Hồi 2(3) : Đại Công tước
3.
Xe ngựa của Bá tước chậm rãi lăn bánh trong màn đêm mịt mùng. Bầu trời nhiều mây, dấu hiệu cho những cơn mưa dai dẳng có lẽ vẫn chưa thể kết thúc. Không khí ẩm và nặng nề, đôi khi đặc quánh lại. Dù vậy, từ trong khoang xe, tôi chỉ cảm nhận được mùi hương của cây cỏ tắm trong sương đêm, không lẫn bất kì một mùi vị nào khác. Khứu giác nhạy bén chưa bao giờ được tôi coi là ưu điểm trong suốt cuộc đời trải dài hơn hai thế kỉ, bởi kí ức về hương vị thường rất mạnh mẽ, đặc biệt nếu ngươi là giống loài đi săn bằng máu. Máu nuôi sống sinh mạng của ngươi, nhưng cũng đem tới cho ngươi những cơn ác mộng vĩnh hằng.
Bá tước ngồi bên cạnh tôi, yên lặng nhìn ra ngoài cửa sổ. Nét mặt ông bình thản như một quý ông nhàn tản đi dạo vào một đêm mất ngủ. Đó là quyết định của Bá tước khi đi cùng với tôi, nên có lẽ ông cũng đã chuẩn bị cho những gì sắp đến.
Chúng tôi tiến vào nội đô. Bánh xe kim loại lăn một cách khó khăn trên con đường lầy lội, thỉnh thoảng vang lên một chuỗi âm thanh khô khốc khi những miếng đai nối trên vành (1) va vào phần gạch lát đường bị vỡ. Tuy vậy, trong khoang xe lại khá êm ả. Tên quản gia đó đã không hề phóng đại về tay nghề đánh xe của hắn.
Những sân cỏ(2) được cắt tỉa gọn gàng nối liền nhau ở phía Bắc London, tạo nên một khoảng không trống trải trước khi đột ngột chuyển sang khu phố với những cửa hiệu, quán cà phê, nhà ở của tầng lớp trung và thượng lưu. Vào ban ngày thì chốn này hẳn là con đường sầm uất dưới bầu trời London màu xám. Nhưng, vào thời điểm quá hai tiếng sau nửa đêm, chuột và chó mèo hoang mới là chủ nhân của đường phố. Đối với con người, dầu hỏa và mỡ động vật quá đắt đỏ để mà lãng phí, nên không một chiếc đèn lồng nào được thắp lên trước những ngôi nhà, và cũng không có một chiếc xe ngựa nào có thể chạy trên đường.
Chúng tôi là những lữ khách duy nhất trong màn đêm tưởng chừng như vô tận.
***
Gieve tạo một âm thanh nhỏ, ra hiệu cho lũ ngựa dừng lại. Cửa xe mở ra, Bá tước và tôi được tên quản gia đỡ xuống.
Tôi ngước nhìn cánh cổng gỗ sồi nằm ẩn mình sau dãy cột chống màu xám lạnh lẽo. Những thiên thần được tạc bằng đá với nét mặt ngây thơ pha lẫn chút u sầu xoải cánh trên mái hiên kiểu Tây phương cổ điển. Những ngọn tháp cao với chóp mái nhọn đâm thẳng lên trời, tạo nên một kiến trúc kiên cố sừng sững giữa lòng London cổ kính.
Nhà thờ St. Paul (3) – một trong những địa điểm tôn giáo linh thiêng từ thời vua Æthelberht xứ Kent – đã được Đại Công tước lựa chọn để trở thành địa cung của ngài ở Anh quốc. Hay nói đúng hơn, đó là một món quà mà ngài đã chấp nhận từ vị vua hào phóng cai quản vùng Đông Nam cách đây một thiên niên kỉ.
Gieve bước tới trước cánh cửa gỗ cũ kĩ. Hắn nắm chiếc vòng sắt trên cửa, gõ ba tiếng không nhanh không chậm.
Chẳng bao lâu, cánh cửa bên phải hé ra một khe nhỏ. Ánh sáng le lói hắt ra từ chiếc nến trên bàn tay người gác cổng chỉ đủ để soi lên gương mặt lạnh lùng của quản gia Gieve, rồi nhanh chóng bị bóng đêm nuốt chửng trước khi vươn tới chỗ tôi và Bá tước.
Người gác cổng nheo đôi mắt đầy nếp nhăn, hơi vươn người về phía trước, tay giơ cao chiếc giá nến đã gỉ sét.
“Ai đó?”, ông ta hỏi, giọng nói mỏi mệt đầy vương vấn như còn lạc trong cõi mộng, “Nhà thờ đã đóng cửa rồi. Hãy quay lại khi chúng tôi đánh tiếng chuông buổi sớm đầu tiên.”
Tên quản gia mỉm cười :
“Xin thứ lỗi cho tôi vì đã quấy rầy giấc ngủ của ông. Chủ nhân của tôi có hẹn với Cha Willis để được xưng tội.”
“Cha Willis?”, người gác cổng vuốt tay lên mặt, rồi đột ngột mở to mắt. Xem chừng ông ta đã tỉnh.
“À phải, phải rồi, cha Willis đã có dặn mà tôi suýt quên mất”, ông ta lật đật sửa sang lại quần áo, vuốt gọn mớ tóc thưa thớt trên đầu, rồi mở rộng cánh cửa bên phải. “Mời vào, mời vào, tôi sẽ dẫn ngài…”, ông ta hơi ngạc nhiên khi Gieve cúi mình đứng sang bên cạnh để tôi và Bá tước bước vào, “… à, các quý ngài đây tới gặp cha Willis.”
“Cảm ơn ông”, Bá tước ngắn gọn đáp.
Trong ánh sáng tù mù của ngọn nến duy nhất trên tay người gác cổng, chúng tôi băng qua tiền sảnh nối liền với một đoạn hành lang ngắn, tiến vào khu nhà nguyện. Cuộc nội chiến(4) đã phần nào ảnh hưởng tới khu nhà thờ cũ này. Những thớ gỗ xếp thành một đống ngổn ngang gần bệ thờ, bức tượng Đức mẹ Đồng trinh bị phủ lên một lớp vải xám để tránh bị vấy bẩn trong quá trình tái thiết lại St. Paul. Tôi hắt hơi, cảm thấy như đang bước vào một hầm ngục phủ đầy những vụn gỗ và tơ bụi. Có lẽ nếu xưng tội ở đây thật thì Chúa của loài người cũng chẳng buồn ghé xuống mà lắng nghe.
Một bóng người đang quỳ xuống giữa đống lộn xộn của gỗ và mùn cưa, cúi đầu trước bệ thờ. Thính giác nhạy bén của ma cà rồng khiến tôi nghe rõ từng câu trong lời lầm rầm của ông ta.
“
Vả, trong các loài thú đồng mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm nên, có con rắn là giống quỉ quyệt hơn hết. Rắn nói cùng người nữ rằng: Mà chi! Đức Chúa Trời há có phán dặn các ngươi không được phép ăn trái các cây trong vườn sao.
[…] Đức Chúa Trời phán hỏi: Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng mình lõa lồ? Ngươi có ăn trái cây ta đã dặn không nên ăn đó chăng? […] Người nữ thưa rằng: Con rắn dỗ dành tôi và tôi đã ăn rồi. Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn phán cùng rắn rằng: Vì mầy đã làm điều như vậy, mầy sẽ bị rủa sả trong vòng các loài súc vật, các loài thú đồng, mầy sẽ bò bằng bụng và ăn bụi đất trọn cả đời. Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người.
[…]Ngài lại phán cùng A-đam rằng: Vì ngươi nghe theo lời vợ mà ăn trái cây ta đã dặn không nên ăn, vậy, đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. […] ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi.
[…]Vậy, Ngài đuổi loài người ra khỏi vườn, rồi đặt tại phía đông vườn Ê-đen các thần chê-ru-bin với gươm lưỡi chói lòa, để giữ con đường đi đến cây sự sống.”(5)
Người đàn ông trong chiếc áo chùng đen cúi rạp mình hôn lên mặt đất khi đoạn kinh cầu kết thúc. Ông ta quay lại, khuôn mặt lộ xương gò má gầy guộc và đóng khung trong chiếc cằm vuông vức. Đôi mắt nhỏ hẹp, mang sắc vàng ngả sang xanh lá, một màu mắt khá hiếm thấy. Phần tóc ngả xám trên đầu ông ta được cắt theo hình vòng cung , đỉnh đầu cạo sạch sẽ, khiến ông ta tuy có dáng người cao lớn nhưng lại thấp thoáng hình ảnh của một thầy tu khắc khổ dưới lớp áo chùng thắt đai sợi thừng. Ông ta hơi mỉm cười khi nhìn thấy chúng tôi, nhanh chóng bước tới cúi chào.
Gieve cũng cúi nhẹ đầu, rồi giơ thiệp mời của Đại Công tước lên.
“Hai chủ nhân của tôi muốn có vinh hạnh được cha lắng nghe lời xưng tội, cha Willis.”
Vị cha xứ liếc nhìn chiếc thiệp trên tay Gieve, rồi nhẹ nhàng lắc đầu.
“Tôi chỉ có hẹn với một vị thôi.”
Tôi lén nhìn khuôn mặt Bá tước. Ông đứng với dáng vẻ thong dong, đôi mắt vẫn gợn nét buồn như mọi khi. Nhưng tôi biết, cha đỡ đầu của mình đang thở dài trong lòng.
“Xin lỗi các ngài, nhưng ý muốn của Đấng bề trên cũng là ý muốn của tôi”, cha xứ lần tay theo chuỗi tràng hạt.
Gieve nhìn Bá tước. Ông gật đầu, hắn mới lùi xuống dưới và đứng yên lặng sau lưng hai chúng tôi.
“Solomon, ta sẽ chờ con ở bên ngoài. Hãy giúp ta gửi lời nguyện cầu tới Đấng bề trên.”
“Vâng, thưa cha”, tôi cúi đầu chào Bá tước, rồi bước tới trước mặt vị cha xứ.
“Xin hỏi, ngài chính là Nam tước Levite?”
“Đúng, chính là ta, Nam tước Solomon Francis Levite. Ta là người muốn được xưng tội.”
***
Cha Willis dẫn tôi bước tới góc phòng, rồi rẽ vào một căn buồng nhỏ được xây chìm vào trong tường. Không ai có thể nghe thấy chúng tôi nếu cánh cửa buồng bằng gỗ sồi được đóng lại.
Chúng tôi bước vào hai ngăn riêng. Cha Willis gật đầu.
“Thưa Nam tước, xin ngài hãy gõ cửa để người gác cổng phía dưới chuẩn bị đón khách.”
Tôi giơ cao chiếc gậy chống của mình, gõ lên sàn ba tiếng.
Phía bên kia, cha xứ áp tai xuống mặt bàn gỗ nhỏ trước mặt.
“Người gác cổng đã sẵn sàng”, ông ta nói với tôi, rồi đưa tay mở chiếc hộp thiếc trên bàn. Trong đó không đựng kinh thánh như những phòng xưng tội bình thường khác, mà có một cái cần gạt nhỏ mạ đồng.
Khi chiếc cần gạt bị cha xứ bẻ ngược về sau, tôi hơi giật mình bởi cảm giác hẫng dưới chân. Mặt sàn bên tôi hạ thấp dần. Qua lớp cửa sổ mắt cáo, tôi có thể thấy vị cha xứ đang làm dấu thánh, đôi mắt màu vàng lấp loáng sắc xanh chỉ khẽ liếc nhìn về phía trước, rồi lập tức nhắm lại.
Trước khi chìm hẳn xuống lòng đất, tôi vẫn nghe rõ lời kinh cầu của ông ta.
Đó là chương thứ mười hai trong sách Khải huyền.
4.
“Con rồng lớn đã bị ném xuống mà con rắn xưa gọi là ma quỷ, hoặc Satan, kẻ lãnh đạo toàn thế giới lầm lạc. Hắn đã bị ném xuống đất cùng với các thiên sứ của nó."(6)
----Khải huyền 12:9----
Chiếc thang di động đã chạm xuống đáy. Tôi bước xuống, trao gậy cho người gác cổng, rồi theo một lính canh bước vào địa đạo đá.
Những phiến đá tổ ong rắn chắc được xếp ở bên ngoài, và đóng vai trò là phần “vỏ” bảo vệ của toàn bộ địa cung. Những bậc thang dốc dần xuống dưới, nối với một lối đi nhỏ hẹp, càng vào sâu lại càng mở rộng. Cách khoảng ba mươi bậc mới có một ngọn đuốc trên tường, nhưng thứ ánh sáng yếu ớt ấy hầu như bị che lấp bởi vô số khóm cây nhỏ trồng ở hai bên và bừng nở ra ánh sáng màu xanh lục theo từng bước chân của khách bộ hành.
Tôi được dẫn vào tiền sảnh lớn, nơi cánh cổng sắt nặng nề đã mở sẵn.
Đại Công tước đang ngồi trên chiếc ngai sắt của ngài trong bộ lễ phục màu tím, nghiêng đầu lắng nghe một người đàn ông mặc áo chùng đen ngồi bên tay trái. Lính canh bước vào bẩm báo, ngài gật đầu, rồi tiếp tục cuộc thảo luận với người kia.
Có lẽ tôi không phải là vị khách duy nhất trong đêm nay.
Lính canh bước tới bên cạnh tôi, hô lớn :
“Nam tước Levite thuộc Hắc tộc, con trai của Bá tước Levite vùng Bizeng xin được cầu kiến!”
Tôi tiến gần tới vị trí chiếc ngai sắt, quỳ xuống trên một chân, hơi cúi đầu.
“Kính chào Đại Công tước, xin cầu nguyện cho ngài một ngày mới an lành. Thần rất vinh hạnh khi được ngài gửi lời mời.”
“Được rồi, đứng lên đi”, Đại Công tước phất tay, “Hẳn là Nam tước đã biết nguyên nhân đằng sau lời mời đường đột của ta?”
“Vâng, thưa ngài”, tôi gật đầu, “Thần đã thu thập được một số đầu mối, mong là sẽ giúp Đại Công tước được yên lòng.”
Tôi khẽ liếc nhìn vị khách ngồi bên trái. Người đó không đi một mình, mà có hai tùy tùng đứng đằng sau, gươm tuốt trần tề chỉnh. Đại Công tước vẫy tay, một lính canh mang ghế dành cho khách tới, đặt vào bên phải ngài.
Giờ thì tôi đã phần nào đoán ra thân phận của vị khách kia.
“Nam tước, đêm nay sẽ là một đêm dài. Hãy ngồi xuống, và kể lại cho ta nghe tất cả về sự kiện ở Bizeng.”
“Thần xin tuân lệnh.”
Tôi ngồi xuống chiếc ghế bên phải ngai sắt. Vị khách ngồi đối diện giấu
mình sau lớp áo chùng dày, chỉ khẽ gật đầu thay cho lời chào hỏi.
Tôi không thể nhìn rõ mặt vị khách này, cũng như hai kẻ tùy tùng đứng đằng sau. Bởi tất cả bọn họ đều đeo một dải lụa đen mỏng che kín mắt.
Đây là một thủ thuật từ xa xưa của loài người, được dùng trong những cuộc hỗn chiến giữa ma cà rồng và nhân loại. Sức mạnh thôi miên của loài Hắc tộc thuần chủng chỉ phát huy tác dụng nếu chúng tôi nhìn thẳng vào mắt đối phương.
Hơn nữa, bàn tay đặt trên vịn ghế của vị khách loài người này lại có mang một chiếc nhẫn ngọc hồng lựu khảm trên đế vàng ở ngón trỏ tay phải, và một chiếc nhẫn mặt khắc huy hiệu đeo trên ngón trỏ tay trái.
Đó là huy hiệu hình kì lân và sư tử, cả hai loài đều đang ôm lấy một chiếc khiên chia bốn góc.
Vậy là phỏng đoán của tôi đã được chứng thực. Tôi đang có vinh dự được tiếp chuyện với một thành viên của Hoàng tộc Anh quốc.
***
Đại Công tước quay sang bên trái, mở lời giới thiệu :
“Hầu tước, đây là Nam tước Levite, một nhân chứng quan trọng trong sự kiện ở Bizeng vào đêm hai mươi ba vừa rồi.”
“Nam tước, đây là Hầu tước Lambton, đại diện của Cung điện Whitehall (7), hôm nay cũng đến gặp ta vì sự kiện này.”
Tôi đứng dậy, hơi cúi nhẹ đầu trước vị khách ngồi đối diện.
“Hầu tước Lambton, với tư cách là đại diện của cha tôi, chủ nhân Bizeng, tôi xin gửi lời cáo lỗi tới chủ nhân của ngài, bởi chúng tôi đã không bảo vệ được những cư dân của các ngài trong cái đêm kinh hoàng đó.”
Hầu tước xua tay, lắc đầu :
“Lời cáo lỗi của ngài chúng tôi nào dám nhận. Chủ nhân của tôi biết rằng các ngài đều đã cố gắng làm tất cả trong khả năng của mình. Hơn nữa, theo như nguồn tin của chúng tôi, thì vùng đất của cha ngài đã bị tấn công mà không có sự báo trước?”
“Đúng vậy, chúng kéo đến vào lúc mặt trời vừa lặn, khi chúng tôi còn chưa thức giấc.”
Tôi thuật lại cơn ác mộng ấy, không bỏ sót một chi tiết.
“Chúng đều là những kẻ ngoại tộc. Thậm chí… có một kẻ vẫn còn mang đôi mắt màu hổ phách.”
Hầu tước khẽ nghiêng đầu :
“Ồ… có phải đó là…”
“Đúng vậy”, tôi nhìn thẳng vào ông ta bằng đôi mắt màu hổ phách của mình, “Đó là một ma cà rồng nữ chưa đạt đến độ tuổi trưởng thành, giống như tôi.”
“Về danh tính của lũ ngoại tộc đó…”, tôi liếc nhìn Đại Công tước, khuôn mặt nghiêm nghị của ngài vẫn không hề suy chuyển. Có vẻ như chúng tôi sẽ không giữ riêng cho mình một bí mật nào trong cuộc thảo luận này. “… tôi mới chỉ nắm được thông tin về ma cà rồng nữ. Tên cô ta là…”
***
“Đại Công tước và Nam tước, thay mặt cho chủ nhân của tôi và Cung điện Whitehall, tôi có một đề nghị khá táo bạo, không biết các ngài có sẵn lòng lắng nghe?”
Đại Công tước nhìn tôi, rồi đưa tay làm dấu mời.
“Xin ngài cứ nói, Huân tước Lambton.”
“Tôi muốn một sự hợp tác”, Huân tước nói, hướng về phía Đại Công tước, “Một cuộc điều tra với mục tiêu chung giữa con người và ma cà rồng.”
“Tất nhiên, tôi hiểu rằng chuyện này chưa từng có tiền lệ, nếu không kể đến “thỏa thuận lớn” giữa hai loài cách đây bốn nghìn năm”, Huân tước nắm hai bàn tay lại, chống cùi chỏ lên vịn ghế. Ngón tay trỏ phải của ông ta khẽ xoa lên chiếc nhẫn khắc huy hiệu. “Và đã bốn thiên niên kỉ trôi qua, các Hắc đế, Bạch đế, và những vị vua của nhân loại vẫn luôn bảo vệ sự đồng thuận hiếm hoi đó bằng mọi giá.”
“Tôi không nghĩ đó là một ý kiến tệ”, tôi nói, “Quả thực, đây cũng là ý định ban đầu của tôi khi đến đây diện kiến Đại Công tước. Những xác người và ma cà rồng thuần chủng ở Bizeng chính là nguyên do.”
“Chuyện này đã không còn là vấn đề riêng của dòng tộc ma cà rồng”, Đại Công tước gật đầu, “Vậy, đại diện của Cung điện Whitehall, người mà ngài tiến cử cũng đến cùng ngài trong buổi viếng thăm hôm nay chứ?”
Huân tước mỉm cười.
“Đây chỉ là những tùy tùng thân cận của tôi, thưa Đại Công tước. Người đó sẽ hẹn các ngài địa điểm và thời gian gặp mặt. Tuy có đôi phần… nói sao nhỉ… lập dị? Khác người?”. Dù đang che mắt, ông ta vẫn không giấu nổi sự hứng thú lướt qua khuôn mặt. “Nhưng tôi có thể đem danh dự của chủ nhân tôi và chính tôi ra để đảm bảo với các ngài : hắn là con chó săn tuyệt vời nhất mà Hoàng tộc Anh quốc từng sở hữu.”
***
Những vị khách loài người đã rời khỏi tiền sảnh.
Khi cánh cửa sắt nặng nề khép lại sau lưng, tôi lập tức quỳ xuống trước Đại Công tước.
“Có chuyện gì vậy?”
“Thưa Đại Công tước, xin ngài thứ lỗi cho cháu vì đã không kể hết sự thật.”
“Solomon”, Đại Công tước bước tới, đỡ tôi dậy, “Cháu biết là ta sẽ luôn tha thứ cho cháu mà, như ta đã từng làm với cha cháu khi nó còn bé.”
Tôi ngước nhìn Đại Công tước, mỉm cười. Vì bà nội mất sớm, nên anh trai của bà, chính là Đại Công tước, đã giúp đỡ chăm sóc bố tôi và hai người anh em còn lại. Đó cũng là nguyên nhân vì sao bố tôi và cha đỡ đầu lại thân thiết từ nhỏ.
“Cháu biết mà, thưa ông. Nhưng chuyện này… cháu nghĩ sẽ không có kết quả tốt đẹp nếu Cung điện Whitehall biết được, nên đã tự ý giấu đi trong buổi gặp mặt vừa rồi.”
Tôi thuật lại lời nhắn của tên thủ lĩnh tóc bạc. Khi đó, lần đầu tiên trong hơn hai trăm năm, tôi mới được nhìn thấy sự căng thẳng hiện rõ trên khuôn mặt Đại Công tước – người vốn từng là chỉ huy trong vô số cuộc thanh trừng đẫm máu.
“Solomon, cháu đã nói chuyện này với những ai?”
“Chỉ có người quản gia ở Bizeng, cha đỡ đầu và hai người bạn chứng kiến vụ thảm sát cùng cháu biết. Nhưng cháu không nghĩ là họ hiểu được, trừ cha đỡ đầu.”
“Cha đỡ đầu của cháu... hôm nay cũng đến cùng cháu phải không?”, Đại Công tước nheo đôi mắt xám, ở đó cũng phảng phất nỗi buồn hệt như đứa con trai duy nhất của ông.
Tôi gật đầu.
“Nó… vẫn không chịu hiểu”, Đại Công tước quay đi, ngồi xuống chiếc ngai sắt, “Đã gần hai trăm năm, vậy mà nó vẫn… Ta chỉ có thể gặp nó khi nó đã tự tỉnh ngộ.”
Rồi ngài thở dài khe khẽ, chống tay lên trán.
“Thôi bỏ đi, ta đã có đủ vấn đề để lo lắng rồi. Chuyện lần này đã vượt quá tầm kiếm soát của một Đại Công tước như ta.”
“Ông… sẽ báo chuyện này với Hắc đế?”
“Phải, ta sẽ phải đích thân đi một chuyến tới Jerusalem. Nếu ta không nhầm, và ta nghĩ là cháu cũng đã hiểu, giả sử lời nhắn của tên thủ lĩnh đó thành hiện thực, thì hậu quả sẽ không phải là thứ mà chúng ta có thể tưởng tượng ra. Chúng ta là những sinh vật bị Chúa trời nguyền rủa, nhưng không phải bị Ngài bỏ rơi. Nếu chúng ta gây thêm tội lỗi trên mặt đất này, thì hình phạt với loài ma cà rồng sẽ không chỉ là bóng tối vĩnh hằng.”
* Chú thích :
* Source of the image (nguồn ảnh đầu trang) : wikipedia
(1) Hình ảnh bánh xe ngựa giai đoạn trước 1650 (trái) và sau 1700 (phải). Bánh xe trước năm 1700 thường được tạo thành bằng cách nối những mảnh kim loại uốn cong tạo thành hình tròn hoàn chỉnh :
http://goo.gl/fCdxOQ
(2) Sân cỏ : Tương tự như bãi cỏ trong công viên hiện đại, là một công trình công cộng tại London thời bấy giờ.
(3) Nhà thờ St. Paul : một trong những công trình kiến trúc Cơ đốc giáo nổi tiếng của Anh, được xây dựng bởi vua Æthelberht xứ Kent (vùng Đông Nam London) vào khoảng năm 640.
(4) Cuộc nối chiến ở Anh (1642 - 1651) kéo dài từ đời vua Charles I đến Charles II, chủ yếu bắt nguồn từ xung đột giữa phe Bảo hoàng Anh và Quốc hội.
(5) Trích Sáng thế kí (Nguồn : vietchristian.com)
(6) Trích sách Khải huyền, chương 12. Chương này chủ yếu nói về cuộc chiến trên thiên đàng, và đề cập tới Satan (trong hình ảnh một con mãng xà).
(7) Cung điện Whitehall : chỉ The Palace of Whitehall, là nơi ở của vua và Hoàng tộc Anh quốc. Charles II, người cai trị Anh quốc tại thời điểm năm 1666, đã chọn Cung điện Whitehall làm nơi ở tại thủ đô London. Cũng có thể nói, tại thời điểm này, Charles II chính là chủ nhân của Cung điện Whitehall. Hình ảnh ở đầu truyện là quốc huy của Anh quốc dưới thời của Charles II, biểu trưng cho quyền lực tối cao của Charles II tại đất nước này.
*Chú thích thêm về gậy chống của Solomon : là một thứ "phục sức" của đàn ông trong giới quý tộc châu Âu thời xưa, trở nên phổ biến vào khoàng thế kỉ 17, nguyên bản là "walking stick" hoặc "cane". Những chiếc gậy này thường làm bằng gỗ, bọc kim loại ở một đầu, đầu còn lại thường được trang trí bằng những chiếc tay cầm mạ vàng hoặc cẩn ngọc. Hai dạng phổ biến :
https://goo.gl/PnlRZu -
https://goo.gl/TShg1Y
P/s : Chúc mọi người năm mới vui vẻ
.Mình định up theo đúng lịch vào mỗi tối thứ 6 nhưng vì bận quá nên không kịp, nên đã bỏ ý định cắt đôi phần này up thành 2 lần & quyết định up cả luôn để làm quà năm mới
. Cảm ơn những độc giả đã, đang và sẽ đọc truyện, lượt view truyện tăng đều như giá xăng chính là một phần động lực cho tác giả
. Phần còn lại (cực kì quan trọng) chính là comment, yêu thích, review của các bạn độc giả thân yêu
.
Spoil phần sau : Xuất hiện nhân vật mới, Nam tước Levite gặp phải chuyện gây shock, và vài bí ẩn mới chào đón cũng như sẽ mở khóa 1 bí ẩn từ hồi 2. Thank you các bạn đã chịu khó đọc hết những dòng lảm nhảm của mình
. Happly new year
.