trải dài hơn năm dặm. Đó là thông lệ hàng năm. Chúng ta tới Thướng Nguyệt Lâu ngắm trăng đi, ở đây náo nhiệt quá.

Bốn người vừa nói chuyện vừa đi đến bờ sông. Dòng nước Đồng Nai đục ngầu những phù sa đang cuồn cuộn chảy. Giờ đang mùa mưa ở vùng thượng nguồn nên nước lũ tràn về, mặt nước dâng cao, dòng sông trông rộng đến ngút mắt. Mặt trời khuất nửa bóng ở phía tây, chiếu ánh sáng vàng vọt của một buổi chiều thu xuống mặt nước. Đại Kỳ hỏi:

- Hai người thấy cảnh vật ở đây thế nào?

Văn Hiến quay lại đáp ngay:

- Sông nước mênh mông, phù sa lớp lớp, đất đai màu mỡ, phì nhiêu. Chưa biết bên Trấn Biên thế nào chứ con người ở đây thật hòa ái, chân tình. Đây quả là nơi đất lành để chim muông về đậu.

- Thật chính xác! Mới thoáng qua mà Trương huynh đã có được một nhận xét tinh tế và sâu sắc như thế.

Thướng Nguyệt Lâu là một ngôi nhà thủy tạ rất lớn được cất trên mặt nước ven bờ sông Sa Hà, gần chỗ tiếp giáp với sông Đồng Nai ở phía tây nam cù lao. Khung cảnh nơi đây u tịch thanh nhàn, khác hẳn với cảnh náo nhiệt ở khu phố thị vừa rồi. Nối tiếp dọc bờ sông là những nhà thủy tạ nhỏ hơn có kiến trúc giống nhau, mỗi gian có hai tầng. Tầng trên lộ thiên để khách đến uống rượu thưởng trăng. Tầng dưới mở thoáng cả bốn mặt nhìn ra sông nước. Họ chọn gian thủy tạ ngoài cùng, gian này biệt lập hẳn với những gian khác, dành cho những khách sang trọng. Bọn phục vụ quán thấy có anh em Trần gia đưa khách đến thì hết sức cung kính tiếp đón. Chủ nhân Thướng Nguyệt Lâu đích thân chạy ra chào hỏi niềm nở:

- Trần gia và Trần tiểu thư hôm nay có nhã hứng đưa bạn hữu đi ngắm trăng Trung Thu à? Mời lên lầu! Tôi còn một vò Trạng nguyên hồng Thiệu Hưng đã hai mươi lăm năm. Trần gia có muốn dùng nó để đãi bạn không?

Đại Kỳ vui vẻ:

- Được, được! Tiên sinh mang lên cho tôi nhé.

Chủ quán tươi cười:

- Vâng, vâng! Tôi sẽ cho bọn trẻ mang lên ngay.

Phục vụ ở đây đều là những cô gái trẻ đẹp. Họ vận xiêm y rất sang trọng nhưng kín đáo, thanh lịch. Hai cô gái trẻ cúi chào khách rồi đưa cả bọn lên sân thượng. Sau khi mời khách ngồi xong, hai cô cúi đầu lễ phép hỏi:

- Trần đại gia và tiểu thư cùng quí khách muốn dùng gì ạ?

- Ngồi trên sông Đồng Nai thì phải ăn cá chép Đồng Nai. Trương huynh và sư đệ nói có phải không? Nấu kiểu nào thì tùy vào các cô, miễn ngon là được. Thêm một bát vi cá lớn.

- Dạ, Trần gia. Bọn cháu sẽ mang lên ngay.

Mặt trăng đã lên cao ở phía đông, ánh trăng vằng vặc sáng. Gió từ biển Đông thổi lên mang theo hơi nước mát lạnh khiến mọi người cảm thấy sảng khoái vô cùng. Văn Hiến nói:

- Trăng trên sông Đồng Nai tuyệt thật!

Bạch Mai mỉm cười:

- Trương huynh cảm tác một bài thơ đi.

- Thôi đi cô nương, đừng đùa tôi nữa. Nhưng trăng ở đây làm tôi chạnh nhớ đến mấy câu thơ của Lý Bạch.

- Trương huynh đọc lên nghe đi.

Văn Hiến ngước nhìn trăng ngâm nga:

Sàng tiền khán nguyệt quang

Nghi thị địa thượng sương

Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương

Đại Kỳ nói:

- Trương huynh tuy xa quê nhưng còn trên đất nước mình mà đã “tư cố hương” rồi ư? Còn chúng tôi thì sao?

Văn Hiến vội nói:

- Xin lỗi, chỉ là sự đối cảnh vô tình mà thôi.

- Không sao. Từ khi sang đây, Thượng Công chúng tôi đã nhất quyết coi mảnh đất này là quê hương thứ hai của mình. Vả lại, quê hương thứ nhất của chúng tôi giờ lọt vào tay di địch Mãn Thanh rồi, chuyện tư cố hương lại càng nhạt nhẽo.

Mấy cô phục vụ đã mang rượu và thức ăn lên. Đại Kỳ nói:

- Các cô cứ để mặc chúng tôi.

Mấy cô phục vụ hiểu ý liền cúi đầu chào khách rồi trở xuống bên dưới. Đại Kỳ chiết rượu ra chiếc bình nhỏ, rót bốn chung mời:

- Chúng ta uống mừng ngày gặp mặt. Mừng sư đệ, mừng hiền muội trở về bình an.

Họ nâng chung uống cạn. Trạng nguyên hồng Thiệu Hưng lâu năm hương vị quả nhiên danh bất hư truyền. Bạch Mai hỏi Hồng Liệt:

- Sư huynh thấy hương vị của nó so với rượu Hồng Đào – Quảng Nam thế nào?

Hồng Liệt mỉm cười:

- Ngon hơn, hương vị đậm đà hơn nhiều.

Văn Hiến chợt quay lại câu chuyện lúc nãy:

- Ở đây chúng ta nói chuyện được không?

- Được! Gian nguyệt lâu này biệt lập, hơn nữa bọn Diệp Sanh Ký sinh hoạt chủ yếu bên bờ bắc Sa Hà, ít khi xuống đây chơi lắm.

- Trần huynh có biết chủ nhân của Diệp Sanh Ký là ai không?

Đại Kỳ rót rượu ra các chung, nâng lên mời mọi người uống cạn rồi khà một tiếng để thưởng thức hương vị của rượu. Xong chàng mới đáp:

- Tôi không chắc chắn lắm. Tôi đã cố dò xét nhưng cũng chỉ biết được mơ hồ đó là một người họ Lý tên Văn Quang. Có người còn cho rằng họ Lý này thuộc dòng dõi Sấm Vương Lý Tự Thành sót lại. Hắn ta giàu có thuộc loại phú gia địch quốc đấy.

Văn Hiến hơi chồm người tới trước:

- Như vậy họ là hậu duệ của Lý Tự Thành và Trần Viên Viên à?

- Nghe nói như vậy.

Văn Hiến gục gặc đầu:

- Thảo nào, thảo nào...

- Thảo nào thế nào?

- Chúng tôi có gặp qua một nàng bạch y công chúa. Nàng ta đẹp lắm, như Bạch muội đây vậy. Tôi cho rằng nàng còn đẹp hơn Trần Viên Viên mà mọi người đã ca tụng bấy lâu.

- Thế à? Gặp ở đâu?

Bạch Mai nghe Văn Hiến nói thì thấy mặt chợt nóng bừng. Sau một thoáng, Bạch Mai hồi phục lại vẻ tự nhiên liền nhoẻn miệng cười:

- Trương huynh không cần lịch sự với muội như thế đâu. Bọn muội gặp nàng ta ở quán ăn Cao Lầu ngoài Hội An. Trương huynh đã giao đấu phi tiêu bằng đũa với nàng, còn tặng nàng một chiếc đũa làm trâm cài tóc nữa. Hi hi...

Nói đến đây nàng không nín được cười mà bật ra thành tiếng. Đại Kỳ tỏ vẻ hào hứng hỏi:

- Vậy à? Rồi sao nữa?

Bạch Mai nói tiếp:

- Nàng ta từ Phúc Kiến sang Giản Phố. Hội An chỉ là nơi nàng dừng chân nghỉ mệt thôi. Chuyện ly kỳ hơn nữa là trong chuyến đi vào Giản Phố, thuyền của nàng và thuyền của bọn muội gặp bão phải cùng vào trú chung một nơi, rồi bị bọn cướp người Chiêm Thành bắt. Nếu không có nhị sư huynh và Trương huynh thì bọn muội đã bị chúng hại rồi.

Đại Kỳ khẩn trương hỏi gấp:

- Rồi sao nữa? Sao hôm qua muội không kể chuyện này cho huynh nghe?

- Muội sợ ca ca lo. Giờ thì kể rồi đó. Muội chỉ thấy ghét con người lạnh lùng và kiêu kỳ quá mức kia thôi.

- Nàng bạch y công chúa đó à?

- Chứ còn ai vào đây nữa! Nàng ta như chết đi được cứu sống lại mấy lần mà chẳng có lấy một tiếng cảm ơn nào. Cả một ánh mắt biểu lộ lòng biết ơn cũng không. Rõ là kiểu cách thái quá.

Văn Hiến mỉm cười:

- Bạch muội trách người ta làm gì. Hoạn nạn tương chiếu là việc tự nhiên thôi. Đâu cần nghe tiếng cảm ơn. Trần huynh nói họ Lý đó giàu có lắm phải không?

- Nghe các thương khách Quảng Đông và Phúc Kiến nói vậy.

- Trần huynh có nghe nói đến việc Lý Tự Thành trước khi rời bỏ kinh thành Bắc Kinh đã cho thu vét toàn bộ châu báu của Minh triều rồi giao cho ba bộ tướng chia nhau đem đi cất giấu không?

- Có! Trương huynh cho rằng Lý Văn Quang đã thu thập lại được số châu báu đó à?

- Tôi nghĩ vậy. Và hắn còn nghĩ rằng mình là vương là tướng như cha ông nên con gái hắn mới xưng là công chúa.

Hồng Liệt tán thành:

- Tôi cho điều đó là hợp lý.

Sau đó chàng bèn đem việc bọn Dương Tử Tam Kiếm từ Gia Định ra Quảng Ngãi định cướp Ô Long đao kể cho Đại Kỳ nghe. Cuối cùng chàng nói:

- Hắn lại có cả thanh Ỷ Thiên Trường Kiếm của Tào Tháo ngày xưa trong tay nữa. Điều này khiến hắn tăng thêm ý tưởng ngông cuồng, tự coi mình là vua chúa. Sư huynh có cho rằng tất cả những chuyện này đang ẩn chứa điều gì bên trong không?

Bạch Mai rót rượu vào các chung, Đại Kỳ nâng lên uống cạn rồi trầm ngâm một lúc đáp:

- Bành trướng thế lực, mưu đoạt bảo đao. Hắn định chiếm cứ nơi này làm chỗ dung thân khi hữu sự ư? Hắn thuộc nhóm Thiên Địa Hội đang âm mưu phản Thanh phục Minh? Hay hắn đang dự định khôi phục lại vương triều của tiền nhân hắn là Sấm Vương? Mà cũng có thể là hắn định dùng nơi này làm hậu phương để thực hiện một trong những mục đích đó?

Văn Hiến nói:

- Những vấn đề Trần huynh nêu ra đều hữu lý cả. Cá nhân tôi có thêm một ý nghĩ nữa là hắn đang có âm mưu độc chiếm thương cảng sầm uất này trước, sau đó mới bành trướng chiếm cả phần đất miền nam mà Chúa Nguyễn vừa lấy được từ tay người Chân Lạp do nơi đây tổ chức hành chính và binh bị còn chưa vững vàng.

Hồng Liệt nghe Văn Hiến nói thì vỗ tay đánh đét một tiếng tán thành:

- Hợp lý lắm! Giản Phố cách Trung Quốc quá xa. Thanh triều dưới thời Càn Long lại đang rất vững mạnh, Đài Loan đã mất, Trịnh Thành Công chết, tổng đà chủ Trần Vĩnh Hoa cũng đã chết, Thiên Địa hội thất bại hoàn toàn chỉ còn lén lút hoạt động lẻ tẻ trong vòng bí mật. Như vậy, vì chuyện phản Thanh phục Minh mà chiếm nơi này để làm hậu phương thì hơi vô lý, mà muốn tiêu diệt nhà Thanh để thiết lập lại vương triều của Sấm Vương ở Trung Hoa lại càng vô lý hơn. Cho nên với số của cải sẵn có, với dòng máu kiêu dũng của Sấm Vương, nhất định tên Lý Văn Quang này đang có ý đồ làm vương làm tướng ở miền đất béo bở còn trong vùng tranh chấp giữa Việt – Miên và những người Chân Lạp vong quốc này.

Đại Kỳ gật đầu:

- Ý kiến của cả hai người rất hợp lý. Trường hợp như vậy thì chúng ta phải làm gì?

Văn Hiến đáp:

- Trước hết phải tìm hiểu rõ ràng thực lực và ý đồ của chúng thì mới có thể hoạch định kế hoạch đối phó được. Về thực lực của họ, Trần huynh có sự đánh giá nào không?

Đại Kỳ nhỏ giọng:

- Tôi có người tâm phúc làm việc bên đó, là đệ tử hàng thứ ba của Kim Cương Môn. Hắn cho biết Kim Cương Môn đệ tử rất đông, có đến hơn trăm người và chúng luyện tập ráo riết lắm.

- Có biết ai là người sáng lập không?

- Người sáng lập là Phùng Đạo Đức, một trong năm đệ tử của Hồng Mi lão tổ Nam Thiếu Lâm. Khi vua Vĩnh Lịch của Mãn Thanh cho đốt chùa Nam Thiếu Lâm ở Phúc Kiến và tàn sát tăng chúng vào năm 1723, có năm đồ đệ giỏi nhất của ngài trụ trì Hồng Mi lão tổ là Chí Thiện thiền sư, Ngũ Mai lão ni, Bạch Mi đạo nhân, Phùng Đạo Đức và Miêu Hiển trốn thoát. Năm người này tản mác khắp nơi và lập nên nhiều môn phái khác nhau ở miền nam Trung Quốc. Chí Thiện lập ra Hồng Gia quyền, Bạch Mi lập ra Thiếu Lâm Bạch Mi, còn Kim Cương Môn là do Phùng Đạo Đức bí mật sáng lập.

- Sao lại phải bí mật sáng lập?

- Phùng Đạo Đức đã phản lại dân tộc, hùa theo làm chó săn cho Mãn Thanh. Hắn bí mật lập ra Kim Cương Môn là để giúp bọn Mãn Thanh chống lại các nhân sĩ và môn phái phản Thanh phục Minh.

- Như vậy không lẽ Lý Văn Quang cũng thuộc Kim Cương Môn?

- Điều này tôi không rõ. Có thể đúng, mà cũng có thể hắn chỉ chiêu tập đệ tử Kim Cương Môn để trợ lực cho hắn.

- Dù sao thì hắn cũng thân Mãn Thanh. Nếu không, làm gì Phùng Đạo Đức để cho đệ tử của mình theo giúp.

- Khả năng là như vậy. Và nếu đó là sự thật thì âm mưu của hắn đúng là có ý chiếm cứ miền Nam này như hai người đã nghi ngờ.

- Hắn có mặt ở đây không?

- Trước đây hình như hắn có đến Giản Phố vài lần nhưng tôi không lưu ý nên chưa gặp mặt. Hiện giờ thì không biết.

- Kim Cương Môn chính thức hoạt động và thu nhận đệ tử ở đây từ lúc nào?

- Khoảng năm năm trước.

Hồng Liệt hỏi:

- Để đối kháng với một lực lượng lớn như Kim Cương Môn, sư huynh dự tính thế nào? Thần Quyền Môn của chúng ta có đủ sức không?

- Thần Quyền Môn của chúng ta còn non yếu lắm. Do sư phụ ra đi sớm nên người chỉ có hai đệ tử là ta và Bạch muội thôi. Thần Quyền Môn là do ta mới sáng lập ra vài năm nay để duy trì võ thuật của người, đệ tử vừa ít lại vừa trẻ tuổi nên công phu chưa có là bao.

Hồng Liệt thở ra, tỏ vẻ lo lắng. Đại Kỳ tiếp:

- Nhưng con cháu của các bộ tướng của Thượng Công tổ bá phụ còn ở đây rất đông. Phần lớn họ đều có sở học gia truyền. Nếu ta tập hợp tất cả lại thì lực lượng cũng đáng kể.

- Sư huynh đã liên lạc với bọn họ chưa?

- Kể từ ngày Diệp Sanh Ký ra mặt lấn át các thương hiệu ở đây, chúng tôi cũng đã có vài cuộc họp bàn để liên kết đối phó. Có điều mọi người nghiêng về hướng dĩ hòa vi quí nhiều hơn nên lực lượng không thống nhất được.

- Như vậy không được! Sư huynh phải chỉ cho họ thấy rõ âm mưu của bọn Kim Cương Môn và ý đồ sâu xa của Lý Văn Quang. Thuyết phục họ liên kết nhau lại để tạo thành một lực lượng thống nhất mới mong có đủ sức mạnh chống lại sự lấn át của đối phương.

Bạch Mai lẳng lặng ngồi nghe ba người bàn chuyện, nàng châm thêm rượu vào ba chiếc chung. Văn Hiến gật đầu cảm ơn, chàng uống cạn chung rượu rồi nói:

- Đó là về mặt lực lượng đối kháng kiểu giang hồ. Chúng ta cần tìm hiểu thêm về âm mưu đích thực của bọn chúng. Nếu quả tình tên Lý Văn Quang có âm mưu nổi loạn muốn chiếm cứ mảnh đất này thì chúng ta phải nhờ tới chính quyền phủ Chúa. Có nghĩa là phải nhờ tới quan binh ở Trấn Biên này. Mối giao tình của Trần huynh với quan Lưu thủ Trấn Biên thế nào?

- Quan Lưu thủ Cường Oai hầu Nguyễn Phúc Oai là người rất thân tình với Định bá phụ nên mối giao tình giữa chúng tôi khá tốt. Tuy nhiên, quan cai đội Cẩn Thành hầu Nguyễn Cư Cẩn mới là người lo về mặt binh bị. Người này võ nghệ rất cao cường. Tất cả những vấn đề trị an, quan Lưu thủ đều trông cậy vào ông ta.

Bạch Mai bỗng chen vào:

- Như vậy chúng ta cần phải báo cho Cẩn Thành hầu biết sự việc này để ông ta lo chuẩn bị.

- Đành phải như thế thôi.

Mặt trăng đã khuất dần phía trời tây. Bạch Mai dốc cạn hũ rượu ra ba chung, ba chàng nâng lên uống cạn. Họ đứng dậy ra về. Rượu thật nồng nhưng những làn gió trên sông thổi đến liên tục đã làm dịu hơi men. Nhìn khung cảnh thanh bình, gió mát trăng thanh, Văn Hiến chợt cảm thán:

- Nếu con người biết an phận, vui sống cùng thiên nhiên thì hay biết bao!

***​

Chiều hôm sau là buổi lễ cầu siêu do các thầy ở chùa Đại Giác được mời đến chấp sự. Văn Hiến nhân lúc rảnh rang bèn ra bến tàu kiếm Đặng Hữu Dụng. Vừa thấy Văn Hiến đến, Hữu Dụng liền nói:

- Trương công tử rảnh không, chúng ta đi tìm chỗ nào đó uống vài chung rượu cho vui?

- Cháu đang định ra đây mời chú đi uống rượu đây. Mình đi đâu?

- Có hai nơi rất đẹp, vừa uống rượu vừa ngắm trăng. Đó là Thướng Nguyệt Lâu ở bờ nam và Vọng Nguyệt Đình ở bờ bắc.

- Tối qua bọn cháu đã đến Thướng Nguyệt Lâu rồi, hôm nay mình đi Vọng Nguyệt Đình đi.

- Được! Đêm nay mặt trăng tròn nhất và lớn nhất trong năm. Trời lại quang không mây, ngắm trăng là tuyệt nhất. Giờ cũng còn sớm, chúng ta tản bộ dạo phố để công tử mở rộng tầm mắt. Không thua gì Hội An đâu.

Hai người bèn thả bộ trên đường phố lát đá trắng dọc bến sông đi ngược lên bờ bắc, sau đó lại đi dọc đường phố trên bờ Sa Hà về đông. Đây là hai đường phố chính của thương cảng Giản Phố. Đến khu phố trên bờ Sa Hà, Hữu Dụng đưa tay chỉ một dãy dài các thương hiệu trên đường nói:

- Từ đây thuộc khu vực buôn bán độc quyền của hãng Diệp Sanh Ký. Hãng này chỉ mới thành hình ở Giản Phố chừng mươi năm nay nhưng quy mô của họ rộng lớn vô cùng. Cậu nhìn xem, suốt một dải dài bến cảng, tàu buôn lớp lớp hàng trăm chiếc vừa là thuyền của họ vừa là thuyền thương khách. Hiện giờ có thể nói một phần tư tổng sản lượng mua bán ở Giản Phố là từ thương hiệu của họ.

- Làm cách nào mà họ có thể lớn mạnh nhanh đến mức độ đó hả chú?

- Họ nhiều tiền lắm. Nhiều thương hiệu quen của chúng tôi ngày xưa đã phải bán lại cơ sở cho họ. Họ ép chết dần các cơ sở nhỏ rồi bỏ tiền ra mua lại. Về khách đến mua, giá bán ra của họ bao giờ cũng thấp hơn so với bất cứ thương hiệu nào khác ở đây. Cứ như thế chỉ sau vài năm, nguyên một dải bến cảng Sa Hà đã lọt vào tay họ, từ thương hiệu đến khách hàng. Kìa, công tử thấy khu dinh thự đồ sộ kia không? Đại bản doanh của họ đấy.

Văn Hiến quan sát thật kỹ cách bố trí chung quanh ngôi nhà.

- Lớn thật! Tường cao, cổng gác. Chẳng khác gì phủ đệ của vương công. Ba chữ “KIM CƯƠNG MÔN” họ viết rõ to, chứng tỏ họ rất tự hào về nó. Mà chắc là cũng có ý vừa coi thường vừa thị uy với thiên hạ. Sao chú không buôn bán với họ?

- Trần gia là chỗ khách hàng quen thuộc của Cao gia từ ba bốn mươi năm nay. Dù bên Diệp Sanh Ký họ chào mời giá cả cao hơn nhưng chúng tôi không vì lợi mà bỏ bạn hàng cũ.

Gần cuối đường phố Sa Hà là chiếc cầu ván bắc qua sông để thông thương với khu vực Trấn Biên. Cầu rộng chừng một trượng (4m), xây dựng chắc chắn với rất nhiều chân gỗ lớn, hai bên có thành. Miền Nam là nơi sông nước chằng chịt nên ít người sử dụng ngựa làm phương tiện đi lại như miền ngoài kia. Họ chủ yếu dùng thuyền. Tuy vậy, xe ngựa và người cưỡi ngựa qua lại trên cầu cũng khá đông.

Qua khỏi phố Sa Hà là một khoảng trống thiên nhiên có bàn tay con người chăm sóc nên phong cảnh rất trau chuốt cầu kì. Một bên là sông nước, một bên là rừng cây thiên nhiên với nhiều loại hoa đủ màu sắc. Con đường dọc bờ sông cũng lát đá trắng như trong phố chính. Người ta đặt thêm những chiếc ghế đá cách khoảng để du khách tiện ngồi nghỉ chân. Đi một đoạn nữa thì đến Vọng Nguyệt Đình. Có một ngôi nhà thủy tạ lớn với kiến trúc theo lối Trung Hoa, dạng đình bát giác, mái cong màu xanh, cột trụ màu đỏ. Lúc ấy tửu khách đã ngồi chật các bàn, tiếng nói cười vang lên tới trên bờ. Kế tiếp là một dãy dài hàng mấy chục ngôi đình nhỏ hình thức giống đình bát giác lớn, được cất trên mặt sông. Giữa đình nhỏ có đặt một bàn và bốn chiếc ghế để cho khách ngồi lúc còn nắng hay khi trời mưa. Chung quanh là một hành lang rộng có thể để được bàn và ghế ngồi. Phía ngoài có một chiếc cầu nối ra mặt nước, cuối chiếc cầu là một sàn bát giác lộ thiên, có thành vịn để khách uống rượu ngắm trăng hay hóng gió. Những đình bát giác nhỏ này dành cho những khách có tiền vì giá phục vụ ở đây cao hơn so với ở trong ngôi đình lớn ở đầu dãy. Khung cảnh ở đây sang trọng và đẹp hơn bên Thướng Nguyệt Lâu, có lẽ vì nó mới được xây dựng và chủ nhân đầu tư có tính qui mô và nghệ thuật hơn.

Bóng hoàng hôn vừa buông xuống, các ngôi đình đã có khách đến uống rượu chờ trăng lên. Khách ở đây thuộc đủ hạng người, có người ngoại quốc vừa uống rượu vừa nói cười xí xô, có người địa phương và cả khách ở xa đến. Vì nơi đây thuộc bờ tây bắc Sa Hà, trên bờ lại có rừng cây nên lúc trăng vừa nhú, khách chưa thể thấy ngay được mà phải chờ một khắc sau mới nhìn thấy mặt trăng lên. Có lẽ do sự trông ngóng chờ đợi đó mà chủ nhân đặt cho nơi đây cái tên Vọng Nguyệt. Đình lớn nhỏ không đều nhau để cho khách đi nhiều hay ít người có thể chọn. Vào giờ này chỉ còn trống hai gian ở cuối cùng, Hữu Dụng và Văn Hiến định vào gian cuối nhưng cô phục vụ mặc y phục kiểu người Hoa cúi đầu thưa:

- Quí khách thông cảm cho, gian cuối đã có người đặt từ trước rồi ạ. Xin hai vị vào gian kế này vậy. Mong thứ lỗi.

Hữu Dụng vui vẻ nói:

- Không sao. Chúng tôi ngồi ở đâu cũng được.

Họ vào gian đình áp cuối. Cô phục vụ lễ phép hỏi:

- Quí khách dùng chi ạ?

Hữu Dụng hỏi Văn Hiến:

- Công tử muốn uống rượu gì?

- Tối qua đã uống Trạng nguyên hồng Thiệu Hưng. Đêm nay thử uống Phần tửu Sơn Tây xem sao.

Cô phục vụ nhoẻn miệng cười rất xinh:

- Công tử thật sành rượu Trung Hoa. Chúng em ở đây có Phần tửu nguyên gốc từ Sơn Tây mang đến. Rượu đã hơn mười lăm năm rồi đấy ạ.

- Cô có thể cho chúng tôi biết đặc điểm của loại Phần tửu này không?

- Dạ tất nhiên là được chứ ạ. Loại Phần tửu của chúng em ở đây được sản xuất đặc biệt bằng cao lương ở Hạnh Hoa thôn với nước suối Cam Tuyền. Chỉ có hai loại nguyên liệu này kết hợp lại mới có thể cho ra loại Phần tửu ngon nhất. Khác đi thì hương vị rượu sẽ kém rất nhiều ạ.

Tiếng nói thanh thanh, lơ lớ lai giọng Hoa của cô phục nghe ngồ ngộ. Cô lại có thói quen dùng tiếng ạ ở cuối câu thật dễ thương. Văn Hiến mỉm cười nói:

- Cảm ơn cô. Cho chúng tôi một bình Phần tửu và hai cân thịt nai nấu kiểu Cù lao Phố.

Cô gái tròn xoe đôi mắt ngạc nhiên hỏi:

- Nai nấu kiểu Cù lao Phố là sao ạ?

- Là nấu kiểu nhà hàng ở Cù lao Phố. Kiểu Vọng Nguyệt Đình đó ạ.

Cô gái vỡ lẽ, che miệng cười, tiếng cười trong trẻo vui tai:

- Công tử khéo đùa thật. Vậy là công tử cho phép nhà bếp Vọng Nguyệt Đình muốn nấu sao tùy ý phải không ạ?

- Đúng rồi đó ạ.

- Công tử đừng có nhại em nữa được không ạ?

Nói xong cô e thẹn cúi đầu chào rồi thoăn thoắt đi về phía nhà hàng chính. Màn đêm buông xuống, mặt trăng đã lên phía bên kia ngọn cây, bầu trời có một màu đen nhạt vì hơi nước trên sông bốc lên. Chiếc đèn lồng treo trong gian đình đung đưa theo gió sông nhè nhẹ, phát ra những vùng sáng chập chờn. Lúc cô phục vụ mang rượu và thức ăn đến bày ra bàn xong thì trên bờ có một đoàn người cũng vừa đến, họ vào gian đình cuối cùng. Cô phục vụ nói:

- Quí khách thấy đó, họ là những người đã đặt chỗ từ trước. Giờ thì em an tâm là công tử không nghĩ em đã nói xạo rồi ạ.

Văn Hiến mỉm cười:

- Tôi nào dám nghĩ cô nói xạo. Họ có vẻ là những người quyền thế ở đây cô nhỉ? Coi cách tiền hô hậu ủng của họ thì đủ biết.

- Dạ. Có lẽ thế ạ. Em nghe họ có nhắc tới cô công chúa nào đó.

Văn Hiến và Hữu Dụng nhìn nhau. Chàng hỏi:

- Công chúa à? Của nước nào vậy?

- Dạ em không biết ạ. Mời quí khách thưởng thức rượu ngon và món nai nấu kiểu Vọng Nguyệt Đình ạ.

Cô nói xong nhoẻn miệng cười và cúi đầu chào rồi trở vô. Văn Hiến rót rượu ra chung:

- Mời chú! Uống mừng sức khỏe của chú và lần đến Cù lao Phố đầu tiên của cháu.

(còn tiếp)
 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Hữu Dụng nâng chung uống cạn. Văn Hiến cũng uống cạn rồi rót tiếp chung thứ hai. Hữu Dụng đưa mắt nhìn sang gian đình kế bên, khoảng cách giữa hai gian đình chừng ba trượng, trăng còn chưa lên cao nên không thấy rõ lắm. Chỉ thấp thoáng bóng một người phụ nữ ngồi ngoài sàn lộ thiên, phía sau là hai người phụ nữ đứng hầu cận. Trên bờ có mấy người đàn ông đứng nghiêm và im lặng trong bóng tối. Hữu Dụng nói:

- Đoán chừng là nàng bạch y công chúa hôm nọ. Nếu đúng thì quả là thiên hạ nhỏ và hẹp vô cùng.

- Thật vậy!

- Hình như công tử đã gặp nàng ta ngoài Hội An rồi phải không?

- Vâng. Còn giao đấu chí chết với nhau nữa đấy.

- Vậy à? Vì sao?

Chàng bèn kể sơ qua chuyện ở quán Cao Lầu. Hữu Dụng nghe xong nói:

- Thảo nào nàng chẳng giận công tử và ra tay đánh không thương tiếc lúc công tử chữa thương trong động đá.

Trăng đã lên cao khỏi những đọt cây, chiếu ánh sáng bàng bạc khắp nơi. Nhìn xa xa, bóng người lố nhố trên chiếc cầu ván bắt qua Sa Hà. Hữu Dụng chỉ tay về phía cầu nói:

- Đặc biệt ở đây, mỗi khi đến rằm tháng tám mọi người đổ ra các bờ sông để ngắm trăng, uống rượu. Họ muốn nhìn mặt trăng lớn nhất trong năm. Cậu thấy không, đó là những người lao động nghèo. Họ không có tiền vào quán nên cùng nhau uống rượu ngắm trăng trên cầu và nơi những chiếc ghế đá.

Bỗng có tiếng người ở trên bờ hỏi nhỏ xuống:

- Có phải chú Hữu Dụng và Trương huynh ở dưới đó không?

Hữu Dụng nhận ra tiếng của Âu Dương Long nên vội vàng đứng lên quay lại nói:

- Âu Dương hiệp sĩ đó à? Mời xuống đây uống rượu với chúng tôi!

Âu Dương Long đáp:

- Vâng cháu đây! Chờ cháu một lát nhé.

Nói xong chàng ta trở về gian tiểu đình, có lẽ là để xin phép công chúa. Một lát sau Âu Dương Long qua. Chàng ta vui vẻ nói:

- Chào chú, chào Trương huynh! Cháu đã định sang kiếm chú và Trương huynh uống rượu nhưng hôm nay phải đưa công chúa đi ngắm trăng nên chưa đi được. Không ngờ lại gặp được hai người ở đây, thật hay quá!

Hữu Dụng nói:

- Ngồi xuống trước đã. Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ mà. Cậu có trốn đâu rồi cũng sẽ gặp thôi.

Ông ngoắt tay, cô phục vụ trên bờ vội chạy xuống. Hữu Dụng nói:

- Thêm hai bình rượu nữa. Chung và chén đũa nhé.

- Dạ, có ngay ạ!

Cô quay đi một lúc thì đã mang mọi thứ đến. Văn Hiến rót rượu ra ba chiếc chung. Hữu Dụng nâng chung mời:

- Mời hiệp sĩ! Uống mừng cho sự quen biết của chúng ta.

- Mời!

- Mời!

Uống cạn chung rượu xong, Âu Dương Long hỏi:

- Công việc của chú thế nào rồi? Chú từ Quy Nhơn vào à?

- Vâng. Đang tiến hành bốc dỡ.

- Cơn bão vừa rồi chắc thiệt hại nặng phải không?

- Cũng khá. Nhưng không hề gì. Nghề của bọn tôi là vậy. Lúc đắc lúc thất, bù qua sớt lại rồi cũng xong.

- Trương huynh có lẽ chỉ theo thuyền vào nam vãng cảnh, phải không?

- Tôi nghe sông nước miền Nam mênh mông, đất đai trù phú nên theo chú Dụng vào thăm qua để mở rộng thêm tầm mắt.

- Còn Đinh huynh và Bạch tiểu thư?

- Bạch muội là người ở đây. Chúng tôi quen được chú Dụng là nhờ Bạch muội. Âu Dương huynh từ Phúc Kiến ghé vào Hội An à?

- Vâng. Công chúa bỗng dưng muốn đi thăm Hội An và Giản Phố. Vương gia cản cũng không được nên tôi phải theo hầu người.

Hữu Dụng hỏi:

- Vương gia là hoàng thân của Thanh triều?

- Xin lỗi chú, điều này cháu không trả lời được. Vương gia người Hán, họ Lý.

Hữu Dụng vội nói:

- Xin lỗi đã tò mò.

Văn Hiến rót rượu cho ba người, chàng nói:

- Chuyện hôm trước ở quán Cao Lầu và nơi động đá đều là sự bất đắc dĩ. Âu Dương huynh cho tôi gởi lời tạ lỗi với công chúa nhé.

- Tôi sẽ thưa lại. Cảm ơn Trương huynh lần nữa vì đã giúp chúng tôi thoát khỏi thế bí. Mà dường như công chúa cũng không trách Trương huynh thì phải. Đây là chuyện hiếm thấy trước giờ đấy. Có điều huynh phế bỏ võ công của tên Vô Tình công tử, e là sẽ không thoát khỏi sự trả thù của sư phụ hắn ta đâu.

- Đành chịu vậy! Hắn đúng là kẻ vô tình, coi mạng người như cỏ rác. Nghe nói hắn mới trở về Hội An có hai năm mà không biết bao nhiêu người đã chết dưới tay hắn.

- Thầy trò của họ đều như thế cả đấy. Cực kỳ kiêu ngạo, cực kỳ vô tình, độc ác. Tôi mới gặp mặt hắn đã thấy không vừa mắt rồi.

- Sư phụ của hắn là ai?

- Thiên Ưng lão nhân. Đúng ra là Thiên Ưng lão quỉ. Thiên Ưng trảo của ông ta có thể sánh ngang với Cầm Long thủ của Thiếu Lâm. Một dải Giang Nam, người chết dưới ưng trảo của ông ta có đến hàng trăm. Sau này Trương huynh phải cẩn thận.

- Cảm ơn sự quan tâm của Âu Dương huynh. Bình thủy tương phùng, chúng ta cạn chung nữa đi.

Ba người vui vẻ nâng chung uống cạn. Bỗng một cô gái từ trên bờ đi xuống chỗ bọn họ. Cô ta nở nụ cười tươi nói:

- Tiểu tì xin chào chú Dụng, chào Trương công tử.

Hữu Dụng và Văn Hiến đồng thanh nói:

- Chào Thu Hồng cô nương! Cô khỏe chứ?

Âu Dương Long giật mình quay lại:

- Ủa? Thu Hồng, cô sang đây làm gì vậy? Công chúa có chuyện gọi tôi phải không?

Thu Hồng nháy mắt với Âu Dương Long:

- Tôi sang không phải để gọi anh mà để mời Trương công tử.

Rồi cô nhìn Văn Hiến tươi cười nói:

- Trương công tử, công chúa sai tiểu tì qua mời công tử sang bên đó nói chuyện.

Văn Hiến nghe nói hơi giật mình:

- Mời tôi?

Rồi chàng nhìn Âu Dương Long:

- Món nợ hôm trước chắc là phải trả đủ đêm nay rồi đó.

Thu Hồng mỉm cười bí mật:

- Công tử đừng lo. Có khi người mắc nợ trở thành chủ nợ cũng không chừng.

Âu Dương Long cũng mỉm cười:

- Trương huynh đi đi. Có gì thì chúng tôi sẽ chịu phạt chung với huynh.

Văn Hiến đứng lên.

- Hai người uống rượu với nhau nhé. Tôi đi trả cho xong món nợ này đã.

Thu Hồng đi trước, Văn Hiến theo sau. Bạch y công chúa đang ngồi nhìn ra sông, quay lưng lại. Đến nơi, Thu Hồng nói khẽ:

- Thưa công chúa, Trương công tử đã đến!

Nàng không quay lại mà chỉ lên tiếng:

- Mời Trương công tử ngồi.

Giọng nàng không còn vẻ lạnh lùng băng giá như lúc trước nữa, âm thanh trong trẻo nhẹ nhàng rất êm tai. Thu Hồng lặp lại lời của công chúa và đưa tay chỉ vào chiếc ghế đặt xéo trước mặt nàng. Văn Hiến nói:

- Cảm ơn!

Chàng ngồi xuống chiếc ghế. Thu Hồng đưa tay định cầm bình rượu rót ra chung thì công chúa cản:

- Để ta!

Thu Hồng biết ý nên thụt lui rồi quay người bước lên bờ. Văn Hiến đưa tay cầm bình rượu rót ra hai chung nhỏ, đặt một chung trước mặt công chúa, chàng nói:

- Tôi mượn chung rượu này để chính thức nói lời tạ lỗi với công chúa. Việc chẳng đặng đừng nên tôi đã có chút mạo phạm.

Nói xong chàng bưng chung rượu uống cạn. Công chúa im lặng ngồi nhìn chàng uống, nàng vẫn để chung rượu trước mặt không đụng tới. Thấy vậy, Văn Hiến liền nói tiếp:

- Công chúa không uống tức là không chịu thứ lỗi cho tôi. Nếu vậy tôi chỉ còn...

- Tôi chưa từng nói công tử có lỗi bao giờ thì tại sao phải tạ lỗi?

Văn Hiến ngỡ ngàng, ấp úng:

- Công chúa tức giận đến độ tát tôi một cái như trời giáng, tôi cứ tưởng...

Khóe miệng công chúa hơi nhích lên, nửa cười nửa không:

- Cho nên tôi mới là người phải tạ lỗi với công tử.

- Tôi bị tát là đáng lắm, công chúa không có gì phải tạ lỗi cả.

Bạch y công chúa nâng chung rượu lên uống cạn rồi nói:

- Chung rượu đó là chung rượu tôi tạ lỗi với công tử.

- Như vậy chúng ta coi như huề, không ai có lỗi với ai nữa. Được chứ?

Công chúa khẽ gật đầu. Nàng rót thêm hai chung nữa, thong thả đưa bàn tay đẹp như ngọc nâng chung rượu lên uống cạn:

- Chung rượu này là để tạ ơn công tử đã cứu mạng.

Văn Hiến ngồi im lặng nhìn nàng uống. Chàng không đả động gì tới chung rượu của mình. Công chúa nói:

- Công tử không uống tức là không nhận lời cảm ơn của tôi. Tôi chỉ còn...

- Tôi chưa từng nói công chúa mang ơn tôi bao giờ thì tại sao phải tạ ơn?

Cả hai chợt nhận ra mình cùng lặp lại y lời nói ban nãy của đối phương nên phì cười. Nét băng giá cố hữu trên khuôn mặt xinh đẹp của nàng giờ đã biến mất. Nụ cười nở trên đôi môi xinh, dưới ánh trăng thanh huyền ảo càng làm cho khuôn mặt nàng đẹp đến mê hồn. Văn Hiến như thấy có một cảm giác kỳ lạ chạy dọc theo xương sống lên đến đỉnh đầu. Chàng vội đưa tay bưng chung rượu lên uống cạn rồi nói:

- Công chúa không bắt lỗi, tôi không đòi trả ơn. Chúng ta không ai nợ ai. Được chứ?

Nàng khẽ gật đầu:

- Được!

Chàng rót thêm hai chung nữa, nâng ly của mình và mỉm cười nói với công chúa:

- Tôi mượn chung này để uống cho sự tao ngộ của chúng ta. Mời công chúa!

Cả hai cùng cạn chung.

- Cảm ơn công chúa đã mời rượu, không dám quấy rầy nhã hứng ngắm trăng của công chúa nữa, tôi xin phép. Mong sẽ có ngày gặp lại.

Chàng dợm người đứng lên. Công chúa nhìn chàng bằng đôi mắt sâu thẳm. Nàng hỏi:

- Công tử định đi à?

- Công chúa còn điều gì chỉ bảo nữa không?

Giọng nàng ngập ngừng:

- Ơ... Không có... Chỉ là tôi vẫn chưa biết tên công tử.

- Xin lỗi, tôi vô ý quá. Tên tôi là Văn Hiến. Trương Văn Hiến.

- Văn Hiến chi bang. Thảo nào tôi nghe nói công tử bụng chứa kinh luân.

- Công chúa nghe lầm rồi. Tôi chỉ là một kẻ quê mùa sống nơi thảo dã thôi.

- Khổng Minh ngày xưa không phải cũng ở nơi thảo dã đó sao?

- Khổng Minh tuy sống nơi thảo dã nhưng lòng nuôi chí lớn nên bụng mới chứa sẵn kinh luân đợi thời.

- Công tử thì sao?

- Đất nước tôi đang lúc thanh bình, tôi chỉ biết ngao du ngày tháng, nuôi chí lớn để làm gì?

- Đất nước còn chia hai mà bảo là lúc thanh bình ư? Đàng Ngoài loạn lạc, dân chúng đói khổ chạy vào Đàng Trong vừa tị nạn vừa kiếm miếng ăn, sao người chỉ lo ngao du ngày tháng?

Văn Hiến nghe nàng hỏi giật mình đánh thót. Chàng đỏ mặt lúng túng:

- Công chúa ở Phúc Kiến sao lại rõ chuyện nước tôi như thế?

- Đất nước tôi lọt vào tay Mãn Thanh, tôi có ý định sẽ lưu cư ở nơi này nên phải học hỏi văn hóa ở đây.

- Xin chào mừng cư dân mới! Cảm ơn công chúa đã chọn đất nước chúng tôi làm quê hương thứ hai.

Chàng rót thêm hai chung rượu mời:

- Chào mừng!

- Cảm ơn công tử!

Văn Hiến đặt chung rượu xuống bàn, chàng dùng mấy ngón tay vân vê chiếc chung nói nhỏ:

- Có điều đáng tiếc...

Công chúa nhìn chàng hỏi:

- Đáng tiếc điều gì?

- Đáng tiếc là đất nước này có quá nhiều những đứa trẻ ăn mày. E rằng công chúa sẽ phải mướn thêm thủ hạ để quẳng chúng xuống sông mỗi khi ra ngoài.

Sắc mặt bạch y công chúa chợt hồng lên dưới ánh trăng vàng. Nàng cúi đầu, tay cũng vân vê chiếc chung nói nhỏ:

- Công tử trách tôi để bọn thủ hạ làm bậy phải không?

- Không dám. Chỉ là hoàn cảnh mỗi người khác nhau nên mới có kẻ nghèo người giàu, kẻ sang người hèn. Tuy vậy, không ai muốn làm kẻ nghèo khó, hèn mọn cả. Chỉ là số phận đẩy đưa họ mà thôi. Họ đã không muốn thì không có tội. Những ai coi rẻ họ mới là người có tội.

Công chúa rót đầy hai chung rượu. Nàng uống cạn một chung:

- Chung rượu này tôi uống để tạ tội.

Văn Hiến vẫn để nguyên chung rượu. Bạch y công chúa hỏi tới:

- Công tử không uống tức là không xóa tội cho tôi chứ gì?

Văn Hiến mỉm cười:

- Tôi đâu có quyền bắt tội công chúa, làm sao xóa?

- Nếu vậy thì tôi tự giác nhận tội vậy. Công tử không thể uống để cho tôi nhẹ lòng sao?

- Vậy thì tôi xin uống.

Chàng nâng chung uống cạn. Công chúa nhìn chàng nhắc:

- Công tử còn chưa trả lời câu hỏi của tôi lúc nãy.

Văn Hiến không biết nàng cố ý hỏi đến sở học của mình để làm gì, chàng ngần ngừ một chút rồi đáp qua loa:

- Cho nên mới nói tôi chỉ là một kẻ quê mùa vô tích sự.

Công chúa phì cười. Nụ cười tươi trên môi càng làm cho khuôn mặt nàng thêm phần rạng rỡ:

- Công tử khéo nói lắm. Thôi được! Tôi nghe thiên hạ ở Thuận – Quảng ca ngợi tài thi phú của công tử còn hơn cả Tào Thực, Vương Bột năm xưa. Đêm nay trăng đẹp quá, công tử có thể ứng khẩu một bài không? Như công tử đã làm trên sông Thu Bồn hôm trước đó.

Văn Hiến ngạc nhiên hỏi:

- Làm sao công chúa biết được việc này?

- Công tử phế võ công của tên Vô Tình công tử nên bọn họ cho người đi lùng công tử khắp nơi. Chuyện công tử ứng khẩu tặng Bạch Mai cô nương bài thơ trên sông Thu Bồn đã được người lái đò hôm đó truyền tụng khắp chốn. Để tôi nhớ xem họ ngâm nga cái gì mà... “Tu hoa bế nguyệt mai khôi diện. Nhất tiếu ngư trầm thủy thượng vân”.

Văn Hiến bối rối:

- Thiên hạ hiếu sự, lúc nào cũng chỉ muốn thổi phồng cho lớn chuyện. Công chúa nghe họ làm gì.

- Không muốn nghe cũng không được. Khắp Hội An bây giờ đi đâu cũng nghe thiên hạ nhắc đến cái tên Diệu Thủ Thư Sinh.

Mặt Văn Hiến lại càng đỏ hơn. Chàng rót hai chung rượu rồi nâng chung uống cạn:

- Tôi uống ly này để tạ lỗi đã mạo phạm.

Bạch y công chúa cũng uống cạn. Nàng mỉm cười:

- Chúng ta hãy quên mọi chuyện cũ đi. Bạch Mai cô nương là tri kỷ của công tử phải không?

Văn Hiến vội xua tay:

- Ồ không! Chúng tôi chỉ mới tình cờ biết nhau độ một tháng nay. Chúng tôi là những người bạn.

Công chúa cười tươi:

- Ờ thì thôi là bạn. Bạch Mai cô nương xinh đẹp như thế nên mới xứng là bạn của công tử, còn người như tôi chắc công tử chê là xấu xí, lạnh lùng nên đâu muốn kết bạn phải không?

- Công chúa xinh đẹp như tiên. Tôi nào dám chê.

Công chúa càng tươi nét mặt, nhưng nàng vẫn hỏi vặn:

- Không chê sao công tử cứ dợm người muốn bỏ đi?

- Là vì tôi thấy mình thấp hèn không xứng để ngồi uống rượu cùng công chúa.

Nét mặt của bạch y công chúa bỗng trở nên buồn bã. Nàng nói nhỏ:

- Công tử vẫn còn trách tôi?

- Tôi đâu dám.

- Đâu dám sao công tử cứ nhắc hoài chuyện cũ?

- Ừm... Tôi xin lỗi.

- Tôi biết trong lòng công tử đang khinh ghét tôi lắm.

- Tôi đâu có.

- Đâu có mà sao ngay cả tên tôi công tử cũng chẳng màng muốn biết?

Nghe nàng bắt bẻ Văn Hiến lại đỏ mặt. Chàng ấp úng:

- Xin lỗi. Tôi chỉ sợ mình mạo phạm. Giờ thì tôi muốn biết.

Công chúa nhoẻn miệng cười:

- Dung Dung. Lý Dung Dung.

Văn Hiến nghe nàng xưng họ Lý chợt động tâm cơ và đọc mấy câu thơ:

...Gia bản Cô Tô Cán Hoa Lý

Viên Viên tiểu tự kiều la ỷ

Mộng hướng Phù Sai uyển lý du

Cung nga ủng nhập quân vương khởi

Tiền thân hợp thị thái liên nhân

Môn tiền nhất phiến Hoành Đường thủy

Hoành Đường song tương khứ như phi...

Dịch thơ:

...Nhà ở Cô Tô làng giặt vải

Tên tự Viên Viên đẹp lộng lẫy

Thường mơ tới chơi vườn Phù Sai

Cung nữ đưa vào vua đứng dậy

Tiền thân là gái hái hoa sen

Trước cửa dòng sông Hoành Đường chảy

Nước chảy mái chèo khua như bay...[1]

Lý Dung Dung nghe chàng đọc mấy câu thơ trong bài “Viên Viên Khúc” của Ngô Vĩ Nghiệp thì nét mặt thoáng biến sắc. Nàng hỏi:

- Tại sao công tử lại đọc mấy câu thơ này?

- Tôi nghe tên Lý Dung Dung, lại nhìn thấy dung mạo của công chúa nên chợt liên tưởng đến một vị mỹ nhân là Trần Viên Viên, chợt sinh tình đọc ra thế thôi.

- Công tử biết gì về mỹ nhân Trần Viên Viên?

Nàng nhắc đến ba chữ “Trần Viên Viên” bằng giọng nói thật tha thiết. Văn Hiến đáp:

- Tôi biết nàng qua bài thơ “Viên Viên Khúc” bất hủ.

- Do đâu công tử lại có sự liên tưởng này?

- Tôi có dịp xem qua phiên bản bức họa Viên Viên Dung của danh họa Thạch Đào. Hình trong bức họa hao hao giống với công chúa tuy không đẹp bằng.

Dung Dung nghe Văn Hiến nói mình còn đẹp hơn cả Trần Viên Viên trong bức danh họa thì lòng vui lắm. Nàng cố nén xúc động hỏi dồn:

- Thạch Đào có họa chân dung Trần Viên Viên ư? Tôi chưa bao giờ nghe ai nhắc đến việc này. Làm sao công tử có được?

- Thạch Đào vốn dòng hoàng tộc nhà Minh, ông đã có dịp thấy qua Trần Viên Viên lúc nàng được tiến cử vào cung làm phi cho vua Sùng Trinh. Tuy sau này nhà Minh mất, Thạch Đào cắt tóc đi tu nhưng hình ảnh của mỹ nhân vẫn không phai mờ trong tâm khảm ông. Lúc ấy, Ngô Vĩ Nghiệp lại làm bài “Viên Viên Khúc” minh oan cho nàng làm chấn động cả giới sĩ phu Trung Quốc thời bấy giờ khiến Thạch Đào, tuy trong lòng chán ghét Trần Viên Viên nhưng cũng không khỏi động tâm mà múa bút vẽ lại dung nhan tuyệt thế của nàng.

- Tại sao ở Trung Quốc không thấy ai nhắc đến bức họa này?

- Thạch Đào lúc ấy đã xuất gia. Ông lại là người hoàng tộc nhà Minh nên họa xong bức họa, ông xếp lại cất kỹ không cho ai biết vì sợ mang tiếng với đời.

- Công tử làm thế nào mà xem được phiên bản ấy?

- Sư phụ tôi vốn là một người lãng tích phong trần. Ông có cơ duyên quen biết với một vị thiền sư Trung Quốc, người đã lưu giữ bức họa trên nên nài nỉ xin được phác họa lại.

Dung Dung hơi chồm người về phía Văn Hiến. Nàng hỏi gấp:

- Như vậy sư phụ công tử còn giữ phiên bản đó phải không? Công tử có thể cho tôi xem được không?

Văn Hiến lắc đầu buồn bã:

- Đã hơn tám năm nay, sư phụ bỏ ra đi mà tôi vẫn chưa gặp lại được người.

Sự thất vọng hiện rõ trên gương mặt của Lý Dung Dung. Văn Hiến hỏi:

- Hình như công chúa có sự quan tâm đặc biệt đến bức hoạ đó?

Lý Dung Dung cố nén tiếng thở dài:

- Từ bé tôi đã rất hâm mộ Trần Viên Viên.

- Công chúa là người lá ngọc cành vàng, Trần Viên Viên xuất thân kỹ nữ, hai người có hai cuộc sống hoàn toàn khác nhau, sao công chúa lại đặc biệt hâm mộ nàng ta?

Nét mặt của Dung Dung càng u buồn hơn. Khi Văn Hiến nói đến mấy tiếng “Trần Viên Viên xuất thân kỹ nữ”, nàng thoáng cau mày. Tuy nhiên điều này đã không thoát khỏi ánh mắt tinh tế của chàng. Như không còn nén được nữa, mắt Dung Dung đã long lanh ướt dưới ánh trăng. Nàng đáp nhỏ:

- Tôi cũng không biết nữa. Hâm mộ thì cứ hâm mộ, đâu cần phải đồng bệnh mới tương lân.

Nhìn nàng bây giờ thật khác hẳn với nàng công chúa kiêu kỳ, lạnh lùng lúc trước. Văn Hiến đoán chừng trong nội tâm của nàng chắc là có điều gì đó không toại ý bị ức chế. Sự đè nén nội tâm lâu ngày có thể khiến con người ta đổi tính, chỉ khi nào gặp hoàn cảnh thích hợp, bản tính sơ nguyên mới có dịp phục hồi trở lại. Cả hai vừa nói chuyện vừa uống khá nhiều rượu nên mặt nàng giờ đây đã đỏ lựng. Dưới ánh trăng, khuôn mặt đó càng trở nên diễm lệ khiến cho Văn Hiến cố tránh không nhìn thẳng mặt nàng. Mặt trăng đã khuất dần phía trời tây, Văn Hiến đứng lên tạ từ:

- Cảm ơn công chúa đã mời rượu. Sương đêm xuống nhiều, công chúa cần nghỉ ngơi.

Lý Dung Dung nhìn chàng nói:

- Cảm ơn công tử đã không chê rượu của tôi. Công tử có thể nào bỏ đi tiếng “công chúa” được không? Tôi có tên đó.

Văn Hiến mỉm cười:

- Xin chào Lý Dung Dung... cô nương.

Dung Dung cũng mỉm cười nhìn chàng:

- Bỏ thêm hai tiếng “cô nương” nữa được không?

Văn Hiến vội nói:

- Chào Dung Dung!

- Chào Trương huynh! Mong còn gặp lại!

- Mong còn gặp lại!

Văn Hiến trở bước lên bờ. Thu Hồng, Bạch Cúc và mấy hán tử hộ vệ đứng yên cúi đầu chào. Thu Hồng mỉm cười nói nhỏ:

- Cảm ơn công tử.

Văn Hiến ngạc nhiên:

- Cảm ơn tôi chuyện gì?

- Nhờ công tử mà công chúa dường như bớt nghiêm khắc với bọn nô tì hơn.

Văn Hiến cười:

- Cô sai rồi! Không phải do tôi đâu.

Thu Hồng lại mỉm cười nói:

- Công tử không nhận nhưng bọn tiểu tì vẫn cứ mang ơn.

- Tùy ở các cô vậy! Chào!

- Chào công tử!

Chợt nghe dưới sông tiếng của Lý Dung Dung vọng lên nho nhỏ, nàng ngâm mấy câu thơ trong bài “Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ” của Trương Nhược Hư:

...Bạch vân nhất phiến khứ du du

Thanh phong phố thượng bất thăng sầu

Thùy gia kim dạ biên chu tử

Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu?

Khả liên lâu thượng nguyệt bồi hồi

Ưng chiếu ly nhân trang kính đài

Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ

Đảo y châm thượng phất hoàn lai...

Dịch nghĩa:

...Một vầng mây trắng trôi lững lờ

Rặng phong trên bến đượm vẻ u buồn

Thuyền nhà ai đêm nay dong mãi

Người nơi nao tương tư trên lầu trăng sáng?

Thương cho vầng trăng vằng vặc trên lầu

Phải chiếu sáng đài gương người ly biệt

Rèm ngọc cuốn lên rồi trăng vẫn không đi

Chày đập vải lau rồi trăng vẫn cứ trở lại...



****​

[1] Bản dịch của Cao Tự Thanh.
 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Hồi thứ mười một

Chùa Long Thiền, thầy trò vui tái hợp
Thua lôi đài, Văn Hiến định mưu sâu

*
Văn Hiến định trở lại gian tửu đình gặp Hữu Dụng và Âu Dương Long thì cũng vừa lúc hai người lên đến bờ. Âu Dương Long cúi đầu chào, giọng lễ phép:

- Chào Trương công tử! Chúc ngủ ngon!

Văn Hiến ngạc nhiên hỏi:

- Bỗng dưng sao Âu Dương huynh khách sáo với tôi như thế?

Âu Dương Long nghiêm giọng đáp:

- Công tử giờ là bạn của công chúa, tôi phải giữ lễ.

Văn Hiến phá ra cười:

- Âu Dương huynh đùa với tôi rồi. Chúng tôi chỉ gặp nhau để nói lời tạ lỗi thôi. Huynh đừng khách sáo như vậy tôi không dám nhận đâu. Chúc ngủ ngon!

- Cảm ơn công tử!

Văn Hiến và Hữu Dụng cùng mỉm cười, chào Âu Dương Long rồi thả bộ trở về. Các tửu đình hầu hết đã trống, chỉ còn một số ít người vẫn ngồi ngắm trăng. Trong gian tửu đình lớn có một nhóm khá đông người đang nói cười coi bộ vui vẻ lắm. Sương và hơi nước phủ lờ mờ trên mặt sông, tuy vậy ánh trăng vẫn vằng vặc sáng, soi tỏ muôn vật. Hữu Dụng hỏi:

- Cuộc tao ngộ vui vẻ chứ?

- Dạ cũng khá thú vị.

- Nàng là công chúa thật à?

- Cháu không tiện hỏi nhiều, nhưng có lẽ nàng là hậu nhân của Trần Viên Viên.

- Và Lý Tự Thành?

- Có thể như vậy!

Hữu Dụng gật gật đầu:

- Thảo nào tôi có nghe nói về một người Lý vương gia nào đó.

Văn Hiến hỏi:

- Chú nghe ở đâu?

- Thì cũng từ các bạn hàng Trung Quốc.

Chợt có hai người từ trong đám đông của gian tửu đình lớn chạy nhanh lên bờ, cản Văn Hiến và Hữu Dụng lại. Một người nói:

- Chào thủ Hiến! Ngài mạnh giỏi chứ?

Văn Hiến giật mình nhìn người mới lên tiếng chào. Thì ra là Đồng Bách, một người nữa có lẽ là Lại Thừa Ân. Chàng nghĩ chắc bọn này nhận ra mình nên chặn đường gây sự để trả mối thù xưa. Sau một thoáng bỡ ngỡ, Văn Hiến tươi cười nói:

- Chào Đồng huynh! Cảm ơn, tôi vẫn khỏe. Vị này chắc là Thừa Ân huynh phải không? Xin chào! Thật tình cờ chúng ta lại gặp nhau ở đây. Đây là chú Hữu Dụng, chắc các người biết nhau chứ?

Đồng Bách đáp:

- Biết chứ, biết chứ! Thương thuyền Cao gia tới lui ở đây mấy mươi năm, người của Cao gia ai lại chẳng biết. Chú mạnh giỏi chứ chú Dụng?

Hữu Dụng cười đáp:

- Vẫn khỏe, cảm ơn Đồng huynh đệ.

Đồng Bách hỏi:

- Ngài thủ Hiến đi cùng với đoàn thuyền của Cao gia vào Giản Phố công cán hay chỉ là du ngoạn đó đây cho biết phong vật miền Nam?

Văn Hiến đáp:

- Nghe thiên hạ nói Giản Phố là nơi đất vàng, nước bạc, trù phú vô cùng nên tôi muốn vào thăm cho biết.

Đồng Bách cười nói:

- Như vậy thì thật là may! Chúng tôi cứ tưởng thủ Hiến vào đây theo dõi việc làm ăn của chúng tôi. Đồng Bách tôi vừa nghe được tin ngài thủ Hiến chỉ trong vài chiêu đã phế bỏ được võ công của Vô Tình công tử thì lấy làm khâm phục lắm. Cái tên Diệu Thủ Thư Sinh giờ đã vang dội khắp nơi rồi. Tôi thật hâm mộ vô cùng.

Văn Hiến nghe cách nói có vẻ châm chọc và cay cú của Đồng Bách thì biết hắn đang tìm cách gây sự nên vội nói:

- Đồng huynh quá lời rồi. Đồng huynh chặn đường chỉ để nói chuyện này hay còn việc gì khác nữa không?

- Hôm trước thất thủ dưới tay thủ Hiến, Đồng Bách tôi thật tâm phục khẩu phục. Khi nghe kể lại sự việc, nhị sư ca của tôi rất ngưỡng mộ, muốn được gặp mặt Thủ Hiến một lần. Nay tình cờ gặp đây, không biết Thủ Hiến có chịu cho một cái hẹn để nhị sư ca tôi có dịp diện kiến chăng?

- Nhị sư ca của Đồng huynh là ai?

- Chỉ là một kẻ vô danh. Anh ấy tên Tạ Tứ.

Văn Hiến suy nghĩ rất nhanh rồi đáp:

- Đồng huynh và Tạ huynh đã có lòng, Hiến tôi lẽ nào không đáp lễ? Đồng huynh muốn chúng ta gặp mặt lúc nào, ở đâu?

- Cảm ơn thủ Hiến đã nể tình. Đầu tháng chín là lễ kỷ niệm sáu mươi năm xây dựng miếu Quan Đế và năm năm khai sáng Kim Cương Môn ở Giản Phố, chúng ta gặp nhau ở đó được chăng?

- Được! Tôi sẽ đến. Chào Đồng huynh, chào Ân huynh.

Đồng Bách và Thừa Ân đồng thanh nói:

- Chào thủ Hiến, chào chú Dụng! Hẹn gặp lại!

Văn Hiến và Hữu Dụng chào hai người rồi tiếp tục thả bộ trở về. Hữu Dụng hỏi:

- Hình như họ đã biết cậu có mặt ở đây nên tính toán trước. Theo cậu thì tại sao họ không âm thầm ra tay mà lại hẹn thi tài ở miếu Quan Đế, trước mặt đông người?

- Họ không âm thầm ra tay thanh toán cháu vì họ vẫn nghĩ cháu là người của Hình bộ. Họ làm ăn lớn khắp nước cho nên không muốn ra mặt hành hung người trong quan chế. Việc họ chọn ngày lễ kỷ niệm thành lập đền và khai sáng Kim Cương Môn để thách đấu thì theo ý cháu, có lẽ họ muốn nhân cơ hội này tỏ rõ cho mọi người biết tài nghệ của Kim Cương Môn – những con cháu Hán tộc của đức Quan Đế.

- Vì sao?

- Họ bắt đầu giai đoạn chuyển từ sức mạnh tiền bạc sang vũ lực. Họ muốn đánh bại cháu trước mặt mọi người để vừa trả thù chuyện hôm trước, vừa thị uy thiên hạ.

- Có nghĩa là họ nhất định phải thắng? Cậu thấy thế nào?

- Trước sau gì cũng sẽ đụng nhau. Cứ thử cho biết họ có đủ ba đầu sáu tay hay không.

- Nói hay lắm! Tôi thật phục cậu về sự bình tĩnh, tự tin và gan dạ. Đó là ba yếu tố rất cần thiết cho một cuộc tỉ thí. Nó quyết định ba mươi phần trăm chiến thắng, còn lại là tài năng.

- Cảm ơn sự khích lệ của chú. Sắp tới sẽ còn nhiều chuyện gay go, hung hiểm lắm, không chừng mất mạng như chơi. Khi nào đoàn của chú trở về lại Quy Nhơn?

- Định cuối tháng này, nhưng tôi sẽ nấn ná vài hôm chờ xem cuộc vui này đã.

- Vui thì có vui đấy nhưng coi chừng chú phải thất vọng.

- Thắng bại là chuyện thường, cậu không phải lo.

Văn Hiến về đến Trần gia thì thấy Đại Kỳ và Hồng Liệt đang ngồi uống rượu trong ngôi đình nhỏ bên góc phải trước trang viện. Hồng Liệt hỏi:

- Ngươi đi uống rượu với chú Dụng à?

- Ừ! Hai người chưa nghỉ sao?

Đại Kỳ đáp:

- Chúng tôi có chút chuyện của môn phái phải bàn với nhau nên còn ngồi đây. Nhân tiện đợi Trương huynh về. Trương huynh gây hấn lớn với bọn Diệp Sanh Ký mà đi một mình ở Giản Phố thì khá là nguy hiểm đấy. Hai người đi uống rượu có gặp rắc rối gì không?

- Có, nhưng cũng không đến độ.

Hồng Liệt nói ngay:

- Ngồi xuống kể nghe đi.

Văn Hiến ngồi vào bàn. Đại Kỳ rót rượu ra chung, Văn Hiến uống cạn một hơi rồi nói:

- Ta gặp lại bạch y công chúa.

- Vậy sao? Nàng có tát cho ngươi vài cái tát nảy lửa nữa không?

- Không! Trái lại.

- Trái lại là sao?

- Trái lại là nàng mời ta uống rượu và cảm ơn ta.

Hồng Liệt háo hức giục:

- Kể đầu đuôi nghe đi.

Văn Hiến bèn kể lại cuộc gặp gỡ vừa rồi. Đại Kỳ cười nói:

- Trương huynh thật tốt số đào hoa. Đã có thể biến một nàng công chúa kiêu kỳ băng tuyết thành một cô gái thùy mị đa tình.

Văn Hiến cười nói:

- Trần huynh quá lời rồi. Chỉ là bèo nước gặp nhau, nhân cảnh trăng nước hữu tình nên tâm tình cởi mở một chút mà thôi, sao lại gán cho hai chữ đào hoa vào đó.

Hồng Liệt hỏi:

- Ngươi có nghĩ là nàng đang dùng mỹ nhân kế để tìm hiểu xem vì sao ngươi ba lần bốn lượt nhúng mũi vào chuyện làm ăn của Diệp Sanh Ký không?

Văn Hiến rót thêm rượu vào các chung:

- Lúc đầu ta cũng có ý nghĩ giống như ngươi vậy nhưng về sau ta thấy không đúng. Dường như nàng có một nỗi khổ riêng nào đó không thể giải tỏa được nên tâm tình mới không được bình ổn.

- Thật ư? Theo ngươi đó là chuyện gì?

- Ta làm sao biết được. Tuy nhiên ta nghĩ nỗi khổ tâm của nàng có liên quan đến Trần Viên Viên.

- Nàng nói mong còn gặp lại, ngươi có định gặp lại nàng không?

- Ta không biết. Sắp tới còn một việc khác lớn hơn cần phải lo.

Đại Kỳ hỏi:

- Việc lớn gì?

- Trên đường về tôi gặp lại Đồng Bách và Lại Thừa Ân. Họ nói nhị sư huynh của họ là Tạ Tứ muốn gặp tôi nên hẹn vào ngày lễ kỷ niệm sáu mươi năm khánh thành miếu Quan Đế và năm năm thành lập Kim Cương Môn ở Giản Phố để tỉ thí với nhau.

Hồng Liệt nóng nảy hỏi:

- Rồi ngươi nhận lời?

- Ngươi bảo ta từ chối à?

Đại Kỳ nói:

- Họ kỷ niệm ngày thành lập Kim Cương Môn mà hẹn gặp Trương huynh là họ có ý đả bại huynh để thị uy với thiên hạ đấy.

Văn Hiến gật đầu:

- Tôi biết!

Đại Kỳ nói tiếp:

- Tạ Tam và Tạ Tứ là hai đại đệ tử của Phùng Đạo Đức. Họ được chân truyền của Nam Thiếu Lâm, Trương huynh cần phải cẩn thận lắm mới được.

- Thì cứ tận sức mình. Nếu thua thì cũng là do công phu của mình còn kém người.

- Tôi tin bọn họ sẽ cho mời tất cả những nhân vật có vai vế ở Giản Phố đến dự. Tôi phải bàn với Trần An Hảo xem sắp tới chúng ta nên làm gì.

Hồng Liệt hỏi:

- Trần An Hảo là ai?

- Là con út của phó tướng Trần An Bình, người đã sang Đại Việt cùng với Trần Thượng Công. Ông ta kể như là người có uy tín nhất trong số những con cháu của những người có công khai sáng Giản Phố này đấy.

- Đúng là sư huynh nên kêu gọi họ đoàn kết lại thành một khối thì mới mong đủ lực chống chọi lại với bọn Diệp Sanh Ký.

- Được. Ngày mai, sau khi làm lễ cho bọn đệ tử ra mắt nhị sư thúc, tôi sẽ đi lo việc ấy.

Hồng Liệt chợt nói:

- À, đồ gàn. Lúc nãy sư huynh và Bạch muội cùng đồng ý việc đưa bọn trẻ vào đây sống, ngươi nghĩ sao?

Văn Hiến đáp:

- Đưa chúng vào đây thì tốt rồi nhưng có lẽ nên chờ xem diễn tiến tình hình ở đây biến động như thế nào đã. Tránh nguy hiểm cho bọn nhỏ.

- Ta cũng đã nói với Bạch muội như thế.

Đại Kỳ nói:

- Đã vậy thì hãy đợi thêm một thời gian nữa.

***

Hôm sau trong khi Đại Kỳ và những người được coi là đối lập với Kim Cương Môn họp bàn cách thống nhất lực lượng để đối phó bọn Diệp Sanh Ký, Văn Hiến rủ Hồng Liệt và Bạch Mai đi thăm chùa Long Thiền gần núi Châu Thới. Họ dùng ngựa ra đi từ sáng sớm, dạo qua vùng thủ phủ Trấn Biên lần nữa rồi theo quan lộ dọc sông Đồng Nai đi về hướng tây bắc.

Văn Hiến bỗng hỏi Bạch Mai:

- Nghe nói ở Trấn Biên có một ngôi Văn Miếu, Bạch muội biết nó ở đâu không?

Bạch Mai đáp:

- Nhà Văn Miếu nằm rất gần chùa Long Thiền, tại núi Long Sơn. Đó là nơi có ngôi trường rất lớn để cho mọi người ở Trấn Biên này đến học. Ca ca của muội cũng từng là môn sinh ở đó. Nếu Trương huynh muốn, chúng ta có thể đến thăm Văn Miếu trước rồi sang chùa Long Thiền sau cũng được.

- Vậy chúng ta đến đó thăm trước đi.

Bạch Mai cho ngựa rẽ sang con đường nhỏ, đi chừng dặm rưỡi đã có thể thấy thấp thoáng nóc ngôi Văn Miếu với mái cong ẩn hiện sau rừng cây xanh. Ngôi Văn Miếu được xây dựng vào ba mươi năm trước theo lối kiến trúc mang màu sắc Trung Hoa dùng để thờ Đức Khổng Tử. Bên cạnh là một ngôi nhà lớn làm trường học cho sĩ tử cả vùng Trấn Biên. Văn Hiến vốn là con của một nhà nho, sư phụ chàng cũng là một vị nho hiệp nên đối với Đức Khổng Tử chàng luôn có sự kính trọng đặc biệt. Sau khi thắp hương cho vị Vạn Thế Sư Biểu, chàng gặp người quản sự ở miếu để hỏi thăm về tình hình sinh hoạt ở đây. Người quản sự nói:

- Ngôi Văn Miếu này là do Chúa Nguyễn Phúc Chu sai quan trấn thủ Nguyễn Phan Long và quan ký lục Phạm Khánh Đức xây dựng vào năm Minh Vương thứ mười sáu (năm 1715) để cổ xúy và phát huy nền Nho học cho cả miền Nam.

- Sĩ tử ở đây có đông không, thưa chú?

- Sĩ tử khắp Trấn Biên về đây học rất đông. Đa phần là con cháu các quan địa phương và con cháu những nhà giàu có ở miền này. Hôm nay nhằm ngày trường đóng cửa nên vắng vẻ như thế đó. Ba vị từ xa đến à?

- Dạ vâng! Bọn cháu ở tận ngoài Thuận – Quảng.

- Ồ! Như vậy thì các vị gần đất kinh kỳ rồi. Nhà Văn Miếu ở Phú Xuân hẳn là lớn và khang trang hơn ở đây rất nhiều phải không?

- Dạ không ạ. Phú Xuân tuy là đất kinh đô nhưng lại chưa chính thức lập nhà Văn Miếu.

Người quản sự ngạc nhiên thốt lên:

- Thế à? Thế mới biết Chúa Minh thời đó đã rất coi trọng việc mở mang nền Nho học ở miền Nam này.

- Dạ. Có lẽ Chúa thấy vùng thương cảng Giản Phố trù phú này đã quy tụ được nghiều người Hoa đến sinh sống.

- Theo công tử thì tại sao ở Phú Xuân đến nay vẫn chưa chính thức lập nhà Văn Miếu?

- Theo cháu nghĩ có lẽ do ảnh hưởng quá lớn của Phật giáo trong phủ Chúa. Tuy Chúa Minh cổ xúy việc “Tam Giáo Đồng Lưu” nhưng dù sao hiện nay Phật giáo vẫn là Quốc giáo của chúng ta.

Người quản sự sau đó hướng dẫn ba người bọn họ đi thăm quang cảnh Văn Miếu. Ông chỉ tay về dòng sông Đồng Nai uốn lượn ở phía Nam giải thích:

- Vùng đất Văn Miếu này và ngôi chùa Long Thiền phía bên kia hồ Long Vân (còn gọi là hồ Long Ẩn) đều có địa thế rất tốt. Trước mặt cả hai đều có dòng Đồng Nai uốn lượn, quanh năm nước lai láng chảy. Ngôi Văn Miếu thì phía sau có núi Long Sơn làm chỗ dựa, còn chùa Long Thiền có núi Châu Thới làm hậu sơn trải dài như long mạch. Hồ Long Vân như miệng rồng còn ngọn Bửu Long bên kia ví như trái châu vậy.

Văn Hiến nghe người quản sự giải thích cảm khái nói:

- Chọn nơi này để xây Văn Miếu và chùa thật là hợp lý. Với thế đất này, hẳn miền Nam sau rồi sẽ phát triển rất tốt, nhân tài sản sinh rất nhiều. Đất đai phì nhiêu, kinh thương phồn thịnh, nhân tài đông đảo. Miền Nam sẽ là chỗ dựa cho cả nước, cháu nói có đúng không chú?

- Nhận xét của công tử rất giống với một vị túc nho, bạn của thầy Phật Chiếu trụ trì chùa Long Thiền.

- Có lẽ vì sự thật hiển nhiên như thế nên ý mọi người đều giống nhau. Vị túc nho đó danh tự là gì, thưa chú?

- Ông ta chỉ mỉm cười khi tôi hỏi đến danh tánh. Ông nói, ông là người thích ngao du đây đó không muốn lưu tên họ với đời.

Văn Hiến nghe người quản sự nói thì liên tưởng ngay đến thầy mình. Thầy chàng lúc nào cũng dùng câu nói này để trả lời mỗi khi chàng hỏi đến tên người. Chàng vừa mừng vừa hồi hộp hỏi nhanh:

- Vị túc nho ấy đến đây lúc nào? Chú có thể mô tả hình dáng của ông ta cho cháu biết được không?

Quản sự thấy thái độ của Văn Hiến, lấy làm lạ hỏi:

- Công tử biết vị túc nho ấy à? Ông ta đến đây cùng thầy Phật Chiếu vào ngày vía đức Phu Tử, hai mươi tám tháng tám năm ngoái.

Văn Hiến bồn chồn hỏi:

- Tận năm ngoái à? Gần đây người ấy không ghé nữa sao chú?

- Không thấy. Đó là một người có dáng dấp hết sức phong trần, tiêu sái. Tóc trắng, chòm râu bạc dài đến ngực, trán tròn thông thái. Nơi dái tai phải có...

Văn Hiến nói ngay:

- Có một nốt ruồi son lớn. Đúng không chú?

Quản sự ngạc nhiên:

- Đúng rồi! Sao công tử biết?

Văn Hiến rươm rướm nước mắt:

- Người là sư phụ của cháu. Tám năm nay người lãng tích thiên nhai, cháu chưa hề gặp lại mặt người.

Bạch Mai reo lên:

- Vậy sao? Chúng ta thử sang chùa Long Thiền hỏi thăm xem. Biết đâu sư phụ Trương huynh còn ở lại đó, hay ít nhất thầy Phật Chiếu cũng sẽ cho biết chút tin tức của người.

Quản sự nói:

- Đúng đó! Vài hôm nữa là ngày lễ vía đức Phu Tử. Có khi ông ta đang có mặt bên chùa để cùng với thầy Phật Chiếu sang dự lễ năm nay nữa không chừng.

Văn Hiến vội nói:

- Cảm ơn chú! Bọn cháu phải sang bên chùa ngay. Ngày lễ vía cháu sẽ trở lại thăm chú.

- Các vị cứ tự nhiên.

Ba người từ giã viên quản sự Văn Miếu rồi lập tức lên ngựa phóng nhanh đến chùa Long Thiền. Họ đi vòng theo hồ nước Long Ẩn chừng nửa dặm thì đến nơi. Ba người cột ngựa rồi vào bên trong khuôn viên. Ngôi chùa không lớn lắm, xây dựng đơn sơ, vách ván, cột gỗ và mái lá nhưng quang cảnh thật thanh tịnh trang nghiêm. Họ vào Phật đường thắp nhang, Bạch Mai lấy ra một thoi vàng khá lớn bỏ vào thùng công đức. Một nhà sư trẻ lo việc tiếp khách thấy vậy chắp tay vái:

- Mô Phật, tiểu tăng xin thay mặt nhà chùa cảm ơn chư vị thí chủ đã viếng tự và cúng dường. Sư phụ chúng tôi đang có ý định trùng tu lại chùa cho khang trang và rộng rãi hơn để đáp ứng nhu cầu của thiện nam, tín nữ về lễ Phật ngày càng đông.

Bạch Mai chắp tay vái:

- Dạ, chỉ là chút lòng thành kính Phật để chùa hương khói thôi ạ. Khi nào thì chùa khởi công trùng tu ạ?

- Sư phụ dự tính quyên góp đủ kinh phí lúc nào thì sẽ tiến hành ngay lúc ấy. Có lẽ năm tới.

- Đệ tử không mang theo bên mình nhưng Trần gia của đệ tử xin góp năm trăm lạng vàng ròng để xây dựng chùa. Vài hôm nữa đệ tử sẽ mang đến.

Nhà sư trẻ mừng rỡ:

- Thật là quí hóa quá! Xin Đức Phật từ bi phù hộ cho Trần gia cô nương một nhà duyên phước tròn đầy. Mời các vị thí chủ vào trong, bần tăng sẽ thông báo với sư phụ về phúc duyên này.

Nói xong nhà sư đi trước đưa ba người sang phòng tri khách bên hông Phật đường.

- Mời ba vị thí chủ ngồi uống nước. Bần tăng đi mời sư phụ.

Nhà sư vào trong hậu đường, một lát sau đã thấy một vị hòa thượng tuổi ngoài sáu mươi, nét mặt từ bi như một vị Bồ tát bước vào. Ba người vội đứng lên vái chào. Vị sư già chắp tay nói:

- A Di Đà Phật! Bổn chùa thật hân hạnh đón tiếp ba vị thí chủ quang lâm. Nghe Từ Huệ nói lại Phật tâm phát nguyện cúng dường của ba vị thí chủ, bần đạo xin thay mặt bổn đạo khắp nơi cảm tạ ơn đức. Cầu đức Phật từ bi phù hộ cho ba vị được nhiều duyên lành.

Bạch Mai chắp tay vái:

- Mô Phật, xin thầy đừng bận tâm. Chỉ là một chút công quả dâng chùa mà thôi. Ngày mai tiểu nữ sẽ mang đến.

- Đa tạ phật tâm của nữ thí chủ. Trần gia của nữ thí chủ có phải là...

- Dạ, Trần gia của con là hậu nhân của Trần Thượng Công ạ.

Thiền sư nở nụ cười hiền từ:

- Ra là thế! Ngày xưa Trần mẫu vẫn khuyên bần đạo trùng tu chùa lại, người sẽ chu cấp kinh phí. Việc chưa kịp tiến hành thì tai họa đã giáng xuống cho Trần gia nên thôi. Từ khi Trần mẫu trở về Hà Tiên đến nay phúc thể có được an khang không?

- Dạ, cảm ơn sư phụ hỏi thăm. Bá mẫu vẫn an khang.

Thiền sư nhìn qua ba người một lượt rồi hỏi:

- Xin hỏi quí danh tánh của ba thí chủ?

Bạch Mai đáp:

- Vị này Trương Văn Hiến, còn vị này là Đinh Hồng Liệt. Tiểu nữ Trần Bạch Mai.

Thiền sư chắp tay nói:

- Nhà chùa hân hạnh đón tiếp ba vị thí chủ quang lâm.

Hồng Liệt chợt lên tiếng hỏi:

- Bạch thầy, Trần gia một đời ra sức giúp Chúa mở mang vùng đất hoang này thành một nơi trù phú, có thể nói công đức hết sức cao dày. Họ lại có nhiều thiện tâm cúng dường tam bảo mà lại gặp tai kiếp lớn như vậy là do đâu?

Phật Chiếu nhìn Hồng Liệt niệm Phật hiệu rồi đáp:

- A Di Đà Phật! Thí chủ hỏi một câu rất hay. Công đức tạo ra ở kiếp này sẽ để lại thiện nghiệp cho kiếp sau. Còn tai họa gặp phải ở kiếp này là do ác nghiệp mình đã tạo ra ở kiếp trước. Đó là nhân quả tuần hoàn mà Phật tổ đã dạy.

Hồng Liệt sinh ra vốn là đứa trẻ mồ côi khốn khó nên kiến thức của chàng rất ít. Mấy chữ nhân quả tuần hoàn, kiếp sau kiếp trước, chàng nghe thiên hạ nói đi nói lại nhiều lần nhưng vẫn mù tịt không biết là gì nên hỏi tiếp:

- Xin thầy giảng rõ hơn về kiếp trước và kiếp sau. Con thấy con người chết đi thân xác hóa thành cát bụi, cả xương khô rồi cũng thành đất, có để lại gì đâu mà nói có tiền kiếp hậu kiếp, báo ứng tuần hoàn?

- Thân xác của chúng sinh chỉ là sự kết hợp của đất, nước, gió, lửa. Phật gọi đó là thân tứ đại. Tứ đại nhờ đủ duyên nên kết hợp lại thành thân xác chúng sinh. Nhưng vạn vật đều ở trong quy luật “thành, trụ, hoại, không”, với sinh vật thì “sinh, lão, bệnh, tử”. Tứ đại nhờ đủ duyên nên thành, đó là sinh. Sinh rồi sẽ trưởng, rồi lão, đó là trụ. Trụ rồi thì sẽ bệnh, rồi tử, đó là hoại. Hoại là trở về với tứ đại, về không.

- Đã về không tức là hết, sao còn có quả báo tuần hoàn đến kiếp sau?

- Nói không là nói về thân. Con người là sự kết hợp của thân và tâm. Thân tứ đại về không nhưng cái tâm thì còn tồn tại. Tâm này chính là luồng năng lượng gọi là nghiệp lực, bao gồm thiện nghiệp lực và ác nghiệp lực, trôi chảy từ kiếp này sang kiếp khác. Người nào trong cuộc sống hiện tại tạo nhiều ác nghiệp thì khi chết đi, luồng nghiệp lực sẽ trì trệ, kiếp lai sinh sẽ gặp nhiều ác báo, trầm luân, trôi chảy mãi trong sinh tử luân hồi. Người nào hiện kiếp biết tu tâm, hành thiện thì dòng nghiệp lực sẽ nhẹ nhàng thanh thoát, kiếp lai sinh sẽ hưởng nhiều phúc lành. Những ai có thể xóa bỏ hết ác nghiệp thì được giải thoát khỏi luân hồi, về nơi cực lạc. Đó là cõi Niết Bàn.

Hồng Liệt ngồi nghe thiền sư Phật chiếu thuyết giảng mà như người đi trong sương mù. Chàng bèn nói:

- Con có lẽ không có Phật duyên nên nghe thầy giảng mà như người đang mê ngủ. Thiện nghiệp, ác nghiệp gì đó con không biết, cả đời con chỉ biết lo tận sức mình giúp đỡ những kẻ khốn cùng. Còn kiếp sau ra sao con không cần biết đến.

- Lành thay, lành thay! Thí chủ làm vậy là nhờ có tâm lành. Tâm lành sẽ tạo ra nhiều thiện nghệp lực. Thí chủ đang hành đạo đó thôi.

Bạch Mai nói:

- Đinh sư huynh suốt đời làm kẻ trộm, trộm của cường hào, ác bá đem phân phát cho người nghèo. Sư huynh lại còn một mình nuôi hơn hai mươi đứa trẻ mồ côi nữa đó, thưa thầy.

Thiền sư chắp tay niệm Phật:

- A Di Đà Phật! Thí chủ làm như vậy thiện quả còn hơn cả bần tăng suốt đời đi tu. Lành thay!

Hồng Liệt chắp tay vái:

- Thầy dạy quá lời rồi.

Bạch Mai biết Văn Hiến đang nóng ruột về chuyện của thầy mình nên hỏi:

- Bạch thầy, chúng con nghe người quản sự bên Văn Miếu nói ngày vía đức Phu Tử năm ngoái thầy cùng đi với một vị nho hiệp sang dự lễ, người ấy còn ở đây không?

Phật Chiếu hỏi:

- Nữ thí chủ muốn hỏi tới Phong Trần nho hiệp phải không?

Văn Hiến vội đáp:

- Bạch thầy vâng ạ. Người còn ở đây không?

- Còn! Ba vị quen biết với ông ta à?

Văn Hiến nghe nói mừng rỡ nói nhanh:

- Dạ vâng! Con chính là đệ tử của người. Tám năm nay con tìm người khắp nơi, không ngờ người lại ở đây.

Phật Chiếu nhìn kỹ Văn Hiến tươi cười nói:

- Là thí chủ đây à? Ta vẫn nghe ông ấy nhắc đến thí chủ luôn. Ông nói nhận được thí chủ làm truyền nhân là một chuyện vui lớn nhất trong đời. Quả đúng thật! Thí chủ nghi biểu khác phàm, tương lai hẳn sẽ giúp ích lớn cho đời đấy.

Văn Hiến xúc động bùi ngùi:

- Lão nhân gia đã nói thế ư? Đệ tử thật hổ thẹn vì vẫn chưa làm được gì để báo đáp ơn người.

- Thí chủ không cần lo vội. Mọi sự vật đều phải có duyên mới thành. Thí chủ còn trẻ, tao ngộ về sau đâu đã biết được hết. Đợi đây nhé, bần tăng vào trong nói cho ông ta biết.

Văn Hiến đứng lên vái:

- Tạ ơn thầy!

Một lúc sau, một người đàn ông tuổi ngoài sáu mươi, dáng tiên phong đạo cốt với chòm râu bạc trước ngực, từ sau hậu đường bước vào phòng. Văn Hiến vừa trông thấy ông đã vội kêu lớn:

- Sư phụ!

Rồi chạy lại quì xuống ôm chân vị nho hiệp nói trong thổn thức:

- Thầy có được an khang không? Thầy bỏ đi tám năm nay làm con thương nhớ vô cùng. Con tìm khắp nơi mà không gặp. Nhờ ơn trời phật cho con gặp lại thầy ở đây.

Nho hiệp cúi xuống đỡ Văn Hiến đứng lên, nhìn kỹ chàng một lúc, miệng nở nụ cười hiền hòa:

- Tám năm, con đã trưởng thành rồi. Thầy vui lắm. Hai vị bằng hữu này...

Văn Hiến bèn giới thiệu hai người với thầy mình. Hồng Liệt và Bạch Mai đồng cúi đầu chào:

- Chúng cháu xin ra mắt và vấn an bá bá.

Nho hiệp nói:

- Hai vị cốt cách thanh kỳ, hẳn là nhân kiệt trong thế gian. Con có những người bạn thế này thật là quí hóa.

Hồng Liệt cúi đầu nói:

- Bá bá đã quá khen bọn cháu rồi. Trương huynh đây mới thật là nhân kiệt trong đời này.

Bạch Mai tiếp lời:

- Bá bá đã đào tạo nên một người văn võ song toàn, bụng chứa kinh luân. Cháu thật là hâm mộ.

Văn Hiến cười nói:

- Hai người đừng tâng bốc tôi nữa có được không.

Bạch Mai nở nụ cười thật xinh:

- Là muội nói thật lòng đó. Thôi, bọn cháu ra ngoài dạo thăm cảnh chùa để bá bá và Trương huynh hàn huyên với nhau.

Văn Hiến nói:

- Cảm ơn Bạch muội!

Đợi Hồng Liệt và Bạch Mai đi khỏi, Văn Hiến thưa:

- Mời thầy ngồi. Tám năm qua thầy đã đi những đâu, sao không ghé qua Phú Xuân cho con gặp mặt?

Nho hiệp ngồi xuống ghế, Văn Hiến rót nước trà mời thầy. Nho hiệp uống ngụm trà xong đáp:

- Thầy đi nhiều nơi lắm. Ở Trung thổ mất năm năm, nhiều nhất là vùng Quảng Đông, Phúc Kiến để nghiên cứu võ học Nam Thiếu Lâm. Từ ngày hỏa thiêu Thiếu Lâm Tự ở Phúc Kiến, năm đại đệ tử của Hồng Mi lão tổ đã lập ra nhiều môn phái riêng biệt. Thầy quanh quẩn ở đó để nghiên cứu võ học của các phái đó.

- Thầy về nước lúc nào? Sao thầy lại vào tận nơi đây?

- Phật Chiếu thiền sư là bạn cũ của thầy lúc ông ta còn ở Thuận – Quảng. Thầy vào đây để cùng ông ta nghiên cứu một môn võ học. Việc đó thầy sẽ nói sau. Phần con, tám năm nay đã làm những gì? Công phu tiến triển đến đâu rồi?

Văn Hiến bèn kể lại tất cả những việc mà chàng đã gặp trong thời gian qua. Nho hiệp nghe chàng nhắc đến Thiên Ưng lão quỉ thì giật mình nói:

- Đụng tới lão này thì hơi phiền toái đó. Con chưa phải là đối thủ của ông ta. Cũng chưa biết ông ta có bỏ công tìm sang đây để trả thù cho đồ đệ không? Dù vậy để thầy truyền cho con thêm một ít võ công, may ra con có thể chống chọi được với “Thiên ưng trảo” của lão. Còn về chuyện hẹn gặp bọn Kim Cương Môn sắp tới con dự định thế nào?

- Con dự tính sẽ đấu cầm chừng, sau đó con sẽ để cho họ đánh bại.

- Lý do?

- Con muốn tạo cho họ sự kiêu ngạo mà lơi lỏng cảnh giác, hành động lỗ mãng, nóng vội và táo bạo hơn. Từ đó con sẽ tìm cách dò la mọi chuyện họ đã làm là nhằm mục đích gì. Nếu con đánh bại họ, chỉ e vì bỉ mặt, họ sẽ giết hết người này đến người khác để khiêu chiến, đồng thời họ sẽ cảnh giác hơn.

- Ý của con khá lắm! Bỏ cái sĩ diện cá nhân để đạt mục đích lớn. Tuy nhiên, Kim Cương quyền của Phùng Đạo Đức hết sức cương mãnh, học trò lớn của ông ta không thể coi thường được. Con chịu một quyền để giả bại không phải là chuyện đơn giản đâu.

Văn Hiến biết thầy lo cho mình nên trấn an:

- Chắc không đến nỗi nào đâu. Con sẽ dùng nhu lực cố hóa giải kình lực của Kim Cương quyền. Nếu không chịu trúng một đòn thật, e rằng khó qua mắt được bọn họ.

- Thầy sẽ cho con một chiếc áo giáp để hộ thân. Áo này được dệt bằng loại tơ vùng Tân Cương – Tây Tạng rất bền. Nó có thể giúp con chịu đựng một quyền mà vô hại. Ngay cả đao kiếm cũng không đâm thủng nó được.

- Con đội ơn thầy! Hôm phó ước, thầy có đến đó với con không?

- Thầy sẽ đến nhưng không nên để cho ai biết.

- Dạ, con biết!

- Ngày mai con trở lại, thầy sẽ bắt đầu truyền lại cho con những sở học mà thầy đã nghiên cứu trong tám năm qua. Đây hầu hết là các môn võ dùng để đối kháng với võ thuật Trung Hoa, đặc biệt của Thiếu Lâm tự.

Văn Hiến cảm động đến rơi lệ, chàng nhìn sư phụ bằng ánh mắt tràn ngập niềm yêu kính:

- Thầy cho con mọi thứ, trong khi con chẳng làm được tích sự gì để cho thầy vui. Con thật thấy hổ thẹn.

Nho hiệp đứng lên vỗ vỗ vai chàng an ủi:

- Con không nên thất vọng. Tương lai còn dài, khi thời chưa tới thì hãy trì chí tu thân, lúc thời cơ đến mới có đủ tâm cơ mà đoạt thời đạt thế. Đó là đạo tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ của người quân tử.

- Dạ con nhớ!

Sực nhớ lại bức tranh Viên Viên Dung, chàng bèn hỏi:

- Thầy còn giữ bức tranh Viên Viên Dung lúc trước ở đây không?

- Còn, con hỏi nó làm gì?

Chàng bèn đem việc Lý Dung Dung kể lại cho nho hiệp nghe. Chàng nói:

- Cô ta rất muốn được nhìn thấy chân dung của Trần Viên Viên. Có lẽ họ có quan hệ gì với nhau không chừng. Cả tên Lý Văn Quang gì đó nữa.

- Hay lắm! Con cứ đưa cô ta đến đây. Hay để thầy họa thêm một phiên bản khác rồi con tặng cho cô ta thì hay hơn.

- Dạ. Nhưng hãy để sau cuộc hẹn.

Nho hiệp ra dấu cho Văn Hiến cùng nhau bước ra phía trước cửa chùa. Ông nhìn quang cảnh quanh chùa hỏi:

- Con thấy vùng đất này thế nào?

Văn Hiến đưa mắt nhìn xa xôi đáp:

- Vùng đất này sơn kỳ thủy tú. Trấn thủ Nguyễn Phan Long và ký lục Phạm Khánh Đức quả là những người có nhãn quan sâu rộng mới chọn nơi đây để dựng nên Văn Miếu. Con cho rằng miền đất này sẽ sản sinh ra nhiều bậc hiền tài có thể giúp vua chúa dựng nên nghiệp lớn. Đó là về mặt nhân sự, còn về mặt phong vật, miền nam trù phú này có thể dùng làm chỗ dựa cho bậc đế vương tranh hùng với thiên hạ. Về lâu dài, đây sẽ là chỗ dựa cho cả nước ta.

Nho hiệp nở nụ cười thỏa mãn:

- Nhận xét khá lắm! Nhưng có một nơi mà ta có thể dùng đến năm chữ “địa linh xuất nhân kiệt” đúng với nguyên nghĩa của nó.

- Đó là nơi nào, thưa thầy?

- Tây Sơn!

- Tây Sơn à? Con chỉ mới đến phủ Quy Nhơn chứ chưa lên đến miền trên đó. Nhưng con sẽ thăm qua cho biết.

Ánh mắt của vị nho hiệp sáng hẳn lên:

- Thế đất ở đó, núi sông như được trời đất sắp sẵn để sản sinh nhân kiệt. Năm ngoái thầy trở lại quan sát một lần nữa thì thấy linh khí ẩn hiện khắp núi sông trong vùng, đó là dấu hiệu anh hùng sắp xuất hiện và cũng là điềm trời cho biết đất nước sắp loạn ly. Con thấy tình hình đất nước mình hiện nay thế nào?

Văn Hiến thận trọng trả lời:

- Lòng người đang hoang mang vì lời sấm truyền quái ác. Phủ Chúa cũng vì thế mà có nhiều biến đổi. Nạn cường thần đang bắt đầu nhen nhúm. Con e là sẽ có biến loạn lớn.

- Đúng vậy! Tuy giang sơn chúng ta chia hai phủ Chúa, đánh giết nhau như hai đất nước riêng rẽ nhưng quan hệ máu thịt của đồng bào Việt tộc không bao giờ cắt đứt. Sự phân chia đó chỉ có tính tạm thời, rồi sẽ có một ngày thống nhất lại thôi. Đây là điều con phải ghi tạc trong lòng. Đàng Ngoài giờ đã tan nát, đồng bào đang lũ lượt bỏ trốn, mang theo sự đói khổ vào Đàng Trong. Nếu lòng trời ghét bỏ, chỉ cần một vài năm thiên tai hạn hán giáng xuống thì cả Đàng Trong cũng sẽ tan nát theo. Lời sấm không phải vô cớ mà xuất hiện trong dân gian. Nếu con có lòng với dân tộc thì sắp đến lúc con phải dấn thân rồi đó.

- Dạ! Có vài người bạn cũng khuyên con nên về giúp cho quan nội hữu Trương Văn Hạnh, con dự định sau chuyện ở Cù lao Phố sẽ bắt đầu.

Nho hiệp trầm ngâm:

- Đạo của người quân tử là lấy chữ trung làm đầu. Nhưng sự tồn vong của quốc gia, dân tộc, của hạnh phúc muôn dân mới là tối hậu. Chữ trung đem đặt sai chỗ sẽ trở thành ngu trung. Lẽ xuất xử sau này do con quyết định, thầy chỉ nói bấy nhiêu thôi.

Văn Hiến cúi đầu đáp:

- Con xin ghi nhớ lời thầy dạy. Thầy lại có ý định bỏ con đi nữa hay sao?

Nho hiệp nhìn chàng bằng ánh mắt ấm áp:

- Thầy đã không màng đến lợi danh, cả tên mình cũng không dùng đến. Sở học bình sinh đã có con tiếp nhận, thầy mãn nguyện lắm rồi. Mai này con phải tự lo lấy mọi việc.

Văn Hiến rưng rưng nước mắt:

- Dạ, con quyết không để sở học của thầy mai một vì con.

Lúc đó Hồng Liệt và Bạch Mai trở lại, vị nho hiệp nhìn ba người nói:

- Các con về đi, Hiến nhi mai trở lại gặp thầy.

Cả ba cúi đầu, Hồng Liệt và Bạch Mai đồng thanh nói:

- Chúng con chào bá bá!

Nho hiệp nhìn theo bóng ba đứa trẻ phóng ngựa khuất sau rừng cây, chợt buông tiếng thở dài lẩm bẩm một mình:

- Anh tài trong lớp trẻ xuất hiện khắp nơi. Đất nước này lại sắp rơi vào những tháng ngày tao loạn nữa rồi. Hà!

Có tiếng của Phật Chiếu thiền sư vang lên phía sau lưng:

- Lê huynh lại cảm thán cho tiền đồ của dân tộc nữa đó à?

Nho hiệp không quay lại, mắt dõi xa xăm đáp:

- Đất nước ta qua mấy ngàn năm lịch sử, việc thịnh suy, được mất vẫn mãi lặp đi lặp lại y một tiết điệu cũ. Nước nội loạn thì giặc ngoại xâm sẽ tràn vào. Vấn đề đối kháng Trung Hoa muôn đời vẫn là nỗi đau máu thịt. Nhà Thanh dưới thời Càn Long đang rất hùng mạnh, chỉ cần có một lý do nhỏ, họ sẽ không bỏ qua cơ hội xâm chiếm mảnh đất này đâu. Đàng Ngoài tan nát, Đàng Trong bắt đầu loạn lạc, nhà Lê còn đó cũng như không, sư bác nghĩ xem tiền đồ đất nước rồi sẽ ra sao?

Phật Chiếu bước đến đứng cạnh nho hiệp, mắt nhìn xuống dòng Đồng Nai đang lấp lánh ánh mặt trời ở phía trước đáp:

- Lê huynh rời bỏ hoàng tộc, suốt đời chu du khắp thiên hạ để mong tìm ra giải pháp thống nhất đất nước và dân tộc thành một khối. Tiếc rằng sự chia cắt hai miền đã quá lâu, giờ đây Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và Chúa Nguyễn ở Đàng Trong cứ nghĩ rằng họ đang cai trị trên hai đất nước riêng biệt nên cố sống, cố chết để giữ lấy quyền lợi cho riêng mình. Chẳng thế mà đã có hơn bảy cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, máu con dân Việt tộc nhuộm đỏ sông Gianh. Thế cờ này nếu không có một vị minh quân kiệt xuất không thể giải được. Không khéo lại bị bọn Mãn Thanh kiếm cớ nhòm ngó sang, chừng đó đất nước này càng nát bét hơn.

Nho hiệp thở dài:

- Đúng vậy! Tiếc rằng chưa biết khi nào mới có một vị minh quân kiệt xuất như sư bác vừa nói ra đời. Có một điều đáng mừng là tuy đất nước chia đôi, hai chính quyền vì tư lợi mà thù địch nhau nhưng người dân cả hai miền hãy còn chảy chung một dòng máu Việt tộc.

- Lê huynh đi nhiều, xin cho biết rõ hơn.

- Người dân ở Đàng Ngoài khi khốn khó, đói khổ liền nghĩ ngay đến chuyện lánh vào Đàng Trong để nương tựa. Người dân Đàng Trong khi thấy đồng bào của mình vào đây lánh nạn đã tỏ một thái độ bao dung chứ không có sự thù hằn, ghét bỏ. Đó là điều rất đáng mừng.

- Nhưng dân Đàng Trong cũng chỉ là những người mới vào Nam khai mở đất đai của người Chiêm và Chân Lạp để lập nghiệp nên chưa lấy gì làm sung túc lắm, nay phải cưu mang những người anh em đói khổ nữa, e rằng họ cũng sẽ rách nát theo.

Nho hiệp dõi mắt nhìn xa hơn, đưa tay chỉ một vòng rộng lớn nói:

- Cho nên Chúa Nguyễn cần mở rộng và khai thác gấp vùng đất trù phú này. Tôi đã xuống tận vùng Mỹ Tho, Long Hồ... và thấy được rằng miền đồng bằng dọc hai bên sông Cửu Long là một kho lương thực rất lớn, có thể nuôi dân cả nước. Chỉ e việc mở mang này sẽ không nhanh bằng việc nội chính Đàng Trong đang dần suy sụp.

- Lúc nãy huynh đã nói nhân tài lớp trẻ xuất hiện nhiều, điều này không phải đáng mừng cho đất nước sao?

- Mừng thì có mừng, nhưng đó cũng là dấu hiệu của tao loạn. Cái nghịch lý ấy sư bác cũng biết mà.

- Không phải Lê huynh đang chờ đợi một cuộc tao loạn lớn để có thể thay đổi toàn triệt bộ mặt đất nước hiện nay sao?

Nho hiệp thở dài buồn bã:

- Vâng, chỉ có như thế đất nước mới mong có sự thống nhất trở lại, nhưng bù vào đó, người dân vô tội phải chịu đựng những mất mát, đau khổ một lần nữa. Không khéo lại rơi vào ách nô lệ của giặc ngoại bang như sư bác vừa nói.

Phật Chiếu chắp tay niệm Phật hiệu:

- A Di Đà Phật! Đức Phật từ bi xin phổ độ chúng sanh. Chúng ta sẽ phải làm gì?

Nho hiệp trầm ngâm:

- Vài cá nhân đơn lẻ như chúng ta thì làm được gì? Chỉ hi vọng khi việc đến, lòng mọi người đều hướng vọng, trông mong, thì sự đồng vọng đó hợp cùng khí thiêng sông núi, anh linh của tổ tiên sẽ hun đúc ra một vị anh hùng, một vì chân chúa.

- Học trò của Lê huynh thì sao?

- Hiến nhi chỉ có tài quân sư, phò tá chứ không phải là người có chí định bá đồ vương. Chỉ mong cơ duyên đưa đẩy cho nó gặp được chân chúa để phò.

- Lê huynh không tin vào hai họ Trịnh và Nguyễn?

- Không! Điềm trời đã báo, chưa biết chừng nào nhưng tôi đoán ngày sụp đổ của hai họ này sớm muộn gì cũng sẽ đến. Mà có nội biến thì sẽ có ngoại xâm.

- Cho nên Lê huynh bỏ công lặn lội ở Trung Quốc bao nhiêu năm để nghiên cứu võ học hầu sau này giúp lớp trẻ Đại Việt có đủ năng lực mà đối kháng với Trung Hoa?

- Đúng vậy! Nam Thiếu Lâm gặp nạn, nhưng cũng vì thế mà hiện nay ở miền nam Trung Quốc đã nảy sinh rất nhiều võ phái khác nhau. Cùng với phong trào phản Thanh phục Minh, sĩ phu khắp nước Trung Hoa không ngừng phát triển võ thuật. Có điều giờ đây nhà Thanh đã quá hùng mạnh, lớp sĩ phu đó cuối cùng cũng sẽ thuần phục Thanh triều. Do đó nếu có họa xâm lăng nước ta thì nền võ thuật đó sẽ góp một phần sức rất lớn cho giặc.

- Lê huynh định thế nào?

- Tôi đã phủi sạch việc đời, nhưng vì tiền đồ của dân tộc, công sức của tổ tiên nên bao năm nay tôi mới chịu khó bôn ba. Nay cũng đã sắp đến lúc nhắm mắt, tất cả chỉ còn biết trông cậy vào Hiến nhi, vào lớp trẻ. Tôi có ý nhờ sư bác truyền thụ môn nội công mà sư bác đã nghiên cứu cho Hiến nhi để sau này nó phổ biến lại trong dân gian, dùng đó làm nền tảng cho Việt võ đạo.

Phật Chiếu mỉm cười:

- Đây là kết quả của sự kết hợp công phu Thiền môn và Huyền công của Lê huynh chứ đâu phải riêng tôi. Việc truyền lại cho hiền đồ là lẽ tất nhiên rồi. Có điều Lê huynh giao toàn bộ trọng trách vào một người, không biết hiền đồ có thể đảm đương nổi không?

Nho hiệp thở dài:

- Tận nhân lực nhi tri thiên mạng. Chúng ta cứ tận hết sức mình.

- A Di Đà Phật! Lành thay! Lành thay!

Nho hiệp chợt hỏi:

- Sư bác nhìn thấy chàng thanh niên họ Đinh bạn của Hiến nhi thế nào?

- Tốt lắm! Căn tâm tốt, cốt cách tốt. Cũng là một nhân tài luyện võ.

- Sao sư bác không nghĩ đến chuyện truyền thụ sở học của mình cho chàng ta để hắn có thể giúp Hiến nhi một tay?

- Vậy thì phải hỏi sư phụ của chàng ta là ai và hắn có chịu học hay không.

- Ngày mai tôi sẽ bảo Hiến nhi hỏi.

***​
 

Vu Thanh

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/7/16
Bài viết
24
Gạo
0,0
Hôm sau, Bạch Mai biết Văn Hiến có nhiều việc riêng với thầy mình nên nàng nhờ chàng mang hộ số tiền cúng dường lên Long Thiền tự. Văn Hiến cảm ơn sự tế nhị của nàng, một mình lên ngựa phóng nhanh về chùa. Nho hiệp đưa cho chàng một tấm áo giáp màu đen bảo:

- Con mặc áo này để hộ thân. Nay còn cách ngày hẹn bảy hôm, con ở đây để thầy truyền lại những gì đã nghiên cứu được trong thời gian qua cho.

Văn Hiến đáp:

- Dạ!

Chờ Văn Hiến mặc áo xong, nho hiệp dẫn chàng ra phía sau chùa, nơi đó có một gian nhà khá rộng nằm ẩn kín dưới rừng cây rậm rất yên tịnh. Trước khi bắt đầu truyền thụ quyền thức, ông giảng giải:

- Người Trung Hoa to lớn hơn người Việt, võ Thiếu Lâm lại chủ về dương cương nên quyền pháp của họ vì thế rất dũng mãnh. Để đối phó với sự cương mãnh, chúng ta chủ yếu dùng nhu nhuyễn để chế thắng. Bộ quyền pháp này sẽ bổ sung thêm cho Miên quyền mà con đã học lúc trước nhưng cao thâm hơn một bậc, nó đòi hỏi người tập luyện phải đạt được tâm, ý hợp nhất, đó là chữ “định”. Sau đó tâm, ý và thân, tức quyền thức, cũng phải hợp nhất. Đạt được cả tâm, ý, thân hợp nhất tức là quyền pháp ở ngay nơi ý tưởng, tâm nghĩ thế nào quyền sẽ ra thế ấy. Chừng đó quyền pháp sẽ rất tùy tiện, không còn câu nệ tới chiêu thức đã học ban đầu. Nhà Phật gọi đó là cảnh giới vạn pháp giai không. Lý thuyết này cũng áp dụng cho binh khí. Con nghe kịp không?

- Dạ kịp. Đạt đến trình độ đó tức là đạt đến chữ “vô”. Vô chiêu, vô thức, vô bỉ, vô thử. Tâm động thế nào thì chiêu thức ra thế ấy.

Nho hiệp gật gù:

- Giỏi lắm! Nguyên tắc chính của Miên quyền là “tá lực đả lực”. Điều này con đã biết. Con còn phải biết thêm một điểm mấu chốt hết sức quan trọng nữa là: mọi chiêu thức đều có khởi đầu và kết thúc. Có nghĩa là giữa hai chiêu thức kế tiếp nhau bao giờ cũng có một khoảng trống, đó là yếu điểm của quyền thức. Ta có thể nhắm ngay vào những điểm khởi đầu hoặc kết thúc của chiêu thức mà chế thắng địch. Dù địch có lợi hại, nhanh chóng đến đâu nhưng nếu con đã đạt được chữ “định”, chữ “vô” rồi thì vào cái khoảnh khắc biến chiêu đó của địch cũng đủ để con thủ thắng.

Văn Hiến nghe thầy giảng đến đây thì hai mắt chàng sáng hẳn lên:

- Thưa thầy, như vậy Miên quyền của chúng ta càng liên tục như những vòng tròn không dứt thì càng không có sở hở để địch thủ tấn công?

- Đúng vậy. Như nước chảy không biết đâu là điểm khởi đầu và đâu là điểm cuối, liên miên bất tận. Được như thế thì quyền của địch thủ có đánh vào cũng ví như lấy tay chặt xuống dòng nước, nước rẽ ra rồi lập tức khép lại.

- Như vậy chúng ta cần phải đạt cho được các yếu tính: mềm như nước, vững như sơn, nhanh như báo và mạnh như hổ?

- Đúng vậy. Mềm mà không nhu nhược, vững mà không bất động, nhanh mà không sơ hở, mạnh mà không khô cứng. Nhu mà không nhược thì sẽ bền, vững mà không bất động thì sẽ chắc, nhanh mà không hở thì sẽ bén, mạnh mà không cứng thì không gì bẻ gãy được.

- Trường hợp người ngộ tính không cao, họ lại là số đông thì phải làm thế nào, thưa thầy?

- Võ thuật Trung Quốc lúc này đang ở vào tình trạng trăm hoa đua nở, môn phái rất nhiều, quyền thuật trở nên thiên hình vạn trạng. Trông về lượng thì rầm rộ, oai phong nhưng về tinh đã bị giảm sút rất nhiều. Các môn phái tranh nhau hơn thua ở chiêu thức, chú trọng võ thuật mà rời xa võ đạo. Trường hợp áp dụng cho số đông thì con cần nhớ mấy điều căn bản này: lớn thì sẽ nặng và mạnh nhưng chậm, nhỏ thì sẽ nhẹ và yếu nhưng lẹ. Như vậy Việt võ đạo phải dựa trên căn bản, động và lẹ, ngắn và hiểm, lấy thủ làm công, chặn ở chỗ khởi đầu, đánh ở chỗ chấm dứt.

- Dạ, con đã hiểu.

- Bây giờ thầy bắt đầu dạy các chiêu thức trong pho quyền mới. Con chú ý theo dõi.

Văn Hiến dạ một tiếng rồi ngưng thần theo dõi từng động tác của thầy. Lần đầu, nho hiệp múa chậm từng chiêu thức một để Văn Hiến dễ ghi nhớ, đến lần thứ hai rồi lần thứ ba, Văn Hiến thấy tất cả các chiêu thức bây giờ đã biến mất, đôi tay của thầy di chuyển liên tục thành những vòng tròn như một nét vẽ không dứt. Nho hiệp đi xong bài quyền, dừng tay lại hỏi:

- Con nhận ra được điều gì?

- Những chiêu thức thầy đánh lần đầu đã từ từ biến mất trong lần thứ hai và hoàn toàn biến mất ở lần thứ ba. Lần thứ tư thì chỉ còn là hai tay vẽ những vòng tròn không dứt chứ không còn chiêu thức nữa, hay nói đúng ra là cả bài quyền chỉ còn lại một chiêu.

Nét mặt của nho hiệp rạng rỡ hẳn lên, ông vui vẻ nói:

- Giỏi lắm! Con tự tập luyện đi.

Văn Hiến ngộ tính rất cao, chỉ sau hai ngày luyện tập chàng đã thấu triệt yếu chỉ của quyền pháp. Nho hiệp thấy chàng đã lĩnh hội được bèn đem tất cả những chiêu thức đã nghiên cứu được từ Hồng Gia quyền, Bạch Mi quyền và Kim Cương quyền, Thiếu Lâm chính tông bắc phái, cũng như Võ Đang nhu quyền, vừa chiết chiêu với chàng vừa giảng giải cách phá thế. Chiều ngày thứ sáu kể từ lúc chàng lên Long Thiền tự, sau khi chàng hoàn tất buổi tập, nho hiệp bảo:

- Hôm nay con trở về Trần gia đi. Ngày mốt giao đấu thầy sẽ có mặt ở đó để lược trận. Nên giữ kín việc này, thầy không muốn lộ diện trừ trường hợp bất khả kháng.

- Dạ con hiểu. Bài quyền thầy vừa dạy con tên gọi là gì?

- Thầy không định đặt tên cho nó, nhưng nếu con thích thì hãy cho nó một cái tên.

- Con thấy tinh yếu của bài quyền nằm ở những vòng tròn liên tục, vậy ta cho nó cái tên “Viên Viên Miên Chưởng” được không?

- Nghe được lắm. À, con mang phiên bản bức Viên Viên Dung về cho cô gái đó. Thầy vừa hoàn tất xong. Còn đây là những kiếm phổ, đao phổ... của thập bát ban võ nghệ thầy đã bỏ công nghiên cứu bao nhiêu năm soạn thành. Con giữ lấy để sau này phổ biến lại cho các đời sau.

Văn Hiến nhận các cuốn sách võ học và bức họa rồi theo thầy ra từ giã thiền sư Phật Chiếu. Nho hiệp nói:

- Sư Phật Chiếu có ý định truyền sở học của mình lại cho người bạn của con, con hỏi thăm xem anh ta có đồng ý không? Sư phụ anh ta là ai?

- Dạ là Thần quyền vô ảnh Công Tôn Vũ.

Nho hiệp ngạc nhiên:

- Là Công Tôn Vũ à? Người này là một chí sĩ phản Thanh phục Minh, nhân tài số một của Hoa Sơn phái. Ông ta hiện giờ ở đâu?

- Dạ, đã chết hai năm trước ngoài cửa Hàn.

- Vậy ư? Thật đáng tiếc!

Chàng bèn đem chuyện Trần Đại Định và Công Tôn Vũ kể lại cho nho hiệp và Phật Chiếu nghe. Phật Chiếu than:

- A Di Đà Phật! Thật là tội nghiệt! Một đấng trung lương lại gặp cảnh trớ trêu đến độ bỏ thây xứ người. Cũng may còn có Cai cơ Nguyễn Phúc Triêm giúp đỡ, Trần gia một nhà bao nhiêu mạng mới còn sống sót. Cho nên người ta thường nói “Cửa công là chỗ dễ tu hành” thật đúng.

Văn Hiến hỏi:

- Câu nói đó nghĩa thế nào sư bá?

Phật Chiếu đáp:

- Người làm quan, chỉ cần chấp bút phê vài chữ là có thể giết chết hoặc cứu sống bao nhiêu người. Cho nên công quả của một vị quan thanh liêm, chính trực còn cao dày gấp mấy lần những người đi tu ở chùa như bần tăng.

Nho hiệp nói:

- Con phải ghi nhớ câu nói này để mai sau làm phước cứu người. Thôi con đi đi, nhớ hỏi vị bằng hữu của con việc đó nhé.

Văn Hiến đáp:

- Dạ, đệ tử sẽ hỏi hắn.

Chàng từ giã thầy và thiền sư Phật Chiếu xong lên ngựa phóng về Giản Phố. Chỉ sáu ngày ngắn ngủi bên thầy, nội lực và tinh thần chàng rất sung mãn, võ công tiến triển vượt bậc. Chàng cảm thấy rất vui nhưng chợt nghĩ đến việc thầy lại sắp ra đi, lần này có lẽ là vĩnh viễn thì lòng chùng xuống bởi một nỗi buồn vô hạn. Chàng mồ côi sớm, may gặp sư phụ yêu thương dạy dỗ nên người vì thế từ lâu chàng đã coi người như cha của mình. Giờ nghe ý thầy muốn lánh xa cõi đời mãi mãi mà lòng không khỏi đau buồn, chàng tự nhủ: “Bằng mọi giá mình phải đem sở học bình sinh của thầy truyền lại cho dân Việt để khỏi phụ lòng kỳ vọng và ước muốn của ân sư.”

***​

Sau năm năm khai sáng ra vùng Giản Phố, Thượng Công Trần Thượng Xuyên xây miếu Quan Đế để dùng làm nơi thờ phụng, cầu đảo của những người Hoa theo chân ông đến đây lập nghiệp. Miếu được xây trên một vùng đất rộng, mặt trước của miếu nhìn ra dòng sông Đồng Nai gần hải cảng chính của Giản Phố. Nơi đây còn có hai nhà hội quán của người Quảng Đông và Triều Châu. Cách miếu không xa, cư dân Giản Phố và Trấn Biên cũng lập một miếu thờ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh để nhớ ơn người đã thiết lập chủ quyền chính thức cho vùng Trấn Biên và Phiên Trấn, sáp nhập cả hai vùng đất của Chân Lạp này vào lãnh thổ Đại Việt cuối những năm 1690.

Mấy hôm nay hãng buôn Diệp Sanh Ký và Kim Cương Môn chuẩn bị cho ngày lễ kỷ niệm sáu mươi năm xây dựng miếu và năm năm thành lập Kim Cương Môn ở Giản Phố rất tất bật, chu đáo. Họ lập một sàn đấu võ trước cửa miếu. Một dãy khán đài tạm bằng gỗ được dựng lên ở bên phải, đặt sẵn hai mươi chiếc ghế để cho quan khách bên Trấn Biên và đại diện các thương hiệu lớn ở Giản Phố đến tham dự. Hai mặt còn lại để sẵn gần trăm chiếc ghế nhỏ và những băng ghế dài dành cho khán giả.

Khi bọn người bên Thần Quyền Môn của Trần Đại Kỳ đến nơi, các dãy băng ghế dài đã chật kín khán giả. Hàng ghế trên khán đài còn trống vì những nhân vật chủ yếu của Giản Phố còn đang ở trong miếu làm lễ. Đại Kỳ cũng bước vào trong miếu. Một người thanh niên mặc đồ võ sĩ bước đến chào rồi đưa số người đi theo Đại Kỳ đến hàng ghế đầu ở phía bắc, đối diện với khán đài. Những võ sĩ đang làm việc ở đây đều mặc võ phục màu đen, trên ngực áo mang phù hiệu một nắm đấm có lóe những tia hào quang màu vàng, đó là đồng phục của Kim Cương Môn. Hữu Dụng ngồi ngoài cùng, Bạch Mai ngồi giữa Văn Hiến và Hồng Liệt. Một lát sau quan khách từ trong miếu lần lượt đi ra, một số võ sĩ hướng dẫn họ đến những chiếc ghế trên khán đài. Bạch Mai nhìn qua số người ngồi trên khán đài rồi cúi mặt xuống nói nhỏ với ba người:

- Người ngồi ở giữa dáng bệ vệ là quan Lưu thủ Cường Oai hầu. Người mặt võ phục triều đình, nét mặt cương nghị với hàm râu thiết là cai đội Cẩn Thành hầu, tiếp đến là Trần An Hảo, con út của tướng quân Trần An Bình, rồi đến ca ca, còn lại là những chủ thương hiệu lớn. Người đàn ông có ánh mắt sắc như dao, mặc đồ sang trọng như một vị vương gia ngồi bên trái quan Lưu thủ là ai muội chưa từng gặp. Không lẽ ông ta là vị đại vương gì đó của bọn họ? Chắc ông ta mới đến. Kế bên ông ta là nàng công chúa kiêu kỳ của Trương huynh.

Nói đến đó Bạch Mai mỉm cười rồi thì thào tiếp:

- Nàng đang nhìn về phía chúng ta kìa! Ông già tóc rối bù với chiếc mũi khoằm kia muội cũng chưa gặp qua. Thôi phải rồi, có lẽ lão là Thiên Ưng lão quỉ cũng nên. Lão nhận được tin tên đồ đệ bị phế võ công nhanh đến thế sao? Phen này rắc rối to rồi đó Trương huynh.

Nàng liếc nhìn Văn Hiến, thấy chàng vẫn điềm nhiên như không, trong lòng thầm bội phục. Rồi nàng nói thêm:

- Kế đó là Hà Huy, con người này mắt suốt ngày lim dim, miệng không bao giờ mở. Ca ca nói hắn điều khiển mọi việc của Diệp Sanh Ký ở đây. Cạnh hắn là Tạ Tam, kế nữa là Tạ Tứ, địch thủ của Trương huynh sắp tới. Coi kìa, hắn chốc chốc lại liếc xéo sang trông chừng nàng công chúa, cứ như sợ nàng biến mất không bằng. Trông hắn cũng bảnh trai đó chứ? Chỉ tiếc là đôi mắt hơi nhỏ và cặp lông mày rậm khiến khuôn mặt hắn có vẻ hung dữ, đầy sát khí. Người ngồi cuối cùng là Diệp Hồng Sanh, hắn có lẽ là sư đệ của Tạ Tứ. Hãy nhìn nắm đấm trên ngực áo choàng của ba tên này, có đến năm tia sáng lóe lên, đó là dấu hiệu đệ tử hàng thứ nhất của Kim Cương Môn. Bốn tia lóe là hàng thứ hai, tên Đồng Bách đứng bên dưới kia chỉ có bốn tia thôi. Rồi cứ thế mà giảm xuống dần. Hàng năm Kim Cương Môn có tổ chức những kỳ khảo hạch để thăng cấp cho đệ tử. Ở Giản Phố, các đệ tử đều do anh em họ Tạ và họ Diệp truyền thụ võ công.

Hồng Liệt nói:

- Họ tổ chức môn phái có qui củ như thế là tốt đó chứ. Môn đồ lại rất đông, so với chúng ta họ mạnh hơn hẳn.

Văn Hiến nói đỡ cho Bạch Mai:

- Võ thuật quí tinh chứ không quí đa. Trần huynh mới thu nhận đệ tử có năm năm mà đào tạo được một số người có công phu cũng khá lắm. Về lâu dài, chúng ta sẽ không kém họ đâu.

Lúc ấy một người trung niên mặc lễ phục kiểu người Hoa bước lên sàn đấu, hướng về khán đài cúi đầu chào quan khách xong quay xuống bên dưới chào khán giả chung quanh. Ông nói lớn:

- Kính chào quí quan khách, chào tất cả bà con Giản Phố và các nơi đã về dự buổi lễ mừng sáu mươi năm xây dựng miếu Quan Đế hôm nay. Từ khi miếu được ngài Thượng Công xây dựng, đức Quan Đế đã hiển linh phù hộ cho vùng Giản Phố của chúng ta từ một cù lao hoang dại trở thành một thương cảng sầm uất nhất nhì toàn cõi Đại Việt. Vì cư dân ngày một đông, Giản Phố ngày một phát triển lớn, hôm nay có mặt ngài Lưu thủ và quan Cai đội, Lý vương gia có hảo tâm muốn tặng cho miếu một ngàn lạng vàng để làm kinh phí tu sửa lại miếu lớn hơn, khang trang hơn để đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của mọi người. Chúng tôi xin thay mặt những cư dân Giản Phố cảm tạ tấm lòng quảng đại của Lý vương gia. Xin phép mời Lý vương gia đứng lên để mọi người cùng biết.

Lý vương gia đứng lên, quay sang chào quan Lưu thủ và Cai đội xong thì hướng xuống bên dưới chào khán giả chung quanh. Mọi người vỗ tay đồng thanh nói:

- Chúng tôi xin đa tạ tấm lòng quảng đại của Lý vương gia!

Người phát ngôn lại nói lớn:

- Xin mời đại diện của miếu lên nhận số ngân lượng từ Lý vương gia!

Bốn tên võ sĩ khiêng hai chiếc rương đỏ rất đẹp lên đài. Bốn người đàn ông mặc đồ lễ trong ban đại diện của miếu bước lên đón nhận, cúi đầu chào Lý vương gia và quan Lưu thủ xong tám người xuống lại bên dưới. Người phát ngôn trịnh trọng nói tiếp:

- Thưa quí quan khách và bà con, hôm nay, ngoài kỷ niệm sáu mươi năm xây dựng miếu Quan Đế còn là kỷ niệm đệ ngũ chu niên, ngày thành lập Kim Cương Môn tại Giản Phố. Chúng tôi xin mời vị quyền chưởng môn Tạ Tam có đôi lời về môn phái của mình.

Tạ Tam đứng lên, rời khán đài bước đến sàn đấu. Ông cúi đầu chào Lý vương gia và mọi người bên khán đài xong quay xuống khán giả ôm quyền nói:

- Thưa bà con, Kim Cương Môn thành lập chi nhánh ở Giản Phố không ngoài việc giúp môn sinh rèn luyện thân thể, phổ biến kỹ thuật chiến đấu cho mọi người để phòng khi hữu sự mà còn có thể noi gương Thượng Công lúc xưa giúp dân giúp nước giữ vững cõi bờ. “Thiên hạ công phu xuất Thiếu Lâm”, câu nói này có lẽ ai ai cũng biết, cho nên Kim Cương Môn chúng tôi cũng chỉ là một chi phái của Nam Thiếu Lâm – Trung Quốc. Tuy đã thành lập ở Giản Phố được năm năm nhưng đây là lần ra mắt chính thức đầu tiên của môn phái chúng tôi, chỉ sợ làm trò múa rìu qua mắt thợ nên rất mong quí bằng hữu bên Thần Quyền Môn, trên tinh thần nghiên cứu võ học chỉ điểm thêm cho.

Hắn nói xong ôm quyền hướng về phía Trần Đại Kỳ và Trần An Hảo cúi chào. Hai người họ cũng cúi đầu chào lại. Bỗng có tiếng nói từ dãy ghế khán giả vang lên:

- Hay lắm! Giản Phố chúng ta có hai võ đường mà từ lâu ai cũng biết tiếng đó là Thần Quyền Môn và Kim Cương Môn. Hôm nay nhân dịp ra mắt, mọi người đông đủ sao hai bên không biểu diễn vài màn võ thuật để bà con Giản Phố chúng ta được mở rộng tầm mắt?

Tức thì sau đó có rất nhiều tiếng ủng hộ nhao nhao lên khắp nơi:

- Đúng rồi! Đúng rồi! Biểu diễn hay tỉ thí gì cũng được! Để mọi người được thưởng thức tài nghệ của hai bên.

Tạ Tam ôm quyền nhìn xuống khán giả nói:

- Việc biểu diễn chúng tôi nhất định sẽ có, còn việc tỉ thí chúng tôi không dám quyết. Còn chờ ý kiến của Trần môn chủ.

Đám đông la lớn:

- Trần gia, ông đồng ý đi! Chỉ là nghiên cứu võ học với nhau thôi mà. Hãy cho bà con chúng tôi thưởng thức tài nghệ của hai bên đi.

Trần An Hảo đưa mắt nhìn Đại Kỳ. Chàng mỉm cười không nói gì. Cách nói của Tạ Tam vừa bày tỏ tinh thần thân hữu vừa hàm ý kiêu ngạo khiến Hồng Liệt cau mày:

- Tên này ăn nói rất khéo. Hắn có vẻ tự phụ thái quá về xuất xứ Thiếu Lâm của hắn.

Văn Hiến nói:

- Tự phụ là nhược điểm của người luyện võ. Ngươi đừng bận tâm.

Lại nghe Tạ Tam nói lớn:

- Bà con đừng vội. Cho chúng tôi cống hiến một vài màn mua vui trước đã.

Rồi hắn cúi đầu chào mọi người trở về khán đài đồng thời đưa tay ra dấu cho bọn đệ tử. Một lát sau đã nghe tiếng trống múa lân nổi lên từ bên hội quán Triều Châu vang lại. Đoàn lân do toán võ sĩ Kim Cương Môn biểu diễn những pha rất ngoạn mục, mọi người hoan hô vang dội khắp nơi. Sau khi đoàn lân trở về hội quán, đến lượt các võ sinh hạng hai tia lóe, ba tia lóe và bốn tia lóe lên biểu diễn đủ các môn quyền cước và thập bát ban võ nghệ. Khán giả vỗ tay tán thưởng từng chập một. Các màn biểu diễn vừa xong bỗng có tiếng người la lớn:

- Đến phần tỉ thí đi! Mời Thần Quyền Môn cử người lên đài đi!

Mọi người nhốn nháo lên tiếng ủng hộ đề nghị đó. Trần Đại Kỳ đứng lên ôm quyền nói lớn:

- Bà con nghe tôi nói đây! Việc tỉ thí dù chỉ là để nghiên cứu võ học với nhau nhưng cũng phải tổ chức đường hoàng, hai bên phải thông báo cho nhau trước để có sự thống nhất trong thi đấu. Cho nên, để đáp lại sự yêu cầu của bà con, chúng tôi hứa sẽ tổ chức thi tài vào một ngày nào đó thuận tiện hơn. Xin bà con hiểu cho.

Trần Đại Kỳ vốn rất được lòng mọi người ở Giản Phố nên khi nghe chàng phân trần như vậy mọi người cũng thôi thúc giục chuyện thi đấu. Chợt thấy Đồng Bách bước lên sàn đấu cúi chào quan khách, sau đó hướng xuống khán giả ôm quyền nói:

- Thưa bà con, Trần gia nói đúng. Việc thi tài phải được tổ chức chu đáo để tránh làm tổn thương hòa khí của hai bên. Chúng ta cùng là cư dân Giản Phố cả mà. Hôm nay để bà con có dịp mở rộng tầm mắt, chúng tôi xin giới thiệu một người bạn của chúng tôi, vị đồn thủ ở cửa Đại Cổ Lũy ngoài Quảng Ngãi, người mà trước đây chúng tôi vì vô tình đã có lần giao thủ và đã bị thảm bại dưới tay ông ta. May mắn cho bà con, hôm nay vị đồn thủ này lại có mặt ở Giản Phố và đã nhận lời mời của nhị sư huynh Tạ Tứ của chúng tôi đến đây để gặp mặt. Chúng tôi xin mời vị đồn thủ có biệt danh lẫy lừng Thuận – Quảng, Diệu Thủ Thư Sinh Trương Văn Hiến.

Bạch Mai nghe Đồng Bách ca ngợi tài năng của Văn Hiến thì mỉm cười nói:

- Hắn tâng bốc tài nghệ của huynh là có dụng ý, nếu Tạ Tứ bại sẽ đỡ ê mặt, còn thắng thì Kim Cương Môn của hắn chứng tỏ được tài nghệ hơn đời. Trương huynh cho chúng bẽ mặt một phen đi.

Văn Hiến mỉm cười đứng lên và thong thả bước đến sàn đấu. Nghe Đồng Bách miêu tả nhân vật đồn thủ Diệu Thủ Thư Sinh tiếng tăm vang dội Thuận – Quảng, mọi người cứ đinh ninh trong bụng ắt phải là một người ba đầu sáu tay, nào ngờ khi thấy Văn Hiến bước lên sàn đấu thì tất cả đều chưng hửng. Có người nói:

- Người này là một nho sinh, giống con mọt sách hơn. Chàng ta giỏi thuộc sách vở thánh hiền chứ làm sao hạ nổi Kim Cương thủ Đồng Bách? Tôi thật không tin một người như thế lại có biệt danh Diệu Thủ Thư Sinh!

Một người khác cãi:

- Chân nhân thường không lộ tướng. Bạn cứ chờ xem, đừng vội đánh giá.

Văn Hiến đứng trên đài ôm quyền thi lễ với quan khách và khán giả rồi quay sang chào Đồng Bách:

- Đồng huynh đã quá lời rồi. Chỉ vì công vụ nên tôi mới lỡ tay, đâu dám coi Đồng huynh là thủ hạ bại tướng. Tôi lên đây chỉ vì nể lời mời của Tạ Tứ huynh, nếu chối từ e không phải phép.

Trên hàng ghế quan khách, lão già có chiếc mũi khoằm khi nghe Đồng Bách giới thiệu tên Diệu Thủ Thư Sinh thì sắc mặt bỗng trở nên giận dữ. Lúc thấy Văn Hiến bước lên sàn đấu thì râu tóc lão dựng đứng cả lên như một tổ quạ, mắt lão long lên, lớn giọng gắt gỏng:

- Thằng nhãi con này mà có thể phế bỏ võ công của đồ đệ ta sao? Ta sẽ moi tim ngươi!

Nói xong lão vỗ ghế đứng dậy. Hà Huy ngồi kế bên vội kéo tay lão lại nói nhỏ:

- Chúng ta đã thỏa thuận rồi mà. Hãy đợi sau màn này rồi lão huynh muốn moi tim hay mổ óc hắn, làm gì cũng được. Giờ xin lão huynh bớt giận, đừng phá vỡ chương trình của vương gia.

Bạch y công chúa ngồi bên cạnh nghe lão Thiên Ưng đòi moi tim Văn Hiến thì lo sợ vô cùng. Nàng biết tính tình lão này nóng nảy kiêu ngạo lại ra tay tàn độc, xưa nay lão đã nói thì quyết làm cho bằng được, không ai cản nổi. Nàng đưa ánh mắt lo âu nhìn Văn Hiến, cũng vừa ngay lúc chàng nhìn về phía nàng. Bốn ánh mắt gặp nhau, cả hai đã nhận được những điều muốn nói. Văn Hiến có ý bảo rằng mọi việc không có gì đáng lo. Nhìn thấy ánh mắt đó, công chúa mỉm cười bằng mắt đáp trả. Những tia mắt trao đổi kín đáo đó tuy thoáng qua thật nhanh nhưng cũng không thoát khỏi sự quan sát của Tạ Tứ. Lúc đầu, bọn Kim Cương Môn muốn Tạ Tứ đấu với Văn Hiến chỉ là để phô trương võ thuật bản môn và trả mối thù đã phá hoại việc làm ăn của họ. Nhưng từ lúc nghe bọn đệ tử bàn tán chuyện công chúa uống rượu thân mật dưới trăng cùng Văn Hiến thì máu ghen nổi lên trong lòng Tạ Tứ. Hắn thầm hứa sẽ cho tên khốn kiếp kia một trận thừa sống thiếu chết mới hả dạ. Từ lâu hắn vẫn luôn ôm mộng thầm yêu nàng công chúa kiều diễm vô song này nhưng nàng chưa hề nhìn hắn bằng nửa con mắt. Hôm nay lại chứng kiến cảnh hai người đưa mắt tình tứ như thế, máu trong người hắn bỗng sôi lên sùng sục. Hắn đứng lên nói với lão Thiên Ưng:

- Lão nhân gia hãy để cho tiểu bối lãnh giáo với hắn ta trước đã.

Xong hắn không đợi Đồng Bách lên tiếng giới thiệu mình mà cúi đầu chào vị vương gia rồi nhún chân nhảy vọt lên sàn đấu. Tấm áo choàng của hắn bay phần phật trong gió. Hắn đáp xuống sàn đài một cách nhẹ nhàng, vô cùng đẹp mắt. Mọi người vỗ tay tán thưởng:

- Thân pháp tuyệt đẹp!

Bạch Mai nói nhỏ với Hồng Liệt:

- Mọi người chưa thấy thân thủ của sư huynh, nếu họ thấy chắc họ sẽ khen bể cả trời luôn.

Hồng Liệt đưa ngón tay lên miệng:

- Sụyt! Hắn là tay đáng gờm đó. Nhìn ánh mắt đầy sát khí như đang muốn ăn tươi nuốt sống tên đồ gàn kìa, chắc là hắn ăn phải dấm chua rồi.

Tạ Tứ đứng đối diện Văn Hiến, mắt sắc như dao, khí thế hùng dũng, trong khi Văn Hiến phong thái vẫn điềm nhiên như một chàng thư sinh đang vãng cảnh. Văn Hiến thầm nghĩ: “Tên này sát khí mạnh thật, nhưng nóng nảy quá”. Còn Tạ Tứ lại nghĩ: “Ngươi cứ thong thả chờ đó mà nhận đòn. Ta không đánh ngươi quì gối van xin ta tha cho trước mặt nàng thì ta không phải là Tạ Tứ!”. Nghĩ xong hắn cố nén cơn giận, ôm quyền thi lễ:

- Tạ Tứ tôi nghe đại danh của thủ Hiến nên vô phép muốn được ngài chỉ giáo để mở rộng thêm tầm mắt, xin thủ Hiến tận tình đừng khách sáo. Quyền cước vô tình, tôi có bị trúng dăm ba đòn nặng cũng không dám trách thủ Hiến.

Văn Hiến nhìn ánh mắt đầy sát khí và cách nói của hắn thì biết ngay hắn sẽ hạ độc thủ. Chàng tươi cười đáp:

- Chỉ giáo thì tôi thật không dám. Tôi lên đây gặp Tạ huynh hoàn toàn chỉ vì không tiện từ chối lời mời mà thôi. Xin Tạ huynh nương tay.

- Được! Mời thủ Hiến!

Hắn nói xong, cởi tấm áo choàng đưa cho Đồng Bách. Đồng Bách đón lấy rồi lui xuống khỏi võ đài. Tạ Tứ ôm quyền chào rồi xuống tấn, một tay đưa về phía trước mở cương đao dựng thẳng đứng, một tay nắm quyền vòng cao qua đầu thủ thế chuẩn bị ra đòn. Văn Hiến chân hơi mở rộng ra, hai tay vẫn buông thõng trong tư thế thật thoải mái. Mới nhìn qua cách thủ thế của hai đấu thủ trên đài, mọi người đều nhận ra hai phong cách trái ngược nhau. Một bên cường mãnh như hổ, còn một bên mềm mại như ngọn roi mây. Người bình thường nhìn thấy nghĩ ngay rằng chỉ một đòn, Tạ Tứ sẽ đánh cho thủ Hiến bay khỏi võ đài ngay, nhưng danh gia võ học thì lại có cách nhìn khác đi. Tạ Tứ thấy cách thủ thế bỏ ngỏ của địch thủ cũng chợt giật mình vì hắn không biết nên tấn công vào đâu.

Sau một thoáng lúng túng, hắn hét lên một tiếng, chân lướt tới, hai tay quyền một âm một dương, một cao một thấp, một trước một tiếp liền theo sau tấn công vào các bộ vị tả hữu, trên dưới của địch thủ. Bằng lối trường quyền, thẳng và dũng mãnh này, Phùng Đạo Đức đã giúp cho nhà Thanh tiêu diệt được rất nhiều nghĩa sĩ của Thiên Địa Hội trong những năm qua, buộc Chí Thiện thiền sư phải nghĩ ra cách đánh Trường Kiều của Hồng Gia quyền, lối đánh tay vòng cung kết hợp sự cương mãnh của Thiếu Lâm và nhu công của Võ Đang để chống lại.

Trước cú đánh dũng mãnh của Tạ Tứ, chỉ thấy Văn Hiến ung dung đưa hai tay uyển chuyển khoanh những vòng tròn cuốn theo cánh tay của địch thủ rồi nhẹ nhàng hất ra. Tạ Tứ đã được Đồng Bách kể lại cách đánh của thủ Hiến nên hắn không mấy ngạc nhiên trước sự phản đòn này. Hắn liền biến chiêu, những cú đánh của hắn kết hợp với những chiêu thức của La Hán quyền và Kim Cương quyền tấn công như vũ bão, quyền ảnh mịt mờ, quyền phong gió rít vù vù không ngớt. Văn Hiến hai tay vẫn dùng những vòng tròn đỡ gạt thế công của địch thủ, bộ pháp di chuyển nhanh hơn, thỉnh thoảng chàng lại tấn công một chiêu thật bất ngờ và hiểm hóc làm Tạ Tứ phải thoái bộ né tránh. Trận đấu càng về sau càng nhanh, những tiếng hét của Tạ Tứ càng lớn và càng phẫn nộ hơn. Tất cả mọi người như nín thở, căng mắt lên để theo dõi trận đấu, đôi lúc hét to “hay quá”, “chết rồi” để cổ vũ. Khuôn mặt lạnh lùng của Lý Dung Dung bây giờ trông thật căng thẳng, ánh mắt của nàng chứa đầy sự lo âu. Bạch Mai cũng không khỏi phập phồng lo sợ, nàng nói nhỏ với Hồng Liệt:

- Tên Tạ Tứ này quả nhiên là nguy hiểm. Hắn ra đòn vừa mạnh vừa hiểm độc vô cùng. Trương huynh nãy giờ chỉ có thủ mà không có công.

Hồng Liệt nói nhỏ:

- Tên đồ gàn lại đang giở trò nghiên cứu võ thuật của Kim Cương Môn đó. Hắn chỉ đánh đủ để cho Tạ Tứ giở hết các tuyệt chiêu ra. Coi bộ sắp có kết quả rồi.

Hữu Dụng cũng nói nhỏ:

- Tôi cũng có suy nghĩ giống cậu vậy. Tiểu thư đừng lo.

Chợt nghe tiếng thét vang động khắp lôi đài của Tạ Tứ, đồng thời với tiếng thét là song quyền của hắn tấn công vào hạ bàn của Văn Hiến. Chàng đang đứng gần mép sàn đấu không còn đường thoái lui để tránh né nên buộc phải tung người lên cao, nhảy vọt ra phía sau lưng Tạ Tứ, miệng cũng hét lên:

Hay lắm!

Chân vừa chạm đất Văn Hiến đã xoay người lướt tới bên phải đưa tay định vỗ vào lưng Tạ Tứ. Nhưng nhanh như chớp, không quay người lại, hắn tung chân từ dưới thấp đá ngược lên trúng ngay vào ngực của Văn Hiến. Cú đá mạnh như trời giáng đã hất tung thân người mảnh khảnh của Văn Hiến lên cao, như diều đứt dây bay về phía bọn Hồng Liệt đang ngồi. Có nhiều tiếng la thất thanh vang lên:

- Á!!!

- Chết rồi...

Hồng Liệt vội tung người lên, hai tay đỡ gọn thân hình Văn Hiến rồi uốn cong người đáp tà tà về chỗ ngồi. Chàng đặt Văn Hiến lên ghế, đã thấy sắc mặt Văn Hiến tái xanh không huyết sắc, miệng ứa máu tươi, hơi thở nặng nề, đứt quãng. Bạch Mai lo lắng nắm tay Văn Hiến hỏi:

- Trương huynh cảm thấy trong người thế nào? Chúng ta về đi. Muội mời vị lương y gần nhà đến gấp để điều trị cho Trương huynh.

Văn Hiến hé mắt thấy ba người đứng bu quanh che kín mọi hướng liền mỉm cười nói nhỏ:

- Không có gì đâu. Nhưng đừng để bọn chúng biết. Bạch muội cứ lo run lên đi.

Ba người bấy giờ mới biết là Văn Hiến đã chịu trúng đòn giả thua nên thấy an tâm trong lòng nhưng ngoài mặt vẫn làm bộ lo lắng. Hồng Liệt móc trong túi ra một viên thuốc bỏ vào miệng Văn Hiến, xong đứng lên đưa lưng cõng Văn Hiến định về nhà. Lôi đài nãy giờ im phăng phắc bỗng náo động cả lên. Tạ Tứ hạ được đối phương trong lòng dương dương tự đắc. Hắn hướng về phía Lý vương gia cúi đầu chào, vẻ mặt lộ ra niềm kiêu hãnh và đắc ý. Nhưng khi nhìn sang công chúa thì hắn lại thất vọng ê chề, lòng đau như cắt. Qua ánh mắt sắc lạnh của nàng, hắn đọc được nỗi phẫn hận vô biên trong đó. Hắn vội quay mặt sang quan Lưu thủ và Cai đội chắp tay nói:

- Quyền cước vô tình, xin hai vị quan gia bỏ qua cho.

Hắn nói thế là có ý tạ lỗi về việc đả thương người của quan nha. Hắn được cai đội Cẩn Thành hầu đáp trả lại bằng một tia mắt vừa bén như dao vừa lạnh như tiền. Tạ Tứ vội quay sang chào khán giả lần nữa rồi hiên ngang trở về khán đài. Dưới này bọn Hồng Liệt cõng Văn Hiến bỏ đi. Bỗng có tiếng hét lớn:

- Đứng lại đó!

Chỉ thấy cả người của Thiên Ưng lão quỉ như một con chim ưng lao khỏi ghế bay sang đáp xuống sàn võ đài. Lão ta nhìn bọn Hồng Liệt nói lớn:

- Trao thằng nhãi con này lại cho ta! Hắn phế võ công của đồ đệ ta, ta phải moi tim hắn để trả thù.

Cẩn Thành hầu Nguyễn Cư Cẩn vội đứng lên rồi tung người sang võ đài nói lớn:

- Không được! Người thanh niên này là đồn thủ của triều đình. Anh ta lại đang bị thương chưa biết sống chết thế nào, lão nhân huynh trả thù cho đệ tử mình trong lúc này thì sao xứng với thân phận của một tiền bối tiếng tăm lừng lẫy?

Thiên Ưng lão quỉ quay sang Cẩn Thành hầu trợn mắt nói:

- Ta không có thời gian chờ đợi, cũng không cần biết hắn là người của ai. Dù hắn là người của Thiên triều ta cũng giết, đừng nói gì một chức quan nhỏ xíu của xứ An Nam.

Câu nói đầy tự phụ và coi rẻ người Đại Việt đã làm Cẩn Thành hầu nổi giận phừng phừng. Ông ta gằn giọng:

- Ngươi muốn giết hàng trăm tên quan lại của Thiên triều gì đó của ngươi thì cứ mặc sức mà giết, nhưng một viên quan nhỏ của Đại Việt cũng không thể đụng tới. Ngươi phải nhớ kỹ điều này.

Thiên Ưng lão quỉ bỗng ngửa mặt lên cười một tràng dài. Tiếng cười của hắn ta như tiếng ma quỉ khóc. Dứt tràng cười hắn nói:

- Không được đụng tới một viên quan nhỏ của Đại Việt ư? Ha ha... Ta nghe nói ngươi là một danh tướng có tài của An Nam, ngươi định cản ta chăng? Nể tình Lý vương gia, ta cho ngươi trong vòng hai mươi chiêu, nếu ta không đả bại được ngươi thì ta sẽ bỏ về Trung Quốc ngay, không nói tới việc thù oán gì nữa cả.

Bỗng có tiếng nói bên dưới đám khán giả vang lên:

- Không cần đến quan gia Cẩn Thành hầu ra tay, để cho bọn dân hèn Đại Việt này thay mặt tiếp lão huynh hai mươi chiêu được không?

Dứt tiếng nói, một bóng người từ dưới dãy ghế khán giả nhẹ nhàng bay lên đáp xuống võ đài. Người đó cúi chào Cẩn Thành hầu nói:

- Quan gia cho phép kẻ thứ dân này thay mặt đánh cuộc với vị lão huynh đây được chăng?

Cẩn Thành hầu nhìn thân pháp và phong thái ung dung của người mới lên đài trong lòng đã có ngay cảm giác kính trọng và tin tưởng. Ông không ngần ngại nói:

- Được! Nhờ lão nhân huynh vậy.

Nói xong ông ôm quyền chào rồi quay trở về chỗ ngồi. Thiên Ưng lão nhân đưa ánh mắt hung tợn của chim ưng nhìn người đàn ông mới lên đài hất hàm hỏi:

- Ngươi là ai? Xưng danh đi!

Người nọ đáp:

- Tôi chỉ là một người lang bạt đó đây với gió trăng non nước, có xưng tên họ ra lão huynh cũng không thể biết được.

Thiên Ưng gằn giọng:

- Nhà ngươi định đánh cược với ta ư? Có biết ta là ai không?

Người nọ điềm đạm đáp:

- Biết chứ! Uy danh của Thiên Ưng lão nhân oai trấn cả hai miền đại giang nam bắc, tôi tuy là kẻ vô danh nhưng vẫn từng nghe tiếng và rất hâm mộ ngài.

Thiêu Ưng cười lớn, giọng kiêu hãnh:

- Đã biết ta mà còn dám lên đây đánh cược? Lá gan ngươi chắc phải to lắm. Hay ngươi nghĩ sắp chết đến nơi nên làm càn để lưu lại tiếng ngu với đời?

- Sao cũng được. Lão huynh có dám đánh cược không?

Thiên Ưng lão quỉ lại phá lên cười.

- Ngươi hỏi ta dám không à? Ha ha... Được! Hay lắm! Ta sẽ phá lệ tha chết cho ngươi về cái tính gan dạ này. Ngươi muốn đánh cược thế nào?

- Trong vòng hai mươi chiêu nếu lão huynh không thắng được tôi thì lão huynh lập tức xuống tàu trở về Trung Quốc, hủy bỏ luôn chuyện trả thù cho đệ tử.

- Còn nếu ta thắng?

- Muốn chém muốn giết thì tùy lão huynh!

Thiên Ưng cười ha hả nói:

- Được, được! Nhưng ta đã hứa không giết ngươi thì sẽ không giết. Ta sẽ phế võ công của ngươi để từ nay ngươi đừng nhúng mũi vào chuyện thiên hạ nữa.

Người nọ mỉm cười:

- Đa tạ! Mời lão huynh xuất thủ.

Bao nhiêu cặp mắt đổ dồn về võ đài chờ đợi một trận đấu hấp dẫn nữa sắp xảy ra. Có tiếng ai đó lo lắng nói, giọng người Việt rõ rệt:

- Vị nho sĩ này trông dáng thanh như hạc thế kia không biết có chịu nổi hai mươi chiêu của lão già mũi chim ưng hung dữ này không. Hay lại giống như chàng thư sinh kia bị đá văng xuống đài nữa thì hỏng bét.

Một giọng khác vang lên:

- Đừng nói thế. Chúng ta phải mong cho ông ta thắng trận này. Đâu để bọn ngoại quốc đến đây làm hùng làm hổ, coi thường dân Đại Việt mình được.

Trên đài, Thiên Ưng lão quỉ đã sắp xuất chiêu. Hắn vươn mười ngón tay như vuốt của chim ưng ra rồi bất thình lình chộp nhanh vào mặt của vị nho sĩ. Vị nho sĩ nhanh chóng dùng thế nhất dương chỉ xỉa thẳng vào huyệt nội quan trên cổ tay Thiên Ưng, lão xoay tay chộp lại cổ tay nho sĩ, tay trái đồng thời chộp vào vai địch thủ. Nho sĩ đưa ngón trỏ tay trái xỉa thẳng vào huyệt nội quan trên tay địch. Thiên Ưng đổi thế đánh, cả hai tay nhanh như chớp cùng lúc chộp lia lịa vào khắp nơi trên người nho sĩ. Vị nho sĩ thần sắc ngưng trọng, hai ngón tay mềm dẻo như múa điểm thật chính xác vào cổ tay địch. Bạch Mai đứng bên dưới đếm lớn theo các thế đánh ra của Thiên Ưng:

- Một...hai...ba... bốn...năm... mười... mười một... mười hai...

Thiên Ưng lão quỉ nhảy vọt ra sau nhìn xuống Bạch Mai la lớn:

- Con bé này đếm bậy gì đó? Ta mới đánh có sáu chiêu sao ngươi đã đếm đến mười hai rồi?

Bạch Mai cãi lại:

- Lão gia hai tay ra chiêu, mỗi tay tiểu nữ đếm một chiêu là phải rồi. Cả hai tay lão gia đã đánh ra mười hai chiêu đúng không?

Giọng nàng trong trẻo, nét mặt lại kiều diễm ngây thơ khiến cho Thiên Ưng có muốn nổi giận cũng không được. Lão ta nói:

- Ngươi thật không biết gì cả! Thiên Ưng trảo của ta một âm một dương bổ túc cho nhau thành một chiêu. Ta đánh mỗi tay một thế kết hợp lại thành một chiêu. Đến giờ mới chỉ là chiêu thứ sáu thôi. Bé con ngốc!

Bạch Mai chu môi tiếp tục cãi:

- Tiểu nữ không cần biết âm dương bổ túc gì cả. Đã nói chiêu thì một lần đánh ra tiểu nữ sẽ tính là một chiêu. Nếu lão gia sợ không thắng nổi thì bỏ cuộc tỉ thí này đi là hay hơn cả.

Lão Thiên Ưng nghe nàng nói càn nói bướng nhưng không thể cãi lại được. Lão phì cười nói:

- Bé con nói ta sợ không thắng nổi à? Được, ngươi cứ đếm theo kiểu của ngươi đi! Ta không hạ được lão mọt sách này trong vòng mười chiêu nữa thì ta nhận thua, lập tức bỏ đi ngay!

Bạch Mai cười nói:

- Được, lão gia nhớ giữ lời mình nói đấy! Tiểu nữ chờ để đếm tiếp đây.

Thiên Ưng quay lại nhìn nho sĩ, mắt lão bỗng lóe hung quang trông rất dễ sợ. Lão vận nội lực khiến chiếc áo choàng như gặp gió trương lên, hai tay lão chuyển dần sang màu xám xanh, mười ngón tay cong lại như vuốt chim ưng. Nho sĩ biết lão đang vận dụng “Thiên Ưng công” và “Thiên Ưng độc trảo” nên cũng vội ngưng tụ chân khí trong người, tay trái ngửa ra để trước bụng đỡ cùi chỏ tay phải. Tay phải dựng đứng lên theo kiểu bắt ấn tam muội nhưng chỉ đưa một ngón tay trỏ chỉ lên trời. Thấy thế thủ của đối phương, Thiên Ưng rúng động trong lòng, lão hỏi lớn:

- Ngươi cũng luyện được Như Lai chỉ à? Thảo nào ngươi dám lên đây đánh cược. Được, để xem Như Lai chỉ của ngươi có phá nổi Thiên Ưng trảo của lão phu không?

Hai bàn tay của lão giờ đã xám xanh lại, lão hét lớn một tiếng rồi tung người lên như một con chim ưng. Từ trên cao, lão xòe mười ngón tay lao xuống tấn công vào đầu và mặt địch thủ, bóng trảo mờ mịt đầy trời. Ngón trỏ tay phải của nho sĩ cũng đã biến thành màu đỏ hồng, cánh tay di động nhanh đến độ không còn trông thấy gì nữa và liên tiếp điểm vào lòng trảo của đối phương. Hai người giờ đây xuất thủ quá nhanh nên Bạch Mai không còn nhận ra được chiêu số nữa, nàng đếm bừa:

- Mười ba, mười bốn... mười tám...mười chín... Hai mươi!

Cùng lúc với tiếng đếm hai mươi của Bạch Mai là hai tiếng thét lớn từ miệng Thiên Ưng lão quỉ và vị nho sĩ. Cả hai đồng tung người ra sau. Thiên Ưng đáp người xuống sàn, hữu trảo buông xuôi xuống đất, giữa lòng bàn tay bị đâm thủng một lỗ, máu theo đó tuôn ra ròng ròng không ngớt, sắc mặt trông thật ảm đạm. Lão vội dùng tay trái điểm vào các huyệt đạo trên cánh tay phải để cầm máu lại. Vị nho sĩ vai áo bên trái rách toạc, có năm vuốt ưng trảo cào sâu vào tận xương, máu chảy ướt đẫm một bên người, chỗ vết thương từ từ chuyển sang màu đen, chứng tỏ nơi vết thương có chất độc. Nho sĩ bình thản đưa tay điểm nhanh các huyệt đạo cầm máu và chặn chất độc phát tán, sau đó thò tay vào bọc lấy ra một lọ thuốc, đổ hai viên màu đỏ ra tay rồi cho vào miệng nuốt.

Nhìn qua hai vết thương mọi người đều biết bên nào thắng bên nào bại. Chợt Thiên Ưng lão quỉ ngửa mặt lên trời, cất tiếng cười thê lương rồi quay người xuống đài bỏ đi. Nho sĩ nhìn theo lão, buông một tiếng thở dài rồi cũng tung người nhảy xuống đất, biến mất trong đám khán giả đang nhao nhao bàn tán về cuộc so tài vô tiền khoáng hậu này. Lý vương gia đứng lên chào quan Lưu thủ và Cẩn Thành Hầu xong vội vàng bước xuống đuổi theo Thiên Ưng lão quỉ. Anh em Tạ Tam và họ Diệp cũng vội vàng bỏ đi theo Lý vương gia. Lý Dung Dung đứng lên đưa ánh mắt lo âu liếc nhìn về phía Văn Hiến đang được Hồng Liệt cõng trên lưng. Nàng buông khẽ tiếng thở dài rồi bước xuống khán đài. Bọn Âu Dương Long, Thu Hồng đứng phía sau vội bước theo hộ tống nàng. Bọn Hồng Liệt cõng Văn Hiến trên vai trở về Thần Quyền Môn.

Người điều khiển chương trình bước lên võ đài tuyên bố vài câu bế mạc, mời quan khách trở về Kim Cương Môn và mời bà con giải tán. Hà Huy tiến đến mời quan Lưu thủ, Cẩn Thành hầu cùng đại diện các thương hiệu về Kim Cương Môn. Đại Kỳ lấy cớ phải về xem tình hình của Văn Hiến nên từ chối không dự, chàng từ giã mọi người rồi đi nhanh về nhà. Vừa bước vào nhìn thấy mọi người ngồi nơi bàn, chàng hỏi ngay:

- Trương huynh thương thế ra sao rồi? Có nguy hiểm không?

Bạch Mai nhìn vẻ lo lắng của anh mình không nhịn được cười đáp:

- Không có gì đâu. Là Trương huynh giả thua chịu đòn thôi.

Đại Kỳ ngạc nhiên đến trợn mắt lên:

- Giả thua? Chịu một cú đá trời giáng như thế vào ngực mà không việc gì ư?

Văn Hiến nói:

- Không sao, Trần huynh an tâm. Tôi đã chuẩn bị trước nên không hề gì.

Hồng Liệt nói:

- Lúc ta thấy ngươi nhảy qua đầu Tạ Tứ rồi lao vào sau lưng hắn để chịu cú đá đó thì ta đã nghĩ là ngươi cố ý để trúng đòn rồi. Nhưng trúng một đòn nặng như vậy mà ngươi không hề hấn gì với lại tại sao ngươi chịu thua thì ta vẫn chưa biết?

Văn Hiến hỏi:

- Tại sao ngươi biết ta cố ý để trúng đòn?

- Thế đánh đó ngươi đã dùng để hạ Đồng Bách, giờ ngươi lặp lại y khuôn thì làm sao không trúng cú đá ngược lại của Tạ Tứ được?

Văn Hiến mỉm cười nói:

- Đúng là không có gì qua nổi cặp mắt cú vọ của tên trộm nhà ngươi. Ta trúng cú đá quả có nặng thật nhưng một là ta đã sử dụng nhu công hộ thể, hai là sư phụ mới cho ta chiếc áo giáp hộ thân nên cú đá đó không gây thương tổn cho ta được. Còn ta chịu thua Tạ Tứ trước mặt thiên hạ là để cho bọn chúng chủ quan làm càn và khinh địch mà lơ là phòng bị, có thế mình mới sớm dọ thám được mục đích chính của chúng.

Bạch Mai nói:

- Trương huynh dụng tâm khổ cực lại chịu nhục trước thiên hạ thật ít có ai dám làm. Muội thật là khâm phục huynh.

Nàng là cô gái trực tính nên nghĩ sao nói vậy, không ngại chuyện nam nữ, bày tỏ tình cảm trong lòng mình thật chân thành. Văn Hiến mỉm cười:

- Đã có chủ đích thì đâu có thiệt hại gì lớn. Còn chuyện chịu thua người ta trước mặt thiên hạ thì cũng không đáng quan tâm bởi thiên hạ cũng có ai biết mình là ai đâu. Bạch muội đừng khen quá làm huynh xấu hổ.

Đại Kỳ nói:

- Vậy mà làm tôi ngồi trên khán đài cứ sợ đến đứng tim luôn. Sắp tới chúng ta phải làm gì?

Văn Hiến không đáp vội mà quay sang hỏi Hữu Dụng:

- Chú định khi nào khởi hành?

- Chừng nào cậu muốn đi thì khởi hành.

Văn Hiến nhìn Đại Kỳ nói:

- Tôi phải nằm dưỡng thương vài hôm, sau đó chúng ta nhổ neo được không chú?

Hữu Dụng vui vẻ đáp:

- Tất nhiên là được! Thôi cậu nghỉ ngơi nhé, tôi phải ra bến.

Ông chào mọi người rồi trở ra bến tàu. Chờ Hữu Dụng đi xong, Văn Hiến nói:

- Tôi cùng Hồng Liệt sẽ theo thuyền chú Dụng về lại Quy Nhơn. Nhưng khi thuyền ra đến Nhà Bè, chúng tôi sẽ quay trở lại âm thầm dò xét bọn chúng.

Hồng Liệt khen:

- Mưu kế của ngươi đúng là thần không hay, quỉ không biết. Tuyệt lắm!

*****​



Hết tập một.

Mời các bạn chờ xem tiếp tập hai.


 

Ai_Sherry

Gà cận
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
☆☆☆
Tham gia
11/8/15
Bài viết
692
Gạo
3.000,0
Bạn ơi khi nào đủ 5 chương thì bạn post ra ngoài thư viện nữa đi, vừa để giới thiệu tới nhiều người đọc hơn, vừa để chống copy. Link hướng dẫn ở đây.
Chỉ mới đọc phần giới thiệu thôi mình đã cảm thấy khâm phục tác phẩm của bạn rồi, mình sẽ nhảy hố này, mong bạn post đều đều và nhanh nha :D.
 
Bên trên