Khắp xung quanh - Cập nhật - Ai Hidenori

Hoạ sĩ

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
17/8/14
Bài viết
105
Gạo
408,0
8. Tanabata

Anh Ikuzo liên lạc rủ tôi và Hattori tham dự buổi tiệc Tanabata mà hội nghệ sĩ tổ chức với nhau. Tôi vừa từ chối vừa tiếc hùi hụi, tôi không về kịp ngày đó bởi vì còn bận làm lễ Tanabata ở làng Zao. Đến ngày về thì tiệc tùng cũng qua mất rồi dù tôi cũng muốn gặp Yui ghê gớm lắm. Tôi có cảm giác cứ mỗi một lần nhìn thấy Yui, nếu nhìn đủ lâu hoặc nghe cô ấy nói gì đó với mình thì tôi sẽ lại ngẫm ra được một điều gì đấy đáng để thay đổi trong cuộc sống.

Những ngày ở Zao luôn trôi qua một cách chầm chậm như dòng chảy của một con suối nhỏ. Ngủ sớm dậy sớm, mở mắt ra là lên núi làm việc công ích, chiều lại lang thang ở vài nơi trong làng, thỉnh thoảng tôi cùng Hattori giúp Tojiro thu hoạch rau củ, làm việc đồng áng. Mỗi ngày tôi đều thấy Hattori cười nhiều hơn những ngày trước đó, bớt tỏ ra già đời hơn và cũng ít nhắc đến chuyện tiền bạc đi. Đó là một chuyện tốt. Thế nhưng cũng có một phần nào đó trong tôi dần cảm thấy sốt ruột giữa những ngày như thế này. Thỉnh thoảng rất đột ngột, đôi khi là giữa bữa ăn hay có thể là trong những bước chân đi bộ từ đền Inari trở về nhà tôi lại chợt muốn chạy thật nhanh ra ga tàu, mua vé đi một mạch về Tokyo. Những khoảnh khắc bồn chồn ấy trôi qua cũng nhanh thôi nhưng nó đến mỗi lúc một nhiều. Cảm giác lạ lùng thật khó nói khiến tôi không tài nào tự giải thích nổi ngay cả với chính mình.

“Này.” Tôi bảo với Natsume khi đang đứng giữ thang cho cậu ta treo đồ trang trí lên những cây tre chuẩn bị cho lễ hội. “Nếu như ông có một công việc cần phải hoàn thành nhưng lại chẳng muốn làm nó tẹo nào và một công việc ông rất muốn làm nhưng ông vẫn chưa đụng gì đến cái công việc cần phải hoàn thành kia thì ông sẽ làm cái nào trước?”

“Cái công việc phải hoàn thành kia có phải làm xong ngay trong một hai ngày sau đấy không?” Natsume hỏi.

Tôi ngẫm nghĩ vài giây rồi trả lời: “Chắc là không, còn chừng một tuần nữa chẳng hạn?”

“Thế thì tôi sẽ làm việc mình thích trước, làm ngay lập tức. Sau đó áng chừng xem cái công việc quan trọng kia cần bao lâu để xong thì sẽ bắt tay vào làm nó.”

“Ông đúng là cái đồ học ở trường nghệ thuật nhỉ.”

“Thế bà thì bà chọn gì?”

“Chắc là chẳng cái nào kịp hoàn thành cả.” Tôi đáp. “Tôi sẽ chần chừ vì không muốn làm cái này nhưng lại không dám làm cái kia vì sợ việc của cái này sẽ không xong. Cuối cùng là chẳng làm được cái gì hết.”

“Đấy có phải là chuyện gì hay ho đâu mà nói với cái giọng quả quyết như thế chứ?”

“Tôi biết.” Tôi nghiêng đầu. “Nhưng đã bao giờ tôi nói bằng cái giọng chần chừ đâu!”

Tôi rất thích những điều dứt khoát, như cái cách thẳng thắn lựa chọn một món hàng mà không phải đắn đo rồi hỏi người bên cạnh việc cái này hơn hay cái kia hơn. Ví như màu trắng hợp với tôi hơn nhưng tôi thích màu đen thì dứt khoát tôi sẽ chọn màu đen. Nhưng việc này cũng gây khó khăn cho tôi khi ra ngoài xã hội bởi con người thì không giống như màu sắc hay một món đồ. Chúng ta không đoán định được suy nghĩ và hành động tiếp theo của họ. Người này lại có những móc nối với nhiều người khác, vậy là ta lại phải suy nghĩ thật nhiều, thật kỹ để rồi sẽ chần chừ trước những câu hỏi của chính mình.

“Anh Natsume!” Đám trẻ con loanh quanh đang chơi đùa gần đó chạy ùa tới vây lấy xung quanh chúng tôi. “Xuống đây chơi cùng bọn em đi!”

“Không được, anh đang bận việc rồi.” Cậu ta đáp.

“Đây này, bắt lấy.” Thằng bé đứng dưới ném quả bóng ra chỗ Natsume thật mạnh nhưng lại chệch hướng bay vèo ra xa rồi hút khỏi tầm mắt. Tôi cùng bọn trẻ chạy ra ngó, thấy quả bóng lăn khá xa, rơi xuống đoạn dưới thấp hơn chỗ chúng tôi đang đứng trên núi, nó mắc kẹt trên một chạc cây khá cao. Bọn trẻ nhìn nhau mặt tiu nghỉu vì biết là chúng không thể tự trèo lên lấy được.

“Để chị lấy cho.” Tôi nói rồi tiên phong đi xuống đoạn đó trước, mọi người thấy vậy cùng ùa theo sau.

Đi đến nơi, tôi bỏ đôi guốc gỗ sang một bên, đu vít vào một cành cây gần tầm với của mình nhất rồi bắt đầu đặt chân lên thân cây tìm điểm tựa.

“Dừng lại nào.” Natsume bất thình lình xuất hiện từ phía sau vòng tay ôm lấy tôi rồi lôi tôi xuống đất. “Lại ngã nữa bây giờ.”

“Nhưng đại tỉ Kanade nói sẽ lấy cho chúng em mà!” Bọn nhỏ thấy vậy liền nhao nhao lên mè nheo.

“Để đấy cho anh.” Natsume đáp, tháo cặp kính ra đưa cho tôi rồi thật nhẹ nhàng, cậu ta đu lên cây, leo thoăn thoắt mãi tít lên cao, gạt quả bóng xuống cho bọn trẻ mà chẳng tốn mấy sức lực nào rồi lại đu trở xuống, đáp nhẹ nhàng xuống ngay trước mặt tôi. Mái tóc hơi dài đen nhánh dính chút mồ hôi nhưng gương mặt không bị đỏ ửng lên vì mệt chút nào. Cậu ta hơi nhíu mày, tôi đoán là vì không đeo kính.

“Nhìn gì? Mau đưa kính đây coi.”

“Chết tiệt, Natsume! Cậu trở nên ngầu như vậy từ lúc nào thế hả?”

“Đâu thể để cậu ngã từ trên cây xuống rồi làm mọi người bị thương nữa chứ.” Natsume đáp rồi vượt mặt tôi bỏ đi theo bọn trẻ. Tôi nghĩ là cậu ta cố tình, bởi làm vậy lại khiến cậu ta trông càng ngầu thêm nữa.

“Chết tiệt.” Tôi nói và kèm theo đó là cái nhoẻn miệng cười.

Thế rồi đêm Tanabata rồi cũng đến. Khắp nơi trong làng, mọi người cùng nhau đổ bộ lên đền Inari rất đông vui. Bố mẹ tôi đi cùng với bà và nhà chú nên sẽ đến sau, còn lũ trẻ bọn tôi thì phải lên đền trước để kiểm tra lại một số thứ. Tôi mặc bộ yukata cũ mà xanh dương và trắng có họa tiết hình những chiếc ô giấy, đằng sau đai obi giắt theo một chiếc quạt cho đúng tiêu chuẩn mùa hè. Hattori, Tojiro và Natsume đều mặc yukata đến đón tôi rồi bốn đứa cùng nhau đi lên núi. Mặc dù đã có đèn chiếu sáng nhưng Natsume vẫn cầm theo một cái đèn lồng để soi đường.

Mọi người bảo với Hattori rằng đêm nay là đêm cuối ở làng Zao rồi nên nhớ mà ăn chơi cho thật đã. Vì yukata của Tojiro quá rộng so với Hattori nên Natsume đã cho Hattori mượn đồ của cậu ấy. Ban sáng Hattori nói cậu ta chưa bao giờ mặc yukata đi lễ hội như thế này cả. Tôi kể với mẹ, thế là sau một hồi bàn bạc mẹ và dì phát lương luôn cho Hattori bằng tiền mặt. Họ đưa cho thằng bé một cái phong bì dày nói rằng bên trong còn có cả tiền thưởng nữa, bảo Hattori có thể mua thật nhiều đồ ăn ở các gian hàng nhỏ.

Trên đường đi thỉnh thoảng tôi thấy vài con cáo nghe tiếng người, ngửi mùi thức ăn cũng lon ton leo lên đền góp vui. Lũ cáo làng Zao hóng hớt lắm, chẳng có buổi lễ hội nào tổ chức mà không thấy chúng ngoe nguẩy tới cả. Thỉnh thoảng có vài con đi vượt lên trên chúng tôi một đoạn lại quay xuống nhìn, mắt híp lại cứ như đang cười và chào hỏi chúng tôi: “Chào buổi tối, các cô cậu cũng đi dự hội hả?” “Này tôi đi trước nhé!” “Nhanh chân lên nào lũ trẻ loài người.”

Ở trên đền lúc này đã bắt đầu náo nhiệt, những cành tre treo điều ước ở khắp nơi với đủ các mảnh giấy nhiều màu sắc. Đi bộ xa thêm chút nữa ra rừng tre thì bắt đầu thấy các chủ gian hàng chuẩn bị đồ ăn, hàng quán xào nấu thơm nức mũi. Bọn tôi mua bốn phần takoyaki, vừa đi vừa ăn. Lũ trẻ con chạy qua chạy lại chào hỏi khá đông, tôi đếm cả thảy có tận chín bé gái mặc yukata có in hình cá vàng, họa tiết này khá phổ biến trên các bộ yukata dành cho trẻ em. Tôi cũng có một bộ yukata khác in hình hoa bìm bìm ở nhà, họa tiết hoa bìm bìm khá phổ biến nhưng đó vẫn là bộ đồ ưa thích của tôi. Tuy vậy tôi không hay mặc bộ đồ đó đi tới những nơi đông người như thế này mà thỉnh thoảng vào những ngày tâm trạng tốt, có thể là mưa, có thể là nắng hay thậm chí là giữa đêm, tôi sẽ lôi nó ra mặc và làm một việc gì đó thật cẩn thận như pha trà, cắt một vài cành hoa ngoài vườn đem cắm hoặc viết một bức thư. Tôi vẫn hay có những nghi lễ nho nhỏ của riêng mình như vậy.

Đang đi dạo khắp các hàng quán thì bỗng tôi nghe có tiếng gọi:

“Kanade! Mizuhara Kanade!”

Đó là Shindo Anju, con gái tiệm rượu trong làng. Anju vốn từ trước tới giờ vẫn được coi là cô gái xinh đẹp nhất của làng Zao, dáng người cao dong dỏng lại mảnh khảnh. Mái tóc dài bồng bềnh mềm như tơ bên một khuôn mặt thanh tú và duyên dáng. Chúng tôi chơi với nhau từ hồi còn bé xíu, lên cấp ba lại được học cùng lớp suốt ba năm liền, Anju là đứa nhanh nhẹn và lanh lợi, tiệm rượu nhà cô ấy cũng thường cung cấp rượu cho nhà nghỉ của gia đình tôi thành ra chúng tôi rất thường hay đi với nhau mỗi khi ở trường. Anju hồi đó rất thích Tojiro, tôi không rõ bây giờ thì thế nào nhưng Anju chưa bao giờ thổ lộ điều này với Tojiro cả.

“Anju, đã không gặp cậu suốt từ kỳ nghỉ đông đến giờ rồi!” Tôi thốt lên chào hỏi: “Suốt cả tuần vừa rồi cậu đi đâu vậy? Đúng hôm cuối cùng mình ở đây rồi mới xuất hiện.”

“Suỵt.” Anju ra dấu thì thầm rồi chẳng nói gì mà cứ cười khúc khích. “Nhìn này.” Cô ấy chìa tay ra cho tôi nhìn chiếc nhẫn đeo trên ngón áp út.

“Hả?” Tôi buột miệng thốt lên. “Gì vậy? Sao lại…”

“Tớ mới đính hôn rồi, sang mùa thu này là tổ chức đám cưới đó!”

“Chết tiệt thật đấy Anju!”

“Chết tiệt nhỉ! Nhưng mà tớ vui quá!” Nói rồi Anju lôi tôi vào quầy rượu của nhà cô ấy rồi rót đầy sake vào một chiếc bát gốm đưa cho tôi uống. “Uống mừng bạn đính hôn!” Cô ấy bảo với tôi.

“Không được đâu, nếu Kanade say thì ai vác cô ấy xuống núi cho được?” Natsume cản Anju lại.

“Đồ ông lão Natsume này.” Anju cười khúc khích. “Kanade say thì cậu vác về chứ ai.”

“Đây là luật uống mừng rồi, không từ chối được đâu.” Nói rồi tôi đón lấy bát rượu trên tay Anju rồi nhắm mắt uống cạn.

Hồi bọn tôi học lớp mười một Anju đã bày ra trò thế này, cứ mỗi khi ai kể ra một chuyện đáng mừng của mình thì sẽ rót đầy một bát rượu bắt người nghe uống hết. Đây là trò chuốc rượu của Anju dành cho tôi, thỉnh thoảng cô ấy lại lôi tôi vào hầm rượu và bắt đầu thử các loại rượu do nhà nấu.

Anju là một đứa tinh quái đến kỳ quặc, nhờ có một người như vậy mà tôi mới biết rằng không phải đứa con gái xinh đẹp nào cũng ngớ ngẩn và yếu đuối. Chúng tôi luôn dính lấy nhau suốt thời cấp ba nhưng trong đầu tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình và Anju là bạn thân nhất, hoặc là tôi không thân với Anju theo cái cách mà cô ấy nghĩ về tôi. Thỉnh thoảng Anju bắt nạt vài đứa con gái khác cùng lớp mà tôi chơi cùng, cô ấy cũng ghét cay ghét đắng mấy đứa con gái hay bám lấy Tojiro. Tôi không nghĩ rằng Anju ghen với bọn họ, mà chỉ đơn giản là cô ấy luôn muốn độc chiếm những gì mà cô ấy cảm thấy yêu quý. Tình cảm của Anju hơi ích kỷ nhưng điều đó không làm tôi khó chịu, bởi chính sự ích kỷ đó lại chứng minh giá trị tỉnh cảm mà cô ấy dành cho mọi người lớn đến mức nào. Tôi thì không có kiểu tình cảm này đối với bạn bè nên tôi nghĩ tôi không thân với Anju đủ nhiều như điều cô ấy đang làm với mình. Vì vậy nên tôi vẫn chiều theo những trò tinh quái của cô ấy nhiều nhất trong khả năng của tôi. Như uống rượu đến mức nôn mửa hay đồng ý rằng mình cũng không thích người mà cô ấy ghét. Anju xinh xắn nhưng không có bạn trai suốt thời cấp ba, không phải bởi cô ấy chỉ thích mình Tojiro mà còn bởi bọn con trai sợ Anju. Ấy vậy mà khi mới chỉ hai mươi tuổi như bây giờ cô ấy lại khoe với tôi việc mình đã đính hôn ngay giữa đêm thất tịch như thế này. Cuối cùng, tôi nghĩ rằng mình đã không còn đủ quan trọng để khiến Anju bực bội khi thấy tôi đi cùng những người bạn mới nữa rồi. Đó là một chuyện vui, đồng thời cũng có chút hơi luyến tiếc.

“Này, cậu sẽ đến dự đám cưới của tớ cùng với một người bạn trai chứ? Tớ hứa sẽ không bắt nạt cậu ta đâu.” Anju nói với tôi.

“Có thể có, mà cũng có thể không.” Tôi đáp. “Ai mà biết được chuyện gì sẽ xảy ra đối với thứ mà mình còn chưa có chứ?”

“Này.” Anju lại tiếp: “Để tớ kể cho cậu một bí mật mà cậu không biết nhé?”

“Chuyện gì? Tớ sợ mấy cái bí mật của cậu lắm.”

Anju mỉm cười ghé sát vào tai tôi rồi thì thầm: “Thằng ngốc Kiichi Natsume đó thích cậu suốt từ hồi tiểu học cho đến cấp hai đó.”

Tôi không nói gì, chỉ lặng lẽ đưa mắt nhìn ba thằng con trai đang chơi phi tiêu ở quầy hàng đối diện.

“Sao? Không phản ứng gì à?” Anju hỏi.

“Đó là chuyện của quá khứ rồi còn gì.” Tôi đáp.

“Hồi đó tớ cũng ghét Natsume, ghét cay ghét đắng.” Anju mỉm cười. “Nhưng giờ cậu ta đã ra dáng một người đàn ông rồi đấy. Mấy con nhóc hàng xóm rất hay bàn tán về cậu ta và Tojiro.”

“Còn cậu thì sao? Tại sao không phải là Tojiro?”

“Tại sao nhỉ?” Anju chống tay vào cằm cười. “Chắc là bởi cuối cùng tớ lại gặp được đúng chồng tớ đấy.”

“Đáng ghét!” Tôi véo má Anju, bát rượu mới uống cuối cùng cũng khiến tôi cảm thấy hơi nhức đầu.

Được một lúc thì Tojiro đến kéo tôi cùng với hai người còn lại đi viết điều ước để treo lên cây tre. Thoạt đầu tôi nghĩ chúng tôi đâu còn là trẻ con nữa mà viết điều ước. Đã từ rất lâu rồi tôi chẳng hề ước ao hay cầu nguyện bất cứ điều gì ngoài cầu an cho gia đình vào dịp đầu năm mới. Thế nhưng khi Tojiro đưa cho tôi miếng giấy và chiếc bút bi, tôi vẫn viết một điều lên đó.

Tôi đã viết rằng: “Tôi muốn được gặp Haruma.”
 

Hoạ sĩ

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
17/8/14
Bài viết
105
Gạo
408,0
9. Hẹn gặp lại ở Tokyo

Mùi của gió dìu dịu nhẹ nhàng đưa đẩy vuốt ve trên làn da và mái tóc. Men rượu vẫn còn thoảng nồng sâu trong lồng ngực, thỉnh thoảng có chút cồn cào rồi lại lắng xuống êm ru. Tôi nằm rũ người trên tấm lưng rộng lớn của Tojiro, cả hai tiến về khoảng không gian yên ắng và có chút tối tăm hơn ở phía trước, bỏ lại đằng sau những ồn ào náo nhiệt cùng ánh đèn lồng lung linh của lễ hội.

Một chiếc guốc gỗ trên chân phải của tuôi tuột khỏi chân rơi xuống đất kêu lóc cóc, Hattori đi đằng sau liền cúi xuống nhặt lên. Tôi hẩy nốt chiếc còn lại cho rơi xuống, Hattori cũng từ tốn bước theo nhặt lại một lần nữa.

Suốt cả chặng đường đi bốn chúng tôi cứ giữ yên lặng như thế. Giữ yên lặng để có thể lắng nghe lâu hơn tiếng vọng của sự náo nhiệt đang xa dần phía sau rồi tắt hẳn. Để giờ chẳng còn lại gì ngoài tiếng cây xào xạc, tiếng côn trùng, tiếng những bước chân đi guốc gỗ lóc cóc kêu trên từng bậc thang nhuốm ánh đèn vàng mờ ảo. Tôi nhắm mắt lại, cảm giác như cả trái đất đang ngừng quay trong giây lát.

“Tojiro, cho chị xuống.”

Tojiro khuỵu gối để tôi có thể tụt xuống đất được. Cảm giác được cõng đi cũng thích thật đấy nhưng tôi vẫn thích tự đi bằng chân của mình hơn. Thế nhưng khi hai chân chạm đất thì một cơn choáng nhẹ lại cuốn lấy khiến tôi trong vài giây không thể nhìn thấy gì cả dù vẫn còn đang mở mắt. Tôi quờ quạng một chút rồi ngồi xuống bậc thang. Tojiro, Hattori và Natsume thấy vậy cũng ngồi xuống bên cạnh, cùng ngước nhìn lên những vì sao nơi đâu đó trên cao, những con quạ đang tạo thành một cây cầu bắc ngang qua bầu trời.

“Sáng mai là phải về Tokyo rồi.” Tôi nói, gió nổi lên thay một tiếng thở dài.

“Cứ giống như là phải trở về nhà sau khi xem hết một bộ phim hay ấy.” Hattori cũng buồn buồn lên tiếng.

“Chị nên về nhà và ngủ trên giường của mình nốt một đêm cuối.” Tôi bảo với họ. “Sau đêm nay là mùa hè của chị và Hattori kết thúc rồi, nhưng mùa hè của mấy đứa thì vẫn còn dài lắm.”

“Phấn khởi lên chị Kanade.” Tojiro cười hiền vỗ vào lưng tôi.

“Ừ. Tất nhiên rồi.” Tôi đáp. “Đợi đến kỳ nghỉ đông nhất định chị sẽ lại đưa Hattori về cùng.”

Chúng tôi chia tay nhau ở ngã ba đường, Hattori theo Tojiro trở về nhà nghỉ, Natsume thì đi cùng đường với tôi thêm một đoạn nữa. Ở nhà giờ này có lẽ bố mẹ tôi vẫn chưa về. Người lớn trong nhà chúng tôi ham vui còn hơn cả lũ trẻ, những đêm họ cùng nhau đi chơi đến một, hai giờ sáng xảy ra như cơm bữa. Thế nên những đứa trẻ như tôi, Tojiro hay Ren và Ran nhờ có vậy mà được phép lớn lên và sống theo những quy tắc do chính mình quyết định. Đó cũng là những điều tốt nhất mà người lớn có thể làm cho lũ trẻ. Họ không cần dọn trước hộ chúng tôi quãng đường trước mặt, cứ để cho chúng tôi quyết định sai, vấp ngã hết lần này qua lần khác rồi lại tự mình đứng dậy. Không dối trá, không phiền hà, không được làm điều xấu. Đó là ba điều duy nhất mà họ dặn dò, cho chúng tôi có một tiêu chuẩn để tự tìm hướng đi đúng đắn.

Tôi bước đi hơi liêu xiêu trên đường, thỉnh thoảng tiện chân đá những viên sỏi nhỏ trên mặt đường lên phía trước. Cái quạt giắt đằng sau đai lưng hơi cồm cộm nhưng chẳng hề gì, tôi cảm thấy ổn, không khí ban đêm mát lành đến tuyệt vời giữ cho tôi luôn tỉnh táo.

“Về đến nhà rồi.” Tôi bảo Natsume. “Ông còn ở lại đây đến hết hè chứ?”

“Ừ.” Natsume đáp. “Vậy hẹn gặp lại ở Tokyo nhé.”

Natsume quay người dợm bước, tôi bỗng cảm thấy thật bức bối trong lòng nên lại gọi giật cậu ta lại.

“Đợi đã!” Tôi bảo. “Cho tôi xem tay phải của ông.”

“Để làm gì?” Natsume hỏi.

Tôi chẳng buồn trả lời mà tóm lấy tay cậu ta, lật úp mặt bàn tay xuống dưới và nhìn. Một vết sẹo trắng còn mờ mờ vẫn còn kéo dài trên mu bàn tay của tên ấy, sáng hẳn lên dưới bóng trăng trên trời.

Tôi buông bàn tay của Natsume xuống, tôi bảo:

“Đây là bằng chứng cho việc tôi vẫn nợ ông một lần bảo vệ.”

“Gì chứ? Cái con ngã cây này, nói nghe sởn cả da gà.”

“Tôi không muốn thua kém ông Natsume ạ, nếu là nợ nần gì thì mười năm cũng trả, hai mươi năm cũng trả. Vậy nên khi nào lên Tokyo nếu có gặp khó khăn gì hãy cứ liên lạc với tôi, tôi nhất định sẽ giúp.”

“Được rồi.” Natsume gật gù. “Cứ nhớ khi nào gặp nhau ở Tokyo thì thực hiện lời hứa đãi tôi một bữa ăn là được.

“Nhất định rồi.” Tôi cười. “Hẹn gặp lại ở Tokyo nhé.”

Thế rồi Natsume chỉ còn lại một mình trên đoạn đường trở về nhà, và tôi cũng chỉ còn lại một mình trong ngôi nhà nhỏ yên tĩnh của bố mẹ.

Khi tôi phát hiện ra việc Natsume thích mình suốt từ hồi còn nhỏ, nó không chỉ đơn thuần là cảm giác cho qua của một quá khứ đã chẳng còn mà còn gợn lên một điều gì đó hơi phiền muộn trong lòng như thể bản thân vừa khám phá ra một sự thật mà mình không muốn biết. Tôi biết đó là chuyện của quá khứ, đến tầm này có lẽ đối với Natsume tôi chỉ còn là một câu chuyện cười nho nhỏ thời thơ dại. Thế nhưng một đứa kỳ cục như tôi vẫn không thể cho qua nó hoàn toàn để có thể có cảm nhận về Natsume một cách tự nhiên như trước được nữa. Tôi dứt khoát và sòng phẳng, tôi không muốn để cho mình phải cảm thấy khó chịu với một người bạn mà tôi vừa quý mến. Tôi muốn đáp trả lại hết tất cả những điều tốt đẹp mà tôi đã nợ cậu ta suốt thời thơ ấu, để tôi có thể thoải mái yêu một người khác. Và cũng để tôi thoải mái coi cậu ta như một người bạn tốt mà không phải cảm thấy ngại ngùng mỗi khi ở bên nhau.

Có lẽ Haruma cũng đã phải trải qua tất cả những cảm xúc như thế này. Bởi vì Haruma quá tốt bụng nên anh cũng sẽ cảm thấy áy náy biết bao khi không thể đáp lại tình cảm của những cô gái mà anh từ chối, rồi anh ấy cũng sẽ cảm thấy buồn bực với chính bản thân mình nhưng lại không thể làm gì khác được. Tôi không thể nói rõ tất cả những cảm xúc ấy ra thành lời bởi tôi cũng đang rối bời y như thế.

Đã có hàng trăm lần trong những lúc tôi không làm gì cả, như những khi làm bếp hay những đêm trằn trọc trên giường chưa đi vào giấc ngủ tôi đều nghĩ đến Haruma. Nếu như nói rằng một đứa con gái mạnh mẽ về tinh thần như tôi sẽ không bao giờ bị tình cảm lấn át trong suy nghĩ thì đó là nói dối. Tôi vẫn mơ mộng nhiều điều, tưởng tượng ra những cảnh về nụ cười ấm áp của anh ấy khi chỉ thuộc về riêng mình. Tưởng tượng rằng những bước chân lên các bậc cầu thang đá ngắm cẩm tú cầu ở Nara sẽ không chỉ còn có mình tôi nữa. Những tưởng tượng về Haruma luôn ở bên tôi bất kể khi tôi nhắm mắt hay mắt đang mở to nhìn rõ mọi vật xung quanh. Haruma ở bên tôi khi tôi ngồi trước mái hiên nhà. Haruma ở bên tôi vào buổi trưa ngày sinh nhật của bố, khi tôi cùng ba người còn lại nằm dài trên bãi cỏ dưới gốc cây ngủ trưa. Ngay cả khi tôi mặc yukata, xinh đẹp dưới những cành tre treo điều ước tôi cũng tưởng tượng ra anh đang đến bên tôi và nở nụ cười hiền dịu.

Và mọi lúc như thế tôi chỉ muốn được gặp anh, mong muốn lớn hơn rất nhiều đến nỗi chỉ một mẩu giấy ghi điều ước không thể nào chứa đựng được hết. Tôi có thể phủ đầy tất cả từng mẩu giấy một trên toàn bộ các cành tre bằng mong ước của tôi đối với Haruma nếu tôi có thể. Chỉ có điều tôi quá nhỏ bé và lạc loài mà thôi.

Tôi đã từng nghĩ rằng nếu cứ đè nén như vậy, cố gắng quên đi cảm xúc này thì nó sẽ tan biến đi mất vào một ngày nào đó. Thế nhưng tình cảm đâu thể nào tan biến đi chỉ trong chốc lát. Chừng nào nó còn tồn tại thì chừng đó tôi lại càng không nỡ để cho nó mất đi. Vậy chi bằng hãy biến nó trở thành thứ tình cảm mà tôi nâng niu, trân trọng và giữ gìn nhất, để nó trong mỗi khoảnh khắc đều trông giống như một điều gì đó sẽ bất biến, mãi không bao giờ thay đổi.

Tôi mở điện thoại của mình lên và rồi thực hiện một cuộc gọi. Gió thổi tới khiến chiếc chuông gió treo trên hiên nhà kêu leng keng tinh khiết. Giờ chắc mới chỉ mười rưỡi đêm, sau bốn tiếng tút chầm chậm cuối cùng cũng có người bắt máy.

“A lô?” Đầu dây bên kia có tiếng người hoàn toàn bình thường và tỉnh táo.

“Là em Kanade đây.” Tôi đáp, hy vọng rằng giọng nói của mình nghe không có vẻ gì là lo lắng hay hồi hộp quá.

“Anh biết chứ, tên của Kanade có hiện lên khi cuộc gọi đến mà.” Tôi cảm nhận được cả cái cười nhẹ của anh ở phía đầu dây bên kia.

“Em vừa đi lễ hội Tanabata cùng với Hattori về.” Tôi kể. “Tự bọn em đã đến đền Inari chuẩn bị trong gần một tuần trời đấy.”

“Vậy hả? Anh hy vọng là hai đứa được chơi vui vẻ suốt tuần vừa rồi, chủ tiệm cũng nhắc hai đứa suốt.”

“Anh không đi đâu tối nay sao?”

“Không.” Haruma trả lời. “Đang ở Tokyo mà, chỉ có một cành tre nhỏ ở nhà là được rồi.”

“Vậy à…” Tôi gật gù rồi chẳng biết nói thêm gì nữa. Điều cần và muốn nói thì chỉ cất lên trong đầu, vang mãi không thôi mà không tài nào cất nổi thành lời. “À, mai bọn em về rồi. Em chỉ muốn gọi để thông báo tình hình trước như vậy đã. Em sẽ cố gắng mang nhiều đặc sản của làng Zao về cho chủ tiệm và anh nhé.”

“Cảm ơn Kanade, nghỉ ngơi sớm đi còn lấy sức khỏe mai về bên này. Nhớ về lúc nào anh đang có ở nhà đấy.”

“Vâng vâng, được rồi.” Tôi đáp. “Chúc anh ngủ ngon.”

“Kanade cũng vậy, ngủ ngon nhé!”

Tôi dập máy, đặt điện thoại xuống bên cạnh rồi nằm dài xuống dưới hiên. Gió lúc này lại mang mùi của một khởi đầu khác. Chẳng nghĩ nổi gì nữa tôi lại nhấc điện thoại của mình lên, mở lịch sử cuộc gọi rồi bấm gọi lại cho cuộc gọi đi vừa rồi của mình.

“A lô?” Giọng Haruma lại ấm áp vang lên kèm theo đó là chút tò mò như đang có một câu hỏi trực sẵn nơi cửa miệng. “Kanade lại quên nhắn gì nữa à?” Anh hỏi.

“Không.” Tôi vừa nằm vừa đáp, lại vừa lắc đầu. “Nhưng mà em đang say đấy.”

“Thật hả? Em uống rượu ở lễ hội đó à?”

“Vâng, hôm nay em gặp lại một người bạn cũ. Cô ấy bảo vài tháng nữa là lấy chồng rồi nên bọn em có uống mừng một chút.”

Khi đã thích một ai thì chỉ muốn cuộc trò chuyện với người ta kéo dài mãi chẳng ngừng. Trước đây tôi chưa bao giờ nói với Haruma nhiều quá những lời hỏi han xã giao thông thường, chuyện sức khỏe, chuyện thời tiết hay công việc đang làm. Một phần là bởi chúng tôi không có nhiều cơ hội để nói, chỉ có cơ hội chạm mặt nhau thoáng chốc là nhiều. Hai là cũng bởi vì cả lý do tôi luôn cố đè nén cảm xúc của mình đối với Haruma nữa, cuộc sống những ngày tháng ấy thật nhạt nhẽo và chán nản ra sao tôi vẫn còn nhớ rõ. Nhưng kể từ bây giờ tôi sẽ không để bản thân sống lí trí quá mức như vậy nữa, tôi thích Haruma, mặc kệ liệu anh ấy có ghét những đứa con gái xăm hình hay khi ngồi trên ghế không bao giờ biết ý tứ bắt chéo chân hay không, tôi quyết định sẽ làm những điều mình muốn thể thỏa mãn những phút giây hạnh phúc dù chỉ là ngắn ngủi. Ngắn ngủi như cuộc trò chuyện không đầu không cuối này. Ngắn ngủi như cái mỉm cười sau mỗi lời chào của anh dành cho tôi. Mặc kệ cái sự thật rằng càng lấn sâu sẽ chỉ càng khiến ta thêm đau khổ nếu mọi điều mình mong muốn đến cuối cùng đều chẳng thể nào thành sự thực.

“A, để em gửi cho anh cái này.”

Tôi ngắt cuộc gọi, mở chế độ chụp ảnh rồi chụp lại bầu trời nhìn từ dưới hiên nhà lên, một bầu trời đầy sao phía sau mái hiên lấp ló chiếc chuông đang lay nghiêng theo gió. Tôi gửi bức ảnh đấy cho Haruma. Đợi một lúc sau thì có tin nhắn trả lời, Haruma cũng gửi cho tôi bức ảnh chụp bầu trời nhìn ra từ cửa sổ trong phòng. Tôi đoán đó là cửa sổ phòng anh ấy. Cảm giác thật tuyệt khi biết được vào chính lúc này đây, cả hai chúng tôi tại hai nơi cách xa nhau nhưng đều đang hướng về cùng một bầu trời.
 

Hoạ sĩ

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
17/8/14
Bài viết
105
Gạo
408,0
10. Một cuộc hội ngộ

Tokyo xoay vần chúng tôi như một cái chong chóng. Tôi và Hattori từ Zao về Tokyo bằng tàu cao tốc, sau đó lại bắt tàu điện ngầm về khu phố của mình nên người quen đầu tiên mà chúng tôi gặp không ai khác chính là anh Ikuzo.

Tôi vẫn thường thắc mắc không hiểu tại sao khi ở ngoài đường anh Ikuzo là một nghệ sĩ tự do, vậy nhưng vào những đêm nhạc anh ấy lại chỉ là một người trong đội phụ trách hậu cần. Anh ấy rõ ràng hoang dại và bay bổng đến nhường này, hoặc có lẽ đó là nguyên tắc của anh ấy, rằng âm nhạc của Ikuzo là một sản phẩm tự do. Những gì anh hát cứ xuất hiện rồi biến mất nơi phố phường. Có đôi khi một ai đó vô tình sẽ lưu lại nó vào tâm trí, một người như tôi chẳng hạn. Thế nhưng mà bạn sẽ chẳng bao giờ biết được nó thực sự đến từ đâu, và cũng sẽ chẳng bao giờ tìm lại được thêm một lần nào nữa để lưu giữ lại nó mãi mãi. Những bài hát của anh Ikuzo là những món quà ngẫu hứng, những món quà chớp nhoáng dành cho ký ức nơi tất cả những gì ta có thể chỉ là mơ hồ cảm thấy dễ chịu mỗi khi tình cờ nhớ lại.

Hattori và tôi khệ nệ tay xách nách mang đủ các thứ thùng to thùng nhỏ. Khi lên khỏi ga tàu tôi liền gọi taxi để chở về thẳng tiệm, giờ mới là đầu giờ chiều nhưng chủ tiệm chắc hẳn vẫn chỉ ở nhà. Cảm giác đến tiệm ăn đêm vào buổi sáng như thế này thật hơi kỳ quái. Chúng tôi đặt tạm đồ đạc xuống vỉa hè chỗ anh Ikuzo đang đứng, tôi lấy từ trong đống đồ ra một cái thùng nhỏ mà mình đã chia sẵn chút đặc sản vào để tặng cho anh Ikuzo.

“Cảm ơn hai đứa. Anh cũng có quà cơ à?”

“Chỉ toàn rau củ nhà trồng được thôi.” Tôi bảo với anh. “Thế buổi tiệc tùng của hội nghệ sĩ thế nào rồi?”

“Ồ, vui lắm. Con bé Yui hơi tiếc lúc anh bảo bọn em không đến được. Nó nói muốn gặp lại em một lần nữa đấy.”

“Vậy sao?” Tôi cười. “Thế thì nhất định anh phải giúp nhé. Em cũng muốn gặp lại bạn ấy lắm.”

“Ha ha… Anh sẽ chuyển lời cho. Khi nào có dịp gặp nhau anh lại gọi hai đứa nhé!”

Taxi đến rất mau, anh Ikuzo giúp tôi và Hattori chuyển đồ đạc lên xe sau đó vẫy chào tạm biệt. Cũng may từ đây đến tiệm ăn không xa lắm nên chúng tôi không phải thấp thỏm nhìn cái đồng hồ tính tiền đang nảy số trên xe. Lần trở về Tokyo này chẳng hiểu sao tôi có cảm giác hồi hộp chẳng kém lúc từ Tokyo trở về nhà. Con người một khi đã thay đổi suy nghĩ của bản thân thì có cảm giác như cả thế giới xung quanh cũng đang khích lệ mình vậy.

Tôi không kể cho Hattori biết chuyện đêm qua tôi đã gọi điện cho Haruma. Thường thì tôi cũng không hay kể cho Hattori biết bất kỳ chuyện gì cả trừ khi thằng bé bất chợt hỏi. Tôi cũng nghĩ rằng Hattori hẳn chẳng muốn phải lãnh trách nhiệm như một người bạn gái suốt ngày phải nghe tâm sự chuyện tình cảm không đầu không cuối của bạn bè mình, vì ngay cả tôi cũng thế. Nếu như có một đứa bạn gái suốt ngày chỉ nhai đi nhai lại những lo lắng hay vui vẻ của mọi ngày xoay quanh một người thì chắc tôi cũng chẳng thể nào chịu nổi.

Cánh cửa của cửa tiệm đóng im ỉm khi chúng tôi tới nơi đúng như dự đoán. Tôi trả tiền taxi sau đó đứng bên ngoài thử gọi cửa. Trước cửa tiệm không có chuông nên khách nào mà tới đúng lúc cửa tiệm đóng thì chỉ có thể đập cửa mà gọi chủ tiệm từ phía bên ngoài vào. Nhưng cách này thì rất ảnh hưởng đến hàng xóm bên cạnh nên Hattori sau một lúc liền quyết định gọi điện vào số điện thoại bàn bên trong. Chúng tôi có thể nghe tiếng chuông điện thoại vọng ra, đổ chuông hai, ba hồi rồi chủ tiệm mới nhấc máy.

“Chủ tiệm à, bọn cháu trở về rồi đây. Mau mau ra mở cửa đi thôi.”

“Hừ, mấy đứa này.” Chủ tiệm vừa mở cửa vừa cằn nhằn: “Còn trẻ vậy mà chỉ dám đi chơi có vỏ vẹn một tuần là sao chứ?”

“Thì bọn cháu vẫn mang quà về cho tiệm đấy thôi!” Hattori dài giọng bê thùng rau củ vào. “Là của nhà chị Kanade trồng, chính tay cháu thu hoạch đấy nhé!”

“Ối chà!” Chủ tiệm cười tươi, vui vẻ bóc lớp băng keo để mở thùng kiểm tra. “Ối chà chà! Thực phẩm của Tohoku là số một luôn đấy nhé!”

“Vậy chủ tiệm thử thi triển gì đó trên đống đồ này để làm bữa tối nhé! Rồi bọn cháu bắt tay vào làm việc hôm nay luôn.”

“Được, được! Sợ gì mà không làm chứ!”

Vậy là tôi cùng Hattori chẳng cần phải lo nghĩ gì cho bữa tối. Chủ tiệm lùa hai chúng tôi lên nhà, vào phòng khách tự pha trà uống và nghỉ ngơi sau chuyến đi dài hơn ba tiếng vừa rồi. Lúc lên cầu thang tôi có nhìn thấy đôi giày của Haruma xếp ngay ngắn trên giá để giày.

“Anh Haruma cũng ở nhà ạ?” Tôi hỏi.

“Ừ, nó đang ở trong phòng làm việc đấy. Dạo gần đây cứ ở nhà là làm việc trong phòng suốt thôi. Có gì hai đứa gọi nó ra uống trà cùng nhé, để ta đi tìm hộp bánh mochi.”

“Cháu thích ăn bánh dày đại phúc cơ.” Hattori bảo.

“Đừng có được voi đòi tiên.” Tôi tiện tay cốc vào đầu cậu ta một cái, tâm trạng lúc này thật phơi phới vui vẻ biết bao.

“Anh Haruma! Anh Haruma ới ời!” Hattori vừa đi vừa nói, cái giọng cứ làm bộ dài ra ê a thật là đáng ghét. “Anh Haruma ơi, Haruma hỡi. Bọn em về rồi đây!”

“Có chuyện gì mà vui thế?” Haruma đáp, bước ra từ phòng ngủ rồi nhẹ nhàng khép lại cánh cửa lại sau lưng để bảo vệ lãnh thổ riêng tư. Bên trong căn phòng đó hẳn là có cái khung cửa sổ mà đêm qua anh đã chụp lại hình ảnh bầu trời để gửi cho tôi.

“Thật ra chẳng mừng đến thế đâu, em muốn ở lại nhà chị Kanade lâu hơn nữa cơ.” Hattori đáp, tự nhiên nằm kềnh lên ghế sô pha.

“Mới đi có một tuần mà đã đổi tính đổi nết nhiều vậy rồi à?” Haruma mỉm cười ngồi xuống đối diện chỗ chúng tôi. Hôm nay anh mặc áo phông màu xám.

“Không phải là đổi tính đổi nết.” Hattori đáp. “Chỉ là giờ em thấy quen thân với mọi người hơn trước kia mà thôi. Với cả tuần vừa rồi em cũng được ngủ đủ nữa.”

Trước kia chúng tôi chưa một ai từng được gặp cậu em Hattori trong tình trạng ngủ đủ giấc cả, có lẽ Hattori đúng ra phải luôn hoạt bát và nói nhiều như thế này nếu như cậu ta có một cuộc sống bình thường. Nếu thế thì chỉ vài ngày nữa cái cậu Hattori mắt thâm quầng, nói năng nghiêm túc, hay cằn nhằn và tỏ ra người lớn sẽ sớm trở lại thôi.

“Để em pha trà nhé.” Tôi mở lời rồi bắt tay vào pha trà. Vì tôi vốn là cháu gái của chủ một nhà nghỉ kiểu truyền thống nên bà nội đã dạy tôi thuần thục mọi điều, từ cách cắm hoa, pha trà cho đến cách đi đứng sao cho duyên dáng nhất trong bộ kimono cũng như cách cúi chào một vị khách. Tất nhiên là tôi chẳng mấy khi áp dụng những điều ấy, chỉ trừ khi nhà nghỉ quá thiếu nhân lực và tôi bị điều động một cách ép buộc. Mặc dù là thế nhưng cũng không vì sự lười biếng của mình mà quên hết được những thứ tôi đã được chỉ dạy. Đặc biệt là pha trà, bởi thỉnh thoảng mỗi khi cảm thấy nhàn tản tôi vẫn thực hiện trà đạo như một nghi lễ của riêng mình.

“Chà…” Haruma dường như bị bất ngờ. “Trông như Kanade có vẻ biết về trà đạo nhỉ?”

“Chị ấy là trùm đấy.” Hattori nhanh nhảu đáp hộ cho tôi: “Đến lúc về quê của chị ấy, em ngày nào cũng phải nuốt cả một mớ những điều ngạc nhiên luôn. Kanade đại tỉ của đại ca trong làng, Kanade mỗi sáng leo núi như đi bộ. Kanade làm chủ những buổi trà đạo với các bô lão. Kanade mặc yukata, đi guốc mộc cười khúc khích với bạn gái trong lễ hội. Kanade…”

Tôi gõ đầu Hattori thêm cái nữa để cậu ta thôi hư cấu về tôi trước mặt Haruma thêm. Tôi biết Hattori có ý tốt, đương nhiên, nhưng càng nói nhiều về tôi như vậy, tôi lại càng có cảm giác như người đang được nhắc đến đó không phải là mình, bởi tôi không thích được người ta ghi nhớ như một Nadeshiko – một tiểu thư Nhật Bản hoàn hảo. Tôi muốn được nhớ đến như là một Mizuhara Kanade độc lập và đầy những hình xăm trên khắp thân mình.

“Ghi điểm.” Hattori ghé sát tai tôi thầm thì rồi lãnh thêm một cái cốc đầu nữa. Haruma nhìn chúng tôi hiếu kỳ, tôi hy vọng sự thân thiết giữa tôi và cậu bạn không gây ra hiểu lầm nào thái quá cho anh ấy.

“Chủ tiệm chắc lại bị mớ đậu bắp nhà anh Natsume quyến rũ mất rồi. Mãi chưa thấy lên. Để em chạy xuống tìm gói bánh mochi vậy.” Nói rồi Hattori nhấc mông khỏi ghế rồi chạy biến xuống lầu, để tôi ngồi lại với Haruma, mặt đối mặt.

“Hai đứa lại thân với nhau hơn một bậc nữa rồi nhỉ.” Haruma tự rót thêm cho mình một tách trà, từ tốn nói.

“Sao anh cứ nói về Hattori hoài mỗi lần nói chuyện với em vậy?” Tôi đáp lại anh bằng một câu hỏi.

Haruma nhìn tôi, tôi không đọc được cảm xúc trên mặt anh, hình như là có cả một thoáng bất ngờ trong đó. “À, anh cứ nghĩ Kanade chỉ hứng thú với những chuyện có liên quan đến Hattori thôi chứ. Anh cũng không biết Kanade thích cái gì mà anh cũng hiểu để mà bàn bạc cả.”

Sự thật mà Haruma vừa nói ra chính xác đến độ như muốn dộng thẳng vào đầu tôi một cú. Có phải ý của anh là giữa chúng tôi chẳng có điểm chung gì để mà nói? Mà ngẫm lại thì cũng đúng là như thế thật. Sự im lặng kéo dài khiến tôi chợt ước gì Hattori quay trở lại, Hattori không bao giờ thiếu chuyện nếu như cậu ta muốn nói. Và như vậy thì tôi sẽ chỉ phải ngồi cười và thỉnh thoảng bình phẩm vài câu là được. Tôi chưa bao giờ giỏi tiếp chuyện với một người không có cùng sở thích, tôi không thể say sưa nói hàng giờ về chuyện xăm hình, về các nghệ sĩ xăm hình mà mình quen biết với một người không thích những hình xăm được. Có lẽ nói về cuộc sống giản dị quanh mình sẽ là một đề tài thích hợp hơn.

“Anh Haruma hay nghe Indie nhỉ? Đó là loại nhạc được phát hành độc lập bởi ca sĩ sáng tác và tự thể hiện đúng không?” Tôi hỏi.

“Ồ, em cũng biết sao?” Haruma tỏ vẻ thích thú. “Nhiều người cứ nghĩ Indie là một phong cách âm nhạc nào đó và thần thánh nó lên, nhưng thực ra nghĩa của nó chỉ đơn giản là nhạc do một ca sĩ tự sáng tác và thực hiện mà thôi. Anh thích tìm nghe nhạc của những người làm việc như vậy, nó giống như là một sở thích, một thú vui của riêng họ hơn là một sản phẩm ra đời bởi mục đích kiếm tiền hay kiếm sự nổi tiếng thông thường.”

“Em hiểu mà.” Tôi cười và nghĩ ngay đến anh Ikuzo. “Em cũng quen một người như vậy đấy.”

“Vậy sao?”

“Vâng, nhất định sau này em phải đưa anh đến gặp họ mới được.”

Tôi ước gì một ngày nào đó có thể đưa Haruma đến gặp anh Ikuzo và những người bạn của anh ấy như Yui và Nana. Họ giống như những mối nhân duyên kỳ lạ của tất cả mọi người vậy. Có những con người đặc biệt tới nỗi dù mới chỉ gặp một lần trong đời nhưng ấn tượng mãi mãi chẳng thể nào quên.

Tiếng bước chân gấp gáp của Hattori bắt đầu văng vẳng dội lên từ tầng dưới.

“Nguy rồi.” Hattori hớt ha hớt hải. “Hết tương miso rồi!”

“Sao chứ?” Tôi quay lại hỏi.

“Chủ tiệm bảo là hết tương miso để nấu rồi. Bảo chị với anh Haruma ra siêu thị rồi tiện mua một đống thứ nữa đi.”

Tôi và Haruma nghe vậy liền xuống dưới nhà xem chủ tiệm dặn dò gì. Chủ tiệm đưa cho tôi một tờ giấy ghi những thứ cần mua, còn ghi chú rõ ràng là phải mua của hãng nào và ở cửa hàng nào, vạch sẵn cả thứ tự lịch trình để đi sao cho thuận đường và tiết kiệm thời gian nhất. Tôi và Haruma nhận tiền đi mua đồ rồi cùng nhau lên đường, Hattori thì cười ranh mãnh đứng ở cửa vẫy chào, cậu ta viện cớ phải ở lại phụ giúp nên không chịu đi cùng.

Từ của tiệm đến siêu thị là gần nhất nên chúng tôi đi đến đó trước. Người Haruma tỏa ra mùi thơm nhè nhẹ của xà phòng và quần áo sạch tạo cảm giác rất dễ chịu. Tôi không thích đàn ông dùng nước hoa, họ thường tạo một cảm giác gì đấy quá lịch lãm khiến tôi cảm thấy thật khó thở. Tôi thích những mùi hương thân thuộc và sạch sẽ hơn nhiều. Bản thân tôi cũng không dùng nước hoa, mà tôi từng nghe nói rằng phụ nữ nói chung nếu như không bao giờ dùng nước hoa thì đại loại là rất vô vọng hay gì đó tương tự vậy. Nếu như hương thơm là thứ khơi gợi lại ký ức thì có lẽ sau này những ký ức về tôi trong tâm trí một người nào đó sẽ mãi mãi nhạt nhòa không hương sắc như thế chăng?

Haruma lấy một cái giỏ xách thay vì xe đẩy khi vào trong siêu thị vì chúng tôi không cần phải mua quá nhiều đồ ở đây. Tôi cố ghi nhớ trong đầu rằng cần phải tiện thể mua luôn cả miếng bọt biển để rửa bát nữa vì miếng rửa bát ở nhà của tôi đã tã lắm rồi. Loa phát thanh trên siêu thị đang phát bài “Warm body” của Wild Child, một bản nhạc nhẹ nhàng và êm dịu thật hợp với những ngày nghỉ. Tự dưng tôi thấy tâm trạng mình thật thoái mái, cảm giác Haruma và tôi cứ như là một đôi vợ chồng trẻ đang đi mua sắm ngày cuối tuần vậy.

Khi chúng tôi đi đến khu bán các loại tương và gia vị để tìm tương miso thì tôi nghe có tiếng nói của một cô gái với giọng điệu vừa sốt ruột lại vừa bối rối như thể sắp bị muộn một cuộc hẹn quan trọng lắm:

“Miso đỏ, loại mà trên nắp có đề chữ “Red Miso – Miso Master Organic” chứ không phải cái gói Mikomiso. Không phải, không phải không phải cái Mikomiso đó!”

“Là “Mikochan-miso” thưa quý khách.” Tiếng một nhân viên của siêu thị kiên nhẫn đáp lại.

“Không được, làm thế nào mà cả một cái siêu thị to đùng như thế này lại không có nổi một hộp Red Miso chứ? Ôi không, không, không được rồi. Nana sắp về rồi, tôi không còn thời gian nữa.”

“Nana?” Tôi tự thốt lên và chợt nhận ra chủ nhân của cái âm điệu bồn chồn kia là ai. Nhanh chóng bước lại gần, cô gái mảnh mai với mái tóc trắng xóa gợn sóng trước mặt không ai khác chính là Yui.

“Yui!” Tôi lên tiếng. “Có chuyện gì vậy?”

“Bạn Kanna…” Gương mặt của Yui như đang mếu máo chạy vụt tới ôm chầm lấy tôi. Nhìn từ xa trông chúng tôi hẳn sẽ rất buồn cười vì tôi thấp hơn Yui đến hơn nửa cái đầu. “Kanna, ở đây không có Red Miso. Yui cần Red Miso, Nana đang trên đường về nhà rồi, Nana vừa có chuyến lưu diễn ở Đức về xong.”

“Bình tĩnh đã nào, Yui.” Tôi bảo, đoạn đặt hai tay lên vai Yui để giữ cho cô ấy đứng thẳng lại. “Sao phải lo lắng về loại miso cần phải mua chứ? Miễn là món do chính tay Yui nấu thì tớ nghĩ Nana hẳn sẽ vẫn thấy ngon miệng thôi.”

“Có chắc không?” Yui hồ nghi hỏi lại.

“Tớ vẫn còn nhớ hôm đầu tiên gặp cậu và Nana sau cánh gà chứ. Chẳng phải Nana luôn ưu tiên những món Yui làm hay sao?”

Bờ vai của Yui lúc này mới hơi buông lỏng, có vẻ nhẹ nhõm lên nhiều. “May mà gặp bạn Kanna ở đây.” Cô ấy nói.

“Không phải Kanna mà là Kanade.” Tôi đính chính. “Thật ra bây giờ tớ cũng phải mua miso đỏ về cho chủ cửa tiệm chỗ tớ làm thêm, nhưng chắc phải đi chỗ khác tìm rồi.” Nói rồi tôi ngoái đầu ra sau tìm Haruma, anh đứng cách phía sau tôi một đoạn, tôi mắt mang một vẻ kỳ lạ khó đoán định hết sức đang nhìn Yui chăm chú.

“Anh Haruma?” Tôi gọi, lại quay lại nhìn Yui rồi bắt gặp nét mặt ngạc nhiên pha chút sững sờ trên gương mặt của cô ấy.

“Tiền bối?” Yui lên tiếng.

“Gì vậy?” Tôi hỏi.

“Ra vậy, không lẽ Kanade là bạn gái của tiền bối Daiki sao?” Yui nở nụ cười tươi rói, vẻ mặt bỗng chốc sáng bừng. “Hồi học trung học tớ là đàn em dưới tiền bối Daiki hai khóa đấy. Tiền bối Daiki, lâu rồi không gặp, anh vẫn khỏe chứ?”

“Đợi đã, vậy chẳng phải Yui hơn tớ tận ba tuổi sao?” Tôi luống cuống.

“Tuổi tác quan trọng gì chứ!” Yui vừa cười vừa vỗ đánh bốp một cái vào lưng tôi. “Chà, hôm nay thật vui quá đấy nhé! Tokyo nhỏ xíu xìu xiu.”

“Yamamoto Yui!” Haruma đột nhiên nói lớn, đôi lông mày nhíu sát, ánh mắt tối sầm vừa giận giữ lại vừa buồn rầu đến mức dạ dày tôi bỗng dưng quặn lại. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh như thế, một con người khác rất nhiều so với mọi điều về anh mà tôi từng biết. Trong một thoáng tôi bỗng có cảm giác như Haruma đột ngột trở nên to lớn hơn biết bao nhiêu, hoặc là do tôi chợt trở nên thật bé nhỏ đứng giữa tình cảnh này.

“Yui về trước nhé!” Yui nói, lờ đi thái độ lạ lùng của Haruma rồi cầm lấy một gói tương Mikochan-miso, đi thẳng ra quầy thanh toán.

Haruma cứ đứng yên như thế nhìn theo bóng lưng xa dần của Yui mãi đến tận khi cô ấy biến mất hẳn khỏi tầm nhìn. Tôi sững sờ mất một lúc, mắt sa sầm hoa cả lại tưởng như mọi ánh sáng đã bị rút kiệt khỏi không gian xung quanh mất rồi.

“Đi về thôi.” Haruma nói với tôi rồi bước đi trước. Tôi mất vài giây định thần lại rồi mới chạy theo sau, cảm giác trong lòng cứ nặng trĩu những câu hỏi mà bản thân đã lờ mờ đã đoán ra câu trả lời nhưng vẫn không cách nào chấp nhận được nó.

Haruma cứ im lặng đi trước tôi, chẳng nói chẳng rằng trên suốt một con phố vắng mà tôi chẳng biết đó là đâu. Haruma không đi về nhà, anh cũng chẳng đi đến nơi tiếp theo trên tờ giấy ghi chú mà chủ tiệm đưa cho. Những bước chân vô định của Haruma đưa tôi đến một con đường không thân thuộc chẳng biết điểm dừng. Bầu trời vẫn cứ xanh như cũ, mây phủ lưa thưa chẳng thể bao hết nổi nắng trên đầu. Thỉnh thoảng khi đi ngang qua vài ngôi nhà tôi thấy cả những chú chó nằm ngáp dài trên hiên hoặc trong chiếc chuồng gỗ được đóng riêng cho chúng. Khắp cả đoạn đường dài, phố vắng tanh chẳng một tiếng động hay một người qua lại. Chỉ có tiếng bước chân của tôi và Haruma cùng với cái bóng của một quá khứ xa xôi nào đó nặng nề đè lên tấm lưng anh, không cách nào gỡ bỏ nổi.

“Daiki Haruma!” Tôi hét lên vì không thể chịu nổi được nữa. “Rốt cuộc là chuyện gì đã xảy ra vậy chứ?”

“Chúng ta đang ở đâu vậy nhỉ?” Haruma sực nhận ra mình đang đi lạc đường. “Quay lại thôi nào, còn vài thứ cần mua trước khi về nhà nữa.”

Tôi đứng lại tại chỗ nhìn Haruma vòng ngược trở lại một đoạn mà không thèm đuổi theo. Khi anh nhận ra không thấy tôi đi cùng mới liền đứng lại.

“Có chuyện gì vậy Kanade? Sao không đi tiếp?”

Đáp lại câu hỏi của Haruma, tôi cúi xuống rút một chiếc giày của mình ra rồi ném thẳng vào ngực áo anh. Haruma bất ngờ đứng như trời trồng ngạc nhiên nhìn tôi, tôi trừng mắt lại, bực bột rút nốt chiếc còn lại ném nhưng lần này thì anh né được. Vừa mệt vừa nóng, mới phút trước tôi còn cảm thấy thoải mái vui vẻ là thế vậy mà chỉ một thoáng sau lại rơi vào tình cảnh như thế này. Ấm ức tới nỗi nghẹn cả họng mà không thể giải thích ra được thành lời, cũng chẳng có một lý do chính đáng để mà được khóc.

Haruma bình tĩnh cúi xuống nhặt đôi giầy rồi tiến lại đặt nó xuống đất ngay bên chân tôi.

“Có cần anh giúp xỏ giày vào không?” Anh hỏi.

“Không cần!” Tôi gắt lên, ngồi bệt xuống đường mà tự đi lại đôi giày vào. Haruma đứng im lặng nhìn, sau đó anh chìa tay ra với ý giúp đỡ khi thấy tôi muốn đứng dậy nhưng tôi có thể tự làm việc đó một mình được nên anh đành phải tự thu bàn tay của anh lại.

Khi tôi đang bực bội phủi quần áo của mình thì đột ngột Haruma lên tiếng:

“Yamamoto và anh trước đây học cùng trường hồi trung học, khi cô ấy mới vào trường thì anh đã đang học năm cuối rồi.”

“Tại sao chỉ có Yui là anh gọi bằng họ mà không gọi hẳn bằng tên như cách anh vẫn làm với lũ con gái vậy?” Tôi hỏi.

“Vì cô ấy là người đặc biệt nhất.” Anh đáp. “Trên đời này không có bất cứ một ai như Yamamoto Yui cả, cô ấy không giống với bất cứ ai, đối với anh thì là như vậy.”

Dạ dày tôi một lần nữa lại đau thắt lại. Tôi nín thở và tự nhắc đi nhắc lại với chính mình rằng tuyệt đối không được phép rơi dù chỉ là một giọt nước mắt một khi đã quyết định lắng nghe những lời anh sắp nói.
 

Hoạ sĩ

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
17/8/14
Bài viết
105
Gạo
408,0
11. Câu chuyện về Yamamoto Yui

“Mùa xuân năm lớp mười hai trong một buổi trưa khi năm học mới bắt đầu chưa được bao lâu, anh đã gặp Yamamoto Yui, ngày hôm đó trời mưa phùn. Ngày ấy tóc của Yamamoto vẫn còn đen nhánh, anh bắt gặp cô ấy trong một góc sân sau của trường trung học bên cạnh nhà kho, thân hình của Yamamoto nhỏ nhắn, gầy guộc, tóc ngắn chạm vai chẳng có điểm gì đặc biệt.”

“Chắc sẽ chẳng có gì để nói cả nếu như Yamamoto không một mình đứng giữa trời mưa lạnh, cô ấy kéo lê một cái thùng từ bên trong nhà kho ra cách đó một đoạn xa, bên trong thùng là những cốc tách bằng sứ bị sứt mẻ và các dụng cụ thí nghiệm hóa học bằng thủy tinh bị bỏ đi. Bàn tay cô ấy lập cập nhặt một chiếc cốc lên rồi lấy đà ném thật mạnh vào tường làm chiếc cốc sứ cũ vỡ tan tành, mà âm thanh của sự đổ vỡ vang lên thì luôn luôn gây ấn tượng. Cứ như thế, Yamamoto ném vỡ hết món đồ thủy tinh này đến món đồ sứ khác vào bức tường của nhà kho cho đến khi chiếc hộp vơi đi một nửa còn toàn thân cô ấy thì run lập cập đến mức phải ngồi khuỵu xuống dưới cơn mưa lạnh. Lúc đó không hiểu sao anh không thể nhúc nhích được gì, chỉ đứng đờ ra một chỗ mà quan sát cảnh tượng kỳ lạ đó. Mãi cho đến khi Yamamoto ngẩng đầu, chậm rãi vuốt ngược mớ tóc ướt ra sau rồi mang chiếc hộp bỏ trở lại vào trong kho. Cuối cùng cô ấy trèo tường ra khỏi trường rồi biến mất.”

“Rồi anh mới biết Yamamoto Yui bị bắt nạt ở trường.”

“Mỗi khi vô tình gặp Yamamoto anh đều để ý thấy đầu gối cô bé luôn bị trầy xước nhẹ, những vết bầm lốm đốm trên cánh tay nhưng gương mặt vẫn luôn ngẩng cao chứ chưa bao giờ cúi gằm như những kẻ bị bắt nạt khác. Khi lũ bạn học bày những trò độc ác như giấu hay đổ mực vào trong giày của Yamamoto thì cô ấy sẽ thản nhiên đi chân trần dọc hành lang như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Nếu như ngày hôm trước lũ bạn viết những lời chửi rủa bẩn thỉu lên mặt bàn của Yamamoto rồi quẳng nó đi đâu đó thì hôm sau chúng sẽ thấy chiếc bàn được đặt trở lại vị trí cũ và được sơn mới bằng một màu vàng rực. Chúng xé sách vở rồi viết bút đỏ những câu chửi bới lên bìa sách, Yamamoto dán lại và dùng nguyên những cuốn sách nham nhở ấy, đặt một cách trịnh trọng lên mặt bàn không thèm giấu giếm. Cô ấy luôn biết cách đáp trả lại những trò bắt nạt và làm lũ bạn xấu đó phải cảm thấy khó chịu hơn gấp mười lần. Cô ấy không khóc, cũng không bỏ học hay trốn đi đâu đó vì sợ bị bắt nạt. Yamamoto tuy xanh xao nhợt nhạt nhưng vẫn luôn hiên ngang và kiên cường đối mặt với tất cả mọi thách thức ngay cả khi chẳng có ai ở bên ủng hộ mình. Anh nghĩ rằng có lẽ mình đã bắt đầu ngưỡng mộ cô gái nhỏ đó, mỗi ngày một nhiều hơn. Yamamoto Yui giống như một samurai vậy.”

Haruma tựa lưng vào bức tường gạch, khẽ mỉm cười rồi ngước mắt lên nhìn những tán lá xanh mơn mởn đang rủ xuống phía trên cao. Có vẻ như những ký ức về Yui hiện về trong tâm trí anh đều là những ký ức đẹp đẽ, và sự xuất hiện của Yui thì luôn làm người ta phải choáng ngợp đến khó quên. Nhưng tại sao lại là Yui mà không phải bất kỳ ai đó khác? Bất kỳ ai trong số hàng trăm, hàng ngàn đứa con gái trên khắp Tokyo này mà tôi chẳng cần biết tên cũng như không cần nhớ mặt? Để giờ trong tôi dần dấy lên thứ cảm giác khó chịu vì chán ghét chính mình như thế này. Cảm thấy mình thua kém biết bao nhiêu.

“Vậy tại sao Yui lại bị bắt nạt vậy?” Tôi hỏi.

“Vì cô ấy quá khác biệt so với mọi người.” Haruma chậm rãi đáp. “Hồi đó ở trong trường có một tin đồn không hay về Yamamoto và thầy giáo dạy môn tiếng Anh, anh vẫn nhớ tên thầy ấy là Odagiri Shishio hồi còn đi học anh nói chuyện với thầy khá nhiều. Thầy Odagiri là người phụ trách câu lạc bộ Nhạc cổ điển, Yamamoto lại là một thành viên của câu lạc bộ đó nên mọi người thường xuyên bắt gặp thầy và Yamamoto ở riêng với nhau trong phòng nhạc, Yamamoto chơi cello, còn thầy thì đệm piano cho cô ấy.”

“Thầy Odagiri là một giáo viên rất tuyệt vời trong mắt các học sinh. Bọn con gái thì chết mê chết mệt khuôn mặt của thầy, lũ con trai thì rất ngưỡng mộ sự nam tính và lạnh lùng của thầy ấy. Trong khi đó Yamamoto lại là một nữ sinh không có điểm gì nổi bật, rất ít nói và ít tiếp xúc với bạn học nhưng gương mặt lại luôn toát lên vẻ cao ngạo, nghĩ gì làm đấy chứ không giải thích. Trong một lần khi mấy đứa con gái cùng lớp bắt nạt một bạn học hiền lành khác trong giờ ăn trưa, Yamamoto chẳng nói chẳng rằng, mặt tỉnh bơ tiến đến đổ ụp cả hộp cơm của mình lên đầu kẻ bắt nạt đó.”

“Vậy là Yui kích hoạt ngòi nổ chiến tranh rồi.” Tôi nhận xét.

“Ừ, đúng là như vậy.” Haruma gật đầu. “Các giáo viên trong trường không có nhiều người biết về chuyện Yamamoto bị bắt nạt bởi trông cô ấy mỗi ngày đều hiên ngang và bình thản. Những người nào biết thì lại cố tình làm lơ đi, họ để kệ cho lũ trẻ tự giải quyết mọi thứ với nhau. Hơn nữa trường mà anh và Yamamoto học lại là một ngôi trường đặc biệt, những học sinh đầu trò bắt nạt cô ấy toàn là những kẻ có bố mẹ là mạnh thường quân lớn cho trường nên sau một thời gian khi thầy Odagiri phát hiện sự việc rồi cũng vẫn không thể làm gì được bọn họ. Yamamoto vì không muốn làm khó dễ tới người ngoài cuộc nên cũng chủ động tránh xa thầy Odagiri.”

“Không có ai đứng ra bênh vực Yui sao?” Tôi thắc mắc. Ý nghĩ về một Yui thời trung học với ngoại hình nhạt nhòa và cô độc thật khó mà tưởng tượng nổi một khi đã biết về Yui của bây giờ.

“Em phải biết trường học là một nơi như thế nào chứ.” Haruma nói. “Trường học là nơi mà mọi người cùng cười nhạo một ai đó chỉ vì họ ngồi ăn trưa một mình, kể cả khi bản thân thấy chuyện đó chẳng có gì đáng cười đi chăng nữa. Một phút trước em chìa tay ra giúp đỡ kẻ bị bắt nạt, một phút sau chính em sẽ trở thành nạn nhân. Trên đời này liệu có bao nhiêu người chấp nhận trở thành nạn nhân như Yamamoto? Trước đây anh luôn nghĩ im lặng là điều tốt nhất mà mình có thể làm, gặp chuyện gì khó quá thì tốt nhất là nên bỏ qua. Nhưng việc được biết rồi chứng kiến những gì mà Yamamoto làm thực sự đã khiến anh cảm thấy bị choáng ngợp và suy nghĩ lại rất nhiều. Nhưng cuối cùng thì suốt một thời gian dài khi cô ấy bị hành hạ, anh vẫn chỉ quan sát mà chẳng làm được gì cả. Anh cứ nghĩ rằng Yamamoto kiên cường hơn bất cứ ai, cô ấy sẽ vẫn cứ ổn thôi. Cho đến một lần khi bắt gặp Yamamoto trên sân thượng của tòa nhà, hộp cơm trưa của cô ấy vẫn còn bọc nguyên trong khăn còn cô ấy thì nằm dưới đất, vừa ngước nhìn bầu trời nước mắt vừa chảy ra, lúc đó anh mới nhận ra mình đã vô tâm đến thế nào. Yamamoto không hề ổn, cô ấy vẫn tổn thương bởi tất cả những trò bắt nạt ấy và lại càng tổn thương hơn khi không có lấy một ai sát cánh bênh vực cho mình cả.”

“Kể từ sau ngày hôm đó anh thực sự đã thay đổi, năm cuối cấp ba là một khoảng thời gian bận rộn và khó khăn nhưng anh đã cố hết sức để bảo vệ Yamamoto, đuổi theo sau cô ấy suốt cả một năm cuối cấp. Sau khi tốt nghệp ra trường, vì lo lắng cô ấy sẽ chỉ còn lại một mình thêm lần nữa nên anh đã khuyên Yamamoto chuyển trường nhưng cô ấy vẫn quyết định tiếp tục ở lại đó, vậy là lại thêm một năm nữa anh cố gắng dành thời gian đón cô ấy về sau giờ tan học mỗi ngày nếu như không bận việc. Yamamoto vẫn bị bắt nạt nhưng cô ấy rất lì lợm, nhất quyết không chịu nói gì về chuyện ở trường cả. Mãi rồi sau khi học hết học kỳ một năm thứ hai ở đó thì Yamamoto quyết định chuyển vào trường năng khiếu để tập trung học cello. Lúc đó anh vừa cảm thấy nhẹ nhõm, lại vừa cảm thấy hụt hẫng, cô ấy đã chẳng còn cần tới anh nữa.”

“Hai người chưa bao giờ là một đôi sao?”

“Chưa bao giờ.” Haruma lắc đầu. “Yamamoto Yui là cô gái mà có lẽ cả đời này anh chỉ có thể đuổi theo phía sau mà thôi.”

“Vậy khi có lần Hattori nhắc đến Yui sau ngày bọn em đi xem buổi biểu diễn của Nana trở về.” Tôi nói, cố gắng giấu đi cảm giác run rẩy nơi cuống họng. “Lúc đó anh có nhận ra Hattori nói về đúng Yamamoto Yui mà anh từng biết không?”

“Có.” Anh trả lời. “Anh biết đến sự tồn tại của Nana qua Yamamoto từ khi người đó còn chưa nổi tiếng như bây giờ, và từ cái hồi Nana đối với Yamamoto chỉ là một ai đó xa lạ vô tình quen biết. Nhưng rồi sau đó họ gặp lại nhau trong khoảng thời gian Yamamoto đang học cello ở trường năng khiếu của cô ấy. Rồi sau khi tốt nghiệp thì cô ấy theo Nana khắp mọi nơi, anh đã cố gắng phản đối chuyện đó, cố gắng kéo cô ấy trở về lại phía mình nhưng không được. Từ đó anh và Yamamoto không còn liên lạc gì với nhau nữa.”

“Anh…” Tôi ngập ngừng. “Anh vẫn còn thích cô ấy đúng không?”

“Ừ.” Haruma đáp, câu trả lời của anh như rút cạn toàn bộ không khí ra khỏi buồng phổi của tôi. Khiến tôi cảm thấy muốn khóc và ngột ngạt đến không thở nổi.

“Ngay cả khi tóc của Yui màu trắng? Ngay cả khi cô ấy không phải mẫu con gái dịu dàng truyền thống? Ngay cả khi Yui dành toàn bộ tình cảm của cô ấy cho một người con gái khác? Đến bây giờ anh vẫn thích cô ấy sao?”

“Đúng vậy.” Haruma gật đầu và nói: “Ngay cả khi cô ấy luôn quay lưng về phía anh suốt tám năm ròng, anh vẫn chưa từng thực sự muốn từ bỏ việc chạy theo cô ấy.”

Tôi hoàn toàn chết lặng, những ấm ức gào thét nơi lồng ngực như muốn muốn vỡ oà, muốn trào ra ào ạt nhưng lại phải dồn nén đến mức chỉ trực nổ tung. Tôi có cảm giác như mình vừa biến thành một cái xác cá vậy. Một con cá chết với đôi mắt không bao giờ nhắm, bị đánh vẩy và moi hết toàn bộ ruột gan ra ngoài nhưng vẫn phải mở to đôi mắt. Đau đớn biết chừng nào, tuyệt vọng đến bao nhiêu. Hoàn toàn không nói nổi nên lời.

“Đồ ngốc.” Tôi khó nhọc cất tiếng. “Tại sao lại kể tất cả những chuyện này ra chứ?”

“Anh cũng không rõ.” Haruma đáp. “Là Kanade muốn biết chuyện gì đã xảy ra mà. Hoặc có lẽ là vì nó khiến anh cảm thấy dễ chịu hơn. Trước đây anh chưa từng kể chuyện này với bất cứ một ai khác cả.”

Tháng bảy chưa bao giờ trở nên buồn đến vậy. Mới chỉ ngày hôm qua thôi trong cuộc điện thoại anh còn nói chuyện với tôi dịu dàng đến thế. Vậy mà giờ, vẫn bằng cái âm điệu chậm rãi, êm đềm đó anh kể tôi nghe câu chuyện quá khứ của anh. Về tình yêu dai dẳng suốt tám năm trời không một lời hồi đáp. So với anh, liệu tình cảm của tôi có đáng gì không? Hóa ra mọi tâm tư cũng như bao nỗ lực hạ quyết tâm của tôi vốn đã thất bại ngay từ khi mới chỉ bắt đầu. Tôi muốn chạy đi đâu đó, giá như giờ này còn ở làng Zao, hẳn tôi đã chạy trốn vào trong cánh rừng hoặc ngồi sau đền Inari mà khóc. Nhưng đứng trước mặt anh như lúc này tôi lại không có quyền để nước mắt được rơi. Tôi không là gì của anh cả, vậy nên tôi không được phép khóc, điều đó sẽ chẳng hề có nghĩa lý gì khi Haruma hoàn toàn chẳng hiểu những giọt nước mắt đó là vì đâu.

“Lần đầu gặp Yui, em đã vô cùng ngưỡng mộ cô ấy. Từ dáng vẻ đầy kiêu hãnh đến mái tóc trắng bạc lấp lánh của cô ấy, cách cô ấy nói, cách cô ấy cười, một phút trước đầy lạnh lùng, một phút sau lại đầy ấm áp. Và đặc biệt là cái cách Yui luôn đối xử đặc biệt với Nana…” Tôi bắt đầu hơi lạc giọng, chỉ sợ rằng mình sẽ bật khóc đến nơi nên phải nói lớn lên: “Chính vì tất cả những điều đó mà khi nhìn lại mình, em đã tự cảm thấy mình thật nửa mùa và đáng xấu hổ. Em cũng muốn được như cô ấy, muốn là một người dứt khoát và quyết liệt theo đuổi những gì bản thân mong muốn.”

Haruma nhìn tôi và lắng nghe, anh không nói gì như thể đang chờ đợi tôi giải thích nốt những điều mà tôi còn chưa nói hết.

“Vậy cho nên anh hãy giải quyết chuyện của chính mình đi.” Tôi bảo. “Bởi từ bây giờ em cũng sẽ công khai theo đuổi anh, Haruma ạ. Thà rằng thất bại sau khi đã làm hết sức mình còn hơn là nhận phần thua trong im lặng mà không cố gắng đến tận phút cuối. Em không muốn trở thành một kẻ mãi đến tám năm sau vẫn còn lưu luyến một người không yêu mình đến mức chẳng nhận ra được tình cảm của người khác dành cho mình như anh.”

Tôi nói liền một hơi rồi khóc òa. Tôi nhớ cái cảm giác này, nhớ cái cảm giác được khóc, nước mắt ướt đẫm rồi nức nở như một đứa trẻ. Đã bao lâu tôi phải nín nhịn rồi? Đã bao lâu tôi mệt mỏi đến nỗi không còn có thể khóc được nữa kể từ ngày lên Tokyo? Tôi hoàn toàn chẳng phải một kẻ cứng rắn, chỉ là giả vờ rằng mình mạnh mẽ trong suốt một thời gian dài từ nhỏ cho đến lớn tới nỗi bị quen đi. Đến mức dù chỉ một phút, nếu như để cho bản thân yếu đuối cũng tự thấy thật lạ lẫm với chính mình biết mấy.

“Kanade, anh xin lỗi.” Haruma từ ngạc nhiên cho đến bối rối chỉ biết xin lỗi tôi mãi không ngừng. “Anh xin lỗi, anh hoàn toàn không nhận ra chuyện đó. Anh xin lỗi…”

“Anh là đồ chết tiệt, Haruma. Tại sao lại phải xin lỗi chứ?”

“Vì Kanade đã khóc nhiều như vậy…”

Câu nói của Haruma lại chỉ càng làm cho nước mắt tôi thi nhau chảy xuống nhiều hơn.

“Chết tiệt, Haruma. Rốt cuộc ý anh là thế nào vậy chứ?” Tôi thường dùng từ “chết tiệt” mỗi khi bị xúc động mạnh hay khi không kiểm soát được lời nói của mình. “Chết tiệt thật, nước mắt cứ không chịu ngừng gì cả.”

“Này.” Haruma chìa ra cho tôi khăn tay của anh ấy. Haruma luôn cẩn thận như thế, đem theo khăn tay trong khi một đứa con gái như tôi thì chẳng có nổi lấy một chiếc bên mình. Tự dưng tôi bỗng nhớ lại mình từng đọc ở một cuốn sách nào đó, rằng: “Người tốt là người luôn mang theo bên mình một chiếc khăn tay.”

“Vừa nãy…” Haruma ngập ngừng hỏi: “Đó… Đó có phải là một lời tỏ tình không?”

“Anh không cảm thấy giống sao?” Tôi hỏi lại, không biết nên khóc tiếp hay nên cười.

“Anh thật sự không coi Kanade giống những cô gái khác, thật đấy.” Haruma nói. “Chỉ có điều…”

Haruma ngập ngừng, tôi nửa muốn nửa không muốn nghe anh nói tiếp những điều sau cái cụm từ “chỉ có điều” đó.

“Anh đâu phải trả lời luôn chứ.” Tôi lên tiếng khi thấy Haruma không thể tìm được từ gì để tiếp tục hoàn thành câu nói của anh. “Ngày hôm nay cứ hãy tạm quên tất cả đi. Em chỉ muốn về tiệm ăn tối rồi bắt đầu làm việc như một ngày bình thường như bao ngày khác.”

“Vậy chúng ta đi mua nốt những thứ mà chủ tiệm yêu cầu nhé?”

“Ừ, đi thôi.” Tôi quay lưng bước đi trước, khóc xong chỉ thấy mệt và buồn ngủ đến rã rời. Nhưng ngày vẫn còn dài, mà câu trả lời tôi cần thì vẫn mịt mù trong một ngày của tương lai nào đó.

“Kanade.” Haruma gọi tên tôi từ phía sau. “Em sẽ không vì chuyện này mà nghỉ việc ở tiệm chứ?”

“Không đâu.” Tôi ngoái nhìn anh rồi đáp. “Đi nhanh thôi nào trước khi em đổi ý, em đang muốn chạy về nhà và ngủ một giấc lắm.”

“Ừ, đi thôi.” Haruma gật đầu đáp.

Tôi và Haruma cùng đi bộ ngược lại trên con phố lạ mà cả hai trước đó vừa lạc bước. Nắng trên cao tắt dần, trời trở về chiều cùng ánh sáng vàng của nắng cuối ngày đọng lại trên các bức tường luôn gợi cho tôi cảm giác như vừa đưa tiễn một người đi xa.

Chủ tiệm rầy la chúng tôi một chút vì đi về muộn quá. Haruma giải thích là vì hai đứa bị lạc đường rồi anh lại lui trở về phòng, chỉ có Hattori là chú ý đến ngay bộ dạng của tôi. Trong lúc chủ tiệm vào bếp làm bữa tối cho mấy đứa thì tôi ngồi xuống một bàn ở trong góc tiệm, Hattori thấy vậy liền lân la ngay tới.

“Chị làm sao thế?” Hattori gặng hỏi nhưng tôi chẳng biết nói thế nào cả.

“Ngồi gần vào đây.” Tôi bảo, thằng bé ngoan ngoãn làm theo. “Ngồi im như thế nhé.” Nói rồi tôi tựa đầu vào vai Hattori, người rũ ra, mắt nhắm lại lơ mơ ngủ.

“Em có được hỏi lại lần nữa không?” Hattori tỏ ra khó hiểu.

“Có gì đâu.” Tôi lầm bầm. “Chỉ là hôm nay vô tình gặp Yui thôi mà. À, hóa ra Yui lại là người trong mộng suốt tám năm trời của anh Haruma đấy.”

Hattori thở nhẹ và chậm lại, không nói gì cả cứ như thể sợ tôi sẽ trượt ra khỏi vai nó.

“Yui gọi chị là Kanna…” Tôi nghẹn ngào nói, nước mắt rơi thêm một dòng nữa rồi thiếp đi.
 

Hoạ sĩ

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
17/8/14
Bài viết
105
Gạo
408,0
1. Một đêm mùa hè

Tháng bảy có màu của quá khứ. À mà nói như vậy thì không hẳn là chính xác lắm, phải là cả bốn mùa trong năm, cả mười hai tháng, từng ngày một, mỗi một ngày đều ám những màu sắc khác nhau của ký ức. Có lẽ không có nhiều người nhận ra được điều này, chỉ có tôi là mỗi một ngọn gió mang mùi hương của bầu trời thổi tới hay ánh chiều tà màu cam đổ bóng trên con đường đều khiến tôi nhớ đến đến một trong những ngày hồi tôi còn học trung học, rồi cả những ngày học đại học nữa. Có lẽ là bởi vì suốt những ngày đó, mọi kỷ niệm mà tôi có gần như chỉ toàn gắn với em, với Yamamoto Yui.

Mùa hè năm lớp mười hai của tôi dành cả cho những buổi ôn thi tại trung tâm luyện thi đại học. Tôi học gần như cả ngày và chỉ về nhà khi trời đã tối, tại đó mỗi khi tan học thỉnh thoảng tôi nhìn thấy em một mình đi bộ từ lớp học đàn về ngang qua nơi tôi luyện thi, cô bé gầy gò đeo hộp đàn cello to đùng sau lưng luôn khiến người qua đường phải chú ý. Em vẫn mặc đồng phục kể cả khi đang trong kỳ nghỉ hè, tôi cảm thấy hơi khó hiểu vì bọn con gái hầu như chẳng đứa nào thích đồng phục cả, mà riêng Yamamoto Yui thì lại có đầy đủ lý do để căm ghét bộ đồng phục đó. Cảm giác bắt gặp Yamamoto Yui ở một nơi không phải trường học thật là khác. Ở bên cây đàn trông em thật thảnh thơi, ánh mắt hơi lơ đễnh nhìn xuống mặt đất chứ không phải phong thái luôn ngẩng cao đầu và nhìn người khác bằng đôi mắt liếc xuống như khi ở trường. Yamamoto Yui khi không phải đứng giữa những mũi dùi công kích thì không cần phải tỏ ra mạnh mẽ nữa. Khi chỉ có một mình thì em như hòa mình vào với không khí, lửng lơ như thể bản thân là một quả bóng bay lỡ tuột ra khỏi bàn tay ai đó hay tĩnh lặng như một cái cây ven đường.

Thỉnh thoảng tôi vẫn tự hỏi chính mình rằng từ bao giờ đã để cho em len lỏi vào khắp mọi nơi trong tâm trí mình như thế? Tôi nghĩ rằng ngay từ lần đầu tiên khi nhìn thấy cô gái đứng giữa cơn mưa ném vỡ những chai thủy tinh trong một góc sân trường, tôi đã không thể nào ngừng đưa mắt kiếm tìm và nghĩ về em mất rồi. Yamamoto Yui đối với tôi cũng giống như một cơn mưa bụi vậy, em nhẹ nhàng thảnh thơi, em buồn đôi lúc và tất cả những điều em nghĩ, những gì em làm chỉ toàn bị giấu đi trong cái thế giới của riêng em. Em để tôi cảm nhận nó nhưng em tuyệt nhiên không cho tôi biết. Và em cũng biết tất cả nhưng lại chỉ lơ đãng coi như chẳng rõ chuyện gì. Em chẳng cần tôi đâu, ở bên em tôi vẫn luôn cảm thấy mình cô đơn như thế. Vậy nhưng nỗi đau em khiến tôi gom lại về mình sao vẫn thật ngọt ngào, một nỗi buồn êm dịu đến nỗi dù cho có dai dẳng và âm ỉ đớn đau đến mấy thì sau bao nhiêu năm trời tôi vẫn không thể nào buông được. Cứ ôm mãi lấy nỗi muộn phiền ấy mà níu lấy mọi ký ức về em.

Đồng hồ chỉ đúng mười hai giờ đêm, tiệm ăn dưới nhà giờ vẫn còn ồn ào tiếng của các thực khách đang dùng bữa ăn đêm bên dưới. Vậy là đã sang một ngày mới, mà tôi cũng chẳng rõ giờ đang là thứ mấy hay ngày bao nhiêu nữa. Người ta thường không hay để ý ngày tháng khi đang ở trong một kỳ nghỉ dài. Tôi không đi dạy thêm vào mùa hè vậy nên cảm giác của tôi đối với thời gian cũng chẳng khác gì đám học sinh là mấy. Yamamoto Yui của ngày xưa cũng vậy, cũng luôn để mặc cho thời gian trôi qua rồi bỗng một ngày chợt ngạc nhiên khi thấy một mùa mới đã lặng lẽ đến. Thời gian cứ trôi bẵng qua, con người chỉ biết giật mình nhận ra khi nó đã biến mất đi mãi mãi mà thôi. Giống như ngày hôm nay khi tôi tình cờ gặp lại em vậy, chợt nhớ ra đã lâu lắm rồi, rất lâu rồi em mới để cho tôi được tình cờ gặp lại. Ngày hôm nay em lại cho tôi nhìn thấy một con người khác nữa của em, cũng giống như ngày xưa em luôn thay đổi tính cách của mình mỗi khi tâm trạng của em thay đổi. Trông em thật hạnh phúc. Đã bao giờ em như vậy trong suốt những tháng ngày tôi còn bên em chưa?

Những hình ảnh về Yamamoto Yui cứ tràn ngập trong tâm trí tôi, đầy ắp ngay cả khi tôi vừa mới nhận được lời bày tỏ từ một cô gái khác. Cái thành phố này thật chật chội và nhỏ bé. Tại sao trong số hàng bao nhiêu con người em lại quen với Mizuhara Kanade? Mizuhara Kanade là một cô gái tốt bụng và hiền lành nhiều hơn những gì cô ấy nghĩ. Cô bé là sinh viên đại học đi làm thêm tại tiệm ăn của bố tôi. Kanade có vóc người nhỏ nhắn, các đường nét trên khuôn mặt cũng mỏng manh nhẹ nhàng nhưng lại có một phong cách hoàn toàn nổi loạn. Kanade xăm hình rất nhiều, vành tai xỏ kín khuyên và thường mặc những bộ đồ đơn giản màu đen. Trước đây cô ấy còn tẩy tóc đến tận chân và thay đổi màu nhuộm liên tục, nhưng gần đây Kanade đã trở về với mái tóc đen của mình mà tôi nghe nói rằng nguyên do cũng là bởi cuộc gặp gỡ với Yamamoto Yui.

Tôi không hiểu rõ về Kanade bởi tôi không tiếp xúc với cô ấy được nhiều mặc dù gần như tối nào chúng tôi cũng chạm mặt nhau. Thế nhưng Kanade là kiểu người mà cả bố tôi lẫn thực khách của tiệm ăn đêm đều yêu quý, họ coi Kanade như một đứa con gái khác của họ, một đứa trẻ có nội tâm bên trong hoàn toàn trái ngược với vẻ bề ngoài của nó. Kanade luôn biết cách quan sát mọi thứ xung quanh và khéo léo trong cách ứng xử với mọi người. Khi làm việc, dù là đang mệt mỏi hay bực bội tới đâu cô ấy vẫn luôn tươi cười mỗi khi phục vụ khách. Cô ấy cười rất nhiều và nói cũng rất nhiều với những thực khách xa lạ đến cửa tiệm, còn khi ở bên những người đã quen thuộc như tôi, như chủ tiệm hay Hattori thì Kanade chỉ thích thú tận hưởng bầu không khí xung quanh trong im lặng. Kanade dường như không bao giờ cố gắng thể hiện bất cứ một điều gì lớn lao cả, như xăm hình hay xỏ khuyên, tất cả chỉ là một sở thích mà đối với cô ấy nó cũng bình thường như việc gắn thêm một chiếc kẹp tóc lên đầu mà thôi.

Ở Kanade luôn tạo cho người khác cảm giác về sự chín chắn của một người biết quan sát và suy nghĩ. Hoàn toàn chẳng có điểm chung nào giữa cô ấy và Yamamoto Yui cả. Yamamoto Yui thuộc kiểu người hành động theo cảm xúc, một người xa lạ sẽ không bao giờ có thể hiểu được ngày mai liệu rồi Yamamoto Yui sẽ là một người như thế nào, liệu cô ấy vẫn cười khi nhìn thấy cùng một bông hoa như ngày hôm qua chứ? Không ai biết trước được điều đấy, ngay cả tôi cũng vậy.

Vào một tối mùa hè khác sau khi kết thúc buổi học thêm tại trung tâm luyện thi tôi lại bắt gặp Yamamoto Yui đi bộ từ lớp học đàn ngang qua đấy. Lần đó trông em không có cái vẻ thảnh thơi như mọi lần mà bước đi thật nhanh với vẻ mặt đầy tức giận, theo sau là bóng dáng một người đàn ông cao lớn mà tôi nhận ra đó chính là Odagiri Shishio, vị giáo viên mà em có những tin đồn không hay về hai người khi ở trường. Tôi không rõ có chuyện gì đã xảy ra giữa họ, mãi cho đến sau này Yamamoto Yui cũng chẳng bao giờ kể lại cho tôi nghe về câu chuyện của ngày hôm đấy. Lúc đó sau khi thấy thầy Odagiri bắt lấy cổ tay của em và hai người giằng co nhau thì tôi chẳng nghĩ được gì đã liền vụt chạy tới.

“Thầy làm gì vậy?” Tôi đẩy thầy Odagiri ra chất vấn. “Thầy đừng quên là em ấy vẫn còn đang mặc bộ đồng phục của trường mình. Nếu bất cẩn để một học sinh khác trong trường bắt gặp thì thầy định thế nào?”

Odagiri bị bất ngờ trong vài giây rồi đáp: “Thầy xin lỗi, nhưng mọi chuyện không như em nghĩ đâu. Thầy cần phải nói chuyện với Yamamoto.”

“Không có gì để nói cả.” Yamamoto Yui tức giận, gương mặt đỏ bừng như sắp khóc lên tiếng từ phía sau lưng tôi. “Không có gì để nói hết!”

“Đi về đi Yamamoto.” Tôi nhẹ nhàng vỗ vào lưng em. “Đi về thôi nào.”

Đó là lần đầu tiên tôi đưa em về nhà, tôi cố gắng bước chậm hơn em một nhịp để em cảm thấy thoải mái hơn. Thỉnh thoảng em lại xốc lại cây đàn trên vai nhưng khi tôi ngỏ ý giúp đỡ thì em lại từ chối. Về gần đến nhà, em yêu cầu tôi dừng lại.

“Đến đây thôi.” Em bảo. “Chuyện ngày hôm nay mong anh không nói cho ai biết.”

“Tôi là Daiki Haruma.” Tôi nói. “Từ giờ nếu như có gặp chuyện gì rắc rối thì hãy tìm đến tôi nhé.”

“Tiền bối Daiki.” Em cất lời. “Anh cũng biết em có đúng không?”

“Em là Yamamoto Yui.” Tôi đáp, tôi hiểu rằng em đang nghĩ gì.

“Trường học đâu phải là sân khấu tình bạn chứ? Đừng tự lôi mình vào rắc rối nếu như anh không muốn bị phiền phức.”

“Tôi không muốn gặp phiền phức.” Tôi gật đầu. “Nhưng tôi cũng không muốn làm một kẻ chỉ biết đứng nhìn thêm nữa. Và từ giờ em cũng không cần phải trốn lên sân thượng khóc một mình, khi em cần, hãy cứ đi tìm sự giúp đỡ.”

Em nhìn tôi với ánh mắt hoài nghi và khó hiểu, như thể tôi là một kẻ kỳ lạ và những điều mà tôi vừa nói với em cũng kỳ lạ chẳng kém. Lúc đó tôi đã đoán rằng ở trường chưa từng có ai nói với em điều đó, hoặc giả chăng em đã gặp rất nhiều những trò lừa dối, những lời nói giúp đỡ dưới vỏ bọc ngụy trang tốt đẹp từ những kẻ chẳng thể coi là bạn bè để rồi chúng sẽ chơi khăm em một cách dễ dàng như cái cách ta lật ngược một chiếc lá. Thế nhưng em hơi nhíu mày, khoanh hai tay lại nhìn tôi một lượt như đang đánh giá rồi lên tiếng:

“Này, nếu anh đang cố gắng thể hiện mình là người tốt thì thôi dẹp đi. Tôi là anh hùng trên chính bầu trời của mình, không cần thêm một kẻ nào khác bay lượn xung quanh đâu. Những lời sến rện mà anh vừa nói làm tôi lạnh xương sống lắm.”

“Những lời sến rện?” Tôi ngạc nhiên nhắc lại?

“Chứ còn gì nữa? Anh định làm nam chính trong truyện tranh thiếu nữ đấy à? Nghe mà rùng cả mình. Con người đôi khi quá uất ức thì bật khóc là chuyện bình thường chứ, như vậy đâu có nghĩa là tôi yếu đuối đến mức luôn phải trốn lên sân thượng khóc lóc thảm thiết đâu.”

“Yamamoto Yui, nói như vậy thật là bất lịch sự.”

“Đó là bởi vì tôi không thể ép mình phải tỏ ra nhã nhặn và lịch sự như những gì mà mọi người muốn nhìn thấy ở nhau được. Anh thử nói xem, nếu như anh thực sự muốn giúp đỡ, vậy thì từ trước đến giờ anh đã ở đâu?”

Tôi không trả lời được câu hỏi đó của Yamamoto Yui. Thấy vậy em chỉ từ tốn mỉm cười:

“Tôi không phải là một người tốt, luôn có một lý do để cho kẻ bị ghét xứng đáng là kẻ đáng ghét thực sự. Tôi cũng không cần tới sự giúp đỡ của những người có tư tưởng giống với những kẻ không thể hiểu mình. Còn nếu như anh muốn biết tôi nghĩ gì, vậy thì hãy thử một lần hành động theo cảm xúc với tâm thế sẵn sàng gánh vác hậu quả của nó đi. Chỉ khi nào anh cảm nhận được những điều tôi đã cảm nhận thì khi đó anh mới có thể hiểu những gì tôi vừa nói.”

“Rốt cuộc như vậy là ý gì?” Tôi hỏi, trong đầu nổ ra hàng ngàn thắc mắc.

“Chậc, tôi chưa bao giờ là đứa giỏi diễn thuyết cả.” Em thở hắt ra. “Vậy thế này cho dễ hiểu nhé, anh có dám đi theo tôi lang thang suốt đêm nay không?”

“Nhưng bố mẹ em sẽ…”

“Anh có dám không?” Em nhìn tôi với một ánh mắt nghiêm túc đầy kiên định. Bỗng dưng tôi cảm thấy mình thật nhỏ bé.

“Đi…” Tôi nhắc lại: “Đi.”

Em cười tươi, nắm lấy cẳng tay tôi kéo đi ngược trở lại đoạn đường lúc trước. “Chạy nhanh lên nào.” Em nói, hộp đựng đàn xóc nảy trên lưng mỗi bước chân em. Tôi chỉ chạy theo sau, xen lẫn cảm giác phấn khính bồn chồn trong dạ là một chút những lo lắng về việc chuyện gì sẽ xảy ra, rồi ở nhà bố sẽ như thế nào khi không thấy tôi về? Có lẽ tôi nên nhắn báo rằng mình sẽ qua đêm ở nhà một đứa bạn nào đó đêm nay cho ông được yên tâm. Cứ như vậy nỗi lo chộn rộn dần dần nhẹ bớt đi để nhường chỗ cho cảm giác phấn khích râm ran lan khắp cơ thể từ lòng bàn chân lên tới tận đỉnh đầu.

Từ Shibuya, chúng tôi bắt chuyến xe đến Shinjuku – một khu phố sầm uất chẳng kém gì Roppongi về đêm. Sải chân của Yamamoto Yui thật dài, em bước về phía trước một cách hứng khởi và tự tin như thể đường phố Shinjuku vốn thuộc về em vậy.

“Chúng ta đi đâu đây?” Tôi hỏi.

“Đến phường Kabuki.” Em thản nhiên đáp.

“Phường Kabuki?” Tôi ngạc nhiên. “Này, nhưng chỗ đó…”

“Tiền bối Daiki, anh lại nghĩ bậy bạ gì đấy?” Em lườm tôi. “Phố đèn đỏ đâu phải chỉ có mỗi khách sạn tình nhân và quán bar.”

“Anh xin lỗi.” Tôi ngại ngùng cúi đầu.

“À nhưng chúng ta đang tới một quá bar thật.” Em nói tiếp.

“Hả? Nhưng em còn đang mặc đồng phục của trường!”

“Giờ đang là mùa hè mà, nếu như mặc đồng phục đi vào khu đèn đỏ thì người ta chỉ nghĩ là mình đang cosplay thôi.”

Khắp trên vỉa hè phường Kabuki là các quán bar, karaoke, nhà nghỉ và các host club cho các nhân viên ăn mặc, trang điểm lòe loẹt đứng bên ngoài mời chào. Yamamoto Yui cứ nắm lấy cẳng tay tôi kéo đi một mạch qua họ, một quãng sau chúng tôi rẽ vào một cái ngõ nhỏ, vào một quán bar có tên là Cafuné nơi mang âm hưởng của phong cách nhạc Jazz Bebop đầu thập niên bốn mươi. Trên sân khấu nhỏ trong quán là ba nghệ sĩ, một người đang chơi trumpet, một người đệm piano và một người chơi trống. Thế rồi sau đoạn nhạc dạo đầu thì người chơi trumpet bắt đầu cất tiếng hát:

They're writing songs of love but not for me

A lucky star's above but not for me

With love to lead the way I've found more clouds of gray

Than any Russian play could guarantee.

“Đó là bài “But not for me” của Chet Baker.” Yamamoto Yui thì thào, ánh mắt em trông thật lấp lánh đầy xúc động. “Hôm nay quả là một đêm may mắn.”

“Yui!” Người pha chế đứng ở quầy bar vừa nhìn thấy Yamamoto Yui thì ngay lập tức liền tiến đến hỏi chuyện. “Em làm gì ở đây hôm nay vậy? Hôm nay đâu phải ngày làm việc của em đâu chứ hả?”

“Hôm nay em đến chơi thôi.” Yamamoto Yui đáp. “Đây là bạn mới của em, Daiki Haruma. Tiền bối Daiki, đây là chị Nagafuji Mihane, là chủ của quán bar này.”

“Em chào chị.” Tôi cúi đầu.

“Học sinh trung học thì uống nước cam nhé. Hai đứa ra bàn ngồi đi.”

“Cho bọn em cà phê đi.” Yamamoto Yui nói. “Đêm nay còn dài lắm.”

Tôi đi theo em ra một chỗ gần với sân khấu để ngồi, hộp đàn được em cẩn thận tựa vào bàn.

“Đây là cần câu cơm của tôi đấy.” Em nói. “Một tuần hai lần tôi lại đến đây chơi Jazz, chị họ của tôi là bạn thân của chị Mihane nên đã giới thiệu cho tôi công việc này. Anh cũng nghe Jazz chứ?”

“Anh nghe được nhiều thể loại nhạc, nhưng anh hay nghe các bài hát vô danh của các nghệ sĩ Indie nhiều hơn.”

“Tôi đang hỏi anh có nghe Jazz không cơ mà.” Yamamoto Yui chống hai tay dưới cằm nhìn tôi. “Anh toàn trả lời chệch câu hỏi.”

“Vào những ngày trời mát thôi.” Tôi đáp.

“Vậy à.” Em cười. “Thật ra tôi chỉ thực sự thích vài bản nhạc Jazz thôi, Jazz không thể tôn vinh được âm thanh của cello như những gì mà nhạc cổ điển có thể làm. Nhưng dù sao thì “But not for me” vẫn là một bài hát hay, tôi hay nghe nó vào mùa đông. Giờ đang là mùa hè, nghe lại thấy nhớ trời lạnh ghê gớm nhỉ.”

“Ừ, có lẽ vậy.”

Một học sinh trung học thì thường như thế nào? Ở tuổi đó tôi vốn nghĩ mình có sở thích khá khác so với chúng bạn, đó là việc thường tìm nghe nhạc của những nghệ sẽ vô danh hoặc cảm thấy có hứng thú với những ban nhạc đường phố hơn là những buổi hòa nhạc lớn của các nghệ sĩ nổi tiếng. Bạn bè tôi thì lại khác, đa số họ chỉ nghe những bài hát mà mọi người vẫn thường nghe, đặc biệt là ở cái tuổi của học sinh năm nhất như Yamamoto Yui thì việc hâm mộ những thần tượng nhạc Pop là chuyện rất bình thường. Nhưng Yamamoto Yui là một người khác hoàn toàn, em có một niềm tự hào vô cùng với âm nhạc cổ điển mà đặc biệt là với đàn cello. Đối với em, trên đời này không có bất cứ thứ âm thanh gì mãnh liệt bằng được thứ âm nhạc mà em tôn thờ. Em có thể nghe Jazz, gật gù thích thú với một bài hát nào đó nhưng tất cả không bao giờ được em so sánh với nhạc cổ điển bởi đối với em, nhạc cổ điển là độc tôn. Tôi vẫn còn nhớ có lần em đã nói với tôi thế này:

“Khi một người được nghe một bản nhạc giao hưởng, một bản concerto, độc tấu hay opera. Một là họ sẽ yêu và mê đắm nó mãi mãi. Hai là dù họ không thích nhưng vẫn sẽ dành cho nó sự tôn trọng, vĩnh viễn không bao giờ xóa bỏ trong tim.”

Phần tính cách đầu tiên của Yamamoto Yui mà tôi được tiếp xúc đó là thẳng thắn. Trong suốt những đoạn nói chuyện rời rạc và vụng về của hai học sinh trung học trong quán bar đêm đó, mỗi khi tôi nói sai điều gì hay vô tình lạc đề thì sẽ bị em sửa lưng ngay lập tức. Đôi khi sự thẳng thắn đó trở nên có phần thô lỗ bởi em chẳng hề e dè bất cứ điều gì trong lời nói của mình cả. Thế nhưng đó không phải là một sự thô lỗ gây khó chịu bởi em luôn bật cười rất thật lòng và vui vẻ chỉ liền ngay sau đó.

“Anh có biết tên của quán bar này có nghĩa là gì không?” Em hỏi tôi.

“Cafuné hả? Anh không biết.”

“Nó có nghĩa là hành động luồn các ngón tay nhẹ nhàng qua mái tóc. Cái tên này là do chị họ của tôi đặt đấy.”

“Quả là một cái tên tinh tế nhỉ.”

“Tất nhiên rồi.” Yamamoto Yui ngẩng cao đầu mỉm cười đáp với giọng điệu đầy tự hào. “Chị họ của tôi là một họa sĩ, mọi thứ chị ấy làm đều rất tuyệt.”

“Một họa sĩ sao?”

“Đúng vậy, chị ấy còn có rất nhiều bạn bè nữa, và tất cả bọn họ cũng đều là họa sĩ.”

“Em chắc cũng phải có nhiều bạn làm nhạc công lắm chứ hả?”

“Không.” Em lắc đầu. “Học nhạc toàn một thầy một trò thôi, sau giờ học lại về nhà nên tôi không giao lưu với đám bạn ở chỗ học nhạc. Tôi chơi với các bạn của chị họ. Các chị gái làm nghệ thuật ai cũng phóng khoáng và nam tính. Bọn họ kỳ lạ lắm.”

“Em cũng kỳ lạ đấy thôi.” Tôi bảo.

“Anh thấy như vậy chẳng qua là vì từ trước đến giờ anh chỉ giao tiếp với lũ người bí tính ở trường.” Yamamoto Yui lắc đầu.

“Bí tính là sao?”

“Là kiểu người hạn hẹp, không thể tiếp nhận những cái mới. Là kiểu người cứ nghĩ là mình vui tính lắm nhưng khi nghe một câu đùa thực sự thì lại chẳng hiểu gì mà cứ nghĩ bản thân đang bị công kích. Là kiểu người chỉ biết những thứ ai cũng bảo là đẹp thì coi là đẹp, còn khi được chứng kiến một tác phẩm nghệ thuật khác thường thì lại “Eo ơi!” chẳng hiểu gì. Như vậy là bí tính đấy, mà thật ra là vẫn còn nhiều nữa cơ.”

“Vậy anh có nằm trong số những người bí tính đó không?” Tôi hỏi.

“Có đấy.” Em đáp lời mà chẳng cần ngẫm nghĩ lấy nửa giây. “Nhưng rồi sẽ đỡ thôi, thật may là anh lại thuộc kiểu người sẵn sàng mở mang đầu óc.”

Hai chúng tôi ngồi nói chuyện đến gần nửa đêm thì em kêu đói. Rời khỏi Cafuné, em đưa tôi đến một quán ăn đêm ngoài vỉa hè nơi chúng tôi có thể vừa ăn vừa nghe tiếng nhạc của ban nhạc đường phố đang chơi ở gần đấy. Yamamoto Yui còn có một thói quen dễ chịu khác đó là luôn luôn ăn một cách từ tốn và chậm rãi để có thể tận hưởng trọn vẹn món ăn cho dù có đang phải vội đến đâu đi chăng nữa. Tôi ngồi yên lặng ngó nhìn xung quanh, một vài cửa tiệm bán hoa vẫn còn mở. Tôi tự hỏi không biết họ mở làm gì vào giờ này bởi liệu có mấy ai đi mua hoa vào lúc gần một giờ sáng?

“Anh thích Shinjuku chứ?” Em hỏi tôi.

“Anh cũng không rõ nữa. Anh thích Cafuné, thích những ban nhạc đường phố chơi nhạc buổi đêm nhưng anh không thích sự tấp nập và sầm uất của con người đi lại trên đường cho lắm.”

“Được rồi, vậy thì đi tiếp thôi nào.”

Và rồi hai chúng tôi lại đi bộ tiếp, rất lâu về phía Shinjuku Golden, nơi con phố nhỏ vắng người lặng im nhưng các tiệm ăn nhỏ và nhà hàng lớn thì luôn sáng ánh đèn vàng ấm cúng. Hai cái bóng của chúng tôi đổ dài trên đường. Yamamoto Yui trong bộ đồng phục của trường cùng hộp đàn cello sau lưng vừa đi vừa lẩm nhẩm hát lại bài “But not for me” của Chet Baker.

“Đoạn sau là gì ấy nhỉ?” Em hỏi tôi.

“I was a fool to fall and get that way.” Tôi lẩm nhẩm.

“À…” Em cười.

Sau đó chẳng ai bảo ai, chúng tôi bất chợt cùng hát lớn:

Hi-ho, alas, and also lack-a-day

Although I can't dismiss the memory of her kiss

I guess she's not for me.

Trong đêm đó, tôi nghĩ rằng có lẽ mình đã hiểu được một chút về những điều mà em đã nói với tôi lúc trước. Tôi đã biết thêm một chút về em. Và tôi cũng thích cái cảm giác này, cảm giác khi cùng với một người bạn mới lang thang hát ngoài phố vắng vào lúc hai giờ sáng. Đó là đêm mùa hè đầu tiên tôi trải qua cùng với Yamamoto Yui. Một đêm hè yên bình và lấp ánh ánh sáng của thành phố luôn sáng đèn.
 
Bên trên