Huyết kí Iris - Quyển 1 : Màn đêm vô tận - Cập nhật - Hồ Nữ Vương

Hồ Nữ vương

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
23/2/14
Bài viết
53
Gạo
300,0
Có thể viết là "hít sâu" được chăng??? :)))

Hihi nói thật là mình vẫn muốn để là "hít nhẹ" hơn :P. Các bạn ấy là ma cà rồng nên khứu giác nhạy hơn người thường, hít nhẹ là được rồi, nghe cho nó sang chảnh :)) . Dù sao cũng cảm ơn bạn đã góp ý nhé ;;).
 

Hồ Nữ vương

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
23/2/14
Bài viết
53
Gạo
300,0
Hồi 2(2) : Đại Công tước

2.

Tôi tỉnh dậy từ những hình ảnh và âm thanh hỗn độn. Một cơn ác mộng khác về Bizeng. Hoảng hốt, tôi gạt mồ hôi trên trán, rồi vô thức sờ lên phần bắp tay đã lành lặn.

Rung chiếc chuông nhỏ ở đầu giường, tôi bước tới bên cửa sổ, hé rèm, chờ người hầu tới. Màn đêm thăm thẳm ở ngoại ô London cũng yên bình hệt như ở Bizeng trước trận thảm sát. Thế nhưng giờ đây, Bizeng không còn là chốn đi về của tôi nữa, mà đã trở thành cơn ác mộng bầu bạn với tôi trong giấc ngủ.

Những giá nến trong phòng lần lượt được thắp lên. Quản gia Gieve bưng nước đổ đầy chậu rửa mặt ở góc phòng, trên tay là một chiếc khăn bông trắng gấp gọn gàng đặt trong khay bạc.

“Kính chào Nam tước, kẻ tôi tớ xin chúc ngài có một ngày mới tốt lành.”

Tôi bước tới, vã nước lên mặt cho tỉnh táo, lau khô rồi dùng trà. Trên chiếc bàn nhỏ giữa phòng đã đặt sẵn bản in hàng tuần của London Gazette (1) và European Vampirism Politicus.

Vừa lật báo, tôi vừa liếc nhìn Gieve. Hắn đã vào phòng thay đồ để sửa soạn y phục cho tôi.

“Ra sắc lệnh tăng thuế ngay khi mới trở về”, tôi nhấp một ngụm trà, lật sang trang cuối của tờ London Gazette, “Trong khi dịch bệnh vừa hoành hành hơn một năm. Vị vua này, xấu xí đến độ khiến mẹ đẻ phải viết thư than phiền ngay từ khi mới chào đời(2), không biết bà ta có viết thêm để kêu ca về sự ngu xuẩn của ông ta hay chưa?”

Gieve bước ra từ phòng thay đồ, khuôn mặt lạnh lẽo nở một nụ cười chuẩn mực :

“Nam tước, ngài thực có khiếu hài hước. Có điều tôi không nghĩ là sẽ có kí giả hay sử gia nào đủ can đảm để viết nên những dòng bình luận xác đáng vừa rồi.”

Tôi cười nhạt, chuyển sang tờ Vampirism.

“Cái Chết đen(3) quả thực là đáng sợ. Hắc đế đã phải ra năm sắc lệnh thanh trừng liên tiếp cũng chỉ vì lượng người mắc bệnh quá lớn, không đủ cung cấp “thức ăn” cho toàn bộ ma cà rồng. Gieve này, ngươi đã bao nhiêu tuổi rồi?”

“Một ngàn không trăm tám tư và thêm hai mươi ngày, thưa ngài.”

“Vậy chắc ngươi đã từng chứng kiến sự hoàng hành của cái Chết đen ?”

“Vâng, quả là khủng khiếp, thưa Nam tước. Bản thân tôi đã từng sống ở trung tâm của đại dịch đầu tiên, cũng mới đây thôi, có lẽ là khoảng giữa thế kỉ mười bốn.”

“Vậy khi đó ngươi sống cùng Hắc tộc hay Bạch tộc?”, tôi ngẩng lên quan sát khuôn mặt dài và sắc lạnh của tên quản gia.

“Tôi sinh ra là người Bạch tộc”, Gieve mỉm cười, đôi mắt đen và hẹp của hắn nhìn xuống tôi không chút thay đổi, “… và lớn lên ở Bạch tộc. Có điều, số phận thích trêu đùa mọi giống loài, không có ngoại lệ. Tôi tớ thì phải theo chủ, và Gieve tôi cũng không phải là ngoại lệ.”

“Ồ, vậy ra ngươi là người của phu nhân Mary Iscariot, vợ của bác họ ta“, tôi tiếp tục lật báo, “Chẳng trách bác ấy lại tin tưởng ngươi, đủ để thay thế người quản gia trước.”

“Vâng, tôi đoán mình là kẻ may mắn khi quyết định đi theo cô chủ về nhà Iscariot”, Gieve khiêm tốn đặt tay phải lên ngực, thành kính cúi người, “Và khi người quản gia cũ nghỉ việc, tôi đã có được cơ hội của mình.”

“Mang mùi hương của Bạch tộc, sống giữa một gia đình Hắc tộc, hẳn ngươi và phu nhân đã vất vả nhiều”, tôi gấp báo đặt lên bàn, “Tán gẫu thế đủ rồi, chúng ta vào phòng thay đồ thôi.”

***

Tôi dang tay sang hai bên, đứng trước chiếc gương đóng khung vàng cao bằng người. Gieve cởi chiếc áo ngủ rộng bằng vải lanh trắng trên người tôi, rồi giúp tôi thay một chiếc sơ mi màu tro tàn và một chiếc quần ống rộng túm gối.

Có tiếng gõ nhẹ trên cửa phòng ngủ. Gieve cúi đầu : “Xin ngài thứ lỗi”, và bước ra ngoài mở cửa.

“Thưa Nam tước, là ngài Josephus.”

Tôi nhìn ra cửa, gật đầu. Achilles bước vào phòng thay đồ, còn Gieve lập tức quay trở lại với công việc đang dang dở.

Achilles ngồi xuống chiếc ghế bành dài trong phòng, thở hắt ra :

“Hôm qua Silas mơ thấy ác mộng, đòi vào ngủ cùng tôi. Trời ơi, thế là cả hai đứa cùng nằm rên hừ hừ, chẳng thể ngủ sâu được. Có lẽ cậu ta đã mang cả cơn ác mộng sang và chia sẻ cho tôi cũng nên.”

Tôi bật cười :

“Bizeng giờ đã là cơn ác mộng chung của cả ba chúng ta.”

“Ôi trời, chẳng lẽ cậu cũng…”.

Từ trong gương, tôi có thể thấy được vẻ mặt hãi hùng của Achilles. Tôi không trả lời, chỉ hơi rướn cổ lên để tên quản gia hoàn thành nút thắt của chiếc cà-vạt bằng lụa trắng.

“Mà này, vết thương của cậu thế nào rồi?”, Achilles hỏi, giọng lo lắng.

“Ổn rồi, nhờ thuốc bôi của Bá tước”, tôi luồn tay vào chiếc áo vest đen. Gieve thoăn thoắt cài hàng nút bạc trước ngực tôi, rồi nhẹ nhàng lật ngược cổ tay áo cho phồng lên, cố định bằng một cái cúc nhỏ được giấu khéo léo dưới lớp gấm lót dày.

Achilles thở phào, ngả người lên chiếc gối dựa lớn trên ghế.

“Sau vụ này, tôi chắc chắn phải về nhà một chuyến”, cậu ta nói, gần như nằm xoài hẳn ra chiếc ghế đệm bọc da sói, “Mẹ tôi sắp sinh rồi, tôi muốn được thấy mặt em gái mình sớm nhất có thể.”

“Nếu là con trai thì cậu sẽ không về sao?”, tôi trêu chọc cậu ta một chút.

“Haha, thế thì tôi càng phải về”, Achilles cười lớn, “Bản mặt khóc lóc của ông bố già nhà tôi cũng đáng để xem lắm. Ông ấy đã lẩm bẩm về chuyện muốn được cưng chiều một đứa con gái bé bỏng xinh xắn suốt hai trăm năm rồi.”

“Cũng đáng để mong chờ đấy”, tôi ngồi xuống ghế, đi tất và xỏ chân vào đôi bốt cao bằng vải lanh đen. Achilles nhìn tôi, tò mò :

“Lễ phục? Cậu phải đi đâu à?”

Gieve khoác hờ một chiếc áo choàng kiểu quân đội màu đen lên vai trái của tôi, rồi quỳ xuống cài mề đay của Nam tước lên ngực áo vest cùng chiếc huy hiệu hình hoa Iris tạc bằng đá sapphire đen. Xong xuôi, tôi bước đến trước gương, đeo thanh kiếm lễ lên hông.

“Ừm, Đại Công tước vừa gửi thư mời ngày hôm qua, ngay trước khi chúng ta tới”, tôi vuốt nhẹ những sợi tóc trên đỉnh đầu, rồi đội chiếc mũ nhung lật vành lên.

“Tin tức đã lan truyền đến tận đây?”, Achilles kinh ngạc lẩm nhẩm.

“Nhưng có vẻ như chỉ có Đại Công tước và những người trong cuộc biết”, tôi nhìn mái tóc ngắn đen sẫm được cắt gọn gàng của mình trong gương, quyết định bỏ qua bộ tóc giả dài cùng màu đặt trên giá. Tôi vốn ghét những thứ phục sức rườm rà, bộ lễ phục này đã là giới hạn cuối cùng cho sức chịu đựng của tôi. “Tờ European Vampirism Politicus không hề đề cập một dòng về Bizeng.”

Cậu bạn cao lớn thở dài, đưa tay vò nhẹ mái tóc xoăn sóng màu mật ong của mình.

“Nghĩ đến mấy chuyện chính trị phức tạp là đầu tôi lại nhức khủng khiếp”, cậu ngồi dậy, chống tay lên cằm, “Giá mà tôi không phải thừa kế cái tước vị Bá tước của bố, được bỏ học, tự do tự tại du hành, nay đây mai đó…”

“Cậu mà bỏ học thì đám nữ sinh sẽ phát khóc đấy, chàng Romeo của trường ạ”, tôi xỏ găng tay, rồi đeo chiếc nhẫn bạc gắn kim cương xanh lên ngón trỏ tay phải. Chiếc nhẫn này là bảo vật lưu truyền qua các thế hệ của gia tộc Levite, được trao cho tôi vào ngày sinh nhật thứ một trăm.

“À… nhắc đến chuyện đó…”, Achilles bỏ lửng câu nói, liếc mắt sang bên cạnh tôi. Tôi hiểu ý, liền cho Gieve lui ra ngoài.

Cánh cửa phòng thay đồ được khép lại.

“Ừm… từ hôm đó đến giờ có khá nhiều chuyện xảy ra, nên… tôi chưa thể tìm được thời điểm thích hợp để nói với cậu”, Achilles ngập ngừng, “Cậu… có còn nhớ ma cà rồng nữ tóc đỏ không, kẻ đã cắn cậu ấy?”

“Tất nhiên. Đôi mắt màu hổ phách của cô ta đã khiến tôi giật mình”, tôi ngồi xuống ghế, bóp trán, “Không ngờ trong đám sát nhân man rợ đó lại có cả ma cà rồng chưa trưởng thành như chúng ta.”

“Solomon, thật ra… cô ta cũng là một học sinh ở trường mình. Hơn nữa… còn là bạn của tôi.”

“Bạn?”, nói thực thì tôi không quá ngạc nhiên chuyện Achilles đánh bạn với kẻ ngoại tộc bởi cậu ta vốn rất quảng giao, mà là không ngờ một trong số chúng tôi lại đang nắm một đầu mối quan trọng như vậy.

“Achilles, hãy kể hết cho tôi những gì cậu biết về cô ta, ngay bây giờ.”

***

Một người hầu gái dẫn tôi và Achilles xuống đại sảnh ở tầng một. Khi đi ngang qua phòng ăn đang mở cửa, tôi liếc thấy mái tóc xoăn màu đỏ của Silas lấp ló ở đầu bàn ăn, đằng sau là một người hầu đang dọn đi chiếc li bạc rỗng trước mặt cậu ta. Silas ngẩng đầu lên, kéo tuột chiếc khăn ăn cài trên cổ để chùi miệng. Bắt gặp ánh mắt của tôi và Achilles, cậu ta vui vẻ vẫy tay, không hề ý thức được có một sợi tơ màu đỏ đang vương từ răng nanh lên má trái của mình.

Achilles chi tay lên mặt, nhướng mày nhìn cậu em họ. Silas vội vàng lấy tay quệt qua quýt trên má, rồi lơ đễnh đặt tay lên bàn. Người hầu sau lưng cậu ta vội kêu lên : “Thưa ngài, quyển sách của ngài…”

Achilles vội chạy tới, đúng lúc Silas nhấc quyển sách bìa bọc da lên, đôi mắt tròn của cậu ta mở to đầy kinh hãi. Tôi đứng dựa vào cửa, quan sát mớ lộn xộn trên bàn ăn, thầm nghĩ “bữa sáng” của mình tốt nhất nên được dời lại sau buổi gặp mặt với Đại Công tước.

“Chết tớ rồi! Chết tớ rồi! Sách này không phải của tớ!”, Silas rên rỉ, nắm chặt lấy chiếc khăn ăn trong tay, kì tới kì lui lên bìa sách.

“Thôi thì cũng trót rồi, xin lỗi người ta chứ biết sao giờ…”, Achilles thở dài, nhếch nhẹ khóe môi trái. Chơi với Achilles từ nhỏ nên tôi biết rất rõ rằng đây là dấu hiệu cho thấy cậu ta đã hoàn tay bó tay, chịu trói hoặc bỏ cuộc. Khi còn bé, mỗi lần bị tôi tìm thấy khi chơi trốn tìm, cậu ta thường vô thức làm động tác này, rồi ngoan ngoãn đi theo tôi tìm những kẻ còn lại.

“Cuốn sách đó của Bá tước phải không?”, tôi hỏi, “Tuyển tập bi kịch Hi Lạp?”

Silas gật đầu.

“Tôi thấy nhàm chán nên mới vào thư viện của Bá tước tìm sách đọc… “, cậu ta nản lòng nhìn bìa sách bị vấy bẩn, “Tôi… tôi sẽ đi xin lỗi…”

Tôi lắc đầu.

“Thôi, cứ mang quyển sách đó để vào phòng tôi, khi về tôi sẽ nói giúp với Bá tước cho cậu.”

“Cảm ơn cậu, Solomon!”, Silas mừng rỡ gạt khóe mắt đã chực ướt, chưa kịp lao ra chỗ tôi thì đã nhận được một cái cốc đầu từ bàn tay to khỏe của Achilles.

“Tất nhiên là cậu vẫn phải đi nhận lỗi cho đàng hoàng rồi, tên em họ ngốc nghếch này!”

Tôi thở dài, quay mặt bước tiếp. Achilles gọi với từ đằng sau, có vẻ như cậu ta muốn hai chúng tôi dùng bữa điểm tâm cùng Silas. Tôi phất tay, nói rằng mình sẽ ăn sau khi trở về.

Cái tên Silas đó, nếu cậu ta không phải là em họ của Achilles, tôi đã sớm tiễn cậu ta về với gia đình để luyện lại cung cách.

Bá tước đã đợi tôi ở dưới đại sảnh. Tôi bước tới bên cạnh, hơi cúi đầu :

“Con xin cha thứ lỗi vì đã khiến cha phải chờ đợi.”

“Không sao đâu, con trai yêu quý”, Bá tước nói, giọng trầm ấm, “Hãy ngẩng đầu lên để ta ngắm nhìn con nào.”

Bá tước, cũng như tôi, đang mặc lễ phục của Hắc tộc, huy hiệu hình hoa Iris đen cùng mề đay tượng trưng cho tước hiệu cài trên ngực. Ông nhìn tôi một lát rồi chợt bật cười :

“Ta thật may mắn khi lại được thấy con mặc bộ lễ phục này, kể từ sau lễ phong tước hiệu năm mươi năm trước. Amos hẳn sẽ ghen tị với ta lắm nếu ta viết thư và khoe khoang một chút với anh ấy.”

Tôi cố kìm không đảo mắt (phản xạ có điều kiện mỗi khi nghe thấy tên ông già nhà tôi). Có những chuyện không nên làm trước mặt người hầu của gia đình khác.

“Con đã dặn quản gia gửi thư cho ông ấy trước khi lên đường tới London. Nhưng khoảng cách từ Anh quốc đến Jerusalem… Ngay cả với tốc độ của ma cà rồng thì cũng phải mất gần ba ngày.”

“Con đừng lo lắng quá, rồi mọi chuyện sẽ đâu vào đấy thôi”, Bá tước vỗ nhẹ lên vai tôi, “Con nên nhớ, Đại Công tước sẽ không hài lòng khi phải tiếp một chàng trai trẻ có khuôn mặt nặng nỗi sầu muộn đâu.”

Cánh cửa gỗ sồi mở ra, một bóng dáng cao gầy trong bộ đồ quản gia đang đứng chờ bên cỗ xe ngựa thiếp vàng. Hắn nhẹ nhàng cúi mình, bàn tay phải đặt lên ngực trái biểu lộ lòng trung thành của bậc tôi tớ.

“Tôi mong là hai vị chủ nhân đã sẵn sàng cho chuyến đi đêm nay. Đường sẽ hơi xóc, tuy nhiên các ngài có thể tin tưởng vào tài đánh xe của tôi.”

* Chú thích :

(1) London Gazette : được ví như tờ báo chính thức đầu tiên của nước Anh, chủ yếu thuật lại những hoạt động, thông báo của Hoàng gia tới giới quý tộc.
European Vampirism Politicus là tờ báo dành cho giới quý tộc ma cà rồng do tác giả hư cấu, tương tự như tờ London Gazette.

(2) Solomon đang nhắc tới vua Charles II của Anh (trị vì từ năm 1660-1685). Tương truyền, khi ông mới chào đời được một năm, mẹ ông đã viết thư gửi cho St. George nói rằng : “[…] he is so ugly I am ashamed […] but his size and fatness supply what he lacks in beauty.” (Thằng bé xấu đến mức khiến tôi phải xấu hổ […] nhưng sự mập mạp của nó cũng bù lại được phần nào). Khi Đại dịch Cái chết đen bao phủ London vào năm 1665-1666, toàn thể gia đình Hoàng gia đã di tản sang vùng khác, và chỉ trở về khi Đại dịch đã lắng xuống vào đầu tháng 2 năm 1666.

(3) Cái Chết đen : tên gọi khác của bệnh dịch hạch, đã từng trở thành đại dịch ở châu Á và châu Âu vào thế kỉ 14 (1348-1350), bùng phát vài lần nữa vào thế kỉ 17, 18 và dần biến mất vào thế kỉ 19.

(Nguồn : wikipedia )

*Về lễ phục của Solomon : được xây dựng theo kiểu dáng trang phục của giới Quý tộc Anh vào thế kỉ 17.

Toàn thể trang phục nói chung : lấy từ bức chân dung của James Stewart, 1st Duke of Richmond, 4th Duke of Lennox (Source)

804d14f5c79473a87e933893c46c78ce.jpg

Tóc giả : một thứ phụ kiện "quý tộc" thịnh hành ở châu Âu - Cà-vạt : bắt đầu thịnh hành từ nửa sau thế ki 17. (Source )

30ed6c29d63bd28a807d1e2e2ff99797.jpg
Kiểu cổ tay áo lật lên : lấy từ bức họa Admiral Harry Paulet (1719/20–1794), Sixth Duke of Bolton (Kiểu cổ tay áo này thịnh hành từ nửa sau thế kỉ 17, và gần như được giữ nguyên về sau) (Source)

6da48deacf6d0a7cc873c69a58054cb9.jpg

Kiểu áo choàng khoác một bên vai : lấy từ bức họa Chân dung Jan Six (1654) của Rembrandt Harmenszoon van Rijn (Source)

800px-Rembrandt_Harmensz._van_Rijn_097.jpg
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Rumm

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
17/8/15
Bài viết
57
Gạo
0,0
Chú thích tờ báo thứ nhất mà không chú thích tờ thứ hai luôn vậy. :v

À thấy truyện Anh mà có Hắc với Bạch nó... cứ thế nào ý. :v Ném hẳn cái tên tiếng anh vào có khi còn dễ chịu hơn đấy.
 

Hồ Nữ vương

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
23/2/14
Bài viết
53
Gạo
300,0
Chú thích tờ báo thứ nhất mà không chú thích tờ thứ hai luôn vậy. :v

À thấy truyện Anh mà có Hắc với Bạch nó... cứ thế nào ý. :v Ném hẳn cái tên tiếng anh vào có khi còn dễ chịu hơn đấy.

Tờ thứ hai là do mình bịa ra thôi =)). Mình sẽ chú thích thêm để độc giả hiểu rõ hơn vậy.
Còn chuyện Hắc Bạch thì mình xem phim đọc truyện Tây vẫn thấy người ta dùng như thế nên mình sẽ vẫn giữ nguyên nhé :D.
Cảm ơn bạn đã nhiệt tình góp ý :). Mong chờ nhiều comment góp ý khác của bạn <:-P.
 

Hồ Nữ vương

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
23/2/14
Bài viết
53
Gạo
300,0
Hồi 2(3) : Đại Công tước

75Xs9M2.png

3.

Xe ngựa của Bá tước chậm rãi lăn bánh trong màn đêm mịt mùng. Bầu trời nhiều mây, dấu hiệu cho những cơn mưa dai dẳng có lẽ vẫn chưa thể kết thúc. Không khí ẩm và nặng nề, đôi khi đặc quánh lại. Dù vậy, từ trong khoang xe, tôi chỉ cảm nhận được mùi hương của cây cỏ tắm trong sương đêm, không lẫn bất kì một mùi vị nào khác. Khứu giác nhạy bén chưa bao giờ được tôi coi là ưu điểm trong suốt cuộc đời trải dài hơn hai thế kỉ, bởi kí ức về hương vị thường rất mạnh mẽ, đặc biệt nếu ngươi là giống loài đi săn bằng máu. Máu nuôi sống sinh mạng của ngươi, nhưng cũng đem tới cho ngươi những cơn ác mộng vĩnh hằng.

Bá tước ngồi bên cạnh tôi, yên lặng nhìn ra ngoài cửa sổ. Nét mặt ông bình thản như một quý ông nhàn tản đi dạo vào một đêm mất ngủ. Đó là quyết định của Bá tước khi đi cùng với tôi, nên có lẽ ông cũng đã chuẩn bị cho những gì sắp đến.

Chúng tôi tiến vào nội đô. Bánh xe kim loại lăn một cách khó khăn trên con đường lầy lội, thỉnh thoảng vang lên một chuỗi âm thanh khô khốc khi những miếng đai nối trên vành (1) va vào phần gạch lát đường bị vỡ. Tuy vậy, trong khoang xe lại khá êm ả. Tên quản gia đó đã không hề phóng đại về tay nghề đánh xe của hắn.

Những sân cỏ(2) được cắt tỉa gọn gàng nối liền nhau ở phía Bắc London, tạo nên một khoảng không trống trải trước khi đột ngột chuyển sang khu phố với những cửa hiệu, quán cà phê, nhà ở của tầng lớp trung và thượng lưu. Vào ban ngày thì chốn này hẳn là con đường sầm uất dưới bầu trời London màu xám. Nhưng, vào thời điểm quá hai tiếng sau nửa đêm, chuột và chó mèo hoang mới là chủ nhân của đường phố. Đối với con người, dầu hỏa và mỡ động vật quá đắt đỏ để mà lãng phí, nên không một chiếc đèn lồng nào được thắp lên trước những ngôi nhà, và cũng không có một chiếc xe ngựa nào có thể chạy trên đường.

Chúng tôi là những lữ khách duy nhất trong màn đêm tưởng chừng như vô tận.

***​

Gieve tạo một âm thanh nhỏ, ra hiệu cho lũ ngựa dừng lại. Cửa xe mở ra, Bá tước và tôi được tên quản gia đỡ xuống.

Tôi ngước nhìn cánh cổng gỗ sồi nằm ẩn mình sau dãy cột chống màu xám lạnh lẽo. Những thiên thần được tạc bằng đá với nét mặt ngây thơ pha lẫn chút u sầu xoải cánh trên mái hiên kiểu Tây phương cổ điển. Những ngọn tháp cao với chóp mái nhọn đâm thẳng lên trời, tạo nên một kiến trúc kiên cố sừng sững giữa lòng London cổ kính.

Nhà thờ St. Paul (3) – một trong những địa điểm tôn giáo linh thiêng từ thời vua Æthelberht xứ Kent – đã được Đại Công tước lựa chọn để trở thành địa cung của ngài ở Anh quốc. Hay nói đúng hơn, đó là một món quà mà ngài đã chấp nhận từ vị vua hào phóng cai quản vùng Đông Nam cách đây một thiên niên kỉ.

Gieve bước tới trước cánh cửa gỗ cũ kĩ. Hắn nắm chiếc vòng sắt trên cửa, gõ ba tiếng không nhanh không chậm.

Chẳng bao lâu, cánh cửa bên phải hé ra một khe nhỏ. Ánh sáng le lói hắt ra từ chiếc nến trên bàn tay người gác cổng chỉ đủ để soi lên gương mặt lạnh lùng của quản gia Gieve, rồi nhanh chóng bị bóng đêm nuốt chửng trước khi vươn tới chỗ tôi và Bá tước.

Người gác cổng nheo đôi mắt đầy nếp nhăn, hơi vươn người về phía trước, tay giơ cao chiếc giá nến đã gỉ sét.

“Ai đó?”, ông ta hỏi, giọng nói mỏi mệt đầy vương vấn như còn lạc trong cõi mộng, “Nhà thờ đã đóng cửa rồi. Hãy quay lại khi chúng tôi đánh tiếng chuông buổi sớm đầu tiên.”

Tên quản gia mỉm cười :

“Xin thứ lỗi cho tôi vì đã quấy rầy giấc ngủ của ông. Chủ nhân của tôi có hẹn với Cha Willis để được xưng tội.”

“Cha Willis?”, người gác cổng vuốt tay lên mặt, rồi đột ngột mở to mắt. Xem chừng ông ta đã tỉnh.

“À phải, phải rồi, cha Willis đã có dặn mà tôi suýt quên mất”, ông ta lật đật sửa sang lại quần áo, vuốt gọn mớ tóc thưa thớt trên đầu, rồi mở rộng cánh cửa bên phải. “Mời vào, mời vào, tôi sẽ dẫn ngài…”, ông ta hơi ngạc nhiên khi Gieve cúi mình đứng sang bên cạnh để tôi và Bá tước bước vào, “… à, các quý ngài đây tới gặp cha Willis.”

“Cảm ơn ông”, Bá tước ngắn gọn đáp.

Trong ánh sáng tù mù của ngọn nến duy nhất trên tay người gác cổng, chúng tôi băng qua tiền sảnh nối liền với một đoạn hành lang ngắn, tiến vào khu nhà nguyện. Cuộc nội chiến(4) đã phần nào ảnh hưởng tới khu nhà thờ cũ này. Những thớ gỗ xếp thành một đống ngổn ngang gần bệ thờ, bức tượng Đức mẹ Đồng trinh bị phủ lên một lớp vải xám để tránh bị vấy bẩn trong quá trình tái thiết lại St. Paul. Tôi hắt hơi, cảm thấy như đang bước vào một hầm ngục phủ đầy những vụn gỗ và tơ bụi. Có lẽ nếu xưng tội ở đây thật thì Chúa của loài người cũng chẳng buồn ghé xuống mà lắng nghe.

Một bóng người đang quỳ xuống giữa đống lộn xộn của gỗ và mùn cưa, cúi đầu trước bệ thờ. Thính giác nhạy bén của ma cà rồng khiến tôi nghe rõ từng câu trong lời lầm rầm của ông ta.

Vả, trong các loài thú đồng mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm nên, có con rắn là giống quỉ quyệt hơn hết. Rắn nói cùng người nữ rằng: Mà chi! Đức Chúa Trời há có phán dặn các ngươi không được phép ăn trái các cây trong vườn sao.

[…] Đức Chúa Trời phán hỏi: Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng mình lõa lồ? Ngươi có ăn trái cây ta đã dặn không nên ăn đó chăng? […] Người nữ thưa rằng: Con rắn dỗ dành tôi và tôi đã ăn rồi. Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn phán cùng rắn rằng: Vì mầy đã làm điều như vậy, mầy sẽ bị rủa sả trong vòng các loài súc vật, các loài thú đồng, mầy sẽ bò bằng bụng và ăn bụi đất trọn cả đời. Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người.

[…]Ngài lại phán cùng A-đam rằng: Vì ngươi nghe theo lời vợ mà ăn trái cây ta đã dặn không nên ăn, vậy, đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. […] ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi.

[…]Vậy, Ngài đuổi loài người ra khỏi vườn, rồi đặt tại phía đông vườn Ê-đen các thần chê-ru-bin với gươm lưỡi chói lòa, để giữ con đường đi đến cây sự sống.”(5)

Người đàn ông trong chiếc áo chùng đen cúi rạp mình hôn lên mặt đất khi đoạn kinh cầu kết thúc. Ông ta quay lại, khuôn mặt lộ xương gò má gầy guộc và đóng khung trong chiếc cằm vuông vức. Đôi mắt nhỏ hẹp, mang sắc vàng ngả sang xanh lá, một màu mắt khá hiếm thấy. Phần tóc ngả xám trên đầu ông ta được cắt theo hình vòng cung , đỉnh đầu cạo sạch sẽ, khiến ông ta tuy có dáng người cao lớn nhưng lại thấp thoáng hình ảnh của một thầy tu khắc khổ dưới lớp áo chùng thắt đai sợi thừng. Ông ta hơi mỉm cười khi nhìn thấy chúng tôi, nhanh chóng bước tới cúi chào.

Gieve cũng cúi nhẹ đầu, rồi giơ thiệp mời của Đại Công tước lên.

“Hai chủ nhân của tôi muốn có vinh hạnh được cha lắng nghe lời xưng tội, cha Willis.”

Vị cha xứ liếc nhìn chiếc thiệp trên tay Gieve, rồi nhẹ nhàng lắc đầu.

“Tôi chỉ có hẹn với một vị thôi.”

Tôi lén nhìn khuôn mặt Bá tước. Ông đứng với dáng vẻ thong dong, đôi mắt vẫn gợn nét buồn như mọi khi. Nhưng tôi biết, cha đỡ đầu của mình đang thở dài trong lòng.

“Xin lỗi các ngài, nhưng ý muốn của Đấng bề trên cũng là ý muốn của tôi”, cha xứ lần tay theo chuỗi tràng hạt.

Gieve nhìn Bá tước. Ông gật đầu, hắn mới lùi xuống dưới và đứng yên lặng sau lưng hai chúng tôi.

“Solomon, ta sẽ chờ con ở bên ngoài. Hãy giúp ta gửi lời nguyện cầu tới Đấng bề trên.”

“Vâng, thưa cha”, tôi cúi đầu chào Bá tước, rồi bước tới trước mặt vị cha xứ.

“Xin hỏi, ngài chính là Nam tước Levite?”

“Đúng, chính là ta, Nam tước Solomon Francis Levite. Ta là người muốn được xưng tội.”

***​

Cha Willis dẫn tôi bước tới góc phòng, rồi rẽ vào một căn buồng nhỏ được xây chìm vào trong tường. Không ai có thể nghe thấy chúng tôi nếu cánh cửa buồng bằng gỗ sồi được đóng lại.

Chúng tôi bước vào hai ngăn riêng. Cha Willis gật đầu.

“Thưa Nam tước, xin ngài hãy gõ cửa để người gác cổng phía dưới chuẩn bị đón khách.”

Tôi giơ cao chiếc gậy chống của mình, gõ lên sàn ba tiếng.

Phía bên kia, cha xứ áp tai xuống mặt bàn gỗ nhỏ trước mặt.

“Người gác cổng đã sẵn sàng”, ông ta nói với tôi, rồi đưa tay mở chiếc hộp thiếc trên bàn. Trong đó không đựng kinh thánh như những phòng xưng tội bình thường khác, mà có một cái cần gạt nhỏ mạ đồng.

Khi chiếc cần gạt bị cha xứ bẻ ngược về sau, tôi hơi giật mình bởi cảm giác hẫng dưới chân. Mặt sàn bên tôi hạ thấp dần. Qua lớp cửa sổ mắt cáo, tôi có thể thấy vị cha xứ đang làm dấu thánh, đôi mắt màu vàng lấp loáng sắc xanh chỉ khẽ liếc nhìn về phía trước, rồi lập tức nhắm lại.

Trước khi chìm hẳn xuống lòng đất, tôi vẫn nghe rõ lời kinh cầu của ông ta.

Đó là chương thứ mười hai trong sách Khải huyền.

4.

“Con rồng lớn đã bị ném xuống mà con rắn xưa gọi là ma quỷ, hoặc Satan, kẻ lãnh đạo toàn thế giới lầm lạc. Hắn đã bị ném xuống đất cùng với các thiên sứ của nó."(6)

----Khải huyền 12:9----​

Chiếc thang di động đã chạm xuống đáy. Tôi bước xuống, trao gậy cho người gác cổng, rồi theo một lính canh bước vào địa đạo đá.

Những phiến đá tổ ong rắn chắc được xếp ở bên ngoài, và đóng vai trò là phần “vỏ” bảo vệ của toàn bộ địa cung. Những bậc thang dốc dần xuống dưới, nối với một lối đi nhỏ hẹp, càng vào sâu lại càng mở rộng. Cách khoảng ba mươi bậc mới có một ngọn đuốc trên tường, nhưng thứ ánh sáng yếu ớt ấy hầu như bị che lấp bởi vô số khóm cây nhỏ trồng ở hai bên và bừng nở ra ánh sáng màu xanh lục theo từng bước chân của khách bộ hành.

Tôi được dẫn vào tiền sảnh lớn, nơi cánh cổng sắt nặng nề đã mở sẵn.

Đại Công tước đang ngồi trên chiếc ngai sắt của ngài trong bộ lễ phục màu tím, nghiêng đầu lắng nghe một người đàn ông mặc áo chùng đen ngồi bên tay trái. Lính canh bước vào bẩm báo, ngài gật đầu, rồi tiếp tục cuộc thảo luận với người kia.

Có lẽ tôi không phải là vị khách duy nhất trong đêm nay.

Lính canh bước tới bên cạnh tôi, hô lớn :

“Nam tước Levite thuộc Hắc tộc, con trai của Bá tước Levite vùng Bizeng xin được cầu kiến!”

Tôi tiến gần tới vị trí chiếc ngai sắt, quỳ xuống trên một chân, hơi cúi đầu.

“Kính chào Đại Công tước, xin cầu nguyện cho ngài một ngày mới an lành. Thần rất vinh hạnh khi được ngài gửi lời mời.”

“Được rồi, đứng lên đi”, Đại Công tước phất tay, “Hẳn là Nam tước đã biết nguyên nhân đằng sau lời mời đường đột của ta?”

“Vâng, thưa ngài”, tôi gật đầu, “Thần đã thu thập được một số đầu mối, mong là sẽ giúp Đại Công tước được yên lòng.”

Tôi khẽ liếc nhìn vị khách ngồi bên trái. Người đó không đi một mình, mà có hai tùy tùng đứng đằng sau, gươm tuốt trần tề chỉnh. Đại Công tước vẫy tay, một lính canh mang ghế dành cho khách tới, đặt vào bên phải ngài.

Giờ thì tôi đã phần nào đoán ra thân phận của vị khách kia.

“Nam tước, đêm nay sẽ là một đêm dài. Hãy ngồi xuống, và kể lại cho ta nghe tất cả về sự kiện ở Bizeng.”

“Thần xin tuân lệnh.”

Tôi ngồi xuống chiếc ghế bên phải ngai sắt. Vị khách ngồi đối diện giấu

mình sau lớp áo chùng dày, chỉ khẽ gật đầu thay cho lời chào hỏi.

Tôi không thể nhìn rõ mặt vị khách này, cũng như hai kẻ tùy tùng đứng đằng sau. Bởi tất cả bọn họ đều đeo một dải lụa đen mỏng che kín mắt.

Đây là một thủ thuật từ xa xưa của loài người, được dùng trong những cuộc hỗn chiến giữa ma cà rồng và nhân loại. Sức mạnh thôi miên của loài Hắc tộc thuần chủng chỉ phát huy tác dụng nếu chúng tôi nhìn thẳng vào mắt đối phương.

Hơn nữa, bàn tay đặt trên vịn ghế của vị khách loài người này lại có mang một chiếc nhẫn ngọc hồng lựu khảm trên đế vàng ở ngón trỏ tay phải, và một chiếc nhẫn mặt khắc huy hiệu đeo trên ngón trỏ tay trái.

Đó là huy hiệu hình kì lân và sư tử, cả hai loài đều đang ôm lấy một chiếc khiên chia bốn góc.

Vậy là phỏng đoán của tôi đã được chứng thực. Tôi đang có vinh dự được tiếp chuyện với một thành viên của Hoàng tộc Anh quốc.

***​

Đại Công tước quay sang bên trái, mở lời giới thiệu :

“Hầu tước, đây là Nam tước Levite, một nhân chứng quan trọng trong sự kiện ở Bizeng vào đêm hai mươi ba vừa rồi.”

“Nam tước, đây là Hầu tước Lambton, đại diện của Cung điện Whitehall (7), hôm nay cũng đến gặp ta vì sự kiện này.”

Tôi đứng dậy, hơi cúi nhẹ đầu trước vị khách ngồi đối diện.

“Hầu tước Lambton, với tư cách là đại diện của cha tôi, chủ nhân Bizeng, tôi xin gửi lời cáo lỗi tới chủ nhân của ngài, bởi chúng tôi đã không bảo vệ được những cư dân của các ngài trong cái đêm kinh hoàng đó.”

Hầu tước xua tay, lắc đầu :

“Lời cáo lỗi của ngài chúng tôi nào dám nhận. Chủ nhân của tôi biết rằng các ngài đều đã cố gắng làm tất cả trong khả năng của mình. Hơn nữa, theo như nguồn tin của chúng tôi, thì vùng đất của cha ngài đã bị tấn công mà không có sự báo trước?”

“Đúng vậy, chúng kéo đến vào lúc mặt trời vừa lặn, khi chúng tôi còn chưa thức giấc.”

Tôi thuật lại cơn ác mộng ấy, không bỏ sót một chi tiết.

“Chúng đều là những kẻ ngoại tộc. Thậm chí… có một kẻ vẫn còn mang đôi mắt màu hổ phách.”

Hầu tước khẽ nghiêng đầu :

“Ồ… có phải đó là…”

“Đúng vậy”, tôi nhìn thẳng vào ông ta bằng đôi mắt màu hổ phách của mình, “Đó là một ma cà rồng nữ chưa đạt đến độ tuổi trưởng thành, giống như tôi.”

“Về danh tính của lũ ngoại tộc đó…”, tôi liếc nhìn Đại Công tước, khuôn mặt nghiêm nghị của ngài vẫn không hề suy chuyển. Có vẻ như chúng tôi sẽ không giữ riêng cho mình một bí mật nào trong cuộc thảo luận này. “… tôi mới chỉ nắm được thông tin về ma cà rồng nữ. Tên cô ta là…”

***​

“Đại Công tước và Nam tước, thay mặt cho chủ nhân của tôi và Cung điện Whitehall, tôi có một đề nghị khá táo bạo, không biết các ngài có sẵn lòng lắng nghe?”

Đại Công tước nhìn tôi, rồi đưa tay làm dấu mời.

“Xin ngài cứ nói, Huân tước Lambton.”

“Tôi muốn một sự hợp tác”, Huân tước nói, hướng về phía Đại Công tước, “Một cuộc điều tra với mục tiêu chung giữa con người và ma cà rồng.”

“Tất nhiên, tôi hiểu rằng chuyện này chưa từng có tiền lệ, nếu không kể đến “thỏa thuận lớn” giữa hai loài cách đây bốn nghìn năm”, Huân tước nắm hai bàn tay lại, chống cùi chỏ lên vịn ghế. Ngón tay trỏ phải của ông ta khẽ xoa lên chiếc nhẫn khắc huy hiệu. “Và đã bốn thiên niên kỉ trôi qua, các Hắc đế, Bạch đế, và những vị vua của nhân loại vẫn luôn bảo vệ sự đồng thuận hiếm hoi đó bằng mọi giá.”

“Tôi không nghĩ đó là một ý kiến tệ”, tôi nói, “Quả thực, đây cũng là ý định ban đầu của tôi khi đến đây diện kiến Đại Công tước. Những xác người và ma cà rồng thuần chủng ở Bizeng chính là nguyên do.”

“Chuyện này đã không còn là vấn đề riêng của dòng tộc ma cà rồng”, Đại Công tước gật đầu, “Vậy, đại diện của Cung điện Whitehall, người mà ngài tiến cử cũng đến cùng ngài trong buổi viếng thăm hôm nay chứ?”

Huân tước mỉm cười.

“Đây chỉ là những tùy tùng thân cận của tôi, thưa Đại Công tước. Người đó sẽ hẹn các ngài địa điểm và thời gian gặp mặt. Tuy có đôi phần… nói sao nhỉ… lập dị? Khác người?”. Dù đang che mắt, ông ta vẫn không giấu nổi sự hứng thú lướt qua khuôn mặt. “Nhưng tôi có thể đem danh dự của chủ nhân tôi và chính tôi ra để đảm bảo với các ngài : hắn là con chó săn tuyệt vời nhất mà Hoàng tộc Anh quốc từng sở hữu.”

***​

Những vị khách loài người đã rời khỏi tiền sảnh.

Khi cánh cửa sắt nặng nề khép lại sau lưng, tôi lập tức quỳ xuống trước Đại Công tước.

“Có chuyện gì vậy?”

“Thưa Đại Công tước, xin ngài thứ lỗi cho cháu vì đã không kể hết sự thật.”

“Solomon”, Đại Công tước bước tới, đỡ tôi dậy, “Cháu biết là ta sẽ luôn tha thứ cho cháu mà, như ta đã từng làm với cha cháu khi nó còn bé.”

Tôi ngước nhìn Đại Công tước, mỉm cười. Vì bà nội mất sớm, nên anh trai của bà, chính là Đại Công tước, đã giúp đỡ chăm sóc bố tôi và hai người anh em còn lại. Đó cũng là nguyên nhân vì sao bố tôi và cha đỡ đầu lại thân thiết từ nhỏ.

“Cháu biết mà, thưa ông. Nhưng chuyện này… cháu nghĩ sẽ không có kết quả tốt đẹp nếu Cung điện Whitehall biết được, nên đã tự ý giấu đi trong buổi gặp mặt vừa rồi.”

Tôi thuật lại lời nhắn của tên thủ lĩnh tóc bạc. Khi đó, lần đầu tiên trong hơn hai trăm năm, tôi mới được nhìn thấy sự căng thẳng hiện rõ trên khuôn mặt Đại Công tước – người vốn từng là chỉ huy trong vô số cuộc thanh trừng đẫm máu.

“Solomon, cháu đã nói chuyện này với những ai?”

“Chỉ có người quản gia ở Bizeng, cha đỡ đầu và hai người bạn chứng kiến vụ thảm sát cùng cháu biết. Nhưng cháu không nghĩ là họ hiểu được, trừ cha đỡ đầu.”

“Cha đỡ đầu của cháu... hôm nay cũng đến cùng cháu phải không?”, Đại Công tước nheo đôi mắt xám, ở đó cũng phảng phất nỗi buồn hệt như đứa con trai duy nhất của ông.

Tôi gật đầu.

“Nó… vẫn không chịu hiểu”, Đại Công tước quay đi, ngồi xuống chiếc ngai sắt, “Đã gần hai trăm năm, vậy mà nó vẫn… Ta chỉ có thể gặp nó khi nó đã tự tỉnh ngộ.”

Rồi ngài thở dài khe khẽ, chống tay lên trán.

“Thôi bỏ đi, ta đã có đủ vấn đề để lo lắng rồi. Chuyện lần này đã vượt quá tầm kiếm soát của một Đại Công tước như ta.”

“Ông… sẽ báo chuyện này với Hắc đế?”

“Phải, ta sẽ phải đích thân đi một chuyến tới Jerusalem. Nếu ta không nhầm, và ta nghĩ là cháu cũng đã hiểu, giả sử lời nhắn của tên thủ lĩnh đó thành hiện thực, thì hậu quả sẽ không phải là thứ mà chúng ta có thể tưởng tượng ra. Chúng ta là những sinh vật bị Chúa trời nguyền rủa, nhưng không phải bị Ngài bỏ rơi. Nếu chúng ta gây thêm tội lỗi trên mặt đất này, thì hình phạt với loài ma cà rồng sẽ không chỉ là bóng tối vĩnh hằng.”

* Chú thích :

* Source of the image (nguồn ảnh đầu trang) : wikipedia

(1) Hình ảnh bánh xe ngựa giai đoạn trước 1650 (trái) và sau 1700 (phải). Bánh xe trước năm 1700 thường được tạo thành bằng cách nối những mảnh kim loại uốn cong tạo thành hình tròn hoàn chỉnh : http://goo.gl/fCdxOQ

(2) Sân cỏ : Tương tự như bãi cỏ trong công viên hiện đại, là một công trình công cộng tại London thời bấy giờ.

(3) Nhà thờ St. Paul : một trong những công trình kiến trúc Cơ đốc giáo nổi tiếng của Anh, được xây dựng bởi vua Æthelberht xứ Kent (vùng Đông Nam London) vào khoảng năm 640.

(4) Cuộc nối chiến ở Anh (1642 - 1651) kéo dài từ đời vua Charles I đến Charles II, chủ yếu bắt nguồn từ xung đột giữa phe Bảo hoàng Anh và Quốc hội.

(5) Trích Sáng thế kí (Nguồn : vietchristian.com)

(6) Trích sách Khải huyền, chương 12. Chương này chủ yếu nói về cuộc chiến trên thiên đàng, và đề cập tới Satan (trong hình ảnh một con mãng xà).

(7) Cung điện Whitehall : chỉ The Palace of Whitehall, là nơi ở của vua và Hoàng tộc Anh quốc. Charles II, người cai trị Anh quốc tại thời điểm năm 1666, đã chọn Cung điện Whitehall làm nơi ở tại thủ đô London. Cũng có thể nói, tại thời điểm này, Charles II chính là chủ nhân của Cung điện Whitehall. Hình ảnh ở đầu truyện là quốc huy của Anh quốc dưới thời của Charles II, biểu trưng cho quyền lực tối cao của Charles II tại đất nước này.

*Chú thích thêm về gậy chống của Solomon : là một thứ "phục sức" của đàn ông trong giới quý tộc châu Âu thời xưa, trở nên phổ biến vào khoàng thế kỉ 17, nguyên bản là "walking stick" hoặc "cane". Những chiếc gậy này thường làm bằng gỗ, bọc kim loại ở một đầu, đầu còn lại thường được trang trí bằng những chiếc tay cầm mạ vàng hoặc cẩn ngọc. Hai dạng phổ biến : https://goo.gl/PnlRZu - https://goo.gl/TShg1Y

P/s : Chúc mọi người năm mới vui vẻ :tho2: .Mình định up theo đúng lịch vào mỗi tối thứ 6 nhưng vì bận quá nên không kịp, nên đã bỏ ý định cắt đôi phần này up thành 2 lần & quyết định up cả luôn để làm quà năm mới :)). Cảm ơn những độc giả đã, đang và sẽ đọc truyện, lượt view truyện tăng đều như giá xăng chính là một phần động lực cho tác giả :tho23: . Phần còn lại (cực kì quan trọng) chính là comment, yêu thích, review của các bạn độc giả thân yêu :tho26:.

Spoil phần sau : Xuất hiện nhân vật mới, Nam tước Levite gặp phải chuyện gây shock, và vài bí ẩn mới chào đón cũng như sẽ mở khóa 1 bí ẩn từ hồi 2. Thank you các bạn đã chịu khó đọc hết những dòng lảm nhảm của mình :tho3:. Happly new year :D .
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Hồ Nữ vương

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
23/2/14
Bài viết
53
Gạo
300,0
Hồi 3 : Trăng phần tư

8TzzAtt.jpg

(Source : giochidelloca.it)

1.

Đại Công tước mời tôi ở lại dùng điểm tâm, nhưng tôi đã lịch sự từ chối.

Người không giữ tôi lại, và cũng không hỏi gì thêm.

Bá tước vẫn ngồi chờ tôi trong lễ đường. Ông đang trò chuyện với lão gác cổng.

Hai người cùng đứng dậy khi thấy tôi và cha Willis bước ra khỏi buồng xưng tội.

“Xin lỗi, đã khiến cha phải chờ lâu.”

“Không có gì. Ta mong là con sẽ nhẹ nhõm hơn khi có thể trút bỏ tội lỗi trước Đấng bề trên và được Người tha thứ.”

“Đấng bề trên đã rất khoan dung, ít nhất là với con, thưa cha đỡ đầu.”

Bá tước ngước nhìn lên bức tượng Chúa Jesus trên thập giá, thở dài.

“Nhưng có lẽ không phải với tất cả. Có những tội lỗi mà chính Người cũng không thể nhìn vào, đừng nói là dung thứ.”

Tôi nhìn quanh lễ đường tối tăm. Bá tước lập tức trả lời thắc mắc trong đầu tôi :

“Ta có một số công việc khẩn dành cho Gieve. Hắn sẽ sớm quay về trong chốc lát thôi.”

Rồi ông quay sang lão gác cổng đang đứng bên cạnh.

“Tôi rất mừng vì những thông tin mà ông đã cung cấp. Chút chuyện nhỏ đó đành phải phiền ông.”

Lão gác cổng xua tay :

“Có gì đâu mà phiền. Bá tước đã có lòng như vậy, tôi cũng chỉ có thể góp chút sức mọn thôi.”

“Cha, có phải cha lại…?” Tôi ngước nhìn Bá tước.

“Lũ trẻ ở Đông London quả là đáng thương, và may sao ta đang có ý định tài trợ cho một nhà tế bần mới”, Bá tước mỉm cười. “Còn những đứa trẻ ở nơi bảo trợ cũ đều đã tìm được việc làm hoặc người đỡ đầu, những thành viên mới sẽ khiến nơi buồn tẻ đó trở nên ấm áp và sống động.”

Đoạn ông quay sang phía cha Willis, hỏi với giọng điệu thành kính :

“Thưa Cha, liệu Cha có sẵn lòng làm lễ rửa tội cho những đứa trẻ ở nơi bảo trợ của tôi?”

“… Được”, cha Willis ngắn gọn đáp.

Ba tiếng gõ cửa đều đặn vang lên.

Lão gác cổng nhanh chóng mở cánh cửa gỗ phía cuối lễ đường.

Gieve bước vào, cúi mình đặt bàn tay phải lên ngực trái.

“Thưa các vị chủ nhân, xin thứ lỗi cho tôi vì đã trở về trễ.”

“Công việc ta giao phó ngươi đã hoàn thành tốt đẹp chứ?”

“Không thể suôn sẻ hơn, thưa Bá tước.”

“Vậy, chúng ta nên khởi hành thôi”, Bá tước gật đầu. Chúng tôi chào tạm biệt cha Willis, và được lão gác cổng tiễn đến cửa ngoài.

“Tôi muốn thay mặt lũ trẻ cảm ơn ngài, thưa Bá tước. Chúa trời đã bỏ rơi chúng, nhưng lại không quên gửi xuống cho chúng tôi những con người hào phóng và nhân hậu như đức ngài đây.”

Bá tước chỉ mỉm cười không đáp. Chúng tôi lên xe, và Gieve quất roi ngựa, hô lớn : “Khởi hành!”.

Từ trong khoang xe, tôi có loáng thoáng nghe thấy giọng nói già nua của lão gác cổng vọng lên từ phía sau, lạo xạo chìm vào âm thanh của gió đêm.

“Chúc các ngài thượng lộ bình an! Cầu Chúa phù hộ cho tất cả chúng ta.”

***

Chiếc xe ngựa của Bá tước dừng lại trước cổng dinh thự nhà Iscariot. Màn đêm đã nhạt dần, nhưng may mắn thay, bình minh sẽ chỉ tới sau một giờ nữa.

Gieve cử người hầu đưa tôi về phòng thay y phục, còn hắn thì cùng Bá tước vào thư phòng.

Trút bỏ bộ lễ phục nặng nề, tôi sai người hầu chuẩn bị sẵn một tách “rượu Ả-rập” (1) trước khi tới phòng ăn. Đây chính là thứ mà tôi cần sau một cuộc gặp mặt tương đối căng thẳng kéo dài suốt hai tiếng đồng hồ. Bất cứ thứ gì khác cũng chỉ khiến cơn đau đầu của tôi trở nên tệ hại hơn.

Bữa “sáng” muộn của tôi diễn ra khá êm ả và tĩnh lặng. Sau một ly rưỡi máu, tôi cầm chiếc tách sứ Trung Hoa sóng sánh thứ nước đen sậm còn bốc hơi nóng, đi dạo vào thư viện ở cánh Tây của dinh thự.

Có hai người đã ngồi ở đó trước tôi.

Một mái đầu đỏ bù xù nhảy xổ ra khỏi chiếc ghế bành trong góc phòng, lao tới hít hà chiếc tách trong tay tôi.

“Thơm quá đi! Solomon, tôi cũng muốn uống thử!”

Tôi liếc nhìn người hầu ở phía sau. Cô ta vội cúi người nhận mệnh lệnh, rồi nhanh nhẹn bước ra khỏi phòng.

Hương thơm tỏa ra từ chiếc tách sứ cũng khiến Achilles nhổm người khỏi ghế. Cậu ta bước tới đỡ lấy bàn tay đang cầm tách của tôi, nâng lên sát chiếc mũi cao thẳng của mình.

“Hương thơm này tớ chưa từng được thưởng thức trước đây”, Achilles nhắm mắt, hít sâu, “Vừa ấm áp như mùi trầm Trung Hoa, lại phảng phất hương vị đắng dịu dàng.”

Người hầu nữ đã quay trở lại cùng với hai chiếc tách trên khay bạc. Chúng tôi cùng ngồi xuống, lẳng lặng thưởng thức hương thơm nhẹ nhàng đang lan tỏa trong phòng.

Trên chiếc bàn tròn ở giữa, một bản gỗ khắc dài hơn một sải tay được đặt lên, cùng hai quân tượng người nằm trên “đường đua” hình xoắn ốc. Trung tâm của “đường đua” là đích đến, được tượng trưng bằng hình khắc một cậu bé ôm một con ngỗng lớn trên tay.

“Ai đang ở ô 58 vậy?”, tôi chỉ vào quân hình nữ hoàng. Ô 58, chỉ cách đích đến năm lượt đi, là ô duy nhất mang chỉ lệnh “Trở về vạch xuất phát”.

Achilles thở dài.

“Cậu biết là Silas luôn may mắn trong mọi trò chơi mà, Solomon.”

Silas hí hửng lắc lắc hai quân xúc xắc bằng ngà voi trên tay, nhìn cậu anh họ bất đắc dĩ đẩy quân nữ hoàng của mình về điểm đầu.

Hai quân xúc xắc được đổ ra. Tôi liếc nhìn số điểm trên các mặt ngửa, rồi ngoắc Achilles.

Cậu lập tức ghé tai lại gần.

Silas di chuyển quân đế vương của mình tới ô 53. Một ô “ngỗng”. Chỉ cần một hay hai lần đổ xúc xắc may mắn nữa, cậu ta sẽ thắng.

“Này, Solomon, như thế là ăn gian đấy!”, Silas trừng mắt nhìn tôi, “Đây là trò chơi cho hai người mà!”.

Tôi nhún vai.

“Trò chơi này vốn chỉ hoàn toàn dựa vào may rủi. Tuy nhiên, tôi muốn thử đấu trí với vị thần may mắn của cậu một chút. Hai đấu hai thì có gì không công bằng? Và…”, tôi ngả người ra sau, mỉm cười, “… một món cá cược nho nhỏ sẽ làm trò chơi thêm phần thú vị. Cậu có dám tin tưởng vào vận may của mình không, Silas?”

Silas cắn môi, xoay xoay hai viên xúc xắc trong tay.

“Cậu… muốn cược gì?”

***

Tôi dựa lưng vào cửa sổ phòng ngủ, thong thả thưởng thức hương thơm tỏa ra từ chiếc tách sứ trên tay.

Phía dưới sân, một thân hình nhỏ bé ủ rũ bước lên chiếc xe ngựa đã được chuẩn bị sẵn. Bên cạnh cửa xe, bóng dáng cao gầy của quản gia Gieve khẽ cúi xuống thay cho nghi thức chào tạm biệt.

Achilles đã bước tới đằng sau tôi từ bao giờ. Cậu ta ghé người nhìn cỗ xe ngựa đi khuất dần về phía chân trời đang hửng sáng.

“Solomon à, gửi một đứa trẻ được nuông chiều từ nhỏ như cậu em họ tớ đến chỗ quý bà Graham… lần này cậu hơi mạnh tay đó.”

“Đó là một cơ hội tốt cho chính cậu ta thôi”, tôi nhấp một ngụm nước từ chiếc tách sứ, “Quý bà Graham đã từng là Cố vấn lễ nghi cho hai đời Đế vương, và nổi tiếng về sự nghiêm khắc đến độc đoán của mình. Solomon sẽ học hỏi được những phẩm chất cần thiết cho vị trí của cậu ta sau này trong giới quý tộc. Hơn nữa, lễ trưởng thành cũng đã tới gần, chúng ta đều sẽ phải sẵn sàng để nhận lấy trọng trách của mình.”

“Tớ hiểu”, Achilles vò nhẹ mái tóc vàng sậm của mình, thở dài. Cậu bước tới trước tấm gương trang trí trên tường, nhìn chăm chú vào khuôn mặt được phản chiếu của mình.

“Sớm thôi, đôi mắt của chúng ta sẽ không còn mang màu hổ phách…”, cậu ta lẩm nhẩm, rồi quay lại nhìn tôi, “Cuộc gặp mặt vừa rồi… Đại Công tước có ý kiến thế nào về Bizeng?”

“Ngài ấy sẽ tới Jerusalem”, tôi bước tới chiếc bàn nhỏ ở giữa phòng, lật giở cuốn “Tuyển tập bi kịch Hi Lạp”. Trên bìa da của quyển sách lấm tấm những vệt tròn màu huyết dụ, có lẽ đã quá trễ để gột sạch.

“Phải, ngài ấy nên làm thế”, Achilles ngồi xuống cạnh tôi, “Chẳng có gì đảm bảo là chuyện này sẽ không tiếp diễn ở những nơi khác.”

“Và Đại Công tước cũng ra cho tớ một mệnh lệnh.”

Tôi nhìn thẳng vào mắt Achilles.

“Achilles này, lời thề lúc nhỏ của chúng ta, cậu có còn nhớ không?”

Cậu ta không chút do dự gật đầu.

“Elysian hay Asphodel, Tartarus hay Hesperides (2), mãi mãi bước cùng nhau, không bao giờ bội phản.”

“Lần này, tớ sẽ phải làm việc với một tay sai đến từ cung điện Whitehall. Nói thật thì tớ không nghĩ mình nên đặt quá nhiều lòng tin vào thỏa thuận với loài người”, tôi nhớ lại những khuôn mặt xa lạ với đôi mắt bịt kín bằng lụa đen, “Và tệ hơn là… linh cảm của tớ hiện đang rất xấu. Có điều gì đó còn kinh khủng hơn chuyện ở Bizeng đang diễn ra.”

Achilles vỗ nhẹ lên vai tôi.

“Cậu muốn tớ đi cùng cậu khi thực hiện nhiệm vụ với tên tay sai kia?”

“Đúng, nếu cậu bằng lòng”, tôi nghiêng đầu mỉm cười, “… Nhưng là đi theo sau chứ không phải đi cùng.”

Cậu bạn cao lớn khẽ nhướng mày, rồi cũng đáp lại tôi bằng nụ cười lãng tử quen thuộc.

“Cậu vẫn muốn chơi trò “tay trong-tay ngoài” như hồi nhỏ sao? May là tớ khá giỏi trò này đấy.”

“Tay trong –tay ngoài” đã từng là trò chơi ưa thích nhất của chúng tôi. Chỉ cần hai người chơi là đủ. Một người sẽ làm nhiệm vụ đánh lạc hướng, còn người kia sẽ đi theo sau để thực hiện ý đồ thực sự. “Nhờ” trò chơi này mà ông bố già nhà tôi đã rụng không biết bao nhiêu là tóc khi thấy hầm rượu yêu quý của mình thỉnh thoảng lại vơi đi không có nguyên do, còn đàn chó được huấn luyện kĩ càng thì cứ hễ trước ngày đi săn là lăn quay ra ngủ.

Tôi vẫn còn nhớ món ưa thích của chúng là rượu nho Ý ba mươi năm tuổi.

Achilles đứng bật dậy, giơ tay về phía tôi.

“Trong trò chơi này, chỉ có một nguyên tắc duy nhất.”

Tôi phì cười, đập nhẹ lên tay cậu như ngày chúng tôi còn nhỏ. Bàn tay to và gân guốc của cậu bất ngờ nắm chặt lấy tay tôi. Vì nhỏ hơn Achilles khá nhiều (điều này khiến tôi thấy hơi buồn – chỉ một trăm năm trước thôi tôi vẫn cùng chiều cao với cậu ta), tôi dễ dàng bị cánh tay khỏe quá mức ấy lôi dậy, suýt nữa đập mũi vào ngực cậu.

Hai tay trái nắm chặt, tay phải đấm nhẹ lên nơi trái tim đang đập của người kia.

Nguyên tắc của chúng tôi rất đơn giản : Tuyệt đối tin tưởng lẫn nhau, cho tới khi hai trái tim ngừng đập.

***

Một người hầu gõ cửa, nói rằng Bá tước muốn gặp tôi.

Tôi đang cùng Achilles chơi một ván Goose mới.

“Xem ra chúng ta phải tạm dừng ở đây rồi”, tôi đổ xúc xắc khỏi lòng bàn tay. Quân đế vương được tiến thêm năm bước, chỉ còn cách quân đế hậu hai lượt đi.

“Đáng tiếc thật”, Achilles tặc lưỡi, “Một bước nữa là cậu đã được vào “cổng trời” rồi, Solomon. Con ngỗng đáng lẽ sẽ nằm trong tay cậu.”

“Nó sẽ nằm trong tay tớ”, tôi mỉm cười, nhấp một ngụm trà rồi đứng dậy, “Chúng ta mới chỉ bắt đầu trò chơi thôi mà.”

Khi tôi bước qua chỗ ngồi của Achilles, bàn tay cậu kéo nhẹ áo tôi.

“Cảm ơn cậu”, Achilles thì thầm, “Vì đã gửi em họ tớ tới vùng an toàn trước khi trò chơi bắt đầu.”

Tôi không trả lời, chỉ vỗ nhẹ lên vai cậu, rồi cùng người hầu bước ra ngoài.

Các ô cửa sổ trên hành lang đều đã buông rèm. Bóng tối bao phủ theo mỗi bước chân của tôi, nhưng thỉnh thoảng , một cơn gió khẽ lay động tấm rèm nhung,

để lọt một tia sáng yếu ớt xuống sàn gỗ.

Bình minh đã lên.

Sau cuộc trò chuyện này, tôi sẽ chìm vào giấc ngủ như những đồng loại khác, và chờ đợi màn đêm buông xuống một lần nữa.

Khi đó, trò chơi sẽ chính thức được mở màn.


*Chú thích :

(1) Rượu Ả-rập : tên gọi của cà phê khi lần đầu du nhập vào châu Âu thế kỉ 17.

(2) Elysian, Asphodel, Tartarus, Hesperides : Theo thần thoại Hi Lạp, địa phủ được chia thành ba phần : vườn địa đàng (Elysian) dành cho người hùng, vườn Asphodel dành cho người thường, và địa ngục Tartarus dành cho những linh hồn tội lỗi. Vườn Hesperides cũng được nhắc tới - là nơi dừng chân của các anh hùng (nguồn : wiki).


* Về trò chơi mà ba nhân vật đã tham gia trong thư viện : Tên gọi tiếng Anh là Goose (nghĩa là Con ngỗng) - một trò chơi khá phổ biển ở châu Âu từ thời Trung cổ. Nguyên tắc khá giống trò cờ cá ngựa, hoặc cờ tỷ phú, thường bao gồm hai người chơi. Hình minh họa ở đầu trang là một tờ giấy vẽ đường đua dùng trong trò chơi này (cũng có nơi dùng bản gỗ khắc). Có thể đọc thêm về trò chơi ở đây (xin lỗi :( mình chỉ tìm được nguồn tiếng Anh :( ) : http://www.giochidelloca.it/scheda.php?id=941

Nguồn ảnh : giochidelloca.it
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bên trên