Lời nguyền trên tháp Ma Hời.
Chương 1.
***
Vân Tranh đến ngôi trường còn nguyên vết bom đạn chiến tranh ở vùng thôn xa ấy vào một chiều cuối thu, khi thản nhiên nói lời chia tay với người mà cô còn yêu, mãi yêu, nhưng không thể suốt đời trao thân gửi phận. Biết sao được? Yêu là một lẽ, tự đánh mất mình cho một kẻ điên theo dục vọng phù hoa là một lẽ khấc.
Chẳng thủ tục nhiêu khê gì nhiều với cô giáo cấp một từ tỉnh thành về vùng quê dạy học. Hiệu trưởng trạc ngoài ba mươi, với bàn tay thiếu ngón bấm cò súng, nói vài lời ngắn gọn, chào đón đồng nghiệp trẻ. Vài ba cái bắt tay e dè với bốn vị thầy cô, áo bà ba, sơ mi nhàu nát. Xong, Vân Tranh được hiệu trưởng đèo trên con đường đá đầy ổ gà, cỏ tranh ven lề cao vút đầu người và những cánh đồng hoang hóa.
- Cô Tranh quê ở mô hè? - Hiệu trưởng hì hục đạp, vừa thở hỏi.
- Dạ, quê em ở Hội An. Nhà lên Đà Nẵng từ khi còn nhỏ. Thầy Hòa nì! Trường có đủ lớp không?
- Đủ chớ. Nhưng học trò mô đủ. Sắp nhỏ đi học bữa đực bữa cái, dạy cực lắm.
- Vì răng?
- Cha trời! Cô nghĩ coi. Súng đạn còn ầm ầm thức nớ, đám trẻ phần lo đói, phần lo chết, có mô...
Thầy Hòa bỏ lửng câu nói. Vân Tranh thở dài. Cô lú lẫn trong tình yêu đến độ quên hết. Hiệp định Paris ký kết từ năm 72, quân viễn chinh Mỹ rút về nước lâu đời, nhưng chẳng phải đêm đêm tiếng súng vẫn vang về phố thị đó sao?
- Thầy có khi mô dẫn học trò tránh pháo chưa?
- Chuyện nớ thường lắm đa. Sau trường có hai hầm tránh pháo chắc chắn lắm. Một cái của mấy ông lính mần, một cái mấy ông Việt cộng mần. Cô thấy lạ chưa?
- Lạ lắm. - Vân Tranh ngớ ra.
Thầy Hòa cười khùng khục:
- Còn cái lạ nữa. Học trò Duy Phú một nửa con cháu lính ngụy, một nửa con cháu Việt cộng.
- Trời ơi! Rồi làm răng dạy? Trường mình là của...
- Của chính phủ ông Thiệu chớ chi? Chẳng ăn nhằm mô. Đất ni ông Thiệu chẳng nói đất Việt Nam cộng hòa na, nhưng tới chạng vạng, bộ đội, du kích đi ngời ngời như Ma Hời làm hội, đố bọn lính dám hó hé.
Vân Tranh rùng mình. Ma Hời! Nghe ghê quá.
- Rứa dạy cách chi?
- Muốn dạy cách chi thì dạy. Miễn sắp nhỏ học hiểu được thì ổn. Thiệt ra Duy Phú có trường tiểu học từu lâu, nhưng xóa tên ở phòng giáo dục rồi.
- Còn lương?
- Khi mô xã nhắn thì lên lãnh. Đôi lúc ba tháng lãnh một lần. Nhưng cô Tranh đừng lo. Bọn học trò "nuôi" mình đàng hoàng lắm.
Vân Tranh bối rối đến độ không hỏi vì sao học trò nuôi. Cô nhớ gã răng vẩu ở phòng giáo dục, ba hoa rằng: Tiểu học Duy Phú như một thiên đường cho những kẻ tránh đời. Duy Phú thuộc Duy Xuyên, có thánh địa Chiêm Thành, có làng dệt lục, có văn miếu Hàn Huyên, có mộ Đoàn Phi, có chùa Lầu, nhà thờ Trà Kiệu v.v... Gã xấu đến ghê, nói hay phát mê, và cô đồng ý xin đi để vợ gã thế chân ở trường cô đang dạy. Ôi! Sống chết là chuyện nhỏ. Đói no chẳng sao. Chỉ sợ ba biết tình hình ở đây, sẽ tức chết.
- Tới rồi.
Vân Tranh sực tỉnh, xuống xe. Nơi cô đến cứ như cõi trời riêng nào vậy. Một ngôi lầu chăng? Không phải. Một lô cốt tránh pháo chăng? Không đúng. Nó như ngôi đình hai tầng, bị bom đánh sụp, vẫn tựa lưng vào vách núi, kiêu hãnh, cô độc với những tảng đá thay gạch ghép thành. chung quanh là vòng rào đầy hoa quỳ vàng rực. Vòng trong như một khu rừng nguyên sinh, với hàng trăm gốc đại thụ ngả nghiêng, lá khô vàng vì bom đạn đầy các loài chùm gởi bám vào.
Vân Tranh chỉ tay:
- Mình ở đó hả anh Hòa?
Hòa lắc đầu cười, dắt xe đi vào con đường nhỏ sát bên đầy cỏ tranh lấp che.
- Bên ni. Dân Phú Hòa cất nhà cho tụi mình chỗ không bom đạn mô ăn tới.
- Răng không phát cỏ, anh Hòa?
- Chi? Để rứa cho ra vẻ thiên nhiên, còn khỏi sợ bị thả bom.
- Anh nói nghe dễ sợ rứa. Mỹ rút hết rồi còn mô?
- Còn ông Việt Nam cộng hòa chi? Mấy cha nớ sảng lên giết dân, càn quét chuyện thường.
Đi độ trăm mét, cả hai đến dãy nhà tranh nhỏ cất dọc triền suối, bên kia suối là rẫy sắn quanh một tháp Chiêm nhỏ còn nguyên vẹn, đứng trơ vơ, sừng sững. Xa hơn chút là chân núi chạy dài.
- Đẹp quá! - Vân Tranh reo lên, nhìn quanh rồi chạy a vào ngôi nhà cất dưới vòm lá lớn, có hai màu xanh, bạc. Trong nhà, bàn ghế, giường đều làm bằng tre nứa. Ở góc chạn chén bát, có bếp nồi hẳn hoi.
Vân Tranh nhún nhảy ở giường, không thấy cái cười vẻ thương hại của Hòa. Aanh nói:
- Cô Tranh nì! Cần nói rõ một chút để chuẩn bị tâm lý ở đây lâu dài hỉ?
- Là răng anh Hòa?
- Là ri...
Điều Hòa nói được Vân Tranh ghi vào bộ nhớ. Tóm gọn lại, dân Phú Hòa còn ở vùng tranh chấp, họ không muốn con cái dốt nát mới thỉnh nghị chính quyền mở trường. Mở rồi, thầy cô mô đến vài tháng là bỏ đi. Từ thời Hòa, nghĩa là mới sau năm 72 đến giờ thị trụ được. Lý do hầu hết giáo viên người Duy Xuyên. Thứ hai, dân Phú Hòa có truyền thuyết về tháp Sám Hối bên kia suối. Họ nói tháp đó là nhà sám hối hay nhà tù của hoàng tộc Chiêm Thành. Nơi đó có nhiều người thuộc hoàng tộc chết oan, vong hồn thường hiện lên nhảy múa. Vì vậy tháp rất linh, bom đạn đánh đầy nhưng chu vi một trăm mét vuông quanh tháp không hề ảnh hưởng. Cây cối mọc xanh rì. Vì vậy mới cất nhà cho giasao viên ở đây để nhờ sự linh thiêng bảo vệ.
- Nghĩa là nhờ hồn ma đẩy bom đạn đi không cho dính mình hả anh Hòa?
Vân Tranh cười ranh mãnh. Hòa cũng cười.
- Dân đây gọi là tháp Ma Hời. Họ canh tác bên nớ không khi mô thu hoạch yếu nên quét dọn khói hương thành kính dù tuyệ không dám vào tháp.
- Thánh địa Chiêm Thành ở đây cách bao xa?
- Độ chục cây đa, không ai dám mon men.
- Răng tháp ni mọc đây ngộ hè.?
- Bởi rứa dân mới nói nó là nhà tù hoàng thất. Cô nhìn xem, chung quanh sơn thủy hữu tình, đúng là nơi các bậc cao quý tĩnh tâm sám hối. Nì! Rứa cô sợ không?
- Nghe hai tiếng Ma Hời hơi ớn, nhưng mọi người ở được thì Tranh ở được.
- Rứa tốt rồi. Giao nhà cho cô với cô Phúc, phụ nữ ở chung khỏi sợ. Tui ở gian mé trại, giáp nhà đấ họ Mai. Gian kế thầy Thuận. Gian mé phải, mẹ con cô Thoa. Gian ngoài cùng, thầy Ân. Rứa đi. Chừ cô ra suối tắm rửa. Cô Thoa về nấu cơm cùng ăn.
- Răng chị Thoa đem con theo rứa?
- Chồng chết trận, bị tên thôn trưởng dê xồm mới trốn thẳng đây. Đừng lo. Chỉ nấu cơm ăn chung, mình trả tiền tháng. Thôi. Tui đi qua đây chút. À nì! Tắm suối nhớ mặc đồ hỉ.
Tranh đỏ mặt hứ dài. Hòa cười khì đạp xe đi. Một loáng, Tranh soạn đồ xong, lật đật ra suối. Suối có đá, nước trong veo chảy róc rách. Sát mấy lùm cỏ tranh có hai gian nhà nhỏ một mái rời nhau khá xa. Chắc nhà vệ sinh. Tranh nghĩ bụng. Đầu nguồn, gần khu nhà đá bên kia, thêm hai gian có cửa để mở. Là nhà tắm. Đúng. Có cả thùng đựng nước, gáo dừa.
Tranh thích tắm suối, cô để nguyên áo quần mà nhảy ùm xuống nước, vụt cười khanh khách quên hết mọi nỗi buồn. Cô chợt có cảm giác ai nhìn mình, vụt nhìn quanh và thấy con bé ngồi phía trên đầu suối. Tranh rờn rợn, hỏi:
- Em là ai?
Con bé lõ cặp mắt hoang dại nhìn Tranh rồi rời suối, vạch rào chui qua khu rừng có gian nhà đá, biến mất. Tranh lại rồn rợn, cô tắm nhanh, đi vào nhà thay đồ, giặt phơi lên. Vừa lúc các giáo viên lục tục về. Trên yên xe đạp cô giáo lớn nhất là thằng con trai độ mười tuổi với túi thức ăn. Thằng nhỏ nhảy xuống xe đến làm quen với Tranh ngay. Xưng tên là Bình.
Nói Thoa làm bếp, thật ra mọi người đều phụ giúp. Nấu xong cùng ăn vui vẻ. Tranh kể chuyện thấy con bé có cặp mắt to kỳ lạ, cu Bình cười toe:
- Con Mai Hối bên nhà đá đó cô. Hắn tội lắm. Nhưng mẹ với mấy thầy cô biểu con...
- Bình! - Thoa gắt.
Chú chàng nín tịt. Tranh nhỏ nhẹ:
- Vì răng, kể Tranh nghe với?
Hòa phẩy tay:
- Không có gì. Sợ thằng Bình qua nhà đá, có chuyện thôi.
- Chuyện chi? - Tranh hỏi luôn.
- Là ri. - Thầy Thuận cụt tay trái, trạc gần bốn mươi tuổi, kể - Trong nhà đá có người điên, Hối là con anh ta. Họ ở với ông Thà là người chăm nom ba của con Hối suốt bảy năm rồi.
Tranh tròn mắt hồi hộp. Trời! Nào bom đạn, nào Ma Hời, nào người điên, đất chi hung hiểm lạ. Như hiểu rõ, thầy Ân trấn an:
- Đừng sợ. Cô trẻ nhất, tụi tôi bảo vệ cô. Nghe kinh rứa mà không can chi mô. Anh ta điên mà lành lắm. Bà mẹ về thăm hoài.
- Chắc họ giàu có. Răng không đưa ba của bé Hối vô bệnh viện?
- Điều lạ là bà nội bé Hối không nuôi nó, lại để nó ở với ba nó bị điên - Cô Phúc bình phẩm.
Thầy Thuận trầm ngâm nói:
- Khắp Duy Xuyên, họ Mai lạc cội, rứa mà giàu nứt vách. Con gái họ Văn đẹp nhất, hay chữ, thông minh, về làm dâu họ Mai, là giai thoại cả xứ Quảng. Điều lạ, ngôi lầu đá nớ thuộc họ Đoàn, đùng một cái thành gia sản họ Mai.
Tranh tò mò định hỏi, Hòa nói:
- Thôi. Chuyện nớ không can chi tới mình. Ăn xong, cho cô Tranh nghỉ sớm.
Nói nghỉ, nhưng Tranh lạ chỗ nên không ngủ được. Cô lại không quen ngủ chung. Phúc như hiểu, cười:
- Mai mình nhờ phụ huynh đóng thêm giường.
Cả hai chuyện trò đến nửa đêm. Tranh biết Phúc quê Duy Châu, cả nhà chết hết trong bom đạn. Phúc hai tám tuổi, chưa lập gia đình. Tranh hai bốn tuổi, quê Hội An, ba là thầy thuốc bắc. Vậy thôi. Răng con bé về đây rứa hè? Có nỗi khổ chi? Với thắc mắc đó, Phúc đi vào giấc ngủ. Tranh cũng ngủ, nhưng là một chuỗi mộng mị trong mơ. Cô mơ thấy từng đoàn Ma Hời ở tháp Chiêm nhảy múa. Mơ thaafy tòa nhà đá bị bom đánh sụp. Thầy con bé mắt to khóc gào ôm xác người đàn ông. Sáng dậy, Tranh bơ phờ, than:
- Kiểu ni cho em ở một tháng chắc chết.
Phúc hỏi:
- Chuyện chi?
- Em toàn nằm mơ điều dễ sợ. Chị Phúc! Đất thiêng có thiệt không?
Phúc tủm tỉm:
- Ở vài năm thì biết.
- Vài năm? - Tranh như thấy đất trời tối sầm lại.
***