1. Một ngày
Haruma đã từng có lần nói rằng anh rất thích những cô gái có mái tóc đen truyền thống, là mẫu con gái chín chắn và dịu dàng. Tôi gật gù, quả là chỉ có những người như vậy mới hợp với anh. Chẳng như tôi, mê mẩn những hình xăm cùng sự trải nghiệm đau đớn trên da thịt để có được chúng, màu tóc tôi cũng thay đổi mỗi tháng một lần, giờ thì nó đang là màu vàng cát. Haruma còn rất thích nghe Indie, tôi thì chỉ nghe Hard Rock. Haruma dịu dàng, tôi không nữ tính. Chúng tôi khác nhau quá nhiều, chỉ có điều là tôi thích Haruma.
“Ngoài ra thì Mizuhara Kanade cũng là một kẻ cứng đầu nữa.”
Tôi lại gật gù, tôi cũng luôn tự nhủ với bản thân mình như thế, rằng mình cứng đầu cứng cổ đến nỗi thà rằng bị ghét chứ không bao giờ chịu chấp nhận vùi lấp cái tôi chỉ để theo đuổi một người đàn ông nào đó. Thế nên dù cho tôi đã thích Daiki Haruma nhiều đến thế thì tôi vẫn không thể nào trở thành mẫu tiểu thư hoàn hảo được. Tôi là tôi cơ mà, làm sao có thể khác đi được chứ?
Mặc dù vốn là người gốc Tokyo nhưng tuổi thơ tôi trải qua lại là ở làng Zao của tỉnh Miyagi vùng Tohoku – ngôi làng quanh năm suốt tháng đã vốn quá quen với cái cảnh hàng trăm con cáo hung đỏ chạy lang thang khắp mọi nơi như thể cái làng Zao này là vùng đất chỉ thuộc về riêng mình chúng vậy. Cũng như bao lớp thanh niên khác của làng, sau khi tốt nghiệp cấp ba tôi lên Tokyo học đại học, mà trường hợp của tôi thì phải nói là “trở về” mới đúng. Nơi tôi học cũng chẳng phải trường danh tiếng gì, mà cũng chỉ học vì mình có đủ khả năng chứ thực chất Kinh Tế chẳng phải thứ mà tôi thực sự hứng thú. Rồi tôi đi làm thêm ở một quán ăn đêm và gặp Haruma như thể số phận đã quyết định phải thế. Anh là con trai của chủ tiệm ăn, anh phải chạm mặt tôi năm buổi tối mỗi tuần trước khi đi ngủ và năm buổi sáng sau khi vừa thức giấc. Haruma hơn tôi năm tuổi và là giáo viên của một trường cấp ba nam nữ học chung, anh là kiểu người có nụ cười đẹp và làm việc tốt không bao giờ so đo, toan tính. Tôi vẫn thường quan sát và ngưỡng mộ nụ cười đó, thứ duy nhất đẹp đẽ tới mức tôi luôn mong muốn được chiếm về cho riêng mình dù cho nó cũng khó nắm bắt như cái cảm giác ấm áp khi những tia nắng mùa xuân khẽ chạm tới làn da. Một thứ cảm giác chẳng thể nào định hình lại để xăm lên da thịt được.
Tiếng quạ kêu rồi gõ lách cách trên mái nhà khiến tôi chợt tỉnh giấc vào lúc bốn giờ sáng. Dù là ở Tokyo hay ở đâu cũng thế, lũ quạ đáng ghét có ở khắp mọi nơi luôn không ngừng làm phiền đến khoảng thời gian nghỉ ngơi yên tĩnh của mọi người. Ấy vậy mà trong những đêm đầu tiên trở về Tokyo của tôi thì lũ quạ lại chính là một niềm an ủi nhỏ bé, chúng khiến cho tôi có chút cảm giác an tâm bởi cuối cùng cũng có một thứ mà mình biết vẫn chẳng hề thay đổi.
Tôi nằm yên trên giường đưa mắt liếc nhìn ra cửa sổ, bên ngoài trời vẫn tối, chỉ trừ những ánh đèn và tiếng động cơ của xe chở hàng phía bên ngoài thỉnh thoảng hắt lại rồi biến mất trong chốc lát. Thế là tôi nghĩ về những người làm nghề vận chuyển này. Tôi có quen một người làm thêm ở công ty vận chuyển Sagawa, một gã trai trẻ chỉ tầm tuổi Haruma nhưng có nhà riêng, có xe và đã lấy vợ. Một ngày anh ta chỉ gặp vợ mình một chút vào buổi tối, còn lại thì toàn bộ thời gian trong ngày đều dành cho Sagawa, cho những cung đường bất kể ngày đêm. Công việc ấy không phải là công việc của tôi nên tôi không thể biết được liệu có bao nhiêu niềm vui trong đó, chỉ tự hỏi liệu có bao giờ những người này nhận ra rằng gần như suốt cuộc đời của họ chỉ toàn là làm việc quần quật, rồi cuối cùng lại chẳng còn thời gian để cho mình được tận hưởng những thành quả mà chính họ đã làm ra. Tôi thở dài, sống một cuộc đời như vậy thật là đáng buồn. Liệu họ cũng có một ước mơ nào khác chứ? Mà có lẽ sau này tôi cũng sẽ trở thành chính xác một con người như vậy, làm những việc mà mình không hề hứng thú chỉ để có miếng cơm ăn và một ngôi nhà để ở. Cuối cùng là chết đi trong khi vẫn chẳng biết được thực sự ước mơ của mình là gì.
“Đáng ghét thật.” Tôi lầm bầm trong miệng: “Không thể ngủ lại được nữa mất rồi…”
Ngôi nhà mà tôi thuê là một ngôi nhà nhỏ xíu một tầng với bếp, nơi làm việc và chỗ ngủ chỉ nằm trong một căn phòng duy nhất. Tường nhà được sơn màu be, căn bếp tiện nghi nhỏ nhắn được đặt đối diện với góc học tập, và ngay bên trên góc học tập là căn gác xép nhỏ nơi tôi nằm ngủ. Khoảng cách từ giường đến trần nhà không lớn, thậm chí đủ gần để tôi có thể dán những tờ giấy ghi chú để tự nhắc nhở mình một việc quan trọng nào đó bởi chúng sẽ là thứ tôi nhìn thấy đầu tiên khi vừa mở mắt thức dậy. Ghi chú mà tôi viết cho ngày hôm nay là: “Mang cho Hattori dây giày mới!”
Naitou Hattori là một cậu bạn kém tôi một tuổi cùng làm thêm ở tiệm ăn đêm Daiki. Tiệm ăn mở cửa từ bảy giờ tối đến bảy giờ sáng, tôi làm ở đó hầu như cả tuần chỉ trừ ngày thứ năm và chủ nhật còn Hattori thì làm đủ nguyên bảy ngày trong tuần, thậm chí cậu ta còn đi làm thêm ở vài chỗ khác vào ban ngày nữa. Hattori gầy hơn tôi, da cậu ta trông lúc nào cũng hơi nhợt nhạt và mắt thì thâm quầng do ngủ quá ít. Tôi được nghe kể lại rằng Hattori sống một mình từ hồi còn học cấp hai, bố mẹ cậu ấy do nợ nần nên đã bỏ trốn để lại cậu ta ở lại tự xoay sở một mình. Thời gian đầu khi còn đi học Hattori vẫn nhận sự giúp đỡ về tài chính của bà nội và một vài người họ hàng khác, nhưng sau khi học hết cấp ba thì cậu ta quyết định không tiếp tục học tiếp lên đại học nữa mà đi làm kiếm tiền. Hattori đặt tiền lên ưu tiên hàng đầu của cậu ấy, làm việc quần quật đến nỗi chẳng có thời gian tự chăm sóc cho bản thân, thậm chí đến cái việc cỏn con như dây buộc giày của cậu ta đã mòn đến gần đứt ra suốt ba hôm nay vẫn còn chưa thay. Thế nên tôi mới phải viết ghi chú nhắc mình giúp Hattori làm hộ điều ấy. Cũng may tôi đang bắt đầu trong kỳ nghỉ hè nên không phải đi học, tôi sẽ có rất nhiều thời gian để đi mua sắm hết ngày này qua ngày khác nếu như tôi muốn.
Nằm chập chờn được thêm một lúc vẫn không ngủ lại được nên tôi quyết định xuống giường làm bữa sáng với hai quả trứng ốp lòng đào, một lát bánh mỳ nướng và một cốc chanh mật ong. Tôi rất hay dùng mật ong vì nó tốt cho dạ dày, những người làm việc đêm như tôi hay Hattori thì đều hay bị cái dạ dày suy yếu của mình làm phiền cả. Buổi sáng ở Tokyo cũng như đêm luôn bắt đầu và kết thúc bằng tiếng xe cộ thưa thớt, hoàn toàn khác xa hồi còn ở Zao, mùa hè sẽ là tiếng ve còn mùa đông là tiếng chân lũ cáo đi trên tuyết. Ở Tokyo cũng có ve nhưng không nhiều và ồn ào như ở Zao, tôi luôn cảm thấy cô độc vào mỗi sáng sớm như thế này, những buổi sáng hơi tĩnh mịch và chẳng có con cáo đi lạc nào sục sạo hay nằm vô tư cuộn tròn trước hiên nhà cả. Thay quần áo rồi chuẩn bị đầy đủ đồ dùng cần thiết vào trong túi xách, tôi xỏ giày và ra khỏi nhà vào lúc sáu giờ sáng. Ngày hôm nay sẽ là ngày chỉ đi bộ để giết thời gian.
Người Nhật rất kỵ xăm hình, đặc biệt là người trên thành phố vì họ sợ những người có hình xăm thường dính líu đến các Yakuza. Thậm chí có một số nơi không dành cho người có hình xăm lui tới và một số chỗ làm không nhận nhân viên có xăm hình. Để tránh rắc rối cho mình, mỗi khi ra đường tôi vẫn thường mặc những chiếc áo sơ mi nam rộng thùng thình khoác ra ngoài một bộ áo quần đơn giản nào đó. Dần dần áo sơ mi nam rộng trở thành một sở thích trong ăn mặc của tôi, nên nếu chỉ nhìn qua thì tôi hoàn toàn trông như một đứa con gái lôi thôi lếch thếch mặc đồ lùng bùng quá khổ. Thật may là sau hai năm ở Tokyo tôi đã sụt tới tám cân nên tình cờ có được một hình thể tương đối cân bằng. Nếu không, với cái dáng vẻ vừa mập, vừa lôi thôi như trước thì sẽ không có chỗ nào nhận tôi vào làm thêm mất vì người thành phố rất coi trọng hình thức, họ thậm chí còn hạn chế nhận những người đeo mắt kính đến xin việc và khuyến khích nhân viên đeo kính sát tròng chỉ vì đeo gọng kính thì nhìn không đẹp. Chính tôi cũng đã bị từ chối tại rất nhiều chỗ tôi từng xin làm thêm chỉ vì bởi tôi không thường trang điểm. Chỉ cho đến khi tới quán ăn đêm của ông chủ Daiki Sousuke – bố của Haruma, tôi mới có cảm giác rằng ít ra vẫn còn một nơi ở thành phố này chịu chấp nhận con người thật của mình.
Chủ tiệm Daiki Sousuke là một người đàn ông trung niên cao to, trọc đầu và có kỹ năng dùng dao vô cùng điệu nghệ chẳng hề kém cạnh những nghệ nhân làm sushi của bất kỳ một nhà hàng sushi cao cấp nào khác trên đất Tokyo. Mỗi buổi sáng sau khi dọn quán ông đều cho chúng tôi rất nhiều đồ ăn thừa đem về nhà, nhờ có vậy mà những nhân viên như tôi và Hattori lại có thể tiết kiệm được một khoản lớn tiền ăn để dùng vào việc khác.
“Kanade có những hình xăm đẹp thật đấy nhỉ?” Có lần chủ tiệm bảo với tôi như thế, còn dặn: “Miễn đừng xăm mấy cái hoa hồng, bươm bướm hay cá chép là được.”
Những hình xăm trên người tôi thường là những hình xăm kiểu Tây cũ kỹ. Toàn là hình động vật, hình lá cây và một vài trích dẫn trong một cuốn sách hay một bộ phim mà tôi yêu thích. Hình xăm yêu thích của tôi là hình một con cáo đang nằm cuộn tròn được xăm trên cẳng tay, đó cũng là hình xăm đầu tiên bị Haruma nhìn thấy và nhíu mày. Xét về một phương diện nào đấy thì hai cha con nhà Daiki vừa giống lại vừa khác nhau một trời một vực.
Bầu trời hôm nay xanh ngắt. Vào mùa hè thì đây quả là một thứ màu xanh giả dối, nhìn thì tưởng mát nhưng thực ra nắng chói chang đi kèm theo cái nóng toát mồ hôi đến lả cả người đặc biệt là sau tám giờ sáng. Việc không phải đi học khiến cho buổi sáng của tôi bỗng nhiên dài lê thê và nóng nực hơn bình thường. Tôi đang tính đến chuyện đi làm thêm ở một chỗ nào khác nữa vào buổi sáng để kiếm tiền chuẩn bị cho học kỳ sau, mặc dù từ lúc nghỉ hè đến giờ thì mẹ ở dưới Miyagi ngày nào cũng gọi điện giục về phụ giúp việc kinh doanh nhà nghỉ của gia đình. Làng Zao vài năm trở lại đây đã trở thành một khu du lịch nổi tiếng với các du khách nước ngoài nên công việc làm ăn của gia đình chúng tôi tương đối tốt và bận rộn. Kể cũng phải, trên đời này liệu có ai mà không bị bọn cáo quyến rũ chứ?
Để đến được chỗ siêu thị 24H thì tôi phải đi qua cổng xuống ga xe điện. Ở đây có một nghệ sĩ đường phố thường đứng hát rong, tên anh ta là Ikuzo, nó có nghĩa là “Đi thôi!” Anh Ikuzo là một thanh niên cao gầy, mái tóc dài ngang lưng được cột lại trông có vẻ hơi rối bời, xơ xác vì phơi nắng quá nhiều. Anh Ikuzo cũng thật không may là không có được ưa nhìn cho lắm bởi khuôn mặt của anh xương xẩu, mắt híp nhỏ, đôi gò má thì cao nhọn còn hàm răng thì hơi hô. Gần như lúc nào cũng vậy, mỗi khi đi ngang qua ga tàu điện ngầm tôi đều nhìn thấy anh ta ôm cây đàn đứng hát ở đấy. Đa phần thì là một mình, thỉnh thoảng mới có thêm vài người khác nữa nhưng vẫn không đủ để lập thành một ban nhạc. Mỗi khi đi ngang qua tôi đều bỏ vài đồng xu vào trong hộp đàn. Trông anh Ikuzo hơi có vẻ khắc khổ thật đấy nhưng tôi chưa bao giờ có cảm giác rằng anh ta cần tiền. Anh ta hát như thể trước cổng xuống ga đông người qua lại này là một sân khấu không người của riêng anh ta vậy, nhắm mắt lại mà hát, chất giọng khàn khàn vẫn cất lên bất kể nhiều khi người qua đường chẳng mấy ai chú ý đứng lại nghe. Tất cả bọn họ đều thật là ngốc nghếch, riêng trong mắt tôi thì anh Ikuzo là một người tuyệt vời đáng ngưỡng mộ, một người có ước mơ và say mê theo đuổi nó bằng cả trái tim mình.
Như mọi lần tôi lại bỏ vào trong hộp đàn của anh Ikuzo một đồng xu và nán lại nghe anh ta hát đến hết bài, sau đó tôi đi tiếp đến siêu thị 24H để mua dây giày cho Hattori và vừa đi vừa nghĩ xem mình có đang cần thêm thứ gì nữa không.
Khoảng cách từ bên ngoài và bên trong siêu thị chỉ cách nhau đúng một bước chân và một tấm kính nhưng không gian hai bên khác nhau như thể hai thế giới. Bên ngoài trời nóng nực bao nhiêu thì bên trong lại mát lạnh không khí điều hòa. Thậm chí tôi còn cảm nhận rõ ràng các lỗ chân lông trên mặt mình đang se lại thế nào khi bước vào bên trong siêu thị. Gian hàng đầu tiên mà tôi ghé vào luôn là gian bán đồ ăn vặt. Tôi có cảm giác gần đây tôi đang tăng cân trở lại nhưng mặc kệ vậy, miễn không đứng lên bàn cân thì tôi vẫn còn có thể hạnh phúc ăn uống mà không quan tâm xem cân nặng của mình đã lên đến bao nhiêu. Phải mất một lúc khá lâu sau đấy tôi mới tự tìm được góc bán dây giày. Hầu hết toàn là những màu sắc lòe loẹt sặc sỡ, phải tìm mãi mới thấy một đôi màu đen nằm ở bên trong cùng của giá treo nên sau khi lấy được nó ra, tôi cẩn thận xếp lại những đôi bên ngoài thật ngay ngắn vì không muốn làm phiền đến nhân viên làm việc tại siêu thị. Tôi vẫn còn nhớ có một lần sau khi tôi lục tìm một cuốn tạp chí Jump ở góc bán tạp chí thì có một chị nhân viên xinh xắn ra nhìn tôi mỉm cười, sau đó chị ấy tiến đến sắp xếp lại các cuốn tạp chí thật thẳng hàng và ngay ngắn lại như cũ. Sau lần đó tôi cảm thấy rất xấu hổ, và cũng kể từ lần đó mỗi khi nhặt một món đồ nào lên xem mà không mua tôi đều đặt lại nó vào đúng vị trí cũ và xếp lại cho gọn gàng.
Tới gần trưa thì tôi về đến nhà, mùa hè là mùa của hoa cẩm tú cầu nên thỉnh thoảng khi đi qua mấy bụi hoa ven đường tôi đều đi chậm lại một lúc để được ngắm nhìn chúng. Những khóm hoa ở thành phố có màu hơi hồng, tôi thiết nghĩ giá mà giờ này đang ở Nara, lang thang trong chùa thì sẽ được ngắm bạt ngàn những khóm cẩm tú cầu xanh biếc. Có lẽ ngày mai tôi nên đến cửa hàng hoa một chuyến. Mua vài chậu hoa nhỏ về tự chăm sóc không phải là một ý kiến tồi, thậm chí nếu dư dả thì tôi có thể mua thêm hoa mang đến bày trong tiệm ăn, nó sẽ khiến không khí có vẻ tươi mới và vui vẻ hơn rất nhiều mặc dù vui vẻ và tươi mới vốn đã là thứ chẳng bao giờ thiếu ở tiệm ăn rồi.
Kết thúc bữa trưa một mình tôi liền nằm ngủ một giấc dài. Mà khi tôi nói “ngủ một giấc dài” thì đó có nghĩa là tôi sẽ ngủ nguyên cả buổi chiều. Khoảng tầm ba giờ chiều tôi có bị đánh thức một lần bởi cuộc gọi của mẹ.
“Này, nhà bà Umeko hôm qua mưa thổi tốc mất cả mái tôn đấy!” Mẹ tôi kể.
“Thật ạ?” Tôi ngái ngủ hỏi lại. “Thế không có ai bị thương chứ?”
“May là không.” Mẹ đáp: “Nhưng bố mày và các bác trong làng đang vào rừng kiểm tra bọn cáo rồi, xem có ổ cáo nào bị cây đổ đè lên không.”
“Vậy ạ. Mong là Tam Lang không sao.” Tôi nói.
“Nó không sao đâu.” Mẹ bảo: “Hôm qua nó đang nằm trước hiên thì trời nổi cơn giông, mẹ vừa mở cửa nhà một cái là nó chạy tót vào trong cuộn tròn dưới gầm bàn bếp. Sáng nay trời quang mới thấy chạy lại vào rừng.”
Tam Lang là là cái tên mà tôi dùng để gọi con cáo dạn người hay nằm ngủ vô tư trước mái hiên nhà mình. Cái tên này là tôi gọi theo nhân vật con cáo trong truyện “Đứa con của Tengu”, tất nhiên tôi không mơ mộng đến nỗi mong nó hóa thành người, chỉ là nếu đặt một cái tên thì tự nhiên sẽ có cảm giác gần gũi hơn mà thôi.
Sau cuộc gọi tôi lại ngủ tiếp đến năm giờ chiều. Mùa hè quả là cái mùa bê tha, khi không phải đi học thì ngoài ngủ ra tôi chẳng biết làm gì khác. Ngủ cả buổi chiều xong thì chỉ dậy chuẩn bị mà đi làm, tết cho gọn tóc lại và không quên bỏ đôi dây giày mới mua cho Hattori vào trong túi để mang đi kẻo không lại quên mất.
“Chào buổi tối, chủ tiệm!” Tôi chào thật lớn khi chỉ vừa mới bước một chân vào trong quán.
“Chào buổi tối! Kanade lúc nào cũng hăng hái hết!” Chủ tiệm cười đáp lại tôi, trên vai đã vắt ngang chiếc khăn trắng thường dùng để lau mồ hôi trong lúc nấu bếp dù vẫn còn mười lăm phút nữa mới đến giờ mở cửa.
“Hattori đã đến chưa ạ?” Tôi hỏi.
“Nó tới từ nửa tiếng trước ấy, giờ chắc vẫn đang ngủ ở phòng khách trên nhà. Kanade lên đánh thức nó dậy hộ bác nhé!”
“Vâng ạ!” Tôi gật đầu rồi đi vào sâu trong quán, bắt đầu từ cầu thang lên tầng hai là khu vực nhà ở của bác chủ tiệm. Hattori sau khi kết thúc công việc ban chiều thường đến thẳng đây xin ngủ nhờ trên nhà một lúc trước khi tiếp tục công việc làm thêm buổi tối. Tôi bước từ từ lên tầng, tự hỏi không biết nếu gặp Haruma thì sao nhỉ? Vì đang trong kỳ nghỉ hè nên chắc anh cũng đang ở nhà phụ giúp gia đình chứ?
“Naitou Hattori.” Tôi đánh động trước một câu. “Chị lên đây này.”
“Em dậy rồi.” Hattori giọng hơi lè nhè ngái ngủ đáp. “Đợi một chút rồi em xuống thay tạp dề mới.”
Khi tôi lên tới nơi thì thấy Hattori đang ngồi dụi mắt, tóc tai vừa dài vừa rối bù cả lên. Chiếc áo ba lỗ mà cậu ta mặc khiến tôi có thể nhìn rõ những cơ bắp nổi lên trên thân hình hơi gầy của một chàng trai đang trong độ tuổi mười chín.
“Mắt em khó mở ra quá.” Hattori nói. “Hai ngày rồi em chẳng được ngủ mấy, người em cứ lâng lâng cả ngày ấy.”
Tôi xếp đống chén đĩa bẩn trên bàn vào một chồng, chắc hẳn khi Hattori vừa đến nơi đã được chủ tiệm làm trước cho bữa tối để ăn chống đói.
“Chị cứ để đấy em tự dọn.” Hattori kéo chồng bát ra xa khỏi tay tôi.
“Nếu mệt thì cứ ngủ thêm cũng được.” Tôi bảo: “Để chị làm hộ cho, rồi bao giờ đông khách thì chị gọi xuống.”
“Em không sao.” Hattori cười xuề xòa. “Mai buổi sáng em không phải đi làm, sáng về nhà ngủ một giấc là đủ cho cả tuần ấy mà.”
Tôi thử cố nhớ xem sáng ngày mai là lượt làm thêm ở chỗ nào của Hattori nhưng chịu không thể nhớ ra nổi. Cậu ta có tới hai công việc khác nhau vào buổi sáng, thậm chí nếu như được nghỉ lễ hay nghỉ phép thì Hattori cũng sẽ chủ động đi kiếm một việc gì đấy để làm cho “khỏi phí phạm thì giờ”. Nếu như ngày mai cậu ta thực sự nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi nguyên cả một buổi sáng thì có lẽ sức chịu đựng của Hattori đã gần đi đến giới hạn rồi.
Tiệm ăn đêm nhà Daiki luôn rất tất bật từ lúc mới mở cửa là bảy giờ cho đến mười một giờ. Sau đó từ mười hai giờ trở đi là khoảng thời gian dành cho những vị khách quen và những con người kỳ lạ có cuộc sống về đêm ở thành phố này. Tôi và Hattori là hai nhân viên duy nhất làm việc phụ giúp cho chủ tiệm, hai chúng tôi thay phiên nhau chạy bàn, dọn dẹp, rửa bát và thỉnh thoảng cũng được phụ giúp chủ tiệm nấu nướng nữa. Thực đơn của tiệm ăn thì chỉ toàn là những món ăn truyền thống nhưng vô cùng đa dạng, thực đơn được thay đổi mỗi ngày một cách ngẫu hứng theo sở thích của chủ tiệm nên đối với những vị khách quen thì mỗi một lần tới thưởng thức sẽ lại là một đêm bất ngờ khác nhau.
Tôi rất thích mỗi khi có một người đến gọi món rồi than thở câu chuyện trong ngày của họ. Chủ tiệm của chúng tôi sau khi nghe xong sẽ cười thật lớn, đưa ra một lời nhận xét hay một lời khuyên mà đôi khi rất vô thưởng vô phạt nào đó nhưng luôn khiến cho chúng tôi phải mỉm cười. Tất cả mọi người xung quanh tôi dường như đều đang gắn kết với nhau thông qua những sợi dây tinh thần vô hình. Cuối cùng chỉ cần thêm những cái tên thôi là tất cả đều sẽ trở nên thân thuộc. Giống như Tam Lang của tôi vậy. Trước khi được gọi tên nó cũng chỉ là một con cáo như bao con cáo khác ở làng Zao. Khi đã trở thành Tam Lang rồi thì nó là một chú cáo đặc biệt duy nhất, chú cáo hung đỏ có đôi mắt như đang cười vẫn nằm cuộn tròn trên hiên nhà tôi mà ngủ, là chú cáo bí mật của riêng tôi.
“Thế tóc tai chị thế nào rồi?” Hattori hỏi trong lúc hai đứa đứng cùng nhau rửa bát tranh thủ đang giờ vãn khách.
“Thế nào là thế nào?”
“Màu hồng quá, em không thích. Chị đổi sang màu khác đi, nhuộm đen lại đi.”
“Đen rồi mắc công tẩy đi để nhuộm mà làm gì.” Tôi lắc đầu, nếu như có một ngày nào đó tôi nhuộm đen tóc trở lại thì đó cũng sẽ là lần tôi nói lời từ biệt với những màu tóc khác. Tôi luôn nghĩ trong đầu mình rằng nếu như tôi trở về với màu đen thì tôi cũng sẽ không bao giờ nhuộm tóc sang màu khác thêm một lần nào nữa.
“Chị biết anh Haruma thích những cô gái tóc đen chứ?” Hattori lại hỏi.
Tôi liếc cậu ta: “Thì làm sao?”
“Hôm qua em thấy có một nữ sinh trung học đến tiệm tìm anh Haruma, rất xinh xắn lại có mái tóc dài đen óng rất đẹp.”
Tôi không có bạn thân, Hattori cũng không. Tôi để ý và chăm sóc Hattori vì tôi biết hoàn cảnh của cậu ấy, còn Hattori để ý đến tôi mỗi khi tôi gặp phải những cảm xúc buồn phiền. Hai kẻ cô đơn cùng chỉ sống một mình tại Tokyo, lại gần cùng độ tuổi nên chúng tôi trở nên thân thiết một cách tự nhiên. Hattori biết tôi thích Haruma dù tôi không nói, cậu ta chỉ hỏi còn tôi thì trả lời.
“Chị cũng dễ thương lắm mà, Kanade.” Hattori thở dài sau khi chẳng thấy tôi phản ứng.
“Chúng ta chỉ là những con người bình thường trong một thế giới bình thường mà thôi. Chỉ có rắc rối là lúc nào cũng lớn.”
“Em chẳng hiểu chị đang muốn nói về cái gì cả.”
“Chị cũng thế.”
Daiki Haruma về nhà đúng lúc chủ tiệm cho chúng tôi giải lao mười phút. Giờ là mười một rưỡi đêm, trong tiệm chỉ còn hai vị khách đang ngồi ăn yên lặng trong góc và nhìn ra cửa sổ. Hattori chào Haruma một tiếng rồi huých nhẹ tay tôi vậy nên tôi chào lại, Haruma cười.
Bỗng tôi sực nhớ ra đôi dây buộc giày sáng nay mua cho Hattori vẫn để trong túi xách.
“À, chị có đồ cho Hattori đấy.” Tôi bảo rồi lục mở túi xách lấy cho cậu ta đôi dây buộc giày màu đen.
“A! Đợi một chút!” Haruma thấy vậy cũng thốt lên, lôi ra từ trong túi một cặp dây buộc giày màu trắng, giống dây buộc cũ của Hattori rồi chìa ra cho cậu ấy. “Lúc nãy trên đường về anh có ghé qua cửa hàng tiện lợi mua cho Hattori này.”
“Hai người thật là…” Hattori nói rồi lại cười lớn. “Vậy em xỏ cả hai mỗi giày một màu nhé!”
Tôi không nói gì cả, Haruma chỉ bật cười bảo: “Được chứ!” sau đó quay ra nhìn tôi và nói: “Kanade thật là một cô gái dịu dàng.”
Hattori nghe được liền nhìn tôi bằng ánh nhìn như đang cười đầy ẩn ý. Còn tôi, tôi cảm thấy như đang một mình đi trên một con đường dài không cuối không đầu, khắp xung quanh chỉ toàn cỏ cây. Tôi quyết định dừng lại bởi vì đã lâu rồi tôi không còn nhớ nổi cách bước tiếp như thế nào nữa, chỉ nằm luôn xuống mặt đường ngắm nhìn những vì sao đêm.