Nhà tôi, trường tôi đều ở trên đồi (Last version - Full) - Hà Thái - Cập nhật

Hà Thái

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
5/3/15
Bài viết
406
Gạo
0,0
Tên truyện: Nhà tôi, trường tôi đều ở trên đồi
Tác giả: Hà Thái
Thể loại: Thiếu nhi
Tiến độ đăng: chừng 3 chương/ ngày

Tóm tắt truyện:

Truyện toàn những câu chuyện vu vơ của tuổi thơ:

- Không có gì đặc biệt.
- Không sốc.
- Không xúc động tràn trề, nước mắt tuôn rơi.
- Không sến súa.
- Không có gì lâm li bi đát hay bức xúc dữ dội.
- Không li kì.

CHỈ CÓ: những gì gần gũi nhất. Chỉ định cho những bạn đọc muốn tìm lại chút gì của thời thơ ấu.

//Truyện đã đăng vài chương trước kia. Nhưng giờ chủ đề đã khóa. Giờ đăng lại, bản mới nhất, full.
//Có bạn nào thương tình làm giúp cái bìa thì đa tạ nhiều nhiều. :D
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Hà Thái

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
5/3/15
Bài viết
406
Gạo
0,0
(1). Sao chúng mày lại buồn?

Nhà tôi ở gần trường. Ngôi nhà nhỏ xíu ở dưới chân một sườn đồi thoai thoải. Trên cái sườn đồi ấy, nằm ngay phía bên trên nhà tôi là hai nhà: nhà bà tôi (cũng là nhà chú Hạnh vì chú ở cùng bà) và nhà chú Lâm tôi. Các nhà hàng xóm cũng vậy. Tuy nhiên, vì nhà cửa san sát nhau nên thật khó để nhận ra là nhà bạn đang ở trên một quả đồi trừ khi bạn đi lên cái vườn sau lưng nhà chú tôi, rồi chợt nhận ra rằng mình đang đứng trên đỉnh đồi. Còn bên kia là một sườn đồi thực sự, toàn cây cối và chả có ngôi nhà nào.

Tóm lại là quê tôi rất nhiều đồi. Thế nên trường tôi cũng nằm trên đồi, không phải một mà là hai quả đồi khác nhau. Một bên được gọi là “trường cấp một”, còn bên kia được gọi là “trường cấp hai”. Nói vậy chứ trường cấp một chỉ có lèo tèo vài phòng học nên chúng tôi học chung ở cả hai khu. Các anh chị lớn học buổi chiều, còn chúng tôi học buổi sáng. Phần giữa hai khu tạo thành một khoảng rộng với đường đi ở giữa, khi nào học sinh tập đội hay xuống đó tập. Mọi người đều gọi đó là “sân trường” mặc dù mỗi khu trường trên đồi đều có sân riêng.

Từ nhà tôi đi một tí là ra đến sân trường. Buổi tối, cô Hậu hay dẫn tôi với cái Ngọc ra sân trường chơi. Cô đem chiếu ra trải trên phần đất nhô cao khá phẳng phía bên trường cấp một, rồi bảo chúng tôi múa hát trên đó. Gió thổi mát lịm. Hôm nào có trăng thì càng tuyệt. Ánh trăng bàng bạc chiếu khắp nơi làm cảnh vật xung quanh thật huyền ảo. Tôi thích hát bài “Ông trăng tròn tròn là ông trăng tròn ơi, một mình trên đấy sao không xuống đây chơi với em.” Cái Ngọc là em gái tôi. Nó mới bốn tuổi. Nó cũng thích múa hát lắm nhưng lại nói ngọng. Nó chuyên trị hát: “Chú voi đon ở bản Đôn, chưa có ngà nên còn trẻ đon”, nhưng không hiểu sao mẹ tôi và các cô chú rất thích, cứ bảo nó hát mãi.

Cô Hậu không chỉ đi một mình với chúng tôi ra sân trường chơi. Cô còn rủ thêm cô Phượng. Cô Phượng là bạn học của cô Hậu. Nhà cô cũng ở gần nhà tôi, chỉ cách qua một cái ruộng. Nhà cô Phượng có rất nhiều cái đặc biệt. Cái đặc biệt thứ nhất là nhà cô có một cây đào bích to ở ngay trước cổng. Trong xóm chả nhà nào có đào bích, nên cứ Tết đến là mọi người đều thi nhau đến nhà cô xin lấy một cành về cắm trong nhà. Năm ngoái, vì bố tôi sang xin muộn nên chỉ được một cành bé tí teo mà lại ít nụ.

Cái đặc biệt thứ hai là nhà cô Phượng có một cái ti vi đen trắng. Cứ đến gần sáu giờ chiều là mẹ tôi với hàng xóm xung quanh, cả người lớn lẫn trẻ con, đều kéo nhau sang đó xem phim. Phim “Người giàu cũng khóc” có cô diễn viên chính tóc vàng xinh ơi là xinh, mẹ tôi vừa xem phim vừa khóc sụt sùi. Rồi phim “Đơn giản tôi là Ma-ri-a” mà bọn trẻ con chúng tôi cứ hò nhau đọc bài vè không biết từ đâu ra:

Ma-ri-a là nhà tạo mốt

Hoan Các-lốt là người bỏ đi

Bà Ma-chi là người nhân hậu[1]

Con rắn độc là mụ Lo-ren

Người hay ghen là anh Víc-to

Người hay lo là anh Các-lốt

Người hay hốt là cô Lo-ra…

Nhưng cái đặc biệt thứ ba mới là thứ làm tôi thích sang nhà cô Phượng nhất, đấy là nhà cô làm bánh chưng để bán. Cô Phượng gói bánh chưng giỏi ơi là giỏi. Cô xếp lá, đổ gạo, cho nhân đỗ rồi gói lại, vèo cái đã thành một cái bánh vuông vức, xinh xắn. Cô còn thường tước lá dong bằng cách bẻ nhẹ sống lá rồi lấy răng tước roạt một cái. Lá nào cũng đều đẹp, chẳng đứt gãy chỗ nào. Chẳng riêng gì cô, ông bà Vân Đại bố mẹ cô với chú Quyết anh trai cô cũng đều giỏi như thế.

Tôi thường sang nhà cô Phượng vào giữa chiều, lúc ấy nhà cô đang gói bánh. Tôi ngồi đó cho đến cuối buổi, lê la buộc lạt, tước lá dong hoặc lăng xăng lấy cái nọ cái kia khi được ai nhờ. Bốn người nhà cô Phượng, người tước lá, người gói bánh, người buộc lạt, người thì làm việc này việc nọ. Vừa làm, họ vừa nói chuyện. Nào là chuyện mọi người vừa đi đập con chó dại nhà ông Vượng hôm nọ. Nào là chuyện con cô Thơm bị ốm vào viện, vẫn chưa đến thăm. Thi thoảng, ông bà Vân Đại cũng nói về nhà tôi, rằng mẹ tôi là cô dâu tốt như thế nào, hai đứa tôi và cái Ngọc xinh xắn, ngoan ngoãn thế nào. Về cơ bản là tôi thích thú. Nhưng đôi khi có cảm thấy chán thì tôi vẫn cố gắng ở lại đến tận cuối buổi. Lúc đó, cô Phượng sẽ nắm cho tôi một nắm nhân đỗ nho nhỏ, bằng chỗ nhân đỗ cô cố ý để dành lại như một phần thưởng cho cái sự tận tụy của tôi cả buổi chiều. Nắm đỗ xanh đã được đồ chín, có vị mằn mặn của muối, bùi bùi, đặm đặm, ngon không thể tả. Tôi lần nào ăn xong cũng vẫn thấy thòm thèm.

Một hôm, tôi sang, lúc cô Phượng không gói bánh. Cô đang ngồi đóng những thanh gỗ trong vườn. Tôi mon men lại gần, hỏi:

- Cô đang làm gì đấy?

- Cô đang làm chuồng thỏ.

Nghe thấy thế, mắt tôi sáng lên.

- Ôi, nhà cô có thỏ à? Mà cô biết làm chuồng thỏ, giỏi thế!

- Ừ. Biết chứ. – Cô Phượng lên giọng tự hào. - Nhà cô chuẩn bị nuôi thỏ nên cô làm cho nó cái chuồng.

- Thế cô cho thỏ ăn gì?

- Cô cho ăn rau. Thỉnh thoảng mày sang đây cho thỏ ăn hộ cô nhé.

Nghe cô Phượng nói thế, tôi sướng lắm. Tôi chưa nhìn thấy thỏ bao giờ, thế mà bây giờ còn sắp được cho thỏ ăn nữa. Tôi sẽ dẫn cả cái Ngọc sang cho nó xem thỏ cùng tôi mới được.

Tôi chỉ vào mấy thân cây chuối để ở gốc cây khế, hỏi:

- Mấy cây chuối kia cũng để làm chuồng thỏ ạ?

- À không. Để cô làm bè.

- Làm bè? Để làm gì hả cô? – Tôi tròn mắt.

- Để cô đi trong ao nhà cô. Giống như trong phim Tôn Ngộ Không ấy.

Nhớ lại cảnh Tôn Ngộ Không chèo bè đi qua biển, xung quanh vang lên khúc nhạc hùng tráng, tôi thích quá. Tôi liền níu áo cô:

- Khi nào làm xong, cô cho cháu đi bè trong ao với cô nhé.

- Ừ. Yên tâm. Sang đây cô cho đi cùng.

Lời hứa của cô Phượng làm tôi phấn khởi lắm. Nhưng hôm sau tôi lăn ra ốm, cả tuần không sang nhà cô được. Tuần sau, tôi dẫn cái Ngọc sang, thấy cô đang chẻ lạt ở hè. Tôi hỏi cô:

- Cô ơi, cô làm xong bè chưa?

- Cô làm xong rồi.

- Thế cô có bơi trong ao không?

- Có chứ, cô chèo nó bơi quanh ao nhà cô mấy vòng. Nhưng nó hỏng rồi.

Giọng cô Phượng chùng xuống. Lời nói của cô làm tôi cứ ngỡ mình rơi xuống hố. Tôi thảng thốt.

- Sao lại hỏng hả cô?

- Ừ, cô đang chèo thì nó đứt dây, bung ra. Cô phải bơi vào bờ, ướt hết quần áo.

Nếu như bình thường thì tôi sẽ ngạc nhiên hỏi “Ôi, cô biết bơi cơ à?”, nhưng lần này tôi chỉ để ý đến cái bè bị đứt. Tiếc quá. Nếu tôi không bị ốm thì có khi đã được chèo quanh ao cùng cô rồi. Tôi rụt rè hỏi cô:

- Thế cô có làm lại cái khác được không?

Cô Phượng lắc đầu, le lưỡi:

- Không được đâu. Ông bà mắng chết.

Tôi im lặng. Ngó sang cũng thấy mặt cái Ngọc buồn thiu. Lúc đi tôi đã khoe với nó biết bao nhiêu điều về cái bè và lũ thỏ, nó hứng khởi lắm. Thế mà… À đấy, còn lũ thỏ nữa. Tôi hỏi cô Phượng về lũ thỏ. Nhưng cô Phượng nói, giọng buồn buồn:

- Thỏ chết hết rồi. Cô cho nó ăn rau có nước, thế là chúng nó đau bụng chết hết.

- Ôi…

Cái Ngọc kêu lên, mặt nó phụng phịu. Tôi cũng buồn thiu, mắt thấy như muốn ngân ngấn nước. Vừa thương lũ thỏ, vừa tủi thân, vừa tiếc. Giá mà mình không bị ốm, thì vừa được cho thỏ ăn, lại vừa được đi bè. Hai đứa chúng tôi chào cô Phượng đi về mà mặt buồn rười rượi, đến mức cô phải cười mà bảo:

- Ơ, hai cái đứa này buồn cười nhỉ. Thỏ nhà cô chết mà chúng mày còn buồn hơn cả cô là thế nào?

[1] Thực ra, câu này ban đầu bọn tôi đọc là “Bà Ma-chi là người dân tộc”, nhưng về sau có đứa nào bảo là phải là “nhân hậu” mới đúng, chứ “dân tộc” nghe chẳng có lí gì. Vậy là cả đám bọn tôi sửa lại, đọc tất là là “Bà Ma-chi là người nhân hậu”.
 

Hà Thái

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
5/3/15
Bài viết
406
Gạo
0,0
(2). Đi học

Tôi thích đi học.

Thế nên là khi được đi học ở lớp 1A của cô Dịu chủ nhiệm thì tôi phấn khởi lắm. Hồi chưa đi học, tôi đã suốt ngày dẫn cái Ngọc, có khi cả cái Anh và thằng Hùng Min bạn nó, lên trường chơi. Tôi lấy những mẩu phấn thừa viết chữ lên bảng. Tôi biết được mấy chữ cái thôi, nhưng so với mấy đứa kia thì thế là oách lắm rồi. Nhưng tôi thích nhất là vẽ. Chú Lâm ngày trước thi thoảng có dẫn tôi lên trường. Chú lấy phấn vẽ lên bảng cho tôi xem. Chú vẽ rất đẹp. Con chó, con gà, con mèo, nhưng khó nhất vẫn là con khỉ. Về nhà, tôi cũng hì hụi lấy than củi vạch ra sân bắt chước chú vẽ, nhưng vẽ mãi mà chỉ vẽ được con chó với con gà trống. Sau này thì tôi biết vẽ người nữa. Nhưng vẽ người thì không phải là chú Lâm dạy mà là mẹ tôi dạy. Một hôm lúc tôi đang lăn lê bò càng ra sân vẽ người thì mẹ đi qua. Chắc trông hình vẽ của tôi tức cười quá nên mẹ bảo:

- Để mẹ bảo cách vẽ cho này.

Mẹ cầm lấy viên than vẽ. Dưới nét vẽ của mẹ, hình một cô gái rất xinh hiện ra. Mắt còn có cả lông mi, tóc thì phi dê[1] như cô Mơ ở xóm ngoài. Tôi thích chí vẽ theo cách mẹ dạy. Hai mắt vẽ trước, rồi đến mũi, miệng, đến khuôn mặt, rồi mới đến tóc, tai. Đúng là trông cân đối hơn thật. Sau này tôi vẽ người riết, hết người này đến người khác. Mẹ tôi thì tóc búi sau gáy, có lúc tết lại, hoặc cặp bằng cặp ba lá, cô Huyền thì để xõa tóc ngang vai, mặc áo tay bồng, cái Ngọc thì tóc cụt ngủn đến tai, lại còn thò lò mũi xanh... Mọi người khen tôi vẽ đẹp. Tôi oai lắm. Nhất là trước bọn cái Ngọc thằng Hùng Min thì càng oai. Tôi hay lấy quả mùng tơi bóp ra lấy nước rồi ngâm những mẩu phấn vào đó và phơi khô. Đến những lúc giả làm cô giáo trên trường, tôi mới lôi mẩu phấn màu tim tím đó ra vẽ. Cái Ngọc mê những hình vẽ tim tím đó của tôi đến mức nó cũng bò ra tập vẽ, những nét vẽ nguệch ngoạc, xấu hoắc.

Nhưng ở lớp thì tôi không oai như thế. Bởi vì ở lớp tôi có thằng Đức. Thằng Đức là lớp trưởng, lại rất xinh trai. Từ nhà nó tới sân trường cũng chỉ có một đoạn bằng từ nhà tôi đến. Thi thoảng tôi cũng gặp nó khi ra sân trường nhặt quặng. Nhưng quan trọng nhất là thằng Đức vẽ giỏi. Nó biết vẽ rất nhiều thứ. Nào là bình hoa có hoa đồng tiền, hoa hồng, hoa huệ. Nào là con mèo vồ chuột, nào là ông tướng đang cưỡi ngựa. Cô Dịu rất thích những bức tranh của nó và thường khen nó “có năng khiếu”.

Thằng Đức không chỉ vẽ giỏi. Môn toán của nó cũng không kém tôi một điểm mười nào. Chỉ có môn tập đọc là nó dốt hơn tôi. Đấy là vì nó nói ngọng. Lần đầu tiên nó đứng lên hô: “Các bạn chuẩn bị đứng nghiêm. Chúng em cứn chào cô giáo ạ!” làm cả lớp lăn đùng ra cười. Ngược lại, tôi đọc rất sõi. Khi bắt đầu học sang quyển học vần thì vừa mới học bài đầu tiên là “a nờ an” thì tôi đã giở ra những bài sau và tự biết được là “á nờ ăn”, “ớ nờ ân”, “a nhờ anh”… Tôi giở từ đầu đến cuối cuốn sách thơm thơm mùi giấy để xem những bài học, xem những hình con ngan, em bé, ngôi nhà… một cách say sưa, thích thú.

Nhưng có một môn tôi không giỏi. Đấy là môn tập viết. Ở nhà, cô Hậu thường xem tay tôi mà xuýt xoa: “Ôi trời, cái Thái có chín cái hoa tay. Thế này thì viết đẹp lắm đây!” Tôi hứng chí lắm. Thực tình mà nói thì tôi cũng thấy tôi viết đẹp. Nhưng không phải ai cũng nghĩ vậy. Có lần kiểm tra, tôi nắn nót từng nét bút chì. Khi viết xong, tôi ngắm nghía lại bài của mình, trong dạ hài lòng lắm. Thế mà chỉ được điểm sáu! Còn thằng Nghĩa ngồi cạnh tôi lại được điểm mười. Thằng Nghĩa học hành rất lẹt đẹt. Nó chỉ toàn được điểm bốn với năm. Nó lại chỉ có mỗi cái hoa tay ở ngón tay cái. Tôi ngó vở thằng Nghĩa, lòng hoang mang không biết chữ thằng Nghĩa đẹp hơn chữ tôi ở chỗ nào mà hơn tôi tận đến bốn điểm. Nhưng cô Dịu đã chấm thế, chắc chắn không sai được. Chắc là chữ tôi xấu hơn chữ nó thật!

Về nhà, cái Ngọc xem vở của tôi, le lưỡi, nói ngọng líu ngọng lô: “Chị vết đẹp đế này mà được đểm sáu. Đế đì em được mấy đểm?” Tôi nhìn vào cái điểm sáu đỏ chót, lòng buồn hiu hắt. Đêm đó, trong giấc mơ của tôi, những điểm mười chập chờn nhảy múa trong khi tôi đang bò ra nhà tập viết.


[1] Từ này vẫn còn được dùng vào những năm 90, đến nay hầu như không dùng nữa, dùng để chỉ “tóc làm xoăn” (phiên âm tiếng Việt của chữ frisés trong tiếng Pháp)
 

Hà Thái

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
5/3/15
Bài viết
406
Gạo
0,0
(3). Phép thần thông ơi...

Hồi ấy, tôi hay chơi với cái Châm. Nhà nó ngay gần trường, lại học cùng lớp tôi. Nó có vẻ mặt lầm lì nhưng lại rất mau miệng. Cái Châm là một kho truyện ma. Nó kể cho tôi ti tỉ chuyện. Nào là chị Xuân nó đi đến lớp lúc năm giờ sáng để trực nhật thì bất chợt thấy một bàn chân trắng toát thò xuống từ mái nhà. Nào là anh Văn nó đi đến cổng nhà bà Định thì bị ma nhảy ra dọa. Nào là chú nó bị ma nhập. Nào là bố nó…, mẹ nó… Tóm lại là họ hàng xa gần nhà nó, tất tần tật đều đã gặp ma. Tôi tin sái cổ. Vừa sợ, vừa thích thú lại vừa khâm phục nó. Sao lại có nhà nào mà liên tục được gặp ma thế cơ chứ! Tôi chưa được gặp ma bao giờ. Chỉ có một lần khi thức dậy vào ban đêm, tôi thấy trên cửa sổ có những hình người tí hon như trong cái đồ chơi của thằng cu Hải nhà bên đang đu quanh những song cửa sổ. Chúng nhảy múa, vui đùa, thích chí lắm. Tôi mở to mắt thích thú nhìn. Rồi không kềm được mình, tôi lại gần, chộp tay vào những hình người. Tay tôi chỉ chộp vào song cửa. Lũ người vẫn nhảy múa. Tôi cứ mải miết chộp cho đến khi mẹ tôi tỉnh dậy và bắt tôi ngủ tiếp. Nếu gọi đấy là ma thì ấn tượng về ma trong tôi thật đẹp. Nhưng ma trong những câu chuyện của cái Châm thì chẳng đẹp tí nào. Nó rùng rợn và rất đáng sợ. Nhưng điều đó chỉ làm tôi càng thích thú.

Cái Châm không chỉ có truyện ma. Nó còn nhiều câu chuyện kì bí khác.

Tôi và cái Châm đều học ở lớp 1A. Mà ở lớp 1A thì lại có một đứa là cái Hân. Cái Hân người to gấp rưỡi tôi, rất đanh đá. Nó sẵn sàng gây sự với người khác. Nó có một bộ mặt lì lợm trông rất sát thủ. Nó rất lì đòn, chuyên đánh nhau với bọn con trai trong lớp. Cái Hân rất thích bắt nạt cái Thúy Đơ. Nhà cái Thúy ở ngay sát nhà tôi, chỉ cách qua nhà cu Minh. Nó hơi ngốc nghếch nên mọi người mới gọi là Thúy Đơ. Cái Thúy bị cái Hân bắt nạt như cơm bữa. Nó bị tạt tai, bị dứt tóc, bị xô ngã, còn bị tụt quần ngay giữa sân trường. Mỗi lần như thế nó chỉ ngồi khóc rưng rức. Tôi thi thoảng mới bị cái Hân chọc ghẹo, nhưng thấy cái Thúy bị hành hạ thì thấy tội nghiệp nó và ghét cái Hân lắm. Nhưng khốn nỗi tôi nhỏ con gần nhất lớp nên chẳng làm được gì nó. Thế là cứ mỗi lần đứng trên hè nhìn cái Thúy khóc dưới sân, tôi lại ngước lên trời, lòng ước gì mình có phép như Tôn Ngộ Không để dạy cho cái Hân một bài học.

Tôi đem điều này kể cho cái Châm. Nó bảo:

- Mày cứ cầu trời thế chả có ích gì. Phải đi tu luyện như bác tao mới được.

- Bác mày có phép hả? – Tôi trố mắt.

- Có chứ. – Cái Châm vênh mặt. – Bác tao có thể nhảy một phát lên mái nhà, tay không chém vỡ gạch, lại còn biết gọi mưa gọi gió nữa.

Tôi nhìn cái Châm. Cái mặt nó trông chắc cú thế kia thì chắc là thật rồi. Tôi chỉ thắc mắc không biết ông bác này là bác nào của nó, có phải ông bác gặp ma gà[1] trong Bổ Túc, hay ông bác bị ma trêu ở bụi tre nhà bà Sở, hay ông bác bị ma giấu ở Hợp Hòa.

Nhưng cái Châm khoát tay bảo:

- Không phải mấy bác đấy. Là bác Vĩnh tao, ở xa cơ chứ không ở gần đây. Chứ có phép như bác ấy, ma nào dám dọa.

- Thế bác ấy học phép như thế nào? – Tôi hồi hộp hỏi.

- Bác tao phải đi xa lắm, mang theo một bao cơm nếp to, để ăn được một tháng cơ. Mà phải đi bộ đấy. Sau khi về thì bác ấy có phép.

Tôi chưng hửng. Chỉ đi thôi mà cũng có phép á? Nếu chỉ đi thì có vẻ đơn giản, tôi cũng đi được. Tôi được nghỉ hè ba tháng, đến hè tôi dành một tháng để đi, thế là xong. Thế là tôi bảo cái Châm:

- Có thật là chỉ đi không thôi là có phép không? Thế bác ấy đi đâu?

- Tao biết thế nào được. Bác ấy không nói. – Cái Châm nguýt tôi. Nó có vẻ tự ái vì tôi “coi thường” cái việc “đi lấy phép” của bác Vĩnh nó. – Mày tưởng ai đi cũng được phép à? Đầu tiên mày phải được trời cho phép bay vào bụng, sau đấy mới đi thử thách, trời bảo đi đâu thì đi đấy, hết một tháng, thì mới được.

- Thế à? – Tôi thất vọng. – Thế làm thế nào để phép bay vào bụng được?

Cái Châm nhìn ra xa, bảo tôi.

- Mày có nhìn thấy tảng đá kia không?

Tôi nhìn theo tay nó chỉ. Đó là tảng đá – thực ra là phải ba bốn tảng đá to tạo thành một cái gò ở giữa cái ruộng cạn. Cái Châm bảo:

- Hồi trước bác tao đứng ở đó, tự dưng phép ở trên trời bay vào bụng. Mình ra đứng đó, biết đâu may mắn cũng được trời cho phép.

Tôi với nó chạy ra đó, trèo lên gò đá. Giữa những kẽ đá lún phún cỏ, trông rất thi vị. Giống y như đứng trên núi. Hai đứa cứ hết đứng lại ngồi, mắt nhìn lên trời giữa nắng chang chang. Mãi mà không thấy tia sáng đỏ nào xẹt qua như cái Châm bảo.

Tôi ra gò đá đó đứng mấy chiều mà không có kết quả gì, trong lòng rất thất vọng thì một hôm vừa đến lớp, cái Châm khều tôi.

- Tao bảo này…

- Bảo gì?

- Bí mật. Đi ra đây.

Nó dẫn tôi ra đằng sau lớp, chỗ mấy cây bạch đàn, thì thào.

- Tao hỏi bác tao rồi. Chúng mình ra đứng ở hòn đá ấy không được phép đâu. Chỉ được một người, là bác tao thôi. Phải làm cách khác.

Nghe nó nói, tôi mừng quýnh. Nhưng tôi vẫn thắc mắc.

- Bác mày ở xa cơ mà, sao mày hỏi được?

Cái Châm sầm mặt.

- Hôm qua bác đến nhà tao chơi. Thi thoảng phải về thăm quê chứ.

Tôi gật gù, hỏi tiếp:

- Ừ nhỉ. Thế mày nói đi, làm gì để mình có phép?

Giọng cái Châm tỉnh bơ.

- Mình cầu trời.

Tôi há miệng định cãi là “sao hôm nọ mày bảo cầu chả ích gì” thì nó lừ mắt.

- Nhưng phải cầu đúng cách. Mai mày lấy một nén hương, một lá táo với mấy hạt muối, tao đem bật lửa, chúng mình lên trường cấp một cúng cụ. Nếu mà trời ưng thể nào phép cũng từ trên trời lao vào bụng mình. Cách này mình sẽ không phải đi đâu hết mà có phép luôn.

Nghe vậy, tôi mừng lắm, hẹn nó chiều mai sẽ gặp trên trường cấp một. Từ nhà tôi đến trường cấp một, ngoài cái lối đường đường chính chính tôi đã giới thiệu đi thẳng ra sân trường thì còn một con đường khác. Đấy là trèo lên cái đồi sau nhà chú Hạnh tôi, rồi đi qua khoảng đồi nhà thằng Hùng Min là tới. Tất nhiên là đường kia gần hơn một tí, nhưng những thời khắc trọng đại thế này, phải đi đường này mới thể hiện sự quan trọng. Tôi lén lấy một nén hương, lên nhà chú Hạnh hái mấy cái lá táo. Tôi còn cẩn thận hái thêm cả quả táo nữa vì ngày trước có lần hái táo ra trường chơi, gặp một thằng nhóc hỏi mua, thế là cũng bán được năm mươi đồng. Lần này đem quả táo theo, biết đâu cũng may mắn giống như lần ấy. Gói thêm mấy hạt muối vào tờ giấy nhỏ xíu, chúng tôi đi theo đường đồi lên trường.

Chúng tôi ở đây có nghĩa là tôi, cái Ngọc em tôi và cái Thúy Đơ. Dù ở lớp tôi không dám chơi với cái Thúy Đơ nhiều vì sợ bị cái Hân bắt nạt, nhưng vì nó ở sát sịt nhà tôi nên ở nhà nó hay sang nhà tôi chơi lắm. Tôi kể cho hai đứa nghe chuyện này và chúng nó xem chừng rất thích chí. Hơn ai hết cái Thúy chỉ muốn thoát khỏi cái Hân. Cái Ngọc thì không có vấn đề gì. Nó mới bốn tuổi, chả gây sự với ai. Nhưng nghe thấy có phép thần thông như Tôn Ngộ Không thì cũng thích.

Thế là tôi, cái Ngọc, cái Thúy Đơ và cái Châm tụ tập trên trường cấp một. Chủ nhật nên trường chả có ai. Chúng tôi cắm cây hương vào cái khe ở bàn học, đặt muối lên trên lá táo rồi đặt chung nó cạnh mấy quả táo trước cây hương. Khi chúng tôi đang chắp tay vái lấy vái để, miệng lẩm bẩm: “Cúng cụ. Cúng cụ. Cầu trời cho con có phép” thì nghe thấy tiếng mẹ tôi gọi. Nhìn qua cửa lớp, thấy mẹ tôi tất tả chạy đến, cái Châm với cái Thúy Đơ ù té chạy mất. Mẹ tôi rút cây hương ra vứt đi, bảo tôi:

- Các con làm cái gì thế? Không được thắp hương lung tung, nghe chưa. Phải tội đấy. Thôi, về tắm rửa ăn cơm thôi.

Tôi với cái Ngọc lếch thếch theo mẹ ra về, ngẩn ngơ tiếc rẻ. Trên đường về, trong lòng tôi cứ vẩn vơ mãi: nhỡ mà ông Trời thương cho tôi phép thật thì tia phép có biết đường theo về nhà mà chui vào bụng tôi không?


[1] Đây là một loại ma hay gặp trong quan niệm của người miền núi, được nuôi bằng thịt gà. Tuy nhiên, khi đó thực ra tôi cũng không biết rõ ma gà như thế nào cho lắm, chỉ nghe thấy “ma” thôi là đã sợ và thích rồi.
 

Hà Thái

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
5/3/15
Bài viết
406
Gạo
0,0
(4). Nhặt củi

Một trong những thú vui của bọn trẻ chúng tôi là đi nhặt củi. Những cành bạch đàn khô to bằng ngón tay, những cành chè, cành tre, cành nứa…, chúng tôi gom lại, lấy dây mủ[1] bó lại thành bó mang về nhà. Đứa nào mà kiếm được bó to, lại là củi chè, thì tự hào lắm. Củi chè là loại chúng tôi thích nhất, những cành chè bé tẹo, cành to lắm thì cũng chỉ bằng ngón tay trỏ, nhưng cháy rất đượm. Nứa thì dễ cháy nhưng cháy hết nhanh, chỉ hay dùng để nhóm bếp.

Quê tôi có rất nhiều đồi chè. Sau lưng nhà chú Hạnh cũng là đồi chè, sau lưng trường học, bên cạnh trường học cũng là đồi chè. Những lúc không đi học, tôi thường cùng cái Châm và cái Thúy Đơ lên đồi chè nhặt củi. Trên đồi chè ngoài những cành chè, còn có cành xoan, cành chó đẻ khô, cành tre, cành nứa…, lại còn có hoa chè và quả chè. Hoa chè cánh trắng muốt, mầm mập, mút vào cái nhụy vàng thì có mật ngòn ngọt. Những quả chè non thì cắn vỡ lớp vỏ cứng ra, bên trong có thứ nước sền sệt, trong như thạch, ăn vào vừa ngọt mát vừa chan chát vị chè. Ngoài ra, chúng tôi còn hai món khoái khẩu nữa là lá dứa và mầm hú. Cây mâm xôi, chỗ tôi gọi là cây hú, có quả màu đỏ, trông như bát xôi gấc đầy, ăn rất ngon. Nhưng chỉ ở trong rừng mới có nhiều quả hú, những bụi hú quanh nhà tôi không hiểu sao năm thì mười họa mới có một quả. Thế là mầm hú trở thành món ưa thích. Chúng tôi thích chọn những cái mầm non, mập, màu tím tím, rất ngọt và mềm. Những lúc không có mầm, tôi còn bẻ lấy cả ngọn ăn.

Thi thoảng chúng tôi cũng đi theo con đường vào rừng. Chúng tôi không đi xa, chỉ đến chỗ có một cây núc nác to, cao vút. Cô Xuyên tôi hay đi rừng bảo: cứ đi vào hai ba cây số nữa là đến rừng, ở đó có cái suối đẹp lắm, trong đó chả có nhà ai ngoài nhà chú Chứ (là người thi thoảng tôi vẫn thấy chở củi đi qua nhà tôi để ra chợ bán). Trong rừng có nhiều quả hú, quả đào tiên[2], có hoa mua nở tím bên đồi, còn có cả hoa chuối rừng nữa. Có lần cô Xuyên cũng mang về cho tôi một cành hoa mua. Mộ ông tôi cũng ở trong đó. Tôi muốn vào rừng lắm, nhưng lũ trẻ con chúng tôi chỉ dám vào đến chỗ cây núc nác. Đường đi chỗ này, một bên là đồi cao, một bên là ruộng chứ không có nhà ở, phải qua bên kia ruộng mới có nhà người ta. Đồi ở đây rất dốc, trên đồi thi thoảng lại có những hòn đá rất to, chúng tôi hay leo lên đấy ngồi, thích lắm. Cứ như là mình đang ngồi trên núi đá. Trên đồi này không có củi chè hay hoa chè, nhưng bù lại có nhiều cây to, phong cảnh thì thi vị hơn hẳn.

Như mọi lần, sau khi lấy được mỗi đứa một bó củi xong, tôi, cái Châm, cái Ngọc với cái Thúy Đơ cùng ngồi trên một tảng đá, tay quay quay mấy cái ngọn măng tre. Hồi đó, lũ trẻ con chúng tôi thường bẻ lấy những cái ngọn tre gai rồi bóc hết vỏ bên ngoài đi, bên trong còn lại phần thân mềm, chúng tôi cứ cầm ngọn tre đó quay quay cho đến khi phần thân mềm ở sát tay cầm teo lại còn nhỏ tí mà không đứt, nếu đứa nào làm đứt có nghĩa là đứa đó quay không khéo.

Bỗng bọn tôi nghe thấy một tiếng “ầm” từ xa vọng lại.

- Cái… gì đấy? – Cái Ngọc giật bắn mình, tí nữa ngã lăn xuống.

- Người ta nổ đá đấy. – Cái Châm nói.

- Liệu đá có bay tới chỗ mình không nhỉ?

Tôi lo lắng. Tôi chưa gặp vụ nổ đá nào bao giờ. Cái Châm lắc đầu:

- Chắc chả sao đâu. Ở xa…

Nó chưa nói hết câu thì một tiếng “ầm” nữa vang lên, rất gần. Mấy đứa mặt mũi tái mét nhảy khỏi hòn đá. Cái Thúy luýnh quýnh:

- Chạy đi đâu bây giờ?

Trông nó như một con gà mắc tóc, rất buồn cười. Tôi liếc thấy có một cái khe đá gần đấy liền nắm lấy tay cái Ngọc, chạy vào khe. Bốn đứa chúng tôi dán chặt lưng vào vách đá, chờ cho đến khi những tiếng ầm ầm kết thúc mới trở ra.

- Sợ quá!

Cái Ngọc kêu lên. Mặt đứa nào cũng tái ngơ tái ngắt. Chả đứa nào bảo đứa nào, cả bốn vội vã xuống đồi rồi ù té chạy về.

Đến lúc đi qua khu ruộng rồi, chúng tôi mới bắt đầu hoàn hồn. Cái Châm thì thào:

- Lúc nãy có một hòn đá bay xẹt ngang qua đầu bọn mình. Chúng mày có nhìn thấy không?

Tôi nhăn trán lại, cố gắng nhớ xem lúc nãy có cái gì bay xẹt qua khi đang đứng trong khe đá không, nhưng lúc đó tôi đang hồn vía lên mây, trong đầu chỉ có tiếng ầm ầm, tuyệt nhiên chẳng có lòng dạ nào nhìn lên trời hết. Nhưng tôi cũng gật gù.

- Tao không để ý lắm. Nhưng may mà mình nép vào chỗ đấy, chứ ở bên ngoài có hòn nào bay vào mình là chết rồi.

Câu nói của tôi làm cái Ngọc với cái Thúy Đơ rụt cổ, le lưỡi, sợ chết khiếp. Cái Thúy Đơ bảo:

- Lần sau tao không vào đấy nữa đâu. Sợ lắm!

Cái Châm bĩu môi.

- Mày nhát chết. Tao gặp thế này cả tỉ lần, có sợ đâu. Nhưng mà thế này còn đỡ, có lần tao còn gặp một thứ còn kinh hơn.

- Thứ gì? – Cả mấy đứa nhìn nó tò mò.

- Tao gặp tượng ma. – Cái Châm ưỡn ngực, giọng nó lại trở nên thì thào. – Sợ lắm!

Dù đã nghe chuyện gặp ma của cái Châm dễ đến ti tỉ lần, nhưng tôi vẫn không khỏi hồi hộp.

- Tượng ma như thế nào?

- Lần trước tao lên đồi lấy củi, cũng cái đồi mình vừa lên ấy, nhưng lên cao hơn tí nữa. Thế là tao nhìn thấy hai cái tượng, to bằng cái bắp chân mình thôi, nhưng trông giống người lắm. Hai tay tượng, ngón nào cũng đeo nhẫn. Tao thích quá lại gần định lấy một cái nhẫn thì thấy một cái tượng tự dưng chớp mắt. Thế là tao sợ quá, ù té chạy về. Về chị Xuân tao tí nữa đánh cho tao một trận, bảo đấy là tượng ma, chạm vào là về chết ngay. Tao sợ quá, một tháng sau mới dám vào đấy tiếp.

Câu chuyện đấy làm cho hai đứa kia mặt cắt không còn một giọt máu. Chắc chúng nó chưa được nghe chuyện gặp ma của cái Châm bao giờ. Nhưng tôi thì không thấy sợ mấy, tôi chỉ hơi tiếc giá mà mình cũng được gặp tượng ma để xem nó như thế nào. Nghe cái Châm kể thì có vẻ tượng đẹp lắm, tôi sẽ chỉ đứng xa nhìn chứ nhất định sẽ không sờ vào nó. Chị Xuân bảo chỉ sờ vào thì mới chết cơ mà.

Lúc gần về đến nhà, cái Ngọc mới hoảng hốt kêu lên:

- Ôi, em bị mất dép rồi!

Nó ngó xuống chân, mặt méo xệch. Thì ra lúc nãy nổ đá, hốt quá, nó nhảy xuống khỏi tảng đá mà bỏ quên luôn cả dép ở đấy. Nó là chúa mất dép, vừa mấy hôm trước đã bị mất một lần rồi, thêm lần này nữa thì thể nào cũng bị mẹ cho ăn “lươn cạn”. Tôi đang lo lắng suy tính cho nó thì cái Thúy Đơ cũng kêu lên.

- Ôi, quên cả củi rồi!

Mấy đứa ngẩn ngơ nhìn nhau. Ừ nhỉ, vì sợ quá nên cả bốn đứa chả đứa nào nhớ mang củi về. Bây giờ thì mặt ba đứa tôi cũng méo xẹo. Còn cái Ngọc thì bật khóc.


[1] Đây là một loại dây leo bò trên mặt đất, mọc nhiều ở trên đồi quê tôi, lá và thân có những lông tơ hơi nhặm, thường được lũ trẻ con chúng tôi lấy để chơi nhảy dây.

[2]Đây cũng là một loại dây leo, hay mọc dại trên đồi, có quả to bằng ngón tay cái của người lớn, khi chín có màu vàng, lá có thể dùng để ăn như rau; chứ không phải là quả đào ở trên cây đào như bình thường.
 

Hà Thái

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
5/3/15
Bài viết
406
Gạo
0,0
(5). Cây con của tôi

Ngày mai, tôi phải đi lao động.

Ngôi trường nhỏ của tôi có khối việc cho lũ học sinh đi lao động. Thường là đám học sinh lít nhít chúng tôi đi quét trường, quét lớp, nhặt rác ở vườn trường. Mấy đứa học trò nhỏ tí xíu lụi cụi nhặt rác trên cái “vườn trường” dốc đứng, hay quét từng bậc thang của cái cổng cao chót vót của trường cấp một. Các anh chị lớp lớn thì có nhiều việc thú vị hơn, ví dụ như việc rào lại trường chẳng hạn. Học sinh phải đem theo cành dong - là cành tre, thường là tre gai có nhiều cành nhỏ tua ra, để buộc các cành đó vào những cột rào để tạo thành một bờ rào bao quanh trường. Cái bờ rào ấy chẳng bao lâu cũng lại thủng chỗ này chỗ nọ vì người ta (nhất là đám trẻ con) đều thích chui qua rào vào trường bằng nhiều lối khác nhau. Cả các vách tường của lớp học cũng hay hỏng. Trên trường cấp hai có một dãy nhà bằng đất, thi thoảng lại thấy xuất hiện một lỗ thủng trên tường. Lỗ thủng lúc đầu chỉ bằng ngón tay cái. Sau vài ngày mưa gió đập vào, hoặc một đứa học sinh vui tay lơ đãng giật giật mấy sợi rơm thòi ra khi đang nghe cô giáo giảng bài, là cái lỗ ấy lại to thêm một tí, bằng nắm đấm, bằng cái mũ, hoặc thậm chí cả một mảng lớn. Thế là có thêm một công việc lao động nữa là trát tường. Bùn móc từ ao nhà mình, móc trộm ở ruộng gần trường, hoặc ra lấy ở mương, đem trộn với rơm rồi trét lại những chỗ thủng. Chỗ nào thủng to quá thì phải lấy tre chẻ ra đan thành phên, cắm vào rồi mới trét đất. Lũ học sinh vừa trát tường vừa lấy bùn ném nhau, bê bết mặt mũi, quần áo. Vui đáo để!

Nhưng đấy là chuyện của các lớp lớn, chứ lũ học sinh lớp một như tôi thì chỉ có quét trường và nhặt rác. Chấm hết.

Đấy là trước kia tôi tưởng vậy. Hóa ra tôi nhầm to. Hôm nay tôi chuẩn bị được làm một việc thú vị hơn nhiều là trồng cây. Cô giáo bảo: “Mỗi em đem một cây con đi để trồng trong vườn trường”. Trồng cây trong vườn trường, nghe thật tuyệt làm sao! Một ngày nào đấy, khi những cây bọn tôi trồng lớn lên, chúng tôi dạo chơi trong đó dưới bóng mát rượi của tán cây, thậm chí ngắm những bông hoa hoặc hái quả. Và tôi có thể chỉ vào một cái cây cao to, đẹp đẽ nhất vườn, vỗ ngực tự hào: “Cây này là của tao trồng”. Viễn cảnh thật là tươi đẹp!

Tôi liền đi một vòng quanh vườn nhà mình, rồi lên cả vườn nhà chú Lâm, chú Hạnh để tìm một cây con. Tôi sẽ phải tìm một cây thật đặc biệt. Lúc nhìn thấy cây bưởi con nhỏ xíu ở góc vườn nhà chú Hạnh, tôi mừng húm. Cây bưởi mà lên to thì vừa có bóng mát, có hoa nở vừa đẹp vừa thơm, lại còn có quả để ăn nữa. Nhà chú Hạnh có một cây bưởi rất to ở ngay trước cổng, múi bưởi hồng hồng, rôn rốt, chấm muối ăn rất ngon. Đến mùa hoa bưởi, hoa nở thơm ngào ngạt, trắng tinh cả cổng. Nếu tôi đem cây bưởi con này đến trồng ở vườn trường, đến mùa, nó cũng sẽ nở hoa đẹp và thơm như thế.

Tôi ưng lắm, bèn lại bờ rào bẻ lấy một thanh nứa để đào cây. Tôi gói cây vào một cái túi bóng rồi hí hửng đem về cất vào góc sân, chuẩn bị sáng mai đi lên trường.

***

Sáng hôm sau, tôi đem cây bưởi đi, lòng hứng khởi lắm. Ra đến bờ ao đầu ngõ, tôi gặp cái Thúy Đơ từ bên kia đi lại. Nhìn thấy tôi, nó huơ tay vẫy loạn xạ.

- Mày có cây gì đấy?

- Cây bưởi. – Tôi đưa cây bưởi con ra, cười toe toét. – Thế mày đem cây gì?

- Nhà tao có mỗi cây này.

Giờ cái Thúy Đơ mới đưa cái cây con nó giấu sau lưng từ nãy ra. Vừa nhìn thấy, tôi ôm bụng cười ngất.

- Ối giời ơi, ai lại mang cây cà trồng ở vườn trường?

- Sao lại không trồng được? – Cái Thúy lên giọng, nó hơi bực mình vì bị cười giễu.

Tôi huơ tay.

- Mày phải trồng cây gì lên to được, có bóng mát thì mới đúng là vườn trường chứ. Mày thử nghĩ xem, cây đứa nào cũng lên cao nghều, cây của mày cứ thấp lè tè ở mặt đất thì thế nào!

Trán cái Thúy nhăn tít lại. Suy nghĩ một lúc, nó tần ngần bảo:

- Ừ. Nhưng không trồng cây cà thì tao biết trồng cây gì. Nhà tao có mỗi cây cà thôi. – Nó quay sang tôi, vẻ cầu khẩn – Hay nhà mày còn cây nào không cho tao một cây?

- Tao có mỗi cây bưởi này. – Tôi bối rối gãi đầu. - Đấy là tao còn lên nhà chú Hạnh tìm mới có đấy.

Mặt cái Thúy buồn thiu. Nó lầm lũi bước, mắt nhìn cây cà mà ngân ngấn nước. Lúc đi qua cổng nhà ông Lương, mắt nó chợt sáng lên.

- Đợi tao tí.

Nó dặn tôi rồi chạy vù vào trong cổng. Một lúc sau, nó đi ra, mặt tươi roi rói, trên tay là một cây bạch đàn, được trồng trong một cái bầu to gần bằng cái ống bơ đong gạo.

- Tao có cây rồi. Cây bạch đàn thì trồng trong vườn trường được nhỉ, giống như trên trường cấp hai. – Nó cười toe toét.

- Ừ. – Tôi gật gù. – Nhưng vẫn không bằng cây bưởi của tao. Cây bưởi của tao vừa có hoa, lại vừa có quả.

Cái Thúy há miệng định cãi, nhưng rồi lại thôi. Dù sao có cây là nó mừng rồi, cây đứa nào hơn chả được. Nhưng tôi thì thấy oai lắm, càng nghĩ tôi càng thấy tự hào vì mình đã tìm ra cây bưởi này.

***

Vườn trường hôm nay rất nhộn nhịp. Cả lớp tôi, đứa nào đứa nấy mặt tươi như hoa, trên tay cầm một cây con của mình. Đứa thì cây nhãn, đứa cây mít, đứa cây keo…, bé tẹo teo. Chúng tôi hồi hộp đưa cây cho cô giáo, để cô hướng dẫn trồng cây vào những cái hố đã đào sẵn. Đến lượt mình, tôi giơ cây bưởi ra, hồi hộp. Cô Dịu nhìn cây bưởi con của tôi, trán cô đột nhiên nhăn tít lại.

- Ủa, sao em lại đem cây chanh đi trồng?

Tôi ngẩn người. Cây chanh ư? Đây là cây bưởi mà!

Nhưng cô Dịu lắc đầu.

- Thôi, không trồng cây chanh đâu, em mang cây về nhé.

Tôi lủi thủi ôm cây chanh con đi lang thang ở sườn dốc của vườn trường, xem các bạn hăm hở trồng cây, lòng buồn rười rượi. Chẳng đợi chúng nó trồng xong, tôi bỏ về nhà trước. Đi đến sân trường bên dưới, tôi va phải một thằng nhóc. Tự dưng những ấm ức trong lòng bất chợt trào lên, chuyển thành tức giận, tôi lấy tay du thằng nhóc ngã xuống đất. Thằng nhóc chẳng phải tay vừa, nó lớn hơn tôi, chắc phải hai ba tuổi. Đứng dậy, nó xô tôi ngã dúi dụi xuống đám cỏ may. Cốc đầu, véo tai tôi mấy cái nữa, nó vênh mặt bỏ đi.

Tôi cứ thế khóc trên đường đi về nhà, đau thì ít mà tủi thân thì nhiều. Ngồi ngoài hè, tôi ngẩn ngơ nhìn “cây bưởi con” của tôi, nước mắt lăn dài trên má. Càng nhìn “cây bưởi”, tôi càng thấy nó giống cây chanh thật, lá nó nhỏ và mỏng hơn. Nó đưa những chiếc lá nhỏ tí xíu ra vẫy vẫy trong khi tôi vừa nhặt bông cỏ may ở quần vừa miên man suy nghĩ. Không trồng được cây ở trường rồi, thì tôi sẽ trồng nó ở vườn nhà mình vậy. Chẳng mấy chốc nó sẽ lớn lên, ra hoa trắng tinh như cây chanh nhà chú Lâm. Nó sẽ ra bao nhiêu quả, để mẹ tôi vắt vào nước canh rau muống, còn gai thì dùng để nhể ốc ăn, tôi không cần phải lên nhà chú Lâm xin nữa. Tôi sẽ cho cả chị em cái Thúy Đơ, chúng nó cũng hay phải đi xin gai lắm. Nghĩ vậy, tôi đứng dậy cầm lấy cây chanh, đi vào vườn, bỗng dưng thấy nước mắt trên má mình đã bay đi đâu hết tự lúc nào.
 

Hà Thái

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
5/3/15
Bài viết
406
Gạo
0,0
(6). Mẹ lắc cho con

Điều đặc biệt của trường tôi mà ít ngôi trường nào có có lẽ là trên trường có nhiều quặng. Hồi ấy ở quê tôi rộ lên đi làm quặng. Bố tôi, chú Lâm và chú Hạnh tôi cũng đi làm quặng ở trong mỏ, nghe đâu ở gần cái suối trong rừng. Tôi rất sợ vì thi thoảng lại nghe thấy người ta nói chuyện sập hầm chết người. Tôi lo cho bố lắm, nhưng bố tôi ngoắc tay với tôi hứa là nhất định sẽ không sao.

Bố đem rất nhiều quặng về, đổ thành đống ở giữa nhà. Quặng của bố rất to, có viên to gần bằng nắm tay tôi. Những lúc bố tôi không có nhà, tôi cứ tha thẩn quanh đống quặng, bới xem từng viên một. Thi thoảng thấy viên đèm đẹp, nhỏ nhỏ vừa tay, tôi ngó trước ngó sau nhón lấy bỏ vào cái ống bơ sữa Ông Thọ của tôi.

Tôi với cái Ngọc có một cái ống bơ để đựng quặng, những viên quặng chúng tôi nhặt được ở sân trường. Sân trường cấp hai và một nửa cái sân trường bên dưới được phủ bởi một lớp sỏi nhỏ màu đo đỏ. Bên dưới lớp sỏi đó là những viên quặng. Quặng ở trường không to, chúng chỉ nhỏ bằng đầu tăm, con kiến, to lắm thì chỉ bằng hạt đỗ. Hạt quặng không đen óng như than mà ánh lên cái vẻ chắc nịch như đá, nhưng không thô kệch như những viên sỏi.

Tôi theo cô Hậu ra trường nhặt quặng từ hồi bốn tuổi, về sau tôi tự đi một mình, hoặc dẫn theo cái Ngọc. Lũ trẻ con xóm tôi ra đây nhặt quặng rất nhiều: thằng Đức, cái Kim, cái Châm, cái Tấm… toàn những đứa nhà gần trường. Cả chiều chúng tôi cứ ngồi thơ thẩn hết chỗ này đến chỗ khác, vạch lớp sỏi ra nếu có thấy viên nào đen đen xám xám thì cho vào lòng bàn tay lắc. Nặng là quặng, còn nhẹ thì quăng. Cứ như thế, chẳng bao giờ thấy chán. Về sau quen mắt, thậm chí tôi chẳng cần cho vào tay lắc cũng biết được đâu là quặng, đâu chỉ là viên đá thường. Có cái loại quặng sữa màu trăng trắng như sữa pha với màu xam xám, chúng tôi thích lắm. Quặng sữa hiếm, nhưng lại hay được viên to, mà nhìn thì thích mắt hơn hẳn. Mỗi chiều nhặt quặng về, tôi với cái Ngọc gom lại được một dúm ở lòng bàn tay rồi đổ vào bơ cất lại, sau này sẽ bán cho… bố.

Quặng ở trường tôi là quặng đẹp. “Quặng này mà bán thì còn được giá hơn quặng của mình!” Bố và các chú tôi bảo thế. Nhưng lượng quặng ít ỏi trên sân trường chỉ đủ để nó trở thành thiên đường của trẻ con. Nhất là sau cơn mưa.

Sau cơn mưa, nước xối làm đất và sỏi ở rãnh trôi bớt đi, nhưng quặng nặng hơn nên trụ lại. Mưa vừa dứt là tôi phóng thẳng ra trường. Trên sân trường chưa gì đã lố nhố bóng mấy đứa khác nhanh chân ra trước. Ở các rãnh đất trước cửa lớp, trong sân hoặc vườn trường, lộ ra một lớp mỏng đen đen của quặng. Quặng cám, quặng viên. Có cả. Chúng tôi lấy vỏ con trai trai[1] cạo lớp đất ấy bỏ vào túi bóng đem về, càng nhiều càng tốt.

Một trong những cách lấy quặng chuyên nghiệp là đãi quặng. Lấy ra từ mỏ chẳng bao giờ được nguyên quặng không, chúng lẫn chung với đất. Người ta phải đãi để bỏ lũ đất đó đi. Chúng tôi cũng làm như thế. Đem túi đất vừa cạo về, tôi bỏ nó vào vỏ con trai trai rồi đãi trong chậu nước. Đãi thế này rất khó. Lũ sỏi cũng vừa to vừa nặng, tôi không làm cách nào cho chúng nó ra được mà quặng không ra theo. Thế là đâm ra tôi chỉ vò cho đất ra hết, rồi ngồi nhặt quặng.

Một hôm, tôi hỏi cái Châm:

- Tại sao mọi người lại thi nhau đi làm quặng thế nhỉ? Quặng để làm gì không biết?

Cái Châm ngừng bới lũ sỏi, ngẩng đầu lên nhìn tôi, giọng nó trở nên hồ hởi:

- Cái này thì tao biết đấy. Anh Văn tao bảo tao.

Nó rướn người lên, lấy cái điệu bộ trịnh trọng y như khi nó chuẩn bị kể chuyện ma cho tôi nghe.

- Anh Văn tao bảo quặng quý bởi vì trong đó có vàng. Nhưng mà ít thôi. Phải mấy bao tải quặng liền, cho vào lò nấu thì sẽ làm ra được một cái nhẫn vàng đấy.

Tôi mắt tròn mắt dẹt nghe cái Châm nói. Lúc đó tôi tài thánh mới biết được là cái Châm nói chả đúng tí ti gì. Thực ra quặng ở quê tôi là quặng thiếc, dĩ nhiên là chẳng đời nào nấu ra vàng được. Nhưng điều đấy mãi sau này lớn lên tôi mới biết, còn lúc ấy tôi chỉ tin sái cổ những gì cái Châm nói. Thế nên tôi tròn mắt gật gù. Ra là thế! Thảo nào người ta đua nhau đi vào trong đồi đào quặng vậy. Chẳng phải chỉ xóm tôi, mấy chú ở xóm trong, xóm ngoài cũng vào đó làm. Nhưng bố tôi với các chú ấy cũng chẳng nấu quặng thành vàng được đâu, chỉ đem bán cho người ta thôi. Khi nào cái ống bơ của tôi với cái Ngọc được một nửa thì chúng tôi cũng bán cho bố, rồi bố sẽ đem đi bán tiếp.

Từ hồi nghe cái Châm bảo thế, tự dưng tôi đi nhặt quặng hăng lắm. Mặc dù tôi cũng chẳng ham hố gì “cái vàng” đâu, tôi còn chưa nhìn thấy vàng bao giờ, nhưng nghe nói vàng là quý lắm, thế là tự dưng tôi thấy lũ quặng trên trường của tôi quý giá hơn hẳn.

***

- Chị Thái ơi, chú Lâm đi đãi “cặng”!

Cái Ngọc chạy từ ngoài vào, reo lên.

- Mình nhờ chú đãi cho đi! – Giọng nó hồ hởi.

- Ừ.

Tôi gật đầu, mắt sáng lên. Chúng tôi vừa đi cạo đất quặng trên trường về. Lần này chúng tôi vớ bẫm. Lúc tôi ra chưa có đứa nào ở đó cả, thế là có rãnh nào nhiều quặng tôi cạo sạch. Cất mấy cái vỏ trai trai vừa đem ra để đãi trong chậu đi, tôi xách cái túi đất ra bờ ao.

Cái ao ở ngay trước cổng nhà tôi. Từ bờ ao, có một chỗ đất nhô ra thành cái bậc thang để đi xuống, chỉ cao mấp mé mặt nước. Chú Lâm đang ngồi ở cái bậc đó đãi quặng. Chỗ đó chỉ đủ ngồi một người nên dù thích lắm, tôi đành phải ngồi trên bờ, ngỏng cổ nhòm vào máng. Máng đãi quặng của chú to, làm bằng gỗ mít, khi đãi, sỏi to mấy cũng ra hết nhưng quặng thì ở lại, chứ không như cái “máng vỏ trai” của tôi. Mỗi lần chú Lâm đưa tay, những làn nước lăn tăn xếp hàng chạy trên máng, trông rất thích mắt. Tôi với cái Ngọc cứ há hốc mồm ra nhìn, dù đã không biết bao nhiêu lần thấy cảnh này.

Chú Lâm đổ chỗ đất của tôi vào trong máng, rồi quẳng cái túi về phía sau. Nó không rơi hẳn lên bờ mà lại mắc vào mấy cành xấu hổ mọc trên phần đất dốc dốc sau lưng chú. Chẳng hiểu sao, càng nhìn cái túi bóng ở đó, tôi lại càng thấy khó chịu. Tôi cố rướn người với lấy. Nào, một tí… chỉ một tí nữa thôi.

- Bủm!

Tôi lăn tùm xuống ao. Chú Lâm kéo tôi lên và lôi tôi về nhà sau khi tôi vừa kịp uống mấy hớp nước.

Nước vào mắt, mũi, tai làm cho tôi chẳng mở được mắt, cứ thế nhắm tịt cho đến khi mẹ tôi dội nước giếng vào người tôi. Mẹ lau qua mặt cho tôi, rồi bảo:

- Con lắc đầu cho nước ra khỏi tai đi.

Tôi nhìn mẹ bối rối. Biết lắc kiểu gì bây giờ? Trong tai rất khó chịu nên tôi mếu máo bảo mẹ:

- Con không biết lắc. Mẹ lắc đi!

Cô Hậu với chú Lâm đang đứng ở đó cười ầm lên.

- Cái con này, nước trong tai mày mà “mẹ lắc đi” thì ra làm sao được. Ha ha…

Mẹ cũng cười. Cái Ngọc chẳng biết gì cũng cười hôi theo. Cô Hậu còn dọa:

- Không lắc thì điếc tai đấy.

Nghe thấy thế, tôi sợ quá. Tôi cố nghiêng đầu sang bên này bên kia, chắc trông buồn cười quá nên mọi người càng cười nghiêng ngả. Tôi vừa xấu hổ, vừa sợ cuống cuồng vì vẫn thấy trong tai ù ù ặc ặc.

- Hu hu hu… Con không biết đâu. Mẹ lắc cho con cơ…

Thế là, ôm cứng lấy tay mẹ, tôi òa lên khóc.


[1] Con trai trai: cũng là con trai, ở chỗ tôi hay gọi là trai trai.
 

Hà Thái

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
5/3/15
Bài viết
406
Gạo
0,0
(7). Liều thuốc hiệu nghiệm

Hè đã về. Cây phượng vĩ trong vườn trường cấp hai bắt đầu lốm đốm những bông hoa đỏ rực và những con ve bắt đầu ra rả khúc nhạc chào hè của chúng. Tôi đã kết thúc năm học lớp một và được danh hiệu học sinh tiên tiến. Mẹ tôi dán tờ giấy khen đo đỏ lên tường, trang trọng bên cạnh khung ảnh gia đình.

Vì tôi đã biết đọc, lại đọc tốt nữa, nên mẹ tôi làm thẻ thư viện cho tôi. Thư viện huyện không xa nhà tôi lắm. Từ nhà tôi, đi qua trường, rồi đi thêm chừng một cây nữa là đến. Ngay cạnh thư viện là nhà văn hóa của huyện và sân vận động. Cả đài truyền thanh, truyền hình nữa. Cứ lâu lâu đến dịp là ở đó lại tổ chức văn nghệ, lại có đá bóng, múa võ ở sân vận động. Rất là náo nhiệt.

Vì thư viện gần như thế nên tôi chăm chỉ đi mượn sách lắm. Cứ hai hôm tôi lại đi một lần. Một lần mượn được hai, ba quyển. Tôi chưa từng thấy nơi nào nhiều truyện như thư viện. Cả một phòng toàn những kệ sách đầy ắp. Truyện tranh, truyện chữ, truyện người lớn, truyện trẻ con… gi gỉ gì gi truyện gì cũng có. Chỉ phải tội sách không được mới lắm. Tôi chưa mượn được quyển nào mới tinh cả. Không ai được vào chỗ những kệ sách ấy, trừ hai cô thủ thư. Một cô da trắng, người gầy, mặt mũi nghiêm nghị là cô Lan. Cô kia thì già hơn, béo và vui tính tên là Lành. Tôi nghe mọi người nói cô Lan không được thích bằng cô Lành đâu, vì cô Lành dễ tính, nhiều khi mượn quá số tiền cược[1] vẫn được.

Nhưng riêng tôi thì thấy cô nào cũng dễ tính cả. Mỗi lần tôi mượn truyện, các cô đều cười tươi hết cỡ và cho tôi mượn cuốn truyện yêu thích.

Tôi mượn được rất nhiều truyện. Quyển nào đem về tôi cũng đọc cho cái Ngọc nghe. Nó tròn xoe mắt lên, ra chừng thích thú lắm. Gần đây, mỗi khi đọc gì tôi không phải đọc lên thành tiếng nữa mà đọc thầm trong đầu (như người lớn cơ đấy!). Nhưng đọc xong rồi, tôi vẫn đọc lại cho cái Ngọc nghe.

Có loạt truyện Dũng sĩ Héc-man có người máy Héc-man cùng nhóm bạn chống lại bọn Doom độc ác. Tôi thích nhất chú Gát-cô tóc đỏ vì chú ấy phóng được ra điện, nhưng cái Ngọc thì chỉ thích dũng sĩ Héc-man, vì theo nó Héc-man mới là người mạnh nhất.

Rồi truyện Trê Cóc, kể về nhà cóc đẻ trứng ở rìa ao, nở ra thành nòng nọc. Vợ chồng Trê hiếm con đi qua, thấy đàn nòng nọc giống mình quá liền đem về nuôi. Trê Cóc kiện nhau, quan tòa xử thắng cho nhà Trê. Nhưng chỉ một thời gian sau nòng nọc lớn lên cóc hết, lại phải xử lại. Đọc xong, cái Ngọc cứ xuýt xoa: “Lạ nhỉ chị nhỉ. Trước giờ em cũng cứ tưởng nòng nọc là cá.”

Tôi còn mượn được tập thơ của Xamuen Mác-sắc có những bài thơ cho thiếu nhi, đọc rất buồn cười, ngồ ngộ. Tôi thuộc được mấy bài ngắn ngắn. Kiểu như:

Cái bàn

Có bốn chân

Đứng trên đất

Mà không cần

Guốc, giày, dép, tất.

Hoặc là:

Bảng cửu chương

Thật dễ thương

Dù tất cả sẽ đổi thay

Thay đổi

Cũng không bao giờ sai

Và hai lần hai

Lúc nào cũng bằng bốn.

Tôi chẳng biết “bảng cửu chương” là gì, thấy mẹ tôi bảo năm học tới tôi mới học đến, nhưng tôi vẫn thuộc làu bài thơ giống hệt như cách tôi thuộc câu “ìa-à-lìu-bờ-liu tre-bè-dín[2] mà bố mẹ tôi hay hát vậy.

Có duy nhất một truyện tôi không đọc cho cái Ngọc nghe. Truyện cổ tích của dân tộc Thái. Đấy là vì tôi sợ quá nên không dám đọc lên thành tiếng. Cả truyện toàn nói về thuồng luồng. Lũ thuồng luồng sống dưới nước, mào đỏ chót như mào gà trống, lại có dải vân óng ánh như cầu vồng quấn quanh cổ. Thuồng luồng lúc lên bờ hóa thành người rất đẹp, trên cổ vẫn có dải vân óng ánh ấy.

Có truyện kể một người gặp cô gái đẹp ở bờ sông, mới kết duyên vợ chồng, sinh con đẻ cái, một đêm tỉnh dậy thấy nằm la liệt trong nhà là thuồng luồng, sợ quá liền lấy dao chém chết hết. Có truyện kể một người anh bị hóa thành thuồng luồng, sợ lạnh nên đeo chiếc khăn của người em gái cho trên cổ, về sau chiếc khăn ấy hóa thành dải vân óng ánh. Thuồng luồng trong truyện chẳng hại người, nhưng nó kì bí quá đâm thấy sợ. Mà lại thu hút đến mức buổi tối tôi phải trùm chăn mới dám đọc, buồn đái không dám dậy đi nhưng vẫn nhất quyết đọc hết truyện.

Đêm đến, tôi nằm mơ thấy những con thuồng luồng nằm cuộn trong nong ngủ, và dọc bờ sông, chúng nằm dài phơi nắng với những cái mào rực rỡ trong ánh mặt trời.

Truyện mà tôi yêu thích nhất thì phải nói đến bộ truyện tranh “Tây Du Ký”. Phim thì tôi xem ở nhà cô Phượng rồi, nhưng đọc truyện thì vẫn thích lắm. Đọc truyện nhiều chỗ hiểu rõ hơn phim, lại còn đọc đi đọc lại được đoạn nào mình thích. Tôi nghiền truyện này đến mức mà cuối truyện có danh sách các tập truyện trong bộ, tôi đọc đi đọc lại và thuộc lòng tất tần tật tên của hai mươi bảy tập đó.

Một lần, bác Chung bạn của bố mẹ tôi vào chơi. Thấy tôi đọc truyện, bác mới hỏi thử.

- Tập 5 là gì?

- Tôn Ngộ Không giả gái bắt lão Trư. – Tôi đáp luôn không nao núng.

- Tập 13 là gì?

- Tôn Ngộ Không đại náo Thông Thiên Hà.

- Thế tập 21 là gì?

- Nước Tì Kheo, Tôn Ngộ Không đánh quốc trượng yêu tinh.

Bác Chung hỏi tập nào, tôi đáp ngay tập ấy. Dễ ợt mà, tôi đã thuộc nằm lòng. Bác ấy cầm quyển truyện đối chiếu, thấy tôi nói đúng hết, mặt mũi có vẻ ngạc nhiên lắm. Rồi bác dừng lại, tặc lưỡi.

- Chà chà…

Tôi ngước mắt chờ đợi bác “chà chà” xong rồi hỏi tiếp, nhưng mãi mà không thấy động tĩnh gì.

Cuối cùng, bác quay sang mẹ tôi xuýt xoa.

- Con bé này khá quá! Tôi chưa gặp đứa trẻ con nào như nó.

Rồi quay sang xoa đầu tôi, cười khà khà.

- Giỏi lắm! Giỏi lắm!

Tôi sướng lắm, toét miệng cười. Thấy mình rất oách.

***

Hôm nay tôi bị ốm. Đầu tôi nóng ran và miệng nhạt thếch, chẳng ăn được gì. Mẹ tôi luộc một quả trứng gà đánh gió cho tôi. Đồng bạc đánh gió xong đen đen đỏ đỏ. Mẹ bảo:

- Tại buổi trưa dãi nắng bắt chuồn chuồn đây mà!

Đánh gió xong, người tôi dễ chịu một tí nhưng đầu óc vẫn quay cuồng. Hai tập truyện vừa mượn về lúc chiều vẫn xếp trên nóc tủ. Bố mẹ bảo tôi đi ngủ sớm.

Sáng tỉnh dậy, có mình tôi trong nhà. Nắng sớm rọi qua khe giữa hai cánh cửa sổ vênh váo. Tôi lồm cồm bò dậy, lấy hai quyển truyện đọc ngấu nghiến. Lạ thay, càng đọc càng thấy người khỏe ra. Đọc gần xong một quyển thì mẹ tôi bê mâm cơm từ dưới bếp đi lên:

- Con gái dậy ăn cơm nào!

Nhìn thấy tôi đang ngồi đọc say sưa, mẹ lại gần đặt tay lên trán tôi, rồi rất hứng khởi, mẹ quay ra gọi với ra vườn:

- Bố nó ơi, vào mà xem! Con Thái nhờ truyện Tôn Ngộ Không mà khỏi ốm đây này!


[1] Tiền cược: tức là tiền đặt cọc để mượn truyện, quê tôi gọi là tiền cược.

[2] Я люблю тебя жизнь: Cuộc sống ơi ta mến yêu người - một bài hát tiếng Nga rất thân thuộc với người Việt Nam thế hệ trước. Đây cũng chính là câu đầu tiên của bài hát, được dịch là “Cả tình yêu trao cuộc sống” cho hợp với giai điệu.
 

Hà Thái

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
5/3/15
Bài viết
406
Gạo
0,0
(8). Tập xe đạp

Trong những ngày hè, tôi có một thú vui mới là tập xe đạp. Tôi, cái Châm với cái Kim đều chưa biết đi xe đạp nên cùng nhau tập xe ở sân trường. Cái Kim không học cùng lớp tôi, nó học lớp 1B. Nhưng nhà nó lại ở ngay gần trường, lại cũng hay ra sân trường nhặt quặng như tôi nên tôi cũng chơi với nó.

Cái Kim có nước da ngăm đen, hai má bầu bĩnh, lại có túm tóc đuôi gà sau gáy trông rất đáng yêu. Nó hay hát và cũng hát khá hay. Múa cũng dẻo nữa. Đấy là tôi đoán nó múa dẻo, chứ tôi cũng chưa xem nó múa bao giờ.

Chả là mấy đứa chúng tôi hay có trò thi xem đứa nào uốn tay được cong hơn. Chúng tôi lật sấp bàn tay rồi cố uốn cong các ngón tay lên. Đứa nào càng uốn được cong thì là tay càng dẻo, múa càng đẹp.

Cái trò này là do cái Tấm bày cho tôi. Nhà cái Tấm ở cách nhà tôi có mấy nhà, thi thoảng vẫn chạy sang chơi đồ hàng với tôi. Nó có chị họ ở trong đội múa của trường bày cho nó thế. Nó bảo: “Những cô diễn viên múa á, tay còn uốn được cong như mặt trăng lưỡi liềm, chứ không cứng quèo như tay mày đâu!” Mà tay tôi cứng thật. Tôi cố hết sức mà tay vẫn chỉ hơi cong lên được một tí. Cái Châm còn kém hơn cả tôi. Chỉ có tay cái Kim thì cong vút. Thế nên về nhà thi thoảng tôi cứ lấy bàn tay kia cầm lấy các ngón tay của bàn tay này uốn. Uốn mãi như thế, nhưng đến lúc bỏ tay kia ra thì tay này vẫn chẳng uốn cong lên được bằng cái Kim. Chắc là về nhà nó cũng tập uốn giống y như tôi vậy.

Cứ rảnh rỗi là tôi vác xe ra sân trường tập. Rảnh rỗi có nghĩa là cả ngày, trừ lúc ăn cơm và buổi tối, và cả những buổi trưa nào tôi không trốn bố mẹ đi được nữa. Nhà tôi không có xe đạp. Tôi toàn phải sang nhà bà để mượn xe. Tôi thường mượn xe của cô Xuyên. Chú Lâm cũng có một cái xe đạp nhưng tôi không mượn vì nó là xe cắng. Đó là loại xe đạp nam có một thanh ngang nối từ ghi đông vào yên xe – gọi là “cắng”, nên đứa trẻ con như tôi chẳng thể nào đi nổi. Mấy anh chị lớn hơn thì đi được, tôi nhìn thấy anh Tâm trong xóm tôi đi rồi. Anh Tâm hơn tôi hai tuổi, biết đi xe đã lâu. Anh thò chân qua cái ô hình tam giác bên dưới cắng xe, mỗi lần đạp xe, người anh nhô lên nhô xuống cái ô tam giác đó, người vẹo sang một bên, trông rất vất vả. Vậy nhưng tôi thấy như thế cũng thú vị. Khi nào tôi biết đi xe, tôi cũng mượn xe cắng của chú Lâm để đi thử. Hẳn cũng hay ra trò!

Xe cô Xuyên thì dễ đi hơn nhiều. Đó là một chiếc xe nữ màu trắng đục, nhưng cũ rồi, vì thân nó tróc sơn nham nhở. Hôm đầu tiên tôi mới chỉ dám dắt xe thôi. Ra đến sân trường, cái Châm thấy, bĩu môi:

- Xời, mày vẫn dắt thế thì đến bao giờ mới đi được!

- Thế phải tập thế nào? – Tôi hỏi.

- Mày nhìn cái Kim kia kìa. Bọn tao tập như thế từ chiều qua. Sõi lắm rồi.

Tôi nhìn ra chỗ cái Kim thấy nó đang đặt một chân lên cái bàn đạp ở ngoài mà đạp “xịch xịch”, cứ thế vừa “xịch xịch” vừa dắt xe đi vòng quanh sân trường. Trông cái xe lắc lư chứ không được “sõi lắm rồi” như cái Châm bảo nhưng vẫn hoành tráng hơn hẳn cách tôi dắt xe. Cái Châm thấy tôi vẫn đứng ngẩn ngơ, liền giải thích cho tôi một hồi.

- Đấy, đầu tiên là phải “xịch xịch” ở bên này như cái Kim đang làm. Khi nào làm như thế thạo rồi thì mới dám ngồi lên đùi xe mà đạp “xịch xịch” ở bên kia. Lúc nào “xịch xịch” thế sõi rồi thì mới dám co nốt cái chân kia lên. Ấy là cái lúc sắp sửa biết đi xe rồi đấy!

Thế là tôi cũng bắt chước chúng nó “xịch xịch” như thế. Đi quanh sân trường chán, tôi lại đi vòng về nhà, rồi lại quay ra sân trường.

Cái Kim là đứa nhanh nhất. Nó cho chân sang bên kia “xịch xịch” được hai ngày rồi thì tôi mới bắt đầu làm giống như thế được. Từ lúc đó, những cái dốc ở sân trường bắt đầu được trưng dụng. Thời gian tôi co được chân kia lên dần dần dài ra. Lúc đầu chỉ là một giây thôi, co lên là phải đặt xuống luôn không thì ngã mất. Về sau thì tôi có thể co chân để xe trượt hết cả cái dốc. Co chân vậy thôi, chỉ “xịch xịch xịch xịch”, chẳng làm sao đạp trọn được một vòng, nhưng cảm giác thật là thích.

Chiều hôm ấy, khi ba đứa tôi đang mải miết trôi dốc thì cái Kim reo ầm lên.

- Tao đạp được rồi! Tao vừa đạp được một vòng rồi.

Tôi với cái Châm quên cả tập, ngẩn người nhìn nó đang cười toe toét hăm hở đạp liên tục mấy vòng theo đà xuống dốc, ghen tị. Rồi bừng tỉnh lại, chả đứa nào bảo đứa nào, chúng tôi lại dắt xe lên dốc tập tiếp, với sự hồ hởi hiếm có.

Đến sáng hôm sau thì cái Châm cũng bắt đầu đạp được. Thấy tôi có vẻ buồn buồn, nó vỗ vai tôi bảo.

- Lo gì. Mày tập muộn hơn bọn tao một hôm cơ mà. Thể nào mai mày chả đi được.

Tôi gật đầu, nhưng nhìn cái Kim đạp lòng vòng quanh sân trường trong khi tôi vẫn phải lóc cóc dắt xe lên dốc mỗi khi hết đà trượt, tôi thấy nóng ruột lắm.

***

Cái Châm tiên đoán là mai tôi đi được xe. Nó đoán sai bét. Chiều hôm ấy, ở lần trôi dốc thứ hai, thay vì “xịch xịch” như mọi lần, chân tôi cứ theo đà mà đạp được hẳn một vòng tròn. Sung sướng quá, tôi đạp thêm vòng nữa, thêm vòng nữa… rồi ngã uỳnh xuống sân trường. Sân trường toàn sỏi nhỏ như hạt đỗ. Sỏi xát vào cánh tay tôi, xước da. Chẳng thấy đau tẹo nào, tôi hăm hở dựng xe dậy, dắt lại lên dốc, vừa chạy vừa hò hét với hai đứa bạn đang dừng xe nhìn.

- Chúng mày thấy tao đạp chưa? Chúng mày thấy tao đạp chưa? Tao đạp được rồi đấy! Ha ha…

Chỉ một lúc sau là tôi có thể đạp xe mà không cần trượt dốc nữa. Tôi nhập bọn với cái Kim và cái Châm, đạp vòng quanh sân trường, mải miết và vui sướng, cho đến khi trời tối…

Từ hôm ấy, chiều nào tôi cũng mượn xe cô Xuyên ra trường đạp xe. Tôi khoe với cả nhà, với cái Ngọc. Thấy mình người lớn lắm. Tôi còn bảo với cái Ngọc:

- Mấy hôm nữa chị đèo mày ra ngoài nhà văn hoá chơi.

Cái Ngọc nghe thấy thế mừng lắm. Nhưng cả nó và tôi đều không biết được là cái ngày tôi đèo nó đi chơi còn lâu mới đến, vì chẳng đời nào bố mẹ tôi cho tôi đèo ai đi đâu bằng xe đạp cả.

***

Hôm ấy, trên nhà bà (tức nhà chú Hạnh) có khách. Đông lắm. Bố tôi cũng ở trên đó. Tôi không vào nhà bà, chỉ hỏi mượn xe cô Xuyên rồi đạp thẳng ra sân trường. Vừa mới đạp được mấy vòng, có một chú gọi:

- Thái ơi!

Tôi dừng xe. Chú lại gần bảo.

- Cháu cho chú mượn xe một tí nhé!

Tôi nhìn chú. Tôi thấy gương mặt chú hơi quen quen, nhưng tôi chẳng biết là ai cả. Trông chú ấy rất hiền, nhưng có vẻ lo lắng. Thấy tôi ngần ngừ, chú bảo.

- Cho chú mượn một tí thôi, chú đi tìm cu tí nhà chú. Chốc nữa chú trả. Thật đấy!

Tôi thấy chú đáng tin liền gật đầu, đưa xe cho chú rồi đi bộ về.

Về đến nhà, cô Xuyên hỏi:

- Xe đâu mà đi bộ về.

- Có một chú mượn xe rồi ạ.

- Chú nào?

Tôi gãi đầu, chẳng biết nói gì. Ừ nhỉ, tôi quên mất hỏi tên chú. Chẳng biết chú tên là gì, nhà ở đâu nữa. Tôi liền bảo cô Xuyên.

- Cháu không biết.

Mặt cô Xuyên tái lại. Cô kêu lên:

- Ơ cái con bé này, sao không biết là ai mà cũng cho mượn? Người ta không trả thì sao?

- Chú ấy bảo là chú chỉ mượn một tí thôi, rồi chú ấy sẽ trả.

- Thôi chết rồi! Mất xe rồi!

Trông cô lo lắng lắm. Cô đi lại quanh nhà, gặp ai cũng nói rất to.

- Chết thôi. Mất xe rồi. Biết đường nào mà tìm bây giờ!

Chú Hạnh trách tôi:

- Sao cháu tự tiện thế? Có phải xe của cháu đâu mà cháu cho người ta mượn!

Cả nhà nháo nhác lên. Cái xe đạp là cả một gia tài chứ ít gì đâu.

Thấy mọi người như thế, tôi sợ quá. Tôi biết nếu mất xe thì tôi mắc tội rất lớn. Nhưng tôi vẫn hi vọng, vì chú mượn xe trông hiền lành tử tế lắm, chú nói là sẽ trả, chắc chẳng nói dối đâu. Mẹ tôi lại gần tôi – lúc đấy đang sắp khóc - nói:

- Sao con dại thế? Biết người ta là ai mà cho mượn xe.

Tôi mếu máo bảo mẹ:

- Chú ấy bảo chú sẽ trả mà.

Mẹ tôi vuốt tóc tôi, không nói gì. Nhưng trông mẹ có vẻ đang suy nghĩ mông lung lắm. Tôi mới nhớ ra, nói tiếp:

- Chú ấy bảo chú mượn để đi tìm cu tí nhà chú ấy. Chú ấy biết tên con mà.

Cô Xuyên nghe thấy thế, chạy lại hỏi:

- Trông chú ấy như thế nào?

Tôi nhăn trán suy nghĩ. Tôi không nhớ rõ mặt chú ấy nên tôi bảo với cô Xuyên:

- Cháu không nhớ nữa.

Cô Xuyên ôm đầu kêu trời. Bố tôi trấn an cả nhà, bảo chắc là người trong xóm mượn thôi, chốc nữa thế nào cũng trả.

***

Nhưng đến tối mịt mà vẫn chưa thấy ai đem xe đến trả. Cả nhà bắt đầu lại lo lắng. Tôi đi đi lại lại ngoài hè, chốc chốc lại chạy ra cổng ngó xem có ai đi xe đạp lên cổng nhà bà không. Mãi mà không thấy ai cả. Tôi bất chợt nghĩ ra là biết đâu chú mượn xe không biết nhà tôi nên đem xe đến sân trường trả tôi, nhưng tôi về mất nên không trả được. Tôi liền lò dò ra cổng định đi ra sân trường, nhưng đường tối om nên tôi sợ quá lại quay vào nhà, lòng tự trách mình ghê gớm.

Khi tôi đang ngồi ở đầu hè khóc thút thít thì thấy mẹ tôi tất tả từ trên nhà bà đi về, mừng rỡ bảo với bố tôi:

- Thấy xe rồi. Chú Hiền xóm ngoài mượn, lúc nãy gặp chú Lâm ở ngoài uỷ ban nên trả luôn. Chú Lâm lại lấy xe đi chơi, giờ mới về. Cũng may con Thái cho chú ấy mượn xe, chứ thằng cu tí nhà chú đi lạc, nhờ có xe đạp mà còn tìm thấy nó nhanh đấy, không thì tối mịt chả biết đằng nào mà tìm.

Mẹ thấy tôi nước mắt lưng tròng liền lau nước mắt cho tôi rồi âu yếm bảo:

- Thôi nào, hú vía nhé. Lần sau đừng có tự tiện cho người lạ mượn cái gì nữa nhé…

Mẹ căn dặn gì nữa, nhưng tôi không nghe nữa rồi. Tôi mừng quá. Đấy, chú ấy đã bảo là chú sẽ trả mà! Tôi có làm mất xe đâu! Mà lại nhờ có xe chú ấy mới tìm được cu tí nữa. Tôi gục đầu vào vai mẹ, giờ mới thấy mệt rũ vì khóc nhiều. Giờ tôi chỉ muốn đi ngủ, chẳng còn thấy sợ thấy lo gì nữa, nhưng nước mắt tôi vẫn cứ tràn ra vai mẹ. Lạ chưa!
 

Hà Thái

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
5/3/15
Bài viết
406
Gạo
0,0
(9). Cánh diều

Tôi với cái Ngọc đang lúi húi ở cổng nhà bà tôi, nhặt hoa trứng gà, xâu lại thành chuỗi để đeo cổ, thì cái Tấm, cái Thuý Đơ với cái Anh đến. Thấy hai đứa tôi đang xâu hoa, chúng nó cũng nhập bọn. Chẳng mấy chốc, mỗi đứa có một cái vòng đeo cổ, thơm nức mũi. Tôi bảo chúng nó:

- Chúng mình chơi câu cá đi.

Mọi hôm chúng tôi hay lấy hoa dâm bụt tước hết cánh hoa. Còn cái nhụy thì tước hết phần bao ngoài, chỉ còn sợi tơ mảnh trong lõi, và cái đầu nhụy tua ra như chùm lưỡi câu. Cái đấy dùng để làm cần câu. Cánh hoa lại tước đôi cho mỏng ra và phần bao ngoài của nhụy được tước ra lúc nãy đều dùng làm cá. Cánh hoa có nhớt, đầu nhụy có móc, nên dễ câu vô cùng. Chúng tôi cứ ngồi câu như thế, đứa nào câu được nhiều cá nhất là đứa ấy thắng.

- Thôi, chán rồi. Chả chơi nữa. – Cái Thuý Đơ lắc đầu.

- Thế thì bọn mình đi quanh xóm chơi. Thổi kèn lá chuối đi. – Cái Anh nói. Nó là em gái cái Thúy, mặt mũi tròn quay, khôn và láu hơn cái Thúy nhiều.

Thế là chúng tôi cùng nhau đi quanh xóm. Gặp những nhà trồng chuối, lá chuối thò ra ngoài đường, bọn tôi tước lấy một ít, quấn lại thành kèn để thổi, hoặc tết thành chuỗi dài để chơi. Tết thành chuỗi thì dễ, chỉ cần biết cách là đứa nào cũng tết được. Nhưng làm kèn thì không phải cái kèn nào thổi cũng lên tiếng. Phải quấn đều tay, không được quấn lỏng quá, quấn xong phải cắn đầu thật ngọt, chứ cắn không đứt mà cứ toe toét ra thì cũng chẳng lên tiếng, hoặc tiếng tậm tà tậm tịt, nghe chán lắm.

Mấy đứa chúng tôi thi nhau quấn. Cái Ngọc với cái Anh quấn chẳng nên hồn, tôi phải quấn cho, nhưng vẫn giữ lại cho mình cái kèn thổi to nhất. Vừa đi, chúng tôi vừa phùng mang trợn mép thổi hết cỡ:

- Te te te te…

- Te te te te…

Đi ngang qua vườn nhà ông Khoa, ông mở cửa, nói với chúng tôi:

- Buổi trưa các cháu trật tự cho mọi người ngủ chứ!

Cả bọn im tịt, lấm lét bấm nhau đi qua. Đi được mấy nhà nữa, lại đưa kèn lên mồm thổi.

Được một lúc, cả lũ bắt đầu chán thổi kèn, cần phải tìm trò khác để chơi. Mấy đứa ngồi dưới gốc nhãn đầu cổng nhà tôi, thi nhau đưa ra ý kiến:

- Chơi trốn tìm đi.

- Chơi ở đâu. Giờ mà về nhà tao hò hét ầm ầm bố mẹ tao mắng chết!

- Hay lên trường chơi cầu trượt…

- Hôm nọ trượt bị rách dép, mẹ em mắng rồi. Hôm nay mà rách tiếp thì ăn đòn. – Cái Anh gãi đầu.

Mọi lần lên trường cấp một chơi, chúng tôi cũng hay chơi trò cầu trượt. Sát ngay đằng sau trường là một đồi chè, chỉ cao hơn sân trường bốn năm bước chân thôi. Ngay ở sát đầu dãy lớp học có một lối đi lên đồi chè gần rất dốc. Lại rất trơn. Đến mức mà mấy đứa tôi ngồi lên đỉnh dốc, chỉ cần đẩy chân một cái là “vèo”, trượt ngay xuống chân dốc. Thế nên bọn tôi mới nảy ra cái sáng kiến dùng chỗ đấy làm cầu trượt.

Lúc đầu mấy đứa tôi cứ ngồi phệt xuống mà trượt, nhưng vừa rát mông lại rách quần, thế nên đổi thành ngồi xổm. Đứa nào đứa nấy dép phải hàn lại chằng chịt không biết bao nhiêu lần bằng que cời bếp. Hôm nọ, cái Anh lại bị rách dép. Mẹ nó bảo không hàn được nữa rồi, phải mua dép mới và liệu liệu mà giữ dép không thì sẽ ăn “lươn cạn”.

Tôi suy nghĩ một lúc, rồi bảo chúng nó:

- Tao có trò này hay lắm. Chúng mình thả diều.

- Diều là gì? – cái Anh hỏi. Cái Tấm “xời” một cái kiểu ta đây “diều mà không biết”, kiểu tinh vi lắm.

- Diều là diều chứ là cái gì! – Tôi lườm cái Tấm, nhẹ nhàng nói với cái Anh. - Người ta lấy một dây buộc vào diều rồi thả lên trời. Nó cứ bay vi vu trên trời ấy. Người ta còn buộc sáo vào, nó vừa bay vừa thổi véo von, hay lắm!

Mấy đứa còn lại mắt sáng lên. Rõ ràng là chúng nó chưa biết diều là cái gì.

- Thế thì mình lấy diều ở đâu? – cái Ngọc hỏi. Trông cái mặt nó là biết nó đang rất háo hức với cái diều.

Đến đây thì tôi gãi đầu. Rõ ràng là tôi chẳng biết lấy diều ở đâu. Tôi biết diều làm bằng giấy, tôi thấy trong sách vẽ người ta thả diều, cánh diều hình khum khum như quả cau, lại có hình vẽ trên đó. Nhưng cụ thể cái diều như thế nào thì tôi không rõ bởi vì tôi cũng chưa được tận mắt thấy cái diều. Ở đây tôi chẳng thấy ai thả diều cả.

Mấy đứa kia cứ ngóng mãi mà chỉ thấy tôi gãi đầu chứ chẳng đưa ra được chỗ nào có thể lấy diều, nên cuối cùng cũng không ngóng nữa. Cái Tấm thở dài, nói:

- Thế mà cũng nói. Chúng mình phải tìm trò khác chơi thôi.

Tiếc rẻ, mấy đứa lại ngồi đờ ra nghĩ tiếp. Tôi chẳng có lòng dạ nào để nghĩ ra trò chơi mới, đầu óc vẫn cứ vương vấn mãi về con diều. Nên mặc cho mấy đứa kia bàn tiếp, tôi lơ đãng nhìn những chiếc lá khô, những cái túi bóng chạy qua chạy lại theo gió. Rồi đột nhiên, một ý tưởng nảy ra trong óc tôi. Tôi bảo mấy đứa kia:

- Tao nghĩ ra rồi. Chúng mình vẫn thả diều.

- Diều ở đâu mà thả? – Cái Tấm vặc lại.

- Kia. – Tôi chỉ vào mấy cái túi ni lông lăn lóc ở đường. – Mình lấy túi bóng kia buộc chỉ vào rồi thả. Nó cũng bay như diều vậy.

Thế là chúng tôi lấy chỉ buộc túi ni lông lại để làm diều. Nhưng cái tuyên bố “bay như diều” của tôi thì có vẻ như không tưởng. Vì tất nhiên trong chúng tôi cũng chẳng biết làm thế nào để thả diều. Tôi nhớ mình đọc ở quyển sách nào đó là phải để diều “nghiêng 45 độ”, mà 45 độ là thế nào thì tôi cũng chịu. Thế là bọn tôi cầm túi bóng để đủ tư thế mà không làm sao cho gió hất nó lên bay được.

Cuối cùng, chúng tôi quyết định cứ cầm dây chỉ chạy. Mấy đứa rầm rầm chạy vòng quanh sân trường, nhìn những chiếc túi ni lông bay là là đằng sau cười như nắc nẻ. Thi thoảng, có đợt gió nào thốc cái túi bóng lên làm nó bay lên cao một chút là chúng tôi sung sướng lắm, cái hi vọng nó bay “như cánh diều” lại nhen nhóm.

***

Một hôm, thấy chúng tôi cứ “thả diều” bằng túi ni lông suốt, ông Khoa gần nhà tôi bảo:

- Để ông làm cho các cháu một cái diều.

Tôi tròn mắt nhìn ông.

- Ông biết làm diều ạ?

- Ừ. Ngày xưa ông cũng thả diều mà.

Tôi gục gặc đầu. Ở đây tôi không thấy người ta thả diều bao giờ chứ ông Khoa thì ở nơi khác đến nên chắc ngày xưa ông cũng thả diều là phải rồi. Tôi khoe với mấy đứa kia, chúng nó mừng lắm.

Từ hôm ấy, cứ rảnh một tí tôi lại sang nhà ông Khoa để xem ông làm diều đến đâu. Tôi thấy ông chẻ tre làm khung, rồi lấy giấy dán vào. Mà không phải giấy bình thường nhé, ông còn thấm cái gì đó vào giấy làm nó dai hơn. Ông bảo thế diều mới không rách.

Tôi nhìn cái diều, không nghĩ là nó to như thế. Nó phải to hơn cái rổ rau nhà tôi. Tôi cầm thử cái diều lên thấy nặng, trong lòng phân vân tự hỏi không biết làm thế nào mà nó bay được. Nhưng tôi không nói với ông Khoa điều đó, trong lòng chờ mong đến ngày được thả diều.

Thế nhưng rốt cục tôi vẫn chẳng được nhìn thấy cánh diều bay vi vu trên bầu trời. Hôm thả diều, tôi mang sang một cuộn chỉ nhưng ông Khoa bảo không dùng chỉ được vì sẽ đứt. Ông lấy một cuộn dây dù ra buộc vào cánh diều. Rồi sau đấy ông dẫn mấy đứa tôi ra sân trường thả.

Nhưng thả cách nào diều vẫn không lên được. Tôi bảo ông là chắc diều không lên được vì nó nặng quá, cả cái khung tre thế kia, lại thêm bao nhiêu giấy và cả cơm dán giấy nữa, cái túi ni lông của cháu mỏng dính nhẹ tang mà còn chẳng bay lên được nữa là. Nhưng ông lắc đầu bảo:

- Không phải. Nó không lên được vì ông làm không cân.

Rồi ông thu dọn con diều và bảo tôi:

- Thôi, ông cháu mình về. Hôm nào rảnh ông làm cho cháu cái khác nhé.

Bởi vì ông Khoa rất bận những việc khác nên chắc “hôm nào rảnh” của ông cũng còn lâu nữa mới tới nên trong lúc chờ đợi đến lúc ấy, chúng tôi vẫn cứ chơi với con “diều túi bóng” hàng ngày. Và mỗi khi có cơn gió bay qua, “con diều” của chúng tôi bay lên rồi lại hạ xuống cùng với những niềm phấn khích và hi vọng.
 
Bên trên