Hồi 1 : Trốn chạy
24 tháng 2 năm 1666
1.
Bố luôn nói với tôi vào đầu mỗi tháng mười hai : “Mùa đông ở Bizeng là mùa đông dễ chịu nhất con được trải qua đấy. Ở đây không mưa nhiều như ở London, tuyết rơi không quá dày. Chẳng có lí do gì để mà than vãn với thời tiết tuyệt vời như vậy.”
Đến giờ phút này, khi đang lom khom trong bộ quần áo ẩm nước mưa tại khu Đông London bẩn thỉu và lộng gió, tôi phải thầm công nhận là ông già nhà mình đã đúng, dù chỉ một lần trong đời.
Một con chó ghẻ lở đầy mình run rẩy lết qua trước mặt tôi, khiến tôi không nhịn nổi mà hắt hơi ba cái liên tiếp. Chứng dị ứng lông động vật ở Bizeng vốn đã đủ tệ bởi đám chuột và dơi bay nhảy khắp mọi nơi, nhưng chưa là gì so với đất London này. Chó mèo lang thang trên mỗi ngóc ngách, chuột thì nhiều không đếm xuể - đường cống ngầm chính là lãnh địa của chúng. Chưa kể đến lũ chim bồ câu ngày nào cũng đập cánh soàn soạt trên quảng trường, chờ những quý ông, quý bà nhàn nhã tản bộ rảy thức ăn cho chúng.
Đợi cho con chó ghẻ đó lết được một đoạn, tôi mới sải bước tiếp. Nước cống tràn ra từ dưới cửa thoát nước, lõm bõm dưới đôi ủng da dê, bộ quần áo dạ càng lúc càng trĩu xuống bởi nước mưa, chưa kể đến cái mùi hôi lúc đậm lúc nhạt luôn lảng vảng trong không khí. Dù vậy, bàn tay lạnh buốt của tôi vẫn nắm chặt cây ba-toong mạ vàng không hề ăn nhập với khung cảnh ở khu phố ổ chuột này, chân đi thẳng về phía đường lớn tấp nập người qua lại.
“Solomon, chúng ta lạc đường rồi phải không?” Achilles níu tay áo choàng của tôi. Giọng cậu vẫn sang sảng như ngày thường, tuy không che giấu được nét mệt mỏi.
Tôi bóp trán, đáp mà chẳng buồn quay lại : “Không, lần thứ sáu trăm sáu mươi sáu, và cũng là lần cuối tôi trả lời cậu đó, Achilles. Giờ thì bỏ tay tôi ra.”
Tay áo choàng được buông lỏng, tôi thở dài, dợm bước tiếp thì chợt nghe thấy một tiếng “ực” to và rõ ràng.
Tôi quay đầu lại, dận mạnh cây ba-toong xuống đất, như ông già ở nhà vẫn thường làm mỗi khi la mắng đám con cháu. Mẹ vẫn nói là tôi rất giống bố, nhưng không ngờ cả đến lúc tức giận mà điệu bộ cũng như bắt chước nhau thế này. Điều ấy khiến cơn giận của tôi càng được thể nhân lên.
“Silas, tôi đã nói thế nào về chuyện không nhìn ngang liếc dọc trên đường đi?”
Đằng sau thân hình hộ pháp của Achilles, một cái bóng nho nhỏ run rẩy thò ra. Tôi trừng mắt, nó lại rụt ngay vào.
“Hả? Thế nào, trả lời tôi mau!”
“Tôi… tôi chỉ nhìn… có một chút thôi… không nhiều đâu.” Giọng nói yếu ớt run rẩy phát ra, kèm theo âm thanh nức nở như tiếng mèo con.
Tôi ấn mạnh năm ngón tay trên cái tay cầm mạ vàng, kiềm chế không dận cây gậy xuống đất thêm lần nữa. May mà chỉ có một tên Silas trên đời này, nếu không tuổi thọ của tôi sẽ rút ngắn trong nháy mắt nếu ngày nào cũng phải la mắng một loạt những cái đầu rỗng tuếch như thế này, dù cho tôi có sống được đến một ngàn năm đi chăng nữa.
“Nghe này, đây là lần cảnh cáo cuối cùng của tôi dành cho cậu, Silas ngu ngốc : Giữ đôi mắt của cậu nhìn thẳng về phía trước, nhìn vào gáy Achilles ấy, và ngậm chặt cái miệng của cậu lại cho đến khi chúng ta tới được nơi cần phải tới. Rõ chưa?”
“Vâng… “ Silas ỉu xìu ngó ra từ sau lưng Achilles, đôi mắt màu hổ phách trong suốt lấp lánh vài giọt nước.
Achilles thở dài, vỗ vỗ bàn tay to lên đôi vai gầy của Silas : “Đừng khóc, Solomon sẽ dẫn chúng ta đến nơi sớm thôi.”
“Nhưng… nhưng tớ khát lắm Achilles…” Silas sụt sịt, đưa tay gạt nước mắt. “Cả chặng đường từ Bizeng đến đây, chúng ta đã chẳng được…”
“Hừ, cậu tưởng chỉ có mỗi mình cậu khát thôi hả?”, tôi ném cho Silas một cái lườm khiến thân hình gầy nhỏ của cậu ta run lên như một chiếc lá, âm thanh nức nở cũng nhỏ dần.
Achilles vừa đặt tay lên xoa đầu Silas, vừa nhìn về phía tôi với ánh mắt hơi khẩn cầu. Tôi đã quá quen thuộc với ánh mắt này của cậu, nên chỉ hừ mũi rồi xoay mặt đi.
Tuy vậy, tôi cũng không thể nào phớt lờ hai quầng thâm dưới đôi mắt màu hổ phách của Achilles. Chúng đang dần trở nên rõ rệt hơn.
Tôi liếc nhìn xung quanh, chẳng thấy gì ngoài rác rưởi và nước cống dâng tràn khắp con đường lát gạch cũ kĩ. Phía đằng sau chúng tôi, nơi con hẻm nằm ngoài ánh sáng mặt trời, một tên đàn ông say xỉn tay ôm chai rượu rỗng, nằm ngáy ngon lành trên bãi nôn của chính hắn. Cách đó ba căn nhà, một mụ điếm (tôi đoán vậy, bởi trên người mụ là một bộ váy hở vai ngắn đến kệch cỡm) đang chống hông đôi co với một mụ điếm khác, xung quanh là vài gã đàn ông vỗ tay cười hô hố. Chưa kể đến hai đứa trẻ ranh ăn mặc rách rưới cứ lượn lờ gần ba người chúng tôi nãy giờ, tưởng rằng chúng tôi quá ngờ nghệch nên không để ý đến sự hiện diện và những ý đồ của chúng.
Từ Bizeng, chúng tôi đã đi không ngừng nghỉ để đến được chốn thủ đô hoa lệ này (nhưng tôi nghĩ là từ nay tôi sẽ phải thay từ “hoa lệ” bằng một tính từ khác thích hợp hơn). Dù thế nào cũng không thể phá vỡ “nguyên tắc”.
Vả lại, chốn này chẳng có gì ngoài rác rưởi và một lũ người ô hợp, không phải chỗ thích hợp dành cho ba kẻ như chúng tôi.
Có tiếng ngựa hí vọng vào từ con đường cái. Tôi trừng mắt nhìn hai đứa trẻ ranh kia. Chúng cứng đờ người như thể bị điện giật, rồi đem theo khuôn mặt thẫn thờ của những gã say rượu, bỏ đi chỗ khác.
Achilles cúi xuống nhìn tôi : “Xin lỗi, đáng lẽ tôi phải đuổi chúng đi từ trước. Để cậu phải phí sức vào việc nhỏ như vậy…”
Tôi phất tay, quay bước về phía đường cái, nơi dẫn tới khu phố xa hoa nhất London.
“Đi tiếp thôi, trước khi ánh nắng chiếu tới chỗ chúng ta.”
***
Một cỗ xe ngựa nhanh chóng tấp vào lề đường nơi chúng tôi đứng, gia huy hình hoa Iris (1) tạc bằng đồng đen ngự trên hông. Cửa xe bằng gỗ thiếp vàng mở ra, một người đàn ông vóc dáng dong dỏng trong bộ phục trang dành cho người hầu bước xuống. Ông ta có khuôn mặt dài và sắc lạnh, nhưng, kinh ngạc thay, lại sở hữu một nụ cười dịu dàng.
Tôi chìa bàn tay phải ra, ông ta cung kính cúi xuống, đặt lên chiếc nhẫn bạc trên ngón tay trỏ của tôi một chiếc hôn.
“Kính chào Nam tước, kẻ hầu hèn mọn này xin gửi tới ngài lời chào thành kính nhất của thành London”, người đàn ông mỉm cười, “Gia đình Iscariot thật vinh hạnh khi được ngài ghé thăm.”
“Vậy ngươi là….”
“Tôi là quản gia Gieve, kẻ hầu khiêm trung của nhà Iscariot, và cũng là tôi tớ của ngài, thưa Nam tước.”
“Hãy giúp ta gửi lời cảm ơn nồng nhiệt nhất đến nhà Iscariot, quản gia Gieve”, tôi gật đầu, thái độ của tên quản gia này thực không tệ, tuy rằng ở hắn có điều gì đó khá bất thường. Đằng sau tôi, Achilles hơi gồng mình lên vẻ đề phòng, còn Silas lại có vẻ bồn chồn không dứt.
Tôi liếc nhìn cỗ xe, Gieve lập tức phất tay ra hiệu. Người đánh xe nhanh nhẹn hạ bậc thang xếp dưới cửa xe xuống, tên quản gia đỡ tôi bước lên. Achilles liếc nhìn tên quản gia trước khi tự mình bước qua chiếc thang, đi thẳng vào trong xe, theo sau là Silas. Tên quản gia khiêm tốn cúi chào và ngỏ ý sẽ ngồi ở chỗ đánh xe. Ông ta muốn cho chúng tôi chút riêng tư.
Chiếc xe ngựa chầm chậm di chuyển trên nền đường lát gạch. Achilles gần như chồm người tới phía trước.
“Tại sao… tên Gieve đó rõ ràng là…”
“Đừng nóng ruột quá, Achilles”, tôi ngả người ra sau ghế, duỗi nhẹ đôi bàn chân đau nhức bên trong đôi ủng da, “Rồi chúng ta sẽ biết sự thật khi gặp được bác họ của tôi.”
“Kể cả… về chuyện kia?”, Silas lo lắng chen ngang.
“Mong là như vậy”, đầu tôi đã bắt đầu đau nhức, cơn khát dai dẳng trong cổ họng dường như đang dần ảnh hưởng tới dòng suy nghĩ của tôi, “Chúng ta còn chưa đủ trưởng thành, với tình hình khi đó… trốn chạy là phương án duy nhất.”
“Tôi… tôi đã rất sợ”, giọng nói run rẩy, Silas cuộn người lại trên ghế ngồi, úp mặt vào giữa hai đầu gối. Đôi bàn tay to của Achilles vỗ nhẹ lên lưng cậu ta, nhưng có vẻ cũng chẳng khiến cậu ta thấy khá hơn.
Tôi ngoảnh mặt về phía ô cửa sổ nhỏ trên xe. Tấm rèm che bằng nhung tối thỉnh thoảng khẽ rung lên khi tới đoạn đường xóc, để lọt một vài tia nắng nhạt xuống thềm xe. Như một kẻ bị thôi miên, tôi tháo găng tay trái, khẽ chạm ngón trỏ vào vệt nắng lấp lóa trên vách.
Sự đau đớn là cách tốt nhất để thức tỉnh tâm trí, như một con người đã từng nói với tôi.
***
Khi cỗ xe ngựa dừng lại, chúng tôi hầu như đã kiệt sức, một phần vì chuyến hành trình dài lúc trước, phần còn lại là do sức nóng của mặt trời ban trưa. Gieve mở cửa đón chúng tôi với một chiếc ô lớn màu đen trên tay, nhanh nhẹn như thể hắn sinh ra đã vậy.
Cánh cửa bằng gỗ sồi của tòa dinh thự đã mở sẵn. Những nữ hầu đeo tạp dề trắng sạch sẽ, xếp thành hai hàng ngay ngắn trong tư thế cúi mình. Khi chúng tôi đã vào hết bên trong, hai người đứng đầu lập tức đẩy hai cánh cửa nặng nề khép lại. Ánh nến trong phòng dần hiện lên, trên những chùm đèn treo trên cao và trên vô số giá nến bằng bạc. Silas và Achilles có vẻ bớt uể oải hơn, bản thân tôi cũng tỉnh táo trở lại.
Tên quản gia hạ giọng phân phó với đám nữ hầu đi chuẩn bị bữa trưa muộn, và nói riêng với một trong số đó rằng hãy xuống hầm tìm một chai Bourbon 1600 cho những vị khách quý của ngài Bá tước. Silas nuốt “ực” một tiếng, và co rúm ngay lập tức khi bắt gặp ánh nhìn cảnh cáo của tôi.
“Còn giờ thì, thưa ngài Nam tước đáng kính”, Gieve quay sang phía tôi, mỉm cười, “Chủ nhân của tôi đang vô cùng mong mỏi được gặp ngài.”
2.
Ông cố nội của tôi, Bá Tước của dòng họ Iscariot, có hai người con trai và một cô con gái. Hai người con trai, một người trở thành Đại Tư tế(2), một người là Đại Công Tước(3). Con gái của ông cố, chính là bà nội của tôi, từ nhỏ đã được đính ước với người thừa kế duy nhất của dòng họ Levite. Bà sinh được ba người con trai, và may mắn thay cho nhà Levite và nhà Iscariot, cả ba người đều nổi trội về cả trí tuệ lẫn thể lực so với những kẻ sinh cùng thế hệ trong giới quý tộc.
Mẹ tôi từng lén kể với tôi, trong một đêm cha không có ở nhà, rằng tước hiệu của tôi đáng lẽ sẽ không phải là một Nam tước nhỏ bé tầm thường. Bởi trong ba anh em, bố tôi, ông già hay cợt nhả nhà tôi, mới chính là người được chỉ định trở thành Thái tử, nhờ khả năng lãnh đạo thiên bẩm, tài thao lược xuất sắc và lối suy nghĩ tiến bộ về chính trị - điều hiếm có ở giới quý tộc bảo thủ thời bấy giờ. Nhưng ông già nhà tôi, sau khi gặp mẹ tôi và có tôi, lại quyết định từ bỏ tất cả trong sự ngỡ ngàng của mọi người, trở thành một Bá tước, lùi về cai quản vùng lãnh địa Bizeng tại biên giới nước Anh. Ngay sau đó, người anh cả được chọn để thay thế, hiện giờ đang ngồi trên ngai vàng tại thành cổ Jerusalem xa xôi.
Bác họ của tôi, chủ nhân của dinh thự nhà Iscariot tại London, vốn là con của Đại Công Tước - anh trai của bà nội tôi. Tuy chỉ là anh em họ, bố tôi và bác họ lại thân thiết từ thuở bé. Khi bố tôi từ bỏ vương vị, mẹ tôi, vì mang thai tôi trước đám cưới, bị mọi người xì xào sau lưng nhiều đến nỗi không thể đến dự bất cứ buổi tiệc xã giao nào, bác họ là người đứng ra bênh vực cho gia đình chúng tôi trước mặt Hoàng Đế tại vị. Khi bác dám phá bỏ luật lệ của Hắc Tộc để kết hôn với một tiểu thư bên Bạch Tộc, bố tôi đã cứu hai người khỏi sự giam cầm của gia đình hai bên, và giúp họ tổ chức đám cưới bí mật trong một nhà nguyện nhỏ. Tuy rằng sau đó, bác họ bị tước bỏ quyền thừa kế, trở thành một Bá tước hữu danh vô thực, một kẻ bị nhà Iscariot ruồng bỏ, thì quan hệ giữa bác và bố tôi vẫn không hề thay đổi. Vì không có con, bác nhận làm cha đỡ đầu cho tôi. Thành ra, khi đã lớn, tôi ít nhất còn có một chỗ để chạy trốn khỏi ông già nhà tôi mỗi khi cãi vã hay bị trêu chọc quá sức chịu đựng.
Sau gần hai chục lần chạy tới London, tôi cũng có một phòng riêng với đầy đủ tiện nghi và đồ cá nhân tại dinh thự nhà Iscariot. Ba người chúng tôi tạm thời thay đồ ở đó. Silas thì không vấn đề gì, còn Achilles không thể nhích nổi vào chiếc áo sơ mi rộng nhất của tôi. Cuối cùng, người hầu phải đem một bộ quần áo của bác họ cho cậu ta mượn.
Thay đồ xong xuôi, chúng tôi tới phòng ăn của gia đình Bá tước. Tất cả rèm đã được kéo kín. Ở đầu xa nhất của bàn ăn, một bóng dáng cao lớn ngồi yên lặng trong ánh nến, phía sau là tên quản gia đứng thẳng với khuôn mặt không biểu cảm, hệt như một cái bóng.
Một người hầu trẻ đứng ở cửa ra vào, nhìn thấy chúng tôi liền cất cao giọng thông báo :
“Nam tước Levite cùng hai người bạn của ngài đã đến, thưa chủ nhân.”
“Mời họ vào đi.”
Người hầu trẻ dẫn ba người chúng tôi vào bàn ăn. Bác họ đứng dậy, đi về phía tôi với nụ cười ấm áp trên khuôn mặt. Dù đang cười, đôi mắt của vị Bá tước bị cả giới quý tộc ruồng bỏ vẫn không che giấu nổi nét phiền muộn.
Tôi chào hỏi ông đúng với nghi thức của một Nam tước, rồi đón nhận cái ôm của người cha đỡ đầu. Ông cũng nồng nhiệt bắt tay với hai người bạn của tôi.
“Xin chào người thừa kế của Bá tước Josephus”, ông mỉm cười với Achilles.
“Và con trai của quan Tư tế Armis”, ông quay sang bắt tay Silas. “Mong là một người ít tham gia xã giao như tôi không bị nhầm lẫn. Dù vậy, tôi đã từng được nghe Nam tước Levite kể về các cháu rất nhiều.”
Gieve cùng hai người hầu khác dẫn chúng tôi vào chỗ ngồi. Achilles cẩn thận quan sát hành động của tôi, chỉ ngồi xuống khi tôi đã an vị. Silas hơi thiếu kiên nhẫn khi nhìn thấy bàn ăn, nhưng có lẽ những lời cảnh cáo của tôi khi thay đồ cũng khiến cậu ta phần nào biết thu liễm.
Rượu được rót vào các ly thủy tinh chân cao, chúng tôi cùng nâng ly, uống cạn. Bourbon là thức uống khai vị hoàn hảo mà chỉ một số ít những người sành ăn mới biết. Từng được dùng bữa nhiều lần tại nhà bác họ nên tôi cũng chịu phần nào ảnh hưởng từ người cha đỡ đầu này về khẩu vị và thói quen ăn uống. Trong hầm rượu nhà tôi ở Bizeng cũng trữ kha khá các loại rượu, nhiều nhất là Bourbon.
Những người hầu đứng đằng sau chúng tôi, trên tay mỗi người là một cái khay nhỏ đựng một chiếc ly bằng bạc. Mùi hương từ trong những chiếc ly lan tỏa khắp bàn ăn. Tôi đặt tay lên cổ họng đang ngứa ran, xoa nhẹ nhằm dịu bớt cơn khát. Bên cạnh tôi, Achilles vẫn ngồi im không nhúc nhích, nhưng có thể thấy được trong đôi mắt màu hổ phách của cậu, đồng tử đã giãn nở đến cực đại.
Từng chiếc ly bạc được đặt xuống trước mặt chúng tôi. Chất lỏng trong ly sóng sánh dưới ánh nến, sắc đỏ dần thẫm lại khi tiếp xúc với không khí. Thứ “đồ ăn” duy nhất cần tới một loại rượu nồng như Bourbon làm khai vị.
Tôi và Bá tước cùng đưa ly lên sát đầu mũi, hít nhẹ một hơi như khi người ta thưởng thức rượu. Achilles cũng làm giống như vậy, cử chỉ trang nhã và thân thuộc, có lẽ cậu ta đã được gia đình Josephus dạy dỗ khá cẩn thận. Hương vị thơm ngọt đang chậm rãi đánh thức bản năng nguyên thủy của chúng tôi. Khi thứ chất lỏng đỏ thẫm chảy vào cổ họng, tôi cảm thấy cơn khát ban đầu dịu đi, nhưng rồi trở lại mạnh mẽ hơn. Tôi biết một chiếc ly bạc này là chưa đủ, nhưng dù có uống đến bao nhiêu nữa, tôi vẫn không thể trốn chạy hoàn toàn khỏi cơn khát.
Silas đã uống sang ly thứ hai. Achilles cũng vậy. Người hầu đã thay chiếc ly rỗng trước mặt tôi bằng một chiếc ly đầy khác. Vì đây là nhà cha đỡ đầu, cũng bởi vì sự mệt mỏi sau chuyến đi dài, tôi không từ chối.
Bá tước chỉ uống một ly, rồi cáo lỗi và rời sang phòng khách. Gieve đã ra khỏi phòng từ trước, có lẽ là để sắp xếp chỗ ngủ cho Achilles và Silas.
***
Khi tôi tắm xong, Gieve mời tôi sang phòng khách để chơi cờ với Bá tước. Tôi khoác một chiếc áo choàng dày có đai bên ngoài áo ngủ rộng, rồi theo sau tên quản gia. Không còn ánh nến trên hành lang, nhưng chẳng mấy khó khăn để tôi nhìn rõ từng họa tiết trên giấy dán tường, cũng như theo sau cái bóng cao gầy của Gieve. Khi đã ăn uống no nê, giác quan sắc bén của tôi sẽ hồi phục trở lại.
Bác họ tôi đang ngồi trên chiếc ghế bành bọc da, trước mặt là một bàn cờ đã bày sẵn. Tôi ngồi xuống phía đối diện, mỉm cười nhìn những quân cờ.
“Cha đỡ đầu, cha vẫn muốn đánh tiếp ván cờ từ lần trước sao?”
Người đàn ông trước mặt tôi không trả lời, mà vươn tay đẩy quân Hậu đen tiến lên hai bước. Thế cờ lập tức thay đổi. Tôi nhấc quân Tượng trắng lên chắn trước quân Vua.
“Tình hình ở Bizeng thế nào?”, Bá tước vẫn nhìn chăm chú vào ván cờ.
“Rất tệ”, tôi để ý thấy đôi mắt ông nhìn lên quân Xe, nhưng cuối cùng ông lại chọn đi quân Tốt.
“Bao nhiêu người chết?”
“Có lẽ hơn một nửa”, tôi đỡ trán, phân vân giữa việc cứu quân Mã hay ăn quân Tốt đen kia. Một bước nữa, quân Tốt đen ấy sẽ trở thành quân Hậu.
“Đúng là rất tệ”, Bá tước mỉm cười hài lòng khi thấy tôi không thể đi bước tiếp theo ngay lập tức, “Nhưng ta nghe nói… còn có cả…?”
Tôi ngẩng đầu lên nhìn ông.
“Đúng vậy, còn có cả… ma cà rồng.”
“Chúng… tấn công cả ma cà rồng thuần chủng?”
Tôi gật đầu, xắn cao tay áo, để lộ một vết cắn sâu gần vai. Dưới ánh nến, có thể thấy rõ nọc độc đen đặc tích tụ lại bên miệng vết thương. Nếu là con người, tôi đã sớm đi gặp Thần Chết.
Bá tước đến bên cạnh, nhẹ nhàng nâng cánh tay tôi lên. Ông ra hiệu cho Gieve, hắn lập tức biến mất sau hành lang tối tăm.
“Achilles đã hút nọc cho con rồi, nhưng cũng khó hết được hoàn toàn”, tôi ngẩng đầu nhìn Bá tước.
“Ta có loại thuốc rất công hiệu, có thể làm tan nọc”, Gieve đã quay lại, cung kính đặt lên tay Bá tước một chiếc lọ thủy tinh. Ông chấm nhẹ đầu lọ nhỏ xíu lên bắp tay tôi. Hai giọt chất lỏng trong suốt chảy xuống miệng vết thương.
“Ta thường dùng loại thuốc này khi còn đi lính”, Bá tước cười, đôi mắt vẫn phảng phất nét buồn, “Những cuộc thanh trừng vốn rất… tàn bạo, con biết đấy. Không thể tránh khỏi chuyện bị cắn. Răng nanh của chúng cũng sắc và khát máu hệt như loài thuần chủng chúng ta vậy.”
Cơn đau nhức tan dần khi miệng vết thương của tôi khép lại. Bá tước bước tới bên cạnh lò sưởi, nhìn lên bức tranh treo phía trên. Đó là bức Bữa tối cuối cùng(4), do chính tác giả tặng cho ông.
“Ta mừng là Mary và ta đã quyết định không sinh con. Hai trăm năm nay đã có tới năm cuộc thanh trừng, dịch bệnh quá nhiều khiến nguồn thức ăn của chúng ta trở nên khan hiếm hơn bao giờ hết. Ở phương Đông cũng không khá hơn. Ta đoán là Hắc Đế đã phải suy nghĩ rất nhiều trước khi ra những mệnh lệnh thanh trừng liên tiếp ấy.”
“Nhưng tại sao lại còn sót nhiều ma cà rồng ngoại tộc như vậy?”, tôi cau mày, nhớ lại bãi chiến trường đẫm máu ở Bizeng, “Con đã đọc qua vài tài liệu lịch sử, chưa từng có một cuộc thanh trừng thất bại nào trong quá khứ. Tại sao lại là thời điểm này?”
“Theo ta nghĩ…”, Bá tước quay trở lại bàn cờ, “Có kẻ nào đó đã cứu sống và nuôi giấu những ma cà rồng ngoại tộc đó.”
“Ý cha là có kẻ muốn làm phản?”, tôi nhấc quân Vua lên cạnh quân Tượng. Một bước đi đơn giản nhưng không tồi.
Bá tước thở dài, miễn cưỡng ăn quân Mã trắng của tôi.
“Làm phản là một chuyện vô cùng nghiêm trọng. Chúng ta không nên quá vội vàng đi đến kết luận.”
“Con hiểu rồi”, thời cơ đã đến, tôi bắt đầu tiến hành phản công trên bàn cờ, “Vậy theo cha, mục đích của kẻ đó là gì?”
“Có rất nhiều lí do”, nét mặt của Bá tước trở nên nghiêm túc khi nhìn những nước cờ mới của tôi, “Trả thù, hãm hại, kiếm lợi, thậm chí là vì buồn chán.”
“Theo như con biết, những cuộc thanh trừng cũng nhắm tới cả giới quý tộc. Con… đã từng nhìn thấy những bạn học bị đưa đi khỏi trường, và không bao giờ trở lại. Họ đều là kết quả của những cuộc hôn nhân giữa Hắc tộc và Bạch tộc, thậm chí là giữa Bạch tộc và con người. Các Đầu lĩnh và giáo viên luôn phải trấn an học sinh trong những thời điểm nhạy cảm ấy. Nhưng con nghĩ… mọi người đều hiểu chuyện gì đang xảy ra.”
Tôi đã đi đến nước cờ cuối cùng.
“Chiếu tướng”, tôi tuyên bố. Bá tước chống tay lên trán, thở hắt ra.
“À”, tôi nói trước khi đứng dậy, “Bắt đầu từ kì học sau, con sẽ trở thành một Đầu lĩnh.”
“Chúc mừng con, con trai ta”, cha đỡ đầu cười, đôi mắt ông dường như lấp lánh bởi sự phản chiếu của ánh lửa trong lò sưởi, “Cuối cùng thì ta cũng được nghe một chuyện tốt đẹp trước khi đi ngủ.”
*Chú thích :
(1) Hoa Iris : http://data.kenhsinhvien.net/upload/files/1204/KenhSinhVien.Net-anh-65.jpg
(2) Tư tế : là người được giao phụ trách trông coi về tế tự, lễ nghi, cúng tế, thờ phụng của một tôn giáo hoặc giáo phái.
(3) Đại Công tước : người cai quản một lãnh thổ lớn, bao gồm nhiều công quốc hoặc lãnh thổ nhỏ.
(4) Bữa tối cuối cùng : bức họa nổi tiếng của Leonardo da Vinci, miêu tả cảnh trong bữa ăn tối cuối cùng của Chúa Jesus cùng các môn đồ trước ngày Ngài bị đóng đinh vào Thánh giá.