Còn viện lẽ đàn ông như vậy được mà đòi mình còn trong trắng thì khác nào tự hạ cái phẩm giá mình xuống bằng họ rồi an thua đủ. Họ sống xấu xa rồi mình củng như vậy luôn hay sao, phải đâu mà người phụ nữ Việt Nam truyền thống được ví như hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Thứ nhất mình không viện dẫn lý lẽ gì cả, mà mình chỉ ra cái thói đời ngày nay, phần lớn đàn ông đều lăng loàn trước và trong hôn nhân nhưng vẫn dùng mấy cái tiêu chuẩn ba xu như bạn đưa ra để yêu cầu những người phụ nữ phải chung thủy nhịn nhục. Bình đẳng rồi bạn ơi, sao chúng tôi phải nhịn, phải khuyên giải những thằng đàn ông dơ bẩn như thể để thỏa mãn cái thói tự phụ của đàn ông? Nếu phụ nữ vẫn phải nhịn thì sao có Luật hôn nhân và gia đình qua định rõ chế độ hôn nhân một vợ một chồng? Tôi không nói là phụ nữ được vin vào cái cớ đó để mà buông thả bản thân, chỉ là chúng tôi có quyền từ bỏ, phủ định một thằng khốn.
Bài viết của mình bàn về nét đẹp, tức chỉ ra từng mức độ đẹp của người phụ nữ, bạn muốn bạn đẹp như thế nào trong mức đó thì tự bạn chọn. Bạn đòi hỏi người chồng còn trinh thì kiếm chồng bạn mà hỏi.
Thứ hai, bạn nghĩ bạn là ai mà đưa về các chuẩn mực về nét đẹp của người phụ nữ? Sống ở đời, tôi tự nhận không thẹn với lòng mình là được, không cần quan tâm tới cái nhìn của kẻ khác. Tôi không đòi hỏi người chồng còn trinh, chỉ là chướng tai gai mắt với mớ lý luận ba xu của bạn.
Trong Lục Vân Tiên cụ Chiểu có đoạn "Trai thời trung hiếu làm đầu, Gái thời trinh tiết làm câu trau mình", tục cổ ông cha khuyên răn dạy dỗ mình những lời chánh đáng chớ đâu tà quấy bao giờ, kiềm kẹp bao giờ, sống như thế nào là do bạn chọn, sai là ở người đời ăn ở trái thói mà thôi.
Mình trích đoạn Kiều sau 15 năm phong trần gặp lại Kim Trọng cho bạn.
Trôi theo dòng thời gian, thân Kiều qua tay bao kẻ đàn ông, có tên và không tên, đê tiện, độc ác và cao quý, cao cả… Nhất là lũ làng chơi:
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.
Vậy mà, sau 15 năm tàn tạ của nàng, Kim Trọng “đáy bể mò kim” tìm lại được người tình xưa (xưa nhưng không cũ với chàng!) thì một mực xin ép nàng tái hôn (với Kiều – Kim kỳ thực đã đính hôn với nhau, làm chứng chính là “Vầng trăng vằng vặc giữa trời”) Kiều không muốn đem tấm thân tàn tạ (sinh lý), nhất là quãng đời kinh qua bao khúc nhôi, sự tình (tâm lý, tâm hồn) để đãi tình lang Kim Trọng. Đó là cao quý! Còn Kim Trọng hay chính là Nguyễn Du thì lại nghĩ khác:
Xưa nay trong đạo đàn bà
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường
Thì ra Nguyễn Du đã có được ý thức, nhận thức, hay ít ra tâm thức về 2 phương diện của chữ “trinh” ở Kiều nói riêng, ở người phụ nữ cao quý nói chung: Trinh – sinh lý và trinh – tâm hồn, tinh thần. Với ông, chữ trinh – sinh lý là quan trọng, nhưng chữ trinh – tâm lý, tinh thần còn cao quý hơn. Theo đây, ta thấy, những gã Mã Giám Sinh, bọn đàn ông làng chơi vô sỉ, Hồ Tôn Hiến, kể cả Thúc Sinh (có trừ chăng là Từ Hải) chưa hề đụng đến được cái vành ngoài của chữ trinh – tinh thần, tâm hồn của Kiều. Cái vương quốc trinh – tinh thần ấy ở Kiều có lẽ chỉ một người duy nhất được bước vào: Kim Trọng. Có thế, ta mới hiểu: Lấy Vân rồi, con cái đề huề, khoa bảng đắc ý, nhưng Kim Trọng không nguôi quên được Kiều – không phải vì nghĩa mà cái chính là vì tình yêu.
Trở lại đoạn Kim – Kiều gặp lại sau 15 năm. Đôi bên đối đáp, thuyết phục nhau thật nhiều, lắm xúc động và đau đớn. Ai cũng có lý riêng nhưng họ lại có một nguyên khối chung được gây nên từ 15 năm trước: Tình yêu. ấy nên Kim Trọng, như trên đã nói cứ một lý trước sau:
Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
Và, với chàng. Tình yêu, chữ trinh (tâm hồn) Kiều không thể chết, thậm chí cứ là nguyên lành:
Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao?
Một lời đã trót tâm giao
Dưới dày có đất trên cao có trời
Dẫu rằng vật đổi sao dời,
Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh
Duyên kia có phụ chi tình
Mà toan chia gánh chung tình làm hai?
Do đó, Kim Trọng quyết tâm đi đến hôn nhân, chung sống cùng Kiều:
Thương nhau sinh tử đã liều
Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình
Chừng xuân tơ liễu còn xanh
Nghĩ sao cho thoát khỏi vành ái ân
Bởi với chàng, Kiều là:
Gương trong chẳng chút bụi trần
Nên:
“Bấy lâu đáy bể mò kim
Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa?”
.
Đây là đêm hợp cẩn, hoa chúc của họ:
“Nghe lời sửa áo cài trâm
Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng
Thân tàn gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử khác lòng người ta
Mấy lời tâm phúc ruột rà
Tương tư dường ấy mới là tương tư
Chở che đùm bọc thiếu gì?
Trăm năm danh tiết cũng về đêm nay.
Thoắt thôi tay lại cầm tay
Càng yêu vì nết càng say vì tình”.
Rồi đôi trái gái này sống – cho – nhau – cùng – ngày – tháng:
“Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”
Những thú vui, hạnh phúc ấy là gì, nếu không phải là tình yêu (từ này hầu như không có trong từ vị tiếng Việt khi nói về quan hệ trai gái thời phong kiến, thời ấy chỉ gọi là tình nghĩa) là chữ trinh – tâm hồn Kiều trao cho Kim Trọng, cái khu đất cấm suốt 15 năm nàng “gìn vàng giữ ngọc” để đến giờ mở cửa đón chàng!
Quay lại thời hiện nay, bỏ qua cái sự trói buộc của lễ giáo phong kiến trong cái xã hội như nồi lẩu thập cẩm, lừa lọc bịp bợm vàng thau lẫn lộn này cái chữ trinh chẳng đáng 1 xu! Chung thủy tin tưởng trong hôn nhân là điều kiện cần và đủ, đó là yêu cầu từ hai phía vợ và chồng chứ không phải dành riêng cho 1 ai. Kẻ phản bội lời thề ước chung thủy đều không đáng được tha thứ dù là sự phản bội trong tâm tưởng.