Chương 1 - Chiếc thuyền
Chiếc thuyền chòng chành trước từng cơn sóng dữ, cánh buồm uống no gió cùng mưa, tiếng phu thuyền hô lớn để lấy dũng khí tiếp tục chèo bị át đi trong âm vang của tiếng sấm rền. Từng thớ cơ của họ nổi lên cuồn cuộn như chống chọi với những làn mưa cắt thịt. Một người đàn ông độ chừng ba mươi tuổi, thân cao gần năm thước, gương mặt đăm chiêu trong bộ cẩm bào, lưng giắt hốt ngà đang đứng trên mũi thuyền mà nhìn về phương bắc; y chính là Trương-Thiện, còn người bên cạnh y là một thủ hạ tâm phúc, tên Thái-Dũ vẫn vững tay cầm lọng che mưa cho chủ, luôn miệng nói:
- Xin Trấn Thủ vào bên trong, ở ngoài này lâu không tốt cho sức khỏe đâu ạ.
Trương Thiện vốn xuất thân từ dòng dõi danh giá, ba đời làm quan. Đến phiên Thiện đi thi thì đỗ nhì, Tiên đế cho vào chầu thì ưng lắm, lại thấy cha ông đều là công thần nên phong làm Nguyên Bình Tri-phủ, làm được năm năm thì thăng chức lên Thái Bình Hành-khiển nắm quyền cả một Thừa-tuyên, uy nhiếp một phương. Chẳng may làm được sáu năm thì hoàng đế do lao lực việc triều chính mà băng hà, thái tử lên ngôi. Thế là giờ đây y phải đi bái lạy một thằng nhóc vắt mũi chưa sạch, bản tính ham chơi.
Đang suy tư thì y nghe thấy một tiếng "Bộp!" rõ to, dây buồm đã đứt.
“Mau giữ lấy sợi dây” – viên đốc thuyền hét lớn trong lúc bản thân chạy tới cầm dây. Chẳng mấy chốc sợi dây đã được cố định bởi năm người, máu tươi ứa ra từ những bàn tay thô ráp, ngấm vào sợi dây thừng, chảy lên sàn. Thế nhưng sức người nào địch lại được với sức gió, sợi dây bỗng vuột khỏi tay họ, quật ngã một người xuống biển và tung bay trên không như một lá cờ. Tên đốc thuyền tức tối vung roi liên tục vào người những tên nô lệ, tiếng roi xé nát không khí xung quanh, xé cả tâm can của vị Trấn Thủ. Trương Thiện bèn chạy tới giữ tay hắn lại:
- Đủ rồi, đây là Cống-thuyền, ngươi không được phép tùy tiện ở đây!
Tên đốc thuyền trả lời:
- Đại nhân cứ vào trong nghỉ ngơi để có sức mai này vào chầu vua, việc ở đây cứ để hạ quan lo liệu. Bọn phu dịch này không thể nương tay được, phải đánh chúng để làm gương cho kẻ khác.
Thái Dũ vừa kéo tay y vừa cất tiếng hùa theo:
- Vu - Đốc thuyền có phần nóng tính nhưng cũng là nghĩ cho đại quan, xin chúa công vào trong giữ gìn thân thể.
Trương Thiện dùng dằng nhưng không lâu sau cả hai đã yên vị trong khoang thuyền cùng Lãnh Binh Vương Hộ Khoan. Đây vốn dĩ là Cống-thuyền, tức thuyền mang cống-phẩm từ các nơi về Giang-Hộ, có tất cả mười bảy thuyền đi theo hắn lần này, mỗi chiếc dài ba mươi tư trượng, rộng mười hai trượng, chở đầy châu báu, bảo vật từ các nơi về phụng ngự. Hằng năm, các Tri- phủ, Tri- huyện đều phải mang cống vật đến giao nộp cho hắn, người thì vàng bạc, kẻ thì châu ngọc, thậm chí là cả trân cầm dị thú. Cứ như vậy, ba năm một lần, đích thân Hành-khiển phải mang số châu báu ấy về bái lạy rồi cống nạp cho hoàng đế.
Lại nói về hoàng đế, người chỉ mới mười bốn tuổi thôi nhưng có một tính cách rất lạ kì. Vị hoàng đế nhỏ tuổi thích những món đồ độc lạ, hiếm có, càng độc càng lạ càng hiếm thì càng thích lại càng muốn có, thế nhưng một khi có rồi lại càng mong ngóng những món đồ mới hơn, độc hơn, lạ hơn. Trong cả vương quốc chỉ có vài kẻ nắm được tâm tư ấy mà chiều được lòng của hoàng đế. Cũng chẳng khó hiểu mấy bởi họ chính là những người đã từng nuôi dạy hoàng đế từ khi còn nhỏ, nhờ bàn tay của họ mà kim khố, ngân khố cứ vậy mà tăng đều theo thời gian, kinh thành cũng theo đó mà trở thành một chốn phồn vinh, dân cư đông đúc, sản vật ê hề.
Thái Dũ cung kính:
- Năm nay cống vật có vẻ ít hơn mọi khi, vàng bạc mỗi loại bị biếm một phần năm, hươu đen chỉ có ba con, sừng tê năm cái, ngà voi chín cặp, chim trĩ trắng một con, khổng tước một con, trầm hương chín cân, chu sa tám cân. Còn gạo nếp và các thứ ngũ cốc chỉ còn hai vạn năm ngàn thạch. Chắc không tránh khỏi cảnh bị chê tránh.
Trương Thiện nhếch mép:
- Thằng oắt con ham chơi, có gì mà phải sợ.
Khoan rùng mình:
- Xin chúa công cẩn ngôn, tránh để người khác nghe thấy, e là không hay. Dẫu cho bệ hạ còn thơ ấu nhưng bên cạnh còn có các đại thần phò tá, tình cảm sâu đậm.
Thiện nóng máu đập bàn:
- Đại thần cái gì chứ, chỉ là một bọn thái giám, nếu không vì thái hậu quy tiên sớm thì làm sao chúng có cơ hội mà trèo cao như vậy được, thật khiến người ta tức giận.
Dũ thở dài:
- Hạ quan cũng có nghe nói bọn chúng một tay che trời, hối lộ tham nhũng, mua quan bán tước đều có phần. Ba năm về trước, ở huyện Long Hà, phủ Lí Hà, trấn Yên Trường bị nạn lũ lụt, việc dâng lễ vật vì thế mà có phần sơ suất. Quan tri-huyện khi ấy là Lưu Trầm vì xuất túi riêng để cứu tế mà không chịu đưa tiền cho bọn chúng nói giúp, lại còn mắng chửi, làm chúng tức giận mà xàm tấu lại với hoàng thượng rằng Lưu Trầm biển thủ cống vật. Hoàng thượng vốn tin tưởng bọn ấy, gọi là Bát Thúc, trách tội y khiến Trầm phải gieo mình xuống dòng Đạm Giang, lấy cái chết để rửa oan. Kể từ đấy, trong ngoài triều đều gọi lũ ấy là Bát Hổ, ngày càng lộng hành, kéo bè kết phái. Nghe đồn Ngụy Bân là tên cầm đầu, nham hiểm bậc nhất, thủ đoạn có thừa, hai năm trước chính y là người đã xin với Hoàng Thượng phong chức tước cho tất cả bọn chúng.
Thiện hoài nghi:
- Làm sao ngươi biết những chuyện này?
Dũ nói:
- Anh họ hạ quan làm đến chức Lục Vận Sứ, nhân lúc có công vụ phải đi qua huyện Phụng Nguyên mà ở lại vài đêm tâm sự, hàn thuyên nên mới sáng tỏ vài điều. Ngụy Bân giờ đã là Cấp Sự Trung, trực tiếp can chính, hắn sắp đặt cho Cao Bưu, Lưu Báo và Mã Hoàng làm Sùng Lộc, Tư Không và Chuyển Vận Sứ để nắm kho tàng, đất đai, cống lễ; cho Lâm Viên làm Thông Chính Sứ để nắm việc sớ tấu các quan, cho Quách Đạo Lang làm Liêm Phỏng Sứ để dễ bề giám sát, thao túng quan viên; còn bọn Thống Lũng và Đương Tử Xuân nắm hai chức Giám Tu và Giáo Phường Sứ để mua vua cho bệ hạ.
Trương Thiện chắt lưỡi: “Chẳng lẽ cứ để cho bọn chúng hoành hành mãi sao?”. Hộ Khoan và Thái Dũ cùng thở dài bất lực.
Sáng hôm sau, Trương Thiện thức dậy từ sớm, nhanh chân bước lên sàn thuyền rồi quan sát xung quanh, quang cảnh quả thật rất nhộn nhịp, hơn bốn nghìn con người từ mười bảy chiếc thuyền đang khuân vác sản vật xuống bến cảng để vận chuyển vào thành trên những con ngựa.
“Các ngươi nhanh lên, chỉ còn hai canh giờ nữa thôi” – Tiếng chàng thanh niên mặc áo lam đang đôn đốc phu dịch vang lên, Trương Thiện giật mình quay ngoắt lại, đó là Chuyển Vận Phó Sứ Đan-Sài đang đôn đốc mọi người. Nhận ra người quen cũ, nhanh như cắt, Sài đã đến trước mặt Thiện thi lễ:
- Tiểu đệ kính chào huynh trưởng.
Thiện chào đáp lễ rồi hỏi:
- Nghĩa đệ đừng khách sáo, dẫu thân phận bây giờ có khác nhưng chúng ta vẫn là huynh đệ. Các Hành-khiển khác đã đến chưa?
Sài đáp:
- Thưa chỉ còn mỗi Ứng Xương Hành-khiển là chưa đến, còn lại đang ở tửu điếm nghỉ ngơi.
Thiện cười lớn:
- May quá, cứ tưởng ta đến sau cùng, thế ra cũng có người trễ hơn ta.
Sài nhắc nhở:
- Nào chúng ta cùng vào trong thành diện kiến hoàng thượng, chớ để chậm trễ mà sinh việc không hay, ngựa xe đệ đều đã chuẩn bị cho huynh từ trước.
Nói rồi cả hai đều lên ngựa, ung dung đi qua cửa Đoạn Môn, Thiện chợt thấy một đám đông hơn chục người đang ngồi ngoài cửa, quần áo rách rưới, dơ bẩn và bốc mùi. Một trong số đó cả gan cầm một cái bát vỡ tiến lại gần Thiện, giọng run rẩy, níu lấy áo y:
- Xin tướng quân tỏ lòng thương xót mà bố thí cho kẻ nghèo hèn.
Đan Sài ngứa mắt thét lớn:
- To gan! Một tên ăn mày mà dám làm phiền Hành-khiển đại nhân. Bay đâu! Còn đứng đó làm gì, mau bắt hắn lại đánh năm mươi trượng cho ta!
Trương Thiện khoát tay:
- Sài đệ đừng nóng, bọn họ chỉ là muốn kiếm miếng cơm qua ngày thôi, việc gì phải bận tâm. – Vừa nói Thiện vừa lấy ra một nén bạc thả vào bát - Đây là một lượng bạc, đổi được ngàn đồng tiền, các ngươi cứ giữ lấy, chia nhau mà xài.
Đan Sài thấy vậy cũng bèn lấy ra hai nén bạc thảy xuống đất cho tên ăn mày rồi tiếp tục cưỡi ngựa vào thành. Thiện thấy vậy không bằng lòng nhưng cũng cho qua.
Quang cảnh trong thành đúng thật khác một trời một vực với bên ngoài, phố thị đông đúc, người người đi đi lại lại tấp nập, tiếng rao hòa cùng tiếng trả giá của khách mua,… Đúng thật là chốn phồn hoa. Sài Phó-sứ vỗ vai Thiện cười nói:
- Huynh thấy sao! Có khác với Phụng Nguyên của huynh không?
Trương Thiện mỉm cười:
- Khác chứ, khác chứ, khác nhiều lắm, ta tuy quản lãnh một vùng nhưng không phải thứ gì cũng có. Có những thứ dù có nhiều tiền cũng không mua được.
Hai người nói chuyện, cười đùa suốt quãng đường.
Thành Đông Kinh nằm ở quận Giang Hộ, phủ Phụng Tiên, đây là nơi hội đủ phúc khí tứ phương, dân cư đông đúc, phố chợ nhộn nhịp. Phía đông bắc thành có tám con sông Kinh, Vị, Thương, Hoài, Ích, Dự, Khúc, Kí uốn quanh khúc khuỷu tạo thành thế long chầu, phía tây nam là ba ngọn núi Hiệu Sơn, Xuân Sơn, Lịch Sơn, chếch về phía đông nam một chút là một cái gò đất cao, khi xưa Đường Tuyên Đế Ngô Quyển dẹp loạn Lâm Xương lúc tiễn tướng Tô Ngỗi ra trận cũng tại nơi này từng lập lời thề nếu thắng trận trở về thì Tô thị chín đời hưởng lộc vua, thọ sáu hoàng ân, đặc quyền: kiến địa, ban ấp, phong quan, lập phủ, phong tước, thưởng vàng.
Ngỗi đánh trận oai phong, lẫm liệt, dù bị giặc vây chặt ở cửa Cảnh Long cũng không hề nao núng, tay cầm Tam Tiêm Ngân Thương tả xung hữu đột, đến khi phá xong giặc thì đầu Ngỗi đã rơi, binh sĩ vì tiếc thương mà xả thân cướp được mang về. Tuyên Đế đau lòng cho đúc pho tượng vàng không đầu rồi đặt vào an táng, lệnh truyền ban tặng thái ấp ở phủ Kim Bình, Trấn Sơn Tây, phong con trưởng làm Điện-tiền Chỉ-huy-sứ, gia thêm tước Kim Quận Công, đến nay đã truyền được sáu đời. Nhưng càng về sau gia đạo không còn vững chãi như trước.
P/s: Bối cảnh truyện dựng vào năm 1231 sau sự kiện "Đại Thống", lúc này vương quốc Biện Thìn của người Kinh Nam bị dịch bệnh, nạn đói hoành hành. Ở phương bắc thì Đế quốc Hành Dương của người Hãn đang lăm le hợp nhất, phía tây thì các dân xứ khác chờ thời cơ để nổi lên tự trị. Đường Triều của họ Ngô đang đứng trước một cơn phong ba, liệu rằng cây đại thụ này sẽ vững vàng vượt qua cơn gió lớn hay sẽ bị bật gốc, chương sau sẽ rõ.