Thảo luận về đề xuất cải tiến tiếng Việt của PGS.TS. Bùi Hiền

Quan điểm của bạn?


  • Số lượng người bầu chọn
    9

Đạp Nguyệt Lưu Hương

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
2/8/16
Bài viết
404
Gạo
0,0
Mình không biết các tác giả trên Gác có đọc tin tức hay không nhưng trong hai, ba ngày qua có thông tin tin tức nói về việc đề xuất cải tiến bảng chữ cái tiếng Việt của PGS.TS. Bùi Hiền (nó ra sao thì mời các bạn tra Google) với mục đích cơ bản:
1. Thống nhất các quy tắc viết chính tả sao cho dễ dàng, dễ nhớ và không phải tra từ điển.
2. Tiết kiệm chi phí về in ấn, ấn bản.

Mình chưa đọc nghiên cứu đó ra sao nhưng mình có vài ý kiến:

1. PGS.TS cho rằng tiếng Việt tồn tại và bất cập vì nó không có quy tắc, sinh ra lắm từ không cần thiết, và nếu với đề xuất của mình có thể giải quyết những bất cập đó. Vậy thì đơn cử như tiếng Anh, nó còn bất quy tắc và sinh ra lắm thứ từ vựng hơn hẳn tiếng Việt nhiều lần.
2. Cái đề xuất của ông ấy chẳng khác nào cổ xúy và thừa nhận teencode. Chúng ta từng lên án teencode làm mất sự trong sáng của tiếng Việt (mặc dù có nhiều người dùng, có nhiều người nhớ các quy tắc).
3. Đề xuất này sẽ làm mất đi bản chất của tiếng Việt và ngôn ngữ riêng của chúng ta. Hơn nữa nó còn gây ra sự xáo trộn rối loạn trong xã hội.

Còn ý kiến của các bạn như thế nào?
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Hexagon

-trong sáng-
Tham gia
6/12/13
Bài viết
4.042
Gạo
320,0
Re: Thảo luận về đề xuất cải tiến tiếng Việt của PGS.TS. Bùi Hiền
Mình hơi có quan điểm trái ngược lại.

1. Những đề xuất này là có cơ sở lý luận rõ ràng. Việc mọi người phản ứng là do nó khác với hiện tại đang dùng thôi chứ thật ra trên tình thần xem xét cái mới thì những cải tiến này thực sự rất xác đáng.
Về mặt khoa học, mình cực ghét kiểu cùng một âm thanh lại dùng 2 chữ khác nhau vì nó trái với nguyên tắc chữ viết dùng để ghi lại tiếng nói. VD: cuốc và quốc. Việc đồng âm khác nghĩa này có lẽ được để lại từ dư âm của tiếng Hán trong đời sống xã hội hiện nay.

Nhìn chung là về mặt ý nghĩa để cải tiến tiếng Việt thì mình thấy nó xác đáng, khác với việc teencode dùng theo những quy luật không xuất phát từ lý luận về ngôn ngữ và học thuật.

2. Ngôn ngữ là quá trình có sự biến đổi, và chính tiếng Việt cũng là 1 loại ngôn ngữ mới và đang được hoàn thiện chứ chưa thực sự là hoàn thiện. Thể hiển ở chỗ còn khá nhiều từ ngữ gây tranh cãi và không biết dùng cách nào mới đúng thể hiện ở những vấn đề như dùng "i" hay "y"...
Việc đề xuất này là cải tiến thực sự sẽ khiến mọi thứ có được quy chuẩn hơn rất nhiều, tất nhiên bên cạnh đó là mất đi sự phong phú thật mặc sự sự phong phú của tiếng Việt đôi khi chính là rào cản trong giao tiếp.

3. Gây ra sự xáo trộn thì bao giờ cũng chỉ xáo trộn trong thời gian đầu. Nó đơn giản là thay đổi cách ghi kí tự chứ không khó khăn như việc thay chữ Nôm bằng Quốc Ngữ. Việc này được áp dụng thì chỉ vài năm thôi bạn sẽ thấy tại sao ngày xưa lại gặp nhiều phiền toái như thế :v.
Không biết bạn có biết không, chứ chính cụ Hồ cũng sử dùng chữ "z" thay cho "r", "d", "gi" trong cách viết.
Nhìn chung là ngôn ngữ luôn có sự thay đổi, bạn tìm đọc các văn bản cách đây tầm 70-80 năm thôi sẽ thấy cách viết khác giờ khủng khiếp.

Tóm lại thì nghiên cứu là để tạo ra cái mới, cái mới thì không phải bao giờ cũng sẽ được chấp nhận hay chấp nhận ngay. Tuy nhiên đây là 1 vấn đề cũng đáng để nghiên cứu nếu như bạn nào có hứng thú với ngôn ngữ.

P/s: Có 1 ngôn ngữ khác kì quái không kém là "Ngôn ngữ quốc tế", được sáng tạo ra để thay thế tiếng Anh trong giao tiếp quốc tế. Dù thế giới chưa chấp nhận nhưng cộng đồng của nó thì ngày càng lớn.Và biết đâu đấy một ngày nào đó chúng ta chỉ cần học ngôn ngữ này là đủ giao tiếp với toàn thế giới thay vì tiếng Anh. "Ngôn ngữ quốc tế" cực dễ học chứ không gắn liền với văn hóa bản địa tạo ra ngôn ngữ cũng như tạo ra sự "phong phú" phiề phức của các ngôn ngữ.
 

reddye

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
12/11/17
Bài viết
85
Gạo
8,0
Re: Thảo luận về đề xuất cải tiến tiếng Việt của PGS.TS. Bùi Hiền
Mình đồng tình với bạn chủ thớt, mình nghĩ ý kiến của Tiến sĩ Bùi Hiển là sai lầm. Còn vì sao sai lầm thì mình sẽ lý giải rõ qua những lý do sau đây
1. Tiếng Việt là ngôn ngữ dân tộc. Ừ cái này ai cũng hiểu, nhưng 'dân tộc' nghĩa là gì? Đó không phải là từ vựng, nó là cả nền văn hiến lâu đời của người Việt Nam. Từ thời xa xưa, khi người Việt còn chưa có bảng chữ cái riêng phải sử dụng chữ Hán của người Trung Quốc, thời đó, những nhà thơ, nhà nho yêu nước rất không cam lòng vì sự vay mượn này nên chữ Nôm ra đời. Chữ nôm là những ký tự giống chữ Hán nhưng được cải biên một chút để gần với âm tiết của người Việt. Như vậy, từ câu chuyện của chữ nôm, ta có thể khẳng định vai trò của chữ viết trước hết phải thể hiện được tất cả âm tiết của dân tộc, phù hợp với âm giọng, ngôn ngữ của dân tộc. Chữ quốc ngữ đã làm rất tốt vai trò của mình từ khi nó ra đời đến hiện tại. Nó diễn tả mọi mặt đời sống của người Việt một cách không thể hoàn hảo hơn. Quan trọng, nó được sử dụng rộng rãi trong đời sống bình dân, trong thơ ca, nhạc họa... còn thứ chữ viết vừa được Tiến sĩ cải tiến quá xa vời với điều đó.
2. Đành lòng, bất kì cái gì cũng phải cải tiến nếu nó quá lạc hậu, khi cái gì tồn tại quá lâu, nó xuất hiện bất cập, điều hiển nhiên. Tiếng Việt cũng vậy, nhưng trong ngôn ngữ mà nói, sự bất cập không hề xảy ra với cách phát âm, nó liên quan đến ngữ nghĩa nhiều hơn. Mà sự biến hóa của ngữ nghĩa không phải là một bất cập mà là sự đa dạng, muôn màu, đầy sáng tạo của tiếng nói dân tộc. Cho dù có cải tiến chữ viết, ngữ nghĩa cũng không bị ảnh hưởng, nó vẫn phát triển mỗi ngày, mỗi vùng mỗi khác. Cũng giống như thời gian khiến cái cũ trở thành dĩ vãng và sinh ra cái mới, từ vựng cũng thế, ký tự chỉ thể hiện ngữ nghĩa của từ vựng đó chứ không thể bó hẹp ngữ nghĩa đó lại. Vậy nên sự đổi mới ký tự quả thực không cần thiết, nếu không muốn nói là lố bịch.
3. Đúng là thời đại này là thời đại của hội nhập. Chúng ta tiếp thu văn hóa và mang văn hóa của mình tiến ra bên ngoài. Nhưng riêng chữ viết thì không. Chữ viết là đại diện của hồn dân tộc, là sự tự hào, tự tôn của con người Việt Nam. Nếu ngay cả chữ viết cũng bị biến thành thứ chung thì còn đâu hồn Việt nữa? Giống như người Nhật, họ có tự tôn dân tộc rất cao. Họ Nhật hóa văn minh của người khác để nhân dân họ có thể dễ dàng tiếp nhận. Còn cách viết mới mà Tiến sĩ đề bạt chẳng khác nào teencode đang bị cộng đồng viết ném đá.
4. Một điều quan trọng mà cách của Tiến sĩ đưa ra trở nên quá xa vời nữa là: Để kiểu viết mới được ban hành rộng rãi, trước hết tầng lớp học sinh phải là người tiếp nhận đầu tiên. Như vậy tất cả sách giáo khoa sẽ phải thay mới, những môn học khác thì không nói đi, nhưng riêng môn ngữ văn sẽ phải xử lí thế nào? Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên có sống lại cũng chưng hửng. Những vần thơ mà họ gieo sẽ trở nên buồn cười thế nào với cách viết mới đây? Rồi cứ coi như học trò là thế hệ trẻ thông minh và dễ tiếp nhận cái mới đi, còn những bậc phụ huynh sẽ thế nào? Rồi những tầng lớp bình dân khác? Chiến tranh qua đi chưa được bao lâu và hệ lụy của nó vẫn còn, số người thất học vẫn không nhỏ, những người đó phải làm thế nào trước thứ ký tự mới mẻ, xa lạ và quái gở này đây? Đành lòng là đề xuất thì phải có lý luận hẳn hoi nhưng tưởng chỉ cần lý luận là đủ hả? Lý luận thì dễ thôi cái gì cũng nói được hết, nhưng làm sao phải phù hợp với tình hình trong nước và hòa nhập được với đại đa số người dân ngoài kia kìa.
Trong khi nền giáo dục Việt Nam thiếu những bài học thực tiễn, thực hành, những người xưng là tiến sĩ lại đưa ra những cải cách buồn cười chỉ với nền tảng lý luận suông nhảm nhí. Nền giáo dục dù có cải cách thế nào cũng không đi ra khỏi vòng tròn lý thuyết, mãi mãi cũng chỉ là lý thuyết mà thôi. Giống như tập trận trên giấy vậy.
 

nhóc_ ngọc

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
15/9/17
Bài viết
65
Gạo
0,0
Re: Thảo luận về đề xuất cải tiến tiếng Việt của PGS.TS. Bùi Hiền
Không phải là mình "ba phải" nhưng cái gì cũng có hai mặt của nó, đề xuất của PGS.TS. Bùi Hiền chính là một điển hình, đừng nên vội cho ý kiến của bản thân là đúng, hãy xem xem vấn đề mà mình đang thảo luận có ưu điểm nhiều hơn hay nhược điểm nhiều hơn.
Cuối cùng mình vẫn đồng tình với ý kiến của Đạp Nguyệt Lưu Hương và reddye hơn. Phát triển không có nghĩa là thay đổi. Thay vì thay đổi ngôn ngữ Tiếng Việt thì nên giữ gìn bản sắc vốn có nó. (Mình nghĩ đó là một vấn đề dân tộc). Hãy biết tự hào về ngôn ngữ dân tộc mình đang có.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Hexagon

-trong sáng-
Tham gia
6/12/13
Bài viết
4.042
Gạo
320,0
Re: Thảo luận về đề xuất cải tiến tiếng Việt của PGS.TS. Bùi Hiền
Còn cách viết mới mà Tiến sĩ đề bạt chẳng khác nào teencode đang bị cộng đồng viết ném đá.
Như mình nói ở trên, đề xuất dựa trên lý luận rõ ràng chứ không phải tùy ý thay đổi.
Mình ví dụ nhé: Tại sao âm "Nhưng" lại viết là "Nhưng" chứ không phải là "N'ưq" theo cách viết mới.
Tức là ở đây, bạn không biết vì sao phải là nh thay vì n', tại sao phải là ng thay vì q. Mọi người đang phản đối là vì khó tiếp nhận cái mới do cái cũ đã quen thuộc chứ không phải phản đối vì nó phản khoa học.

những môn học khác thì không nói đi, nhưng riêng môn ngữ văn sẽ phải xử lí thế nào?
Với cách viết mới, thì đọc lên vẫn vậy, chỉ khác về mặt chữ viết thôi.


Tóm lại là, đề xuất thay đổi bỏ hết các phụ âm được ghép bởi 2 chữ cái, dùng 1 kí tự thay thế cho những phụ âm đó, thêm một vài nguyên tắc để mọi thứ được đồng nhất. Cách đọc, cách nói hàng ngày vẫn không thay đổi.

Tiếp tục 1 ví dụ nữa để thể hiện tiếng Việt chưa chuẩn: Tại sao lại là tỉnh Đắk Lắk chứ không phải Đắc Lắc. Tại sao cùng phát âm là "đắc" mà lại viết là "Đắk" và "Đắc", 2 cách viết này khác nhau ở điểm nào về mặt ý nghĩa?

Với cách viết theo đề xuất của giáo sư thì không còn bất cứ vấn đề xung đột như này nữa.


Mình bổ sung thêm một chi tiết thú vị không phải ở Việt Nam.
Người tạo ra giao thức web đã quy định là "http://", sau này ổng ân hận vì đã để thêm 2 dấu // vô nghĩa vào vì nó chẳng có vai trò gì hết trong khi lại làm tốn thêm bao nhiêu giấy mực của thế giới. Tức nếu có cũng được - không có cũng được thì không có sẽ tốt và tiện hơn.

Cách đề xuất của giáo sư trên cũng theo hướng này thôi. Tiện và gọn hơn sẽ tốt hơn.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Hexagon

-trong sáng-
Tham gia
6/12/13
Bài viết
4.042
Gạo
320,0
Re: Thảo luận về đề xuất cải tiến tiếng Việt của PGS.TS. Bùi Hiền
Cũng tiện cùng đề tài, mình đăng bài này để mọi người tham khảo:

Nguồn Gốc Chữ Quốc ngữ

A. Đại Cương.

Danh từ chữ Quốc ngữ hay chữ Việt, người Việt chúng ta đã dùng từ lâu, mặc dù nó không được chính danh. Bởi vì danh từ chữ Quốc ngữ là danh từ chung, chỉ cho các thứ chữ của một nước, chẳng hạn chữ Nôm ( 1 ) cũng là chữ Quốc ngữ của nước ta, nhưng do chúng ta dùng lâu đã quen, nên danh từ chữ Quốc ngữ để chỉ cho chữ viết chúng ta dùng ngày nay. Chữ nầy thoạt đầu do những vị giáo sĩ Tây phương truyền đạo tại Việt Nam, họ mượn mẫu tự La tinh, ghép lại để ghi âm địa danh và nhân vật địa phương, từ đó nó đã trải qua các thời kỳ hình thành chữ Quốc ngữ, qua quá trình hình thành, nó đã được sự đóng góp của người Việt cũng như người ngoại quốc, phần chính vẫn là người Việt chúng ta.

Sự hình thành chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm ba thời kỳ :

* Thời kỳ sáng tạo từ năm 1621.
* Thời kỳ xây dựng năm 1651.
* Thời kỳ phát triển từ năm 1867.

Chúng ta biết rằng, khoảng giữa thế kỷ XVI, lúc ấy nước ta chia thành Nam, Bắc triều. Năm 1533, có giáo sĩ Irigo (I-Nê-Khu), người Âu, theo đường biển vào nước ta ở Đàng Ngoài, tại Nam Định để giảng đạo. Năm 1596, giáo sĩ Diago Advarte đến Đàng Trong ở một thời gian rồi bỏ đi, cho đến năm 1615, giáo sĩ Francesco Buzomi đến lập Giáo Đoàn Đàng Trong (Mission de la Cochinchine), đến năm 1627, giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) mới lập Giáo Đoàn Đàng Ngoài (Mission de Tonkin).

Cả hai giáo đoàn nầy đều thuộc Dòng Tên, có một trung tâm truyền giáo ở Áo Môn (Macao - Trung Quốc), vì trước kia người Bồ Đào Nha sang Trung Hoa buôn bán, họ ở bán đảo Schangch'nan thuộc Quảng Châu, vào khoảng năm 1557, có bọn cướp biển trú ẩn ở Áo Môn, thường hay khuấy nhiễu Quảng Châu, nên người Trung Hoa nhờ các thương gia Bồ Đào Nha dẹp bọn cướp biển ấy, sau khi dẹp xong bọp cướp, người Bồ Đào Nha xin phép nhà cầm quyền Trung Hoa cho họ trú ngụ ở bán đảo Schangch'nan và Áo Môn, mỗi năm họ đóng thuế cho chánh quyền Trung Hoa, cho đến thế kỷ XX Áo Môn vẫn còn thuộc Bồ Đào Nha.

Thuở đó, các nhà truyền giáo Tây phương muốn sang Viễn đông, họ đều theo các thương thuyền Bồ Đào Nha, cho nên họ chọn Áo Môn làm trung tâm truyền giáo để hoạt động ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam, nơi ấy có cả một Viện thần học " Madre de Dieux " (Mẹ Đức Chúa Trời).

Do đó các giáo sĩ người Âu thường từ Áo Môn sang Đàng Ngoài hay Đàng Trong và ngược lại, họ thường dùng ngôn ngữ Bồ Đào Nha để giao dịch với nhau, những phúc trình truyền giáo hay thư từ gửi về La Mã có khi họ viết chữ Bồ, có khi họ viết chữ La Tinh.

B. Sự Hình Thành Chữ Quốc Ngữ

I.- Thời Kỳ Sáng Tạo Chữ Quốc Ngữ

Không phải chữ Quốc ngữ hình thành do sự ngẫu nhiên từ những chữ phiên âm tiếng Việt, thực ra chữ Quốc ngữ hình thành theo hướng chung của các giáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh hóa các chữ Á Đông nằm trong địa bàn truyền giáo của họ.

Thật vậy, tại Trung Hoa, Hoa ngữ được các nhà truyền giáo dùng mẫu tự La Tinh phiên âm trước nhất, công việc nầy do hai giáo sĩ Dòng Tên là Micac Ruggieri và Matteo Ricci đã soạn quyển Ngữ vựng hay Tự vựng Bồ-Hoa, quyển nầy mỗi trang chia làm 3 cột : chữ Bồ, chữ Hán, phiên âm Hoa ngữ, tài liệu nầy soạn khoảng năm 1584-1588, bảng viết tay còn lưu trử tại văn khố Dòng Tên ở La Mã (Rome).

Năm 1598, giáo sĩ Ricca và Cateneo đã dùng ký hiệu để ghi các thanh Hoa ngữ.

Tại Nhật Bản, các tác phẩm chữ Nhật đã được La tinh hóa, từ năm 1592 đến năm 1596 có đến 10 tác phẩm loại nầy được in ra, hai tác phẩm quan trọng sau đây đáng được nhắc đến:

1) Cuốn Giáo lý ghi bằng tiếng Nhật theo mẫu tự La Tinh có tên là : Dotrina Jesus no Compania no Collegio Amacusa ni voite superiores no vou xi no comuni core no fan to nasu mono nari, Nengi, 1592.

2) Cuốn tự điển La - Bồ - Nhật: Dictionarium latino lusitanicum ac Japonium (In Amacusa in Collegia Japonico Societa Jesus, Anno 1595)

Ngoài ra còn có sách ngữ pháp Nhật được in theo mẫu tự a, b, c vào năm 1603-1604.

Tại Việt Nam, thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm 2 giai đoạn :

* Giai đoạn phiên âm.
* Giai đoạn cấu tạo câu.

1.- Giai đoạn phiên âm.

Về nguồn gốc, có lẽ câu sau đây là một dòng chữ xuất hiện đầu tiên, trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.

" Con gno muon bau tlom laom Hoalaom chian ".

Câu nầy, theo giáo sĩ Christofora Borri ( 2 ), là câu mà các giáo sĩ đàng trong đã dùng trước khi ông có mặt tại đây, nó có nghĩa là : Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng ?

Danh từ Hoa Lang, không rõ do đâu mà có, nhưng đó là danh từ do người Việt Nam thời bấy giờ dùng để chỉ cho người Bồ Đào Nha, và sau đó được dùng để gọi chung các nhà truyền giáo Tây Phương. Như vậy câu trên là câu các nhà truyền giáo Tây phương muốn hỏi một người Việt rằng : " Muốn vào đạo Thiên chúa chăng ? " Vì lẽ câu nói không diễn tả được rõ ý nên Linh mục Buzomi đã sữa lại như sau : " Muon bau dau Christiam chiam ? " ( Muốn vào đạo Christiang chăng ?).

Đây là câu trích trong quyển sách của Christoforo Borris xuất bản năm 1631 tại La Mã, viết bằng chữ Ý ( 3 ). Tuy vậy, chúng ta có thể coi những chữ phiên âm trong sách nầy đã được ông dùng trong thời gian từ 1618 đến 1621, là thời gian ông sống ở Đàng Trong.

Phiên âm : Nghĩa
Anam : An Nam
Tunchim : Đông Kinh
Ainam : Hải Nam
Kemoi : Kẻ mọi
Cacciam : Cả chàm (Kẻ Chàm)
Sinunua : Xứ Hóa ( Thuận Hóa)
Quamguya : Quảng Nghĩa
Quignin : Qui Nhơn
Dàdèn, lùt : Đã đến lúc
Dàdèn lùt : Đã đến lúc
Scin mocaij : Xin một cái
Chià : Trà
Cò : Có
.......
Onsaij : Ông sãi
Quanghia : Quảng Nghĩa
Nuoecman : Nước mặn
Da, an, nua : Đã ăn nữa,
Da, an, het : Đã ăn hết
Omgne : Ông nghè
Tuijciam,biet: Tui chẳng biết
Onsaij di lay : Ông Sãi đi lại
Bàncò : Bàn Cổ
Maa : Ma
Maqui, Macò : Ma quỉ, ma quái
Bũa : Vua
Chiuna : Chúa

Bản phúc trình của Linh mục João Roig viết bằng chữ Bồ Đào Nha tại Áo Môn ngày 20-11-1621, để gửi về La Mã, trong ấy có phiên âm vài danh từ như sau :

An nam : An Nam
Sinoa : Xứ Hóa
Usai : Ông Sãi
Ungne : Ông nghè
On trũ : Ông trùm
Ca cham : Ca chàm ( kẻ chàm, tức Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng Nam Dinh, thời ấy dân chúng gọi là Cả Chàm hay Dinh Chàm)
Nuocman : Nước Mặn
Bafu : Bà phủ
Sai Tubin : Sãi Từ Bình ( ? )
Banco : Bàn Cổ
Oundelinh : Ông Đề Lĩnh

Cùng năm ấy, Linh mục Gaspa Luis cũng viết một bảng tường trình bằng La văn tại Áo Môn ngày 12-12-1621 gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, để báo cáo về giáo đoàn Đàng Trong, trong ấy có dùng vài phiên âm :

Cacham : Kẻ chàm
Nuocman : Nước Mặn
Ongne, Ungué : Ông nghè
Bancô : Bàn Cổ

Đến ngày 16-6-1625, giáo sĩ Đắc Lộ có viết một lá thư bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas, trong ấy có vài phiên âm :

Ainão : Hải Nam
Tunquim, Tunquin : Đông Kinh

Thêm một tài liệu khác Gaspar Luis viết bằng La văn ngày 1-1-1626 tại Nước Mặn để gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, trong ấy có phiên âm một số địa danh và danh từ:

Fayfó : Hải phố (Fayfo : Hội An)
Cacham : Kẻ chàm
Nuocman : Nước Mặn
Pullocambi : ?
Dinh cham : Dinh chàm
Quanghia : Quảng Nghĩa
Quinhin : Qui nhơn
Ranran : Ran ran ( tức là sông Đà Rằng ở Phú Yên)
Bendâ : Bến đá
Bôdê : Bồ đề
Ondelimbay : Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedoc : Ông Đề đốc
Unghe chieu : Ông nghè Chiêu
Nhit la khaun, khaun la nhit : Nhứt là không, không là nhứt

Và Linh mục Antonio de Fontes người Bồ Đào Nha, đã có đến ở Đàng Trong năm 1624 và Dinh Chàm với Linh mục Pina và Đắc Lộ, cũng ngày 1-1-1626, Linh mục Fontes viết tại Hội An một bản tường trình bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi là Bề Trên Cả Dòng Tên ở La Mã, bảng tường trình nầy gồm có 3 phần, trong ấy cũng cho chúng ta biết thuở ấy giáo đoàn Đàng Trong có 3 cơ sở: Hội An, Kẻ Chàm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Qui Nhơn). Trong bảng tường trình nầy, có các phiên âm :

Digcham : Dinh Chàm
Nuocman : Nước Mặn
Quinhin : Qui Nhơn
Sinua, Sinuâ : Xứ Hóa
Orancaya : ?
Quan : Quảng (Quảng Nam)
Xabin : Xá Bình ?
Bếndá : Bến đá
Bude : Bồ đề
Ondelimbay: Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedóc : Ông đề đốc
Onghe Chieu : Ông nghè Chiêu
Nhít la khấu, khấu la nhít : Nhứt là không, không là nhứt
Dinh Cham : Dinh Chàm
Sinóa : Xứ Hóa

Ngày 13-7-1626, Linh mục Francesco Buzomi viết một lá thư chữ Ý gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, cách phiên âm có tiến triển phần nào, vì các danh từ ghi theo đơn âm như ngày nay, các chữ phiên âm trong bức thư nầy gồm có:

Xán tí : Xán tí (Thượng đế)
Thiên chu : Thiên chủ (Thiên chúa)
Thiên chũ xán tí : Thiên chủ thượng đế
Ngaoc huan : Ngọc hoàng

Cho đến năm 1631, có thêm hai tài liệu của Đắc Lộ: một vào ngày 16-1-1631, ông có viết một bức thư gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas ở La Mã , trong ấy chỉ tìm thấy có một chữ phiên âm Thinhũa : Thanh Hóa, và một bản văn khác thuật lại việc ông cùng Linh mục Pedro Marques tới cửa Bạng (Thanh Hóa) vào ngày 19-3-1627 cho đến lúc Linh mục Antonio F. Cardin đến Thăng Long ngày 15-3-1631 (trong chuyến đi ấy, có các Linh mục Gasparo d'Amiral, André Palmeiro, Antonio de Fontes), tài liệu nầy gồm 2 trang rưỡi chữ, viết trên giấy khổ 16 x 23 cm, trong ấy chỉ phiên âm có mấy chữ :

Sinoa : Xứ Hóa (thuận Hóa)
Anná : An nam
Sai : Sãi
Mía : Mía ( nhà tạm trú)

Những tài liệu phiên âm trên, cho chúng ta thấy phần nào sự manh nha hình thành chữ Quốc Ngữ trong các năm từ 1621 đến năm 1631. Trong mười năm đó, chúng ta thấy sự phiên âm không mấy tiến triển, chưa có sự thống nhất nào cả, chẳng hạn như danh từ xứ Hóa, họ đã phiên âm :

Sinoa (Jão Roig 20-11-1621)
Sinua, Sinuâ, Sinoá (Antonio de Fontes 1-1-1626)
Sinoa (Đắc Lộ 1631)

Danh từ Ông Nghè :

Omgne (Christoforo Borri 1618-1621)
Ungne (Jão Roig 20-11-1621)
Ongne, Ungué ( Gaspar Luis 12-12-1621)
Unghe (Gaspar Luis 1-1-1626)
Onghe (Antonio de Fontes 1-1-1626)

2.- Giai Đoạn Cấu Tạo Câu.

a.- Sự đóng góp của Gasparo d'Amiral

Giai đoạn kế tiếp được coi như khởi sự từ năm 1632 với những phiên âm của Gasparo d'Amiral, trong giai đoạn nầy, chúng ta thấy vai trò đóng góp cho sự hình thành chữ Quốc ngữ của Gasparo d'Amiral rất quan trọng, ông phiên âm có phương pháp. Tài liệu dẫn sau đây cho chúng ta thấy rõ Đắc Lộ đã theo phương pháp của ông để phiên âm trước khi dựa vào quyển tự điển Bồ Đào Nha - Annam cũng của ông, để Đắc Lộ soạn quyển tự vị "An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh "

Để hiểu rõ điều chúng tôi vừa đề cập tới, không gì hơn là chúng ta nhìn lại cuộc đời và vết đi của họ, chúng ta sẽ thấy ảnh hưởng của Gasparo d'Amiral đối với Đắc Lộ.

Gasparo d'Amiral sinh năm 1592 tại Bồ Đào Nha, gia nhập Dòng Tên ngày 1-7-1608, ông đã làm giáo sư dạy La văn, Triết học, Thần Học tại các học viện và đại học Evora, Braga, Coinbra ở Bồ Đào Nha.

Năm 1623, Gasparo d'Amiral đến Áo Môn, vào tháng 10 năm 1926, ông cùng với Thầy Paulus Saito (1577-1633 người Nhật) đến Đàng Ngoài cho đến tháng 5 năm 1630 cả hai cùng với Linh mục Đắc Lộ và Pedro Marques về Áo Môn. Ngày 18-2-1631 Gasparo cùng 3 Linh mục khác là André Palmeiro, Antonio de Fontes và Antonio F. Cardim từ Áo Môn đáp tàu Bồ Đào Nha đến cửa Bạng (Thanh Hóa) và đến ngày 15-3-1631, các Linh mục nầy mới đến Kẻ Chợ (Thăng Long).

Sau đó Linh mục Palmeiro và Fontes trở về Áo Môn còn Amiral và Cardim ở lại tiếp tục công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài. Năm 1638, Linh mục Amiral được gọi về giữ chức Viện Trưởng Viện thần học tại Áo Môn, như vậy ông đã ở Đàng Ngoài được 7 năm.

Đến năm 1641, ông được cử làm Phó Giám Tỉnh Dòng Tên hai tỉnh Nhật và Trung Hoa (gồm các nước Nhật, Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Thái Lan và Trung Hoa - Áo Môn, Quảng Đông, Quảng Tây). Năm 1645, ông đáp tàu từ Áo Môn đi Đàng Ngoài, khi tàu đến gần đảo Hải Nam bị đắm, do đó ông bị chết đuối vào ngày 23-12-1645.

Trong 7 năm ở Đàng Ngoài, Gasparo d'Amiral còn để lại 2 tài liệu liên quan đến chữ Quốc Ngữ. Tài liệu 1, ông viết bằng Bồ văn tại Kẻ Chợ vào ngày 31-12-1632 nhan đề: " Annua do reino de Annam do anno de 1632, pera o Pe André Palmeiro de Compa de Jesu, Visitator das Provincias de Japan, e China " ( Bảng tường trình hàng năm về nước An nam năm 1632, gửi cha André Palmeiro, Dòng Tên, giám sát các tỉnh Nhật và Trung Hoa). Tài liệu nầy hiện lưu trử tại văn khố Dòng Tên La Mã, trong đó có một số phiên âm như sau:

Tun kim : Đông Kinh, chỉ cho xứ An Nam
Đàng tlão : Đàng Trong
Đàng ngoày : Đàng Ngoài
Đàng tlên : Đàng trên
Oũ nghe : Ông nghè
nhà thượng dày: nhà thượng đài
nhà ti, nhà hién : nhà ti, nhà hiến
nhà phũ : nhà phủ
nhà huyẹn : nhà huyện
oũ khơũ : Ông Khổng ( Khổng Phu Tử)
Đức laõ : Đức Long; niên hiệu Đức Long (1629-1634)
Vĩnh Tộ : Vĩnh Tộ; niên hiệu Vĩnh Tộ (1620-1628)
Bua : Vua
Tế Kì đạo : Tế kỳ đạo
Đức vương : Đức Vương
Chúa oũ : Chúa Ông ( tức Trịnh Tráng)
Chúa tũ, chúa dũ, chúa quành : Chúa Tung (Trịnh Vân; Tung Quận Công)
Chúa Dũng (Trịnh Khải; Dũng Quận Công)
Chúa Quỳnh ( Trịnh Lệ; Quỳnh quận công)
Chúa cả : Chúa cả (Trịnh Tạc, vào thời nầy Đàng Ngoài có 5 chúa là : Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Vân, Trịnh Khải, Trịnh Lệ mà chỉ 2 chúa có quyền hành mà thôi)
Thanh đô vương : Thanh Đô Vương
Chúa triết : Chúa Triết (Trịnh Tùng)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (Thăng Long)
yêu nhău : yêu nhau
oũ phô mả liêu : Ông Phò Mã Liêu (con rễ Trịnh Tráng)
Đàng Ngoằy : Đàng Ngoài
Quãng : Quảng
Tàm đàng : Tàm Đàng
Bên đoũ đa : Bên Đống Đa
tày : Tầy
lằng bôũ bàu : làng Bông Bầu
Cô bệt : Cô Bệt
Tri yếu : Tri yếu
kẻ hằii : kẻ hầu
ăn dương huyẹn : An Dương huyện
coũ thằn : công thành
Thíc ca : Thích Ca ( Phật)
Phổ lô xã : Phổ lô xã
Sãy uãy : Sải vải
Hộy ăn xả : Hội An xã
huyẹn uịnh lạy : huyện Vĩnh Lại
Thầi uăn Chật : Thầy Văn Chật
làng Kẻ tranh xuyên : Làng Kẻ Tranh Xuyên
Kẻ trãng : Kẻ Trang
Sấm phúc xả : Sấm Phúc xã
Nghỹa ăn xả : Nghĩa An xã
huyẹn bạyc hặc : Huyện Bạch Hạc
thầi phù thủi : Thầy phù thủy
Oũ jà nhạc : Ông già Nhạc
Oũ phu mã kiêm : Ông Phò mã Kiêm
bà : bà (?)
chúa bàng : chúa Bằng
thăn khê : Thanh Khê
hàng bè : hàng Bè
hàng bút : hàng Bút
cữa nam : cửa Nam
kẻ ăn lẵng : kẻ An lãng
hàng nấm : hàng nắm
đinh hàng : Đinh hàng
càii iền : Cầu Yên
hàng thuõc : hàng thuốc
oũ đô đốc hạ : Ông Đô Đốc Hạ
Oũ phũ mã nhăm : Ông Phò mã Nhâm
Oũ chưỡng hương : Ông chưởng Hương
Thầi : Thầy
đức oũ hồe : Đức ông Huề
thuyèn thũỉ : thuyền thủy
Quãng liẹt xã : Quãng liệt xã
giỗ : giỗ
chặp : chạp
mă : ma
kẽ uạc : kẻ Vạc
cỗ : cỗ
oũ chưỡng quế : ông chưởng Quế
tình : tình
nhũộn : nhuận
tháng : tháng
cốt bõý : cốt bói
Kẽ lăm huyẹn toũ sơn : kẻ Lâm, huyện Tống Sơn
Nghệ an : Nghệ An
Bố chính : Bố chính
thuặn hốe : Thuận Hóa
huyẹn nghi xuon : huyện Nghi Xuân
huyẹn Thinh Chương : huyện Thanh Chương
làng cầii : làng Cầu
nhà nga : nhà nga
đậii xá : đậu xá
vàng may : Vàng May
đức bà sang phú : đức bà sang phú
oũ bà phủ : ông bà phủ
kẽ mộc : kẻ Mộc
kẽ bàng : kẻ Bàng
an nam : An Nam

Tài liệu thứ hai cũng soạn bằng Bồ văn tại kẻ Chợ ngày 25-3-1637, có nhan đề: " Relacam dos Catequista da Christamdade de Tumk e seu modo de proceder pera o Pe Manoel Dias, Vissitador de Jappão e China " (Tường thuật về các Thầy giảng của giáo đoàn Đàng Ngoài và về cách thức tiến hành của họ, gửi cha Manoel Dias, giám sát Nhật Bản và Trung Hoa), tài liệu nầy hiện lưu trử tại Văn Khố Hàn Lâm Viện Sử Học Hoàng Gia Madrid Bồ Đào Nha. Gồm có một số phiên âm sau đây :

Sãy : Sãi
đức : đức
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô
thầy : thầy
định : định
nhin : Nhơn (tên)
Nghệ an : Nghệ an
lạy : lạy
tri : Tri (tên)
bùi : Bùi (tên)
Quang : Quảng (tên)
tháng : Thắng (tên)
Coũ thàn : Công Thành
Sướng : Sướng (tên)
đàng ngoài : Đàng Ngoài
già : Già (tên)
Vó : Vó (tên)
nân : Nân (tên)
lồ : Lồ (tên)
đôủ thành : Đông thành (tên)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (tên)

Trong hai tài liệu nầy, tài liệu thứ nhất có gần 400 chữ phiên âm, chưa được thống nhất cách dùng mẫu tự ghi âm. Ví dụ :

Âm a ghi ă (Hội ăn xã) hay ghi a (Nghệ an)
Âm ò ghi ô (oũ phô mả liêu) hay ũ (oũ phũ mả kiêm)
Có một số âm, phụ âm, dấu giọng không như ngày nay :
Các âm â ghi ă (hàng nấm)
----------- ê - e (huyẹn, hién)
----------- y - i (thầi)
----------- o - õ (bõy)
--------- âu - ăii (hầu)

Các phụ âm : ng ghi ũ (oũ)
----------------- ch - yc (bạyc)

Các dấu giọng : ? ghi ~ (cữa nam, phũ)
------------------- ~ - ? (Sấm phú xả, Nghỹa ăn xả)

Tuy nhiên Gasparo d'Amiral cũng ghi được các âm như ngày nay :

a (nghệ an ) ă (hàng nắm) â (thầi)
ê ( nghệ) ô (giỗ) ơ (chợ)
i (nghi xuôn) u (yêu nhău) ư (thương, vương)

Có đủ dấu giọng:

không dấu (nam, đô)
� (Thíc ca)
` (thầi phù thũi)
? (chúa cả)
~ (giỗ)
. (vĩnh tộ)

Tài liệu thứ hai viết sau 5 năm, một số chữ viết ngày nay giống y như vậy: đức, chúa thanh đô, thầy, Nghệ an, lạy, định ... Do đó chúng ta thấy Gasparo d'Amiral ghi âm tiến bộ hơn các giáo sĩ khác, đó cũng là điều dĩ nhiên bởi vì từ tài liệu của Jão Roiz hay Gaspar Luis viết từ năm 1621, đến tài liệu thứ nhất của Gasparo d'Amiral có khoảng cách biệt trên 10 năm.

b.- Sự đóng góp của Linh mục Đắc Lộ.

Linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), người được Pháp đề cao đã sáng chế ra chữ Quốc Ngữ, mang lại sự khai hóa cho dân tộc Việt Nam, với chiêu bài nầy để che đậy hành động thực dân, xâm chiếm lãnh thổ và cai trị hà khắc dân tộc chúng ta. Để hiểu rõ vấn đề nầy, chúng ta cần lướt qua tiểu sử và hành trình truyền giáo của Đắc Lộ.

Đắc Lộ sinh ngày 15-3-1591 tại Comtat Venaissin, tỉnh Avignon, miền Nam nước Pháp, tổ tiên ông gốc Do Thái. Tổ phụ của ông đã di cư từ Tây Ban Nha sang Avignon vào giữa thế kỷ XVI, thân sinh ông là Benadin II de Rhodes, được liệt vào hàng thân hào, nhân sĩ trong vùng.

Đắc Lộ gia nhập Dòng Tên ở La Mã ngày 14-4-1612, học tập chuyên về thần học và toán học tại học viện Saint André du Quirinal, thụ phong linh mục tại La Mã năm 1618. Cũng trong năm nầy, ông được phép sang Đông Nam Á truyền giáo, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Đào Nha, rồi từ đây đáp tàu đi Áo Môn ngày 04-4-1619, vì có ghé qua Goa (Ấn Độ) nên ông đến Áo Môn ngày 29-5-1623, ông đặt chân lên Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1624 tại Đà Nẳng, cùng với các linh mục Gabriel de Mattos và một giáo sĩ Nhật.

Đắc Lộ đến cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm thuộc Quảng Nam Dinh, nơi đây có Linh mục Francisco de Pina (sinh năm 1585 tại Bồ Đào Nha, đến Đàng Trong năm 1617 và chết đuối ở Quảng Nam năm 1625) và Antonio de Fontes (đến Đàng Trong tháng 12 năm 1624), tại đây Đắc Lộ học tiếng Việt với Francisco de Pina, tháng 7 năm 1626 ông rời Đàng Trong về Áo Môn, ngày 19-3-1627, ông cùng với Linh mục Pierre Marquez đến của Bang ( Thanh Hóa), ở đây, hai ông có yết kiến Trịnh Tráng, rồi sau đó theo chúa Trịnh ra Thăng Long, thời gian nầy hai Linh mục lập giáo đoàn Đàng Ngoài, tháng 5 năm 1630, chúa Trịnh cấm đạo, trục xuất các giáo sĩ, Đắc Lộ trở về Áo Môn.

Từ năm 1630 đến năm 1640, Đắc Lộ dạy thần học ở học viện thần học Áo Môn. năm 1640, ông được cử đến Đàng Trong làm Bề Trên, thay thế Linh mục Buzomi vừa từ trần tại Quảng Nam Dinh, ông ở đây cho đến ngày 3-7-1645, bị bắt buộc phải rời cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm, theo lệnh của quan Cai bộ áp dụng án trục xuất các giáo sĩ của chúa Nguyễn. Kể từ đó, ông rời hẳn nước Việt Nam, trở lại Áo Môn ông dạy tiếng Việt ở Học viện Thần Học, ngày 20-12 năm 1645 ông đáp tàu từ Áo Môn đi Âu Châu, nhằm mục đích vận động thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam.

Ngày 16-11-1654,Toà thánh La Mã cử Đắc Lộ làm Bề Trên của phái đoàn truyền giáo ở Ba Tư. Đầu tháng 11-1655, ông đáp tàu từ Marseille đi Ispaham thủ đô Ba Tư, và tại đây ông đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5 tháng 11 năm 1660.

Giai đoạn trước, giáo sĩ Đắc Lộ có để lại 3 tài liệu về chữ Quốc Ngữ vào năm 1625 và 1631 đã dẫn ở trên và giai đoạn sau nầy, ông cũng để lại 3 tài liệu khác viết vào các năm 1636, 1644, 1647.

Tài liệu năm 1634, viết tay có nhan đề: " Tunchinenois Historiae libri duo quorum altero status temporalis hujus Regni, altero mirabiles evangelicae praedications progressus refuruntur. Coeptae per Patres Societatis Jesu, ab Anno 1627 ad Annum 1636 " ( Lịch sử Đàng Ngoài và những bước tiến triển lớn lao mà phúc âm rao giảng đã làm ở nước nầy để cải hóa lương dân, từ năm 1627 đến năm 1636) Bản nầy ghi bằng La văn gồm 2 quyển, lưu trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã.

Các chữ phiên âm trong quyển một.

Tung : Đông
kin : kinh
Annam : An Nam
Ai nam : Hải Nam
Chúacanh : Chúa Canh
Che ce : kẻ Chợ (Thăng Long)
Chúa bàng : Chúa Bàng (đúng ra là Bình; Bình An Vương Trịnh Tùng)
Chúa õu : Chúa ông
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô ( Thanh Đô Vương Trịnh Tráng)
uuan : vương
min : minh
bát min : bất minh
thuam : thuận
uan : văn
uu : vũ
gna ti : nhà ti
gna hien : nhà hiến
Cai phu : cai phủ
Cai huyen : cai huyện
Bua ; vua
den : đền
sin do : sinh đồ
huan cong : hương cống
tin si : tiến sĩ
tam iau : tam giáo
dạu nhu : đạo nhu (nho)
dạu thíc ; đạo thích
Thicca, Thic ca, Thiccả : Thích ca
Sai : Sãi
sai ca : Sãi cả
lautu : Lão tử
Giô : giỗ
Cu hồn : Cô hồn
ba hon : ba hồn
Chin via : Chín vía
dum : Đồng (tên)

Các chữ phiên âm trong quyển hai

Cửa bang : Cửa Bạng (Thanh Hóa)
Phạt : Phật
bụt : Bụt
dang : Đàng
ciiia oũ : chúa ông
ciiia ban uuan : chúa Bằng vương
ciii sai : chúa Sãi
ciii canh : chúa canh
thinh hoa : Thanh Hóa
thai : thầy
sai vai : Sãi Vãi
Che vich : kẻ vích (cửa Vích, cửa sông ở phía Bắc Thanh Hóa)
Che no : Kẻ Nộ
Gne an : Nghệ An
bochin : bố chính
Rum : Rum
kiemthuong : Kiêm Thượng
Phuchen : Phục chân
cà : Cà
cã : cả
cá : cá
tlẽ : trẻ
tle : tre

Tài liệu năm 1644, Đắc Lộ viết bằng Bồ văn tại Thanh Chiêm, nhan đề: " Relacão do glorioso Martirio de Andre Cathequista Protomartir de Cochinchiana alanceado, e degolado em Cachão no 26 de Julho de 1644 Tendo de Idade dezanove annos " ( Tường thuật cuộc tử đạo vinh hiển của Thầy giảng An-Rê, vị tử đạo tiên khởi ở Đàng Trong, đã bị đâm chém tại kẻ Chàm ngày 26-7-1644, tử đạo lúc 19 tuổi), tài liệu nầy có những chữ phiên âm và câu phiên âm :

Ounghebo, Oũnghebo : Ông Nghè Bộ

Giũ nghĩa cũ d chúa Jesu cho den het hoy, cho den blon doy : Giữ nghĩ cùng đức chúa Jesu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời.

Tài liệu năm 1647, Đắc Lộ viết bằng La văn tại Macassar ngày 4-6-1647 có nhan đề : " Alexandre Rhodes è Societate jesu terra marique decẽ annorũ Itinerarium " ( Cuộc hành trình mười năm trên bộ, dưới biển của Đắc Lộ thuộc Dòng Tên), tài liệu nầy có các phiên âm như sau:

Ciam : Chàm
Ranran : Ran ran
Ké han : Kẻ Hàn
On ghe bo : Ông nghè Bộ
ke cham : kẻ Chàm
halam : Hà Lan
Cai tlam, Caitlam : Cát Lâm
ben da : Bến đá
Qui nhin : Qui Nhơn
Nam binh : Nam Bình
Bao bom : Bầu vom
Quan Ghia : Quảng Nghĩa
Nuoc man : Nước Mặn
bau beo : Bầu Bèo (?)
liem cum ; Liêm công
Quanghia : Quảng Nghĩa
Baubom : Bầu Vom
bochinh : Bố chính
Oũ ghe bo : Ông nghè Bộ

Sau khi đối chiếu tiểu sử của Gasparo d'Amiral và Đắc Lộ cùng các tài liệu phiên âm như trên, chúng ta có nhận định sau :

1) Linh mục Gasparo d'Amiral phiên âm có tự dạng gần với chữ Việt chúng ta viết ngày nay, hơn là các phiên âm của Đắc Lộ, thử so sánh :

Tài liệu Gasparo d'Amiral 1632 : Tài liệu Đắc Lộ 1636

----------------- Thanh đô vương -------- thanh đô
----------------- Nhà ti --------------------- gna ti
----------------- Nhà hién ----------------- gna hien
----------------- Nghệ ăn, nghệ an ------ Gne an
----------------- Bố chính ----------------- bochin

2) Gasparo d'Amiral phân biệt được một số dấu giọng như đã vạch ra ở phần trước, trong khi Đắc Lộ lại ít dùng dấu giọng.

3) Ngay trong cách phiên âm của Đắc Lộ, tài liệu sau phiên âm kém hơn tài liệu trước. Trái lại, Gasparo d'Amiral phiên âm tài liệu năm 1637 khá hơn tài liệu năm 1632.

Năm 1632, bảng tường trình của Gasparo d'Amiral gửi cho Linh mục André Palmeiro, giám sát các tỉnh Nhật, trung Hoa lúc đó Đắc Lộ cũng ở tại Áo Môn (1630-1640), là người tha thiết với các giáo đoàn truyền giáo tại Việt Nam, chắc chắn Đắc Lộ có xem qua bảng tường trình nầy.

Từ năm 1638-1645 Gasparo d'Amiral ở tại Áo Môn, như vậy họ đã có thời gian ở bên nhau 2 năm 1638-1640, rồi tháng 7 năm 1645 đến 20-12-1645 Đắc Lộ từ Việt Nam trở lại Viện Thần Học Áo Môn, phụ trách dạy tiếng Việt, còn Gasparo d'Amiral đã soạn quyển Tự vựng Việt La, như vậy cả hai có thêm thời gian ở bên cạnh nhau, lại cùng hoạt động chung bộ môn tiếng Việt, điều đó cho ta thấy chắc chắn Đắc Lộ có chịu ảnh hưởng của Gasparo d'Amiral về lãnh vực tiếng Việt.

Tài liệu Đắc Lộ viết năm 1647 tại Macassar, chứng tỏ rằng sau khi ông rời Việt Nam ngày 20-12-1645, ông vẫn chưa có được một hệ thống phiên âm vững chắc và gần gủi với chữ Quốc ngữ ngày nay.

c.- Sự đóng góp của Linh mục Antonio Barbosa

Antonio sanh năm 1594 tại ville de Arrifana de Sonza, Bồ Đào Nha, gia nhập Dòng Tên vào ngày 13-3-1624. Năm 1629, ông được cử đến truyền giáo ở Đàng Trong và đến tháng 4 năm 1636, ông có đến Đàng Ngoài truyền giáo. Cho đến tháng 5 năm 1642, vì lý do sức khỏe, ông phải trở về Áo Môn tịnh dưỡng. Cũng do tình trạng sức khỏe không tốt nên sau một thời gian tịnh dưỡng, ông rời Áo Môn đi Goa và ông đã từ trần trên đường đến Goa năm 1647.

Mặc dù ngày nay Antonio không có để lại tài liệu Quốc ngữ nào, nhưng Đắc Lộ đã cho biết : " Tôi lợi dụng công việc của các giáo sĩ khác cũng thuộc Dòng Tên, nhất là của Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa. Cả hai ông nầy, mỗi ông đều làm một cuốn tự điển. Ông Gasparo d'Amiral làm cuốn Annamiticum - Lusitanium; ông Antonia Barbosa làm cuốn Lusitanum - Annamiticum. Nhưng tiếc rằng cả hai ông đều chết sớm. Tôi lợi dụng công việc của cả hai ông viết ra cuốn tự điển mới, có chua thêm tiếng La tinh, mục đích để giúp người bản xứ học tiếng La tinh theo lệnh của các đức hồng y." ( 4 )

d.- Sự đóng góp của người Việt

Dù sao, khởi thủy chữ Quốc ngữ hình thành cũng nằm trong mục đích chánh là phương tiện truyền giáo cho các giáo sĩ thuộc Dòng Tên ở Việt Nam. Bên cạnh các giáo sĩ, giáo dân Việt Nam thời đó không nhiều thì ít cũng có đóng góp trong lúc hai linh mục Gasparo và Antonio soạn hai quyển tự điển của họ, điều đó tuy không có chứng cứ, nhưng theo suy luận hợp lý, cho phép chúng ta tin như vậy.

Ngoài ra trong thời kỳ nầy còn có tài liệu của 14 giáo dân Việt Nam ghi bằng chữ Quốc ngữ, về việc họ xác nhận tán đồng ý nghĩa mô thức rửa tội, do 31 linh mục Dòng Tên thảo luận ở Viện Thần Học tại Áo Môn năm 1645

Tài liệu nầy là một bản La văn do các linh mục Dòng Tên soạn, để trả lời cho Linh mục Sebastião de Jonaya, nhan đề: " Cirra formam Baptismi Annamico Idiomate prolatam' ( Chung quanh mô thức rửa tội bằng thổ ngữ An Nam). Phần chữ Quốc ngữ của 14 giáo dân Việt Nam ghi như sau:

" Nhin danh Cha uà con uà Su-phi-ri-to-sang-to í nài An-nam các bỏn đạo thì tin ràng ra ba danh ví bàng muốn í làm một thì phải nói nhin nhít danh cha etc.- tôy là Giu ão câi trâm cũ nghi bậi - tôy là An re Sen cũ nghi bậi - tôy là Ben tò vẫn triền cũ nghi bậi - tôy là Phe ro uẫn nhit cũ nghi bậi - tôy là An jo uẫn tãu cũ nghi bậi - tôy là Gi-ro-ni-mo cũ nghi bậi - tôy là I-na sô cũ nghi bậi - tôy là tho-me cũ nghi bậi - tôy là Gi-le cũ nghi bậi - tôy là lu-i-si cũ nghi bậi - tôy là Phi-lip cũ nghi bậi - tôy là Do-minh cũ nghi bậi - tôy là An-ton cũ nghi bậi - tôy là Giu ão cũ nghi bậi " ( nhân danh Cha và con và Su-phi-ri-to Sang-to Spirito Santo ý nầy An nam các bổn đạo thì tin rằng ra ba danh. Ví rằng muốn ý làm mộy thì phải nói : nhân danh Cha vân vân. Tôi là Giu an Cai (?) Trâm cũng nghĩ vậy - Tôi là An rê Sen cũng nghĩ vậy - Tôi là Ben tô Văn Triều cũng nghĩ vậy - Tôi là Phê rô Văn Nhất cũng nghĩ vậy - Tôi là An gio Văn Tang cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi-rô-i-mô cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi le cũng nghĩ vậy - Tôi là lu-i-si cũng nghĩ vậy - Tôi là Phi líp cũng nghĩ vậy - Tôi là Đô Minh cũng nghĩ vậy - Tôi là An ton cũng nghĩ vậy - Tôi là Giu an cũng nghĩ vậy).

Như thế, chúng ta thấy rõ đây là một bản văn Quốc ngữ của 14 người Việt Nam xác nhận mô thức rửa tội năm 1645 của các linh mục Dòng Tên và đây là tài liệu cho chúng ta thấy sự đóng góp của người Việt Nam trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.

Qua so sánh, chúng ta có thể thấy rằng chữ Quốc ngữ năm 1645 chỉ giống chữ viết ngày nay khoảng 45%, và thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ khởi đầu từ năm 1621 đến đây đã chấm dứt, để chuyển sang thời kỳ kế tiếp.

Tưởng cũng nên nhắc lại, từ khi khởi đầu phiên âm cho đến khi hình thành chữ Quốc ngữ, không phải là sự ngẫu nhiên, bởi vì giáo đoàn truyền giáo Dòng Tên trước đó đã hoàn tất việc việc La tinh hóa chữ Nhật, để truyền giáo tại Nhật Bản. Nhật Bản cũng như Việt Nam ta, thuở đó mỗi nước đều có chữ Quốc ngữ biến chế từ chữ Hán, nước ta gọi là chữ NÔM, muốn biết chữ Nôm, đòi hỏi người ta phải am tường chữ Hán, chữ Hán vốn đã khó học rồi thì chữ Nôm lại càng khó hơn, chính vì thế mà các linh mục đã La tinh hóa chữ viết của Nhật cũng như Việt Nam, để cho công việc truyền giáo của họ được dễ dàng hơn.

*
II. Thời Kỳ Xây Dựng

1. Khái Quát.

Theo tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ, cho đến khi quyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum của Alexandre de Rhodes được in tại La Mã năm 1651, chữ Quốc ngữ đã bước sang giai đoạn mới. Giai đoạn nầy bắt đầu từ công trình của hai Linh mục Antonio Barbosa và Gasparo d'Amiral khi hai ông biên soạn Dictionarium Lusitanum - Annamaticum và Annamiticum - Lusitanum nhưng cả hai quyển nầy ngày nay chưa được khám phá.

Các nhà nghiên cứu cho rằng hai quyển tự điển vừa kể, có thể đã bị thất lạc do các cuộc di chuyển văn khố Dòng Tên từ Áo Môn qua Manila khoảng năm 1759-1760, và sau đó nhà cầm quyền Tây Ban Nha tịch thu các tài liệu ở văn khố Dòng Tên tại Manila vào khoảng năm 1770 đem về Madrid, nên ngày nay không tìm thấy vết tích 2 quyển tự điển nầy ở Áo Môn, Manila và ở Madrid cũng không tìm thấy chúng.

Linh mục Thanh Lãng có cho biết tại Tòa Thánh La Mã hiện có 2 cuốn tự điển do Linh mục Philipphé Bỉnh sao lục, không đề tên tác giả, đó là quyển : Dictionarium Annamiticum - Lusitanum ký hiệu Borg Touch 23 dầy 288 trang và Dictionarium Lusitanum - Annamiticum ký hiệu Touch 23 dầy 324 trang.

Philipphé Rosario Bỉnh sanh tại Hải Dương năm 1759, vào chủng viện năm 1775. Được phong Thầy Cả sau khi mãn khóa học.

Ngày 20-6-1796, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Đào Nha, tại đây ông theo dõi tình hình giáo hội và sáng tác gồm 23 tác phẩm gồm Bồ văn, La Tinh, Nôm và Quốc ngữ, trong số ấy có tác phẩm " Truyện An-nam Đàng ngoài chí Đàng trão ". Ông mất tại Lisbonne năm 1832.

Căn cứ vào công trình của Philipphé Bỉnh, vào những điều của Linh mục Thanh Lãng cho biết, chúng ta có thể đi đến kết luận là quyển Dictionarium Annamiticum - Lusitanum của Gasparo d'Amiral và Dictionarium Lusitanium - Annamiticum của Antonio Barbosa đều có ở tại Lisbonne nơi mà Philipphé Bỉnh đã ở và làm việc, nên ông đã sao chép lại quyển tự điển, nó cũng chứng tỏ rằng Linh mục Đắc Lộ đã mang 2 quyển sách trên từ Áo Môn về Âu châu, có lẽ trước tiên ông định in 2 quyển tự điển nầy, về sau ông đã dựa vào đó soạn và in ra quyển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, nên 2 quyển tự điển kia không cần thiết phải in nữa.

Chọn năm 1651 là năm đánh dấu sự hoàn tất công trình điển chế chữ Quốc ngữ, nhằm mục đích làm phương tiện truyền giáo của các giáo sĩ Tây Phương, bởi vì chẳng những quyển tự điển Dictionarium Annamiticum Lusitinum et Latinum được in mà còn có quyển " Cathéchismus " (Phép giảng tám ngày), cũng được in trong năm nầy.

2. Thời kỳ soạn thảo quyển tự điển An Nam - Bồ Đào Nha - LaTinh

Cho đến nay, chưa có tài liệu nào công bố thời gian và địa điểm Đắc Lộ đã soạn quyển Dictionarium Annamiticum Lusitinum et Latinum. Theo đoạn văn trích dịch ở trên, chúng ta biết rằng Đắc Lộ soạn quyển tự điển nầy dựa vào công trình hai quyển tự điển của Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa.

Nhưng công trình của 2 linh mục nầy không được in ra, chưa tìm thấy bản gốc, cũng chưa tìm thấy tài liệu nào cho biết thời gian biên soạn hay hoàn tất của chúng, để từ đó có thể giúp chúng ta xác định thời gian Linh mục Đắc Lộ soạn quyển tự điển của ông. Đặt ra vấn đề nầy để xác nhận thời điểm, trong những giai đoạn của tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.

Theo vết chân của Đắc Lộ, chúng ta biết ông có thể soạn quyển tự điển, trong khoảng năm 1630-1640 là thời gian ông dạy thần học ở Học viện thần học tại Áo Môn. Nhưng mà thời gian nầy không chắc Linh mục Antonio Barbosa đã soạn xong quyển Tự điển Bồ Đào Nha - An Nam, vì thời gian 1620-1642 ông đang truyền giáo Đàng Trong rồi Đàng Ngoài, thời gian nầy Linh mục Antonio học hỏi tiếng Việt, và từ năm 1642 đến năm 1647 ông có ở Áo Môn để dưỡng bệnh, có lẽ thời gian nầy Linh mục Antonio đã biên soạn và hoàn tất quyển tự điển của mình trước tháng 12 năm 1645.

Còn Linh mục Gasparo d'Amiral sau thời gian ở Đàng Ngoài 7 năm, từ năm 1638-1645 ông ở tại Áo Môn giữ chức Viện trưởng Viện thần học kiêm Phó Giám Tỉnh Nhật và Trung Hoa, chắc chắn thời gian nầy ông đã phối hợp với Linh mục Antonio Barbosa để biên soạn và hoàn tất quyển tự điển An Nam - Bồ Đào Nha.

Tóm lại các quyển tự điển An Nam Bồ Đào Nha và Bồ Đào Nha An Nam được soạn trong khoảng 1638-1645. Vì năm 1645, Linh mục Gasparo bị đắm tàu chết đuối và trước đó ít hôm, Linh mục Đắc Lộ đã rời Áo Môn trở về Âu Châu, chúng ta lại biết thêm rằng, thời gian từ 3-7-1645 đến 20-12-1645 là thời gian cả 3 linh mục Đắc Lộ, Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa đều có mặt tại Thần Học Viện ở Áo Môn, chắc chắn họ đã có quyết định giao cho Đắc Lộ mang 2 quyển tự điển của họ về nhà in của Bộ Truyền giáo ở La Mã để in, cho nên ngày nay bản gốc 2 quyển tự điển trên không tìm thấy ở Áo Môn, Manilia hay Tây Ban Nha.

Linh mục Đắc Lộ rời Áo Môn ngày 20-12-1645, và đến La Mã ngày 27-6-1649, có lẽ thời gian nầy ông bắt đầu soạn quyển Tự điển An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh, nhằm mục đích để cho các Linh mục truyền giáo ở Việt Nam được dễ dàng hơn. Ý ấy đã được các Hồng y chấp thuận như ông đã ghi ở bài tựa quyển Tự điển.

Vậy thời điểm Đắc Lộ soạn quyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum là khoảng năm 1645- 1649, và ngày 5-2-1651 quyển nầy được Linh mục F. Piccolomineus Bề Trên Cả Dòng Tên cho phép xuất bản. Và sau đó quyển Cathéchismus được soạn trong khoảng năm 1649 - 1651, cuốn nầy được Linh mục L. M. Gosswinus Nickel quyền Bề Trên Cả cho phép xuất bản ngày 8-7-1651, nó đóng vai trò quan trọng trong công cuộc truyền giáo, nên trong phiên họp các Hồng Y và giáo chủ ngày 2-10-1651 đã quyết định ra lệnh cho nhà in của Bộ Truyền giáo ngưng in các ấn phẩm khác, để nhanh chóng in cho xong quyển Cathéchismus.

3. Nội Dung Quyển Dictionarium Annamaticum et Latinum

Quyển sách nầy trừ lời tựa, nó được chia thành ba phần chính:

a. Phần I. Linguae Annamaticae seu Tunchinensis brevis declaratio ( tức là phần Ngữ Pháp Việt Nam được soạn bằng La văn gồm 31 trang, chia thành 8 chương:

Chương I .- De literis et syllabis quibus hase lingue constat (chữ và vần trong tiếng Việt)
Chương II.- De Accentibus et aliis signis in vocalibus dấu nhấn và các dấu)
Chương III.- De Nominibus (Danh từ)
Chương IV.- De Pronominibus (Đại danh từ)
Chương V.- De Aliis Pronominibus (các Đại danh từ khác)
Chương VI.- De Verbis (Dộng từ)
Chương VII.- De Reliquis oratiomis indeclinabilibus (những phần bất biến)
Chương Chót.- Pracepta quacdam ad syntaxim pertinentia (cú pháp)

b. Phần II. Dictionarium Annamiticum seu Tunchinense cum lusiatna, et latina declaratione.

Phần nầy không đánh số trang, chỉ đánh số cột, mỗi trang chia làm 2 cột, có tất cả 900 cột, nhưng từ mẫu tự nọ sang mẫu tự kia thường để một vài trang giấy trắng. Chúng ta cũng nên chú ý, mẫu tự b (phụ âm v ngày nay, vì có tự dạng gần giống như mẫu tự b, nên được xếp tiếp sau mẫu tự b)

Mỗi chữ Việt được giải nghĩa theo thứ tự chữ Bồ rồi mới đến chữ La tinh.

c. Phần III. Index Latini sermonis.
Phần nầy mỗi trang chia làm 2 cột, không có ghi số trang và số cột, nhưng có tất cả 350 cột, tức là 175 trang. Trong mỗi cột, tác giả liệt kê các chữ La tinh, bên cạnh mỗi chữ có ghi số cột của chữ La tinh ấy ở Phần II. Như vậy người biết chữ La tinh sẽ tra cứu được chữ Việt tương ứng.

Sau khi biết khái quát về quyển tự điển nầy, chúng ta có những nhận định sau đây :

* Công trình điển chế Việt ngữ của Đắc Lộ chẳng những đã hệ thống hóa phương pháp ghi âm ngôn ngữ Việt Nam mà còn là một tác phẩm căn bản, để từ đó Việt ngữ được hợp lý hóa các âm thể như ngày nay.

* Dù sao thì công trình của Đắc Lộ cũng chỉ nhằm giúp những người biết chữ La tinh hay Bồ Đào Nha học Việt ngữ, Đắc Lộ không có công trình nào nhằm vào sự phổ biến chữ Quốc ngữ nầy cho người Việt, cũng vì thế mà từ 1651 đến 1866, hơn 2 thế kỷ chữ Quốc ngữ chỉ được phổ biến giữa các giáo sĩ và một ít giáo dân mà thôi.

* Cho đến khi quyển " Chuyện Đời Xưa " của Trương Vĩnh Ký ra đời năm 1866, vẫn còn ghi ở lời Tựa "... cùng là có ý cho người ngoại quốc muốn học tiếng An Nam, coi mà tập hiểu cho quen. " Điều nầy đủ chứng tỏ chữ Quốc ngữ trước đó, có mục đích giúp cho người ngoại quốc học tiếng Việt.

* Ngày nay một số tự điển nhằm mục đích giảng giải, phần đầu của tự điển có phần tóm lược ngữ pháp, chẳng hạn như quyển Anh Việt, Việt Anh Tiêu Chuẩn Tự Điển của Lê Bá Kông, sự trình bày cũng giống như hình thức trình bày ở phần đầu quyển Tự điển Việt - Bồ - La của Đắc Lộ.

4. Các Tác Phẩm Tiêu Biểu Khác.

a. Quyển Cathéchismus

Ngay trong năm 1651, Quyển Cathéchismus ( Phép Giảng Tám Ngày) là một bản văn chữ Quốc ngữ xưa nhất còn lại ngày nay, nó cũng là bản văn được nhiều người biết đến, đấy là công trình của Đắc Lộ, tuy chỉ nhằm mục đích truyền giáo, nhưng ngày nay nó đã trở thành một chứng liệu quý giá để xác định một bản văn hoàn toàn dùng Quốc ngữ.

Cathéchismus là một quyển sách giáo lý, viết cho người giảng dạy giáo lý dùng để truyền giáo. Mỗi trang sách chia làm 2 cột, cột bên trái là chữ la tinh và cột bên phải là chữ Quốc ngữ. Sách có 319 trang, không có lời tựa.

Sách không chia từng chương, mà chia thành ngày học, gồm có 8 ngày, cho nên còn được gọi tên là " Phép giảng tám ngày " , phân chia như sau :

- Ngày thứ nhất : Đạo thánh đức Chúa Trời.
- Ngày thứ hai : Đức Chúa Trời.
- Ngày thứ ba : Đức thợ cả
- Ngày thứ tư : Những đạo vạy
- Ngày thứ năm : Một đức chúa Trời ba ngôi - Đức chúa Trời ra đời cứu thế.
- Ngày thứ sáu : Thầy thuốc cả.
- Ngày thứ bảy : Con chiên lành.
- Ngày thứ tám : Một bậc thang lên Thiên đàng.

Sách không chia ra các tiểu mục, trong khi sao lục để tái bản, André Marillier dựa vào nguyên tắc để chia ra các tiểu mục. Chẳng hạn như Ngày thứ tư : Những đạo vạy :

* Con cháu ông Adam.
* Ông Noe và lụt cả
* Tháp Babel
* Nước đại minh phân ra nhiều đạo vạy
* Đạo bụt : giáo ngoài và giáo trong
* Đạo lão
* Đạo Nho : Việc thờ ông Khổng.
* Những sự dối trá của Thích Ca về linh hồn ta
* Những điều lầm lỗi trong việc thờ cúng cha mẹ
* Linh hồn ta chẳng hay chết.

Quyển Cathéchismus là một quyển sách Quốc ngữ được in đầu tiên vào năm 1651, nó mở đầu cho công cuộc truyền bá giáo lý Thiên chúa giáo bằng sách Quốc ngữ tại Việt Nam.

b. Các Tài Liệu Viết Tay

Ngày nay tại văn khố Dòng Tên ở La Mã còn có 2 tài liệu viết tay của 2 người Việt, đó là Igesico Văn Tín và Bento Thiện.

Tài liệu của Igesico Văn Tín là một lá thư viết ngày 12-9-1659, không đề nơi chốn gửi, mà cũng không ghi tên người nhận, nhưng do những chi tiết trong thư, người ta hiểu được là Văn Tín viết tại kẻ Vó, gửi cho Linh mục Marini lúc đó dang ở La mã. Nội dung thư, đại ý nói về các hoạt động truyền giáo tại kẻ Vó ( Đàng Ngoài), sau khi các giáo sĩ Tây phương bị chúa Trịnh trục xuất khỏi Đàng Ngoài, và bày tỏ lòng thành kính đối với Linh mục Marini ( 5 )

Còn tài liệu của Bento Thiện gồm có một bức thư viết tay, viết năm 1659 và một tập tài liệu. Cả hai đều lưu trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã. Về bức thư, tuy không có ghi ngày, nhưng mở đầu bức thư, ông có ghi ngày viết là ngày lễ Daria tức là 25 tháng 10.

Ở hàng trên cùng hay dòng thứ nhất của bức thư nầy, có ghi dòng chữ Bồ " Ao Pe Philipe Marino " ( Gửi cho cha Philipe Marino - Marini), dòng thứ hai ghi bằng chữ La Tinh " Pax Christi " ( Bằng an chúa Ky-tô), từ dòng thứ ba trở đi là chữ Quốc ngữ.( 6)

Nội dung bức thư nầy, ông nói về tình hình truyền giáo tại Đàng Ngoài, cùng những lời ca ngợi của chính Bento Thiện cũng như của những giáo dân đã nhờ ông chuyển lời thăm hỏi đến Linh mục Marini.

Ngoài ra Bento Thiện cũng có đề cập tới việc Marini nhờ ông viết một số tài liệu về Việt Nam, ông cho biết đã làm xong " hai vở " ( 7 ), và gửi nơi Linh mục Onofre để nhờ chuyển tới cho Marini.

Còn về tập tài liệu (hai vở) ( 8 ), nó gồm có 2 phần, phần trước gồm có : Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy cho đến Trịnh Nguyễn phân tranh, tuy tóm lược nhưng cũng khá đầy đủ, phần nầy gồm có 6 trang khổ 20 x 29 cm. Phần sau cũng gồm có 6 trang cùng khổ giấy, nội dung gồm có : Ghi chép phong tục, tổ chức quan lại, thi cử, tổ chức hành chánh, kể ra các xứ, phủ, huyện, châu, động, xã, thôn ở Đàng Ngoài và phần cuối cùng là tín ngưỡng.

Những tài liệu nầy có chụp hình và in lại trong quyển Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659 của Linh mục Đỗ Quang Chính, nói chung thì chữ Quốc ngữ viết vào thời kỳ nầy rất khó đọc, chỉ có chừng 50% là có tự dạng giống như ngày nay.

Qua những lời lẽ viết trong thư của Văn Tín và Bento Thiện cho chúng ta thấy rằng, sự diễn đạt bằng Quốc ngữ thời ấy không được suông sẻ, dữ kiện nầy không thể kết luận rằng trình độ văn hóa của người viết kém, vì Bento Thiện đã viết được lịch sử Việt Nam ... chẳng qua chữ Quốc ngữ chưa được phổ biến, chưa có quy củ để có thể diễn đạt tư tưởng dễ dàng, trong sáng, cho nên câu văn kém văn hoa.

5. Thời kỳ của Pièrre Joseph Georges Pigneau de Béhaine và J. L. Tabert.

a. Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine (1741-1799)

Ông là Giám mục d'Adran, người Pháp thuộc dòng Thừa sai, trong thời gian ở chủng viện Virampatman gần Pondichéry (Ấn Độ), ông có nghiên cứu về Khổng Mạnh và có soạn bộ tự vị Việt - La tinh (Dictionarium Annamatica - Latinum). Bản sao ghi năm 1772, còn lưu trử tại văn khố của hội Thừa sai Paris. Sách chưa kịp in ra thì ông mất.

b. J. L. Tabert (1794-1840).

Giám mục Tabert cũng thuộc dòng Thừa sai, ông có ở Sàigòn và soạn hai quyển tự vị : Dictionarium Annamatico - Latinum và Dictionarium Latino - Annamaticum, theo các nhà nghiên cứu như Adrien Launay, Linh mục Lepold Cadière đều cho rằng Tabert đã dựa vào công trình của d'Adran để soạn thảo. Quyển Dictionarium Annamatico - Latinum (Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng) được ấn hành do nhà Serampore, Extypis J. C. Marshman năm 1838.

Đến thời kỳ nầy các phụ âm đầu bl (blõ : trở), ml (mlòy: lời), tl (tlẽi : trẩy) vận cản /~/ (oũ : ông) đều được cải tiến như tự dạng ngày nay.

Nói chung đến thời kỳ nầy, chữ Quốc ngữ đã hoàn bị, hay nói khác hơn là chữ Quốc ngữ trong quyển Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng của Linh mục Tabert và chữ Quốc ngữ ngày nay không mấy khác biệt, và chữ Quốc ngữ cũng chỉ là phương tiện truyền giáo, cũng giống như tình trạng trước kia, nó chỉ được phổ biến giữa các giáo sĩ truyền giáo ở Việt Nam và một số rất ít giáo dân người Việt.

Phải đợi đến năm 1866, năm quyển " Chuyện Đời Xưa " của Trương Vĩnh Ký ra đời, chữ Quốc ngữ mới được phổ biến với mục đích truyền bá cho người Việt, và phải đợi đến năm 1882, nhà cầm quyền Pháp ban hành Nghị định, bó buộc các viên chức hành chánh xã thôn trong khắp cõi Nam Kỳ, phải thông hiểu chữ Quốc ngữ, nó đánh dấu thời điểm chữ Quốc ngữ được sử dụng chính thức tại miền Nam. Như vậy, từ khi manh nha cho đến khi được dùng làm văn tự chính thức trên vùng đất thuộc địa của Pháp, chữ Quốc Ngữ phải trải qua một thời gian trên hai thế kỷ rưỡi để hoàn thiện cấu trúc tự dạng.

C. Kết Luận

Do các Linh mục dùng chữ Quốc ngữ, để truyền bá đạo Thiên chúa, thực dân Pháp sử dụng chữ Quốc ngữ thành công cụ cai trị. Người miền Nam sống trên dải đất Nam Kỳ tuy mới thành lập, nhưng họ cũng đã chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Phật, Khổng hay Lão, lại có cá tính hào hùng, cho nên những người yêu nước, người bình dân chống lại việc học chữ Quốc ngữ nầy, tinh thần ấy được ghi lại trong Ca dao:

Khuyên anh về học lấy chữ Nhu, ( 9 )
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.

Biết được tiến trình hình thành của chữ Quốc ngữ, chúng ta mới hiểu rằng không phải chỉ có Linh mục Đắc Lộ, là người có công sáng chế ra chữ Quốc ngữ, mà trước đó còn có nhiều người khác, gồm các giáo sĩ Tây phương vàngười Việt Nam.

Phải đợi đến những nhà văn tiền phong như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của, sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc truyền bá chữ Quốc ngữ, trong đó Huình Tịnh Của soạn quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in năm 1896. Họ đã là những nhà văn lớn, gây thành những phong trào tiên phong sau nầy về các địa hạt: báo chí, dịch truyện tàu, viết tiểu thuyết và ngay cả phong trào thơ mới cũng bắt đầu từ miền đất Nam Kỳ nầy.

Huỳnh Ái Tông
Memoiry Day 2000
Source : Hậu Giang​
*
(1). Chữ Nôm là mượn âm Hán Việt để ghi âm tiếng Việt.

(2). Christofora Borri đến Đàng Trong năm 1618, ông theo Linh mục Buzomi và Pina đến lập cơ sở ở Nước Mặn, ông rời Đàng Trong năm 1621 về Áo Môn, rồi sau đó về Âu Châu.

(3). Borri, Relation della nuova missione delli PP. della Compania di Giesu, al regno della Cocincina, scritta dal Padre Christoforo Borri, Milanese della medesima Compania, Roma, 1631 ( Sự liên hệ về giáo đoàn mới của các linh mục Dòng Tên, ghi bởi linh mục Christoforo Borri người Milan thuộc giáo đoàn nầy).

(4). Võ Long Tê, Lịch sử Văn học công giáo Việt Nam, Tư Duy, Sàigòn 1965 trang 192-193.

(5). Đỗ Quang Chính Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659, Ra Khơi, Sàigòn 1972, trang 92-98.

(6). Sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 100-107

(7). Bento Thiện gọi là 2 vở, đó là 2 tập vở. Xưa kia chuyển vận Âu- Á bằng đường thủy, có lẻ sợ bị nạn đắm tàu, nên sao thêm 1 tập, để gửi 2 chuyến tàu khác nhau, cho nên tuy 2 nhưng chúng chỉ là một, ngày nay cả 2 tập vở ấy, tồn trử tại Văn Khố Dòng Tên ở La Mã.

(8). Sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 108-109 và phụ lục.

(9). Chữ Nhu là âm Hán Việt, âm Nôm đọc là Nho, chỉ cho chữ Hán
 

Hexagon

-trong sáng-
Tham gia
6/12/13
Bài viết
4.042
Gạo
320,0
Re: Thảo luận về đề xuất cải tiến tiếng Việt của PGS.TS. Bùi Hiền
Như vậy theo dòng lịch sử của chữ Quốc Ngữ thì:
- Được sáng tạo từ những năm 1600.
- Trải qua quá trình xây dựng được coi là tạm hoàn thiện vào cuối những năm 1800 tức chỉ cách đây hơn 100 năm.
Đến thời kỳ nầy các phụ âm đầu bl (blõ : trở), ml (mlòy: lời), tl (tlẽi : trẩy) vận cản /~/ (oũ : ông) đều được cải tiến như tự dạng ngày nay.

Vậy thì tại sao chỉ hơn 100 năm trước các phụ âm được đổi thì được chấp nhận, mà bây giờ có ý kiến cải tiến hơn, thống nhất hơn, khoa học hơn lại bị phản đối? Với kiểu quy ước mới này cái cần đổi của chúng ta chỉ là thói quen, mọi văn bản đề dùng lệnh replace trong tin học là thay đổi được nên không có chuyện truyền thống văn hóa bị thay đổi vì thay đổi cách viết ở vào trường hợp này.

P/s: Ý kiến của mình chỉ dựa vào nguyên tắc lí luận khoa học, không đồng nghĩa với việc mình ủng hộ đề án thay đổi này. Thực ra theo ý kiến riêng của mình thì nghiêng về phía đồng ý thay đổi :3.
 

Annin

Wings...
Nhóm Tác giả
Gà về hưu
Tham gia
17/8/14
Bài viết
1.119
Gạo
1.200,0
Re: Thảo luận về đề xuất cải tiến tiếng Việt của PGS.TS. Bùi Hiền
Hãy giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt!
 

Lạc Tâm Vũ An

Gà cận
Nhóm Tác giả
Tham gia
4/2/14
Bài viết
762
Gạo
80,0
Re: Thảo luận về đề xuất cải tiến tiếng Việt của PGS.TS. Bùi Hiền
Theo mình thì có nhiều người phản đối về đề xuất đổi mới cách viết cũng là do đã quá quen với cách sử dụng bây giờ. Và khi có đề xuất thì mọi người ồ á lên kêu giáo sư tiến sĩ kiểu gì vậy. Nếu làm tốt công tác tuyên truyền thì mình nghĩ việc thay đổi hoàn toàn được chấp nhận thôi.
Nhiều bạn so sánh với teencode, nhưng ở đây có quy luật mà. Thực sự mình là người Việt nhưng có rất nhiều chữ mình không viết đúng được, cũng không thể đánh vần cho ra chữ được luôn. Không biết các bạn khác như thế nào.
Thực ra nếu như thay đổi, cho tiếng việt một quy luật thì việc học tiếng trở nên dễ dàng hơn không chỉ là đối với người nước ngoài.
 

reddye

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
12/11/17
Bài viết
85
Gạo
8,0
Re: Thảo luận về đề xuất cải tiến tiếng Việt của PGS.TS. Bùi Hiền
Chào mọi người, mình lại quay trở lại đây. Có lẽ các bạn nghĩ những người phản đối đều là những kẻ không chấp nhận được sự thay đổi bởi quá quen thuộc cái cũ. Nhưng có phải chỉ đơn giản vậy không? Nếu nhận định như vậy thì các bạn quá hời hợt.

Sự phủ định tất yếu còn liên quan đến nhiều nguyên nhân sâu xa hơn. Trước khi bàn đến những nguyên nhân mang tính trọng đại đó, xin cho mình mạn phép miễn bàn đến khoa học (Ồ tất nhiên mình sẽ bàn đến nó sau cùng, đừng nóng, chẳng ai bỏ xó nó đâu ^^).

Vì sao mình đề nghị như vậy? Dùng nền tảng khoa học để lí giải mọi thứ là điều rất tốt và văn minh. Nhưng xin cho mình hỏi, khoa học bạn dùng để lí giải trong vấn đề này thuộc môn khoa học nào? Khoa học về ngôn ngữ hay khoa học về kí hiệu? Nếu dùng khoa học ký hiệu, ký tự học để phân tích, mình vô cùng đồng ý với tiến sĩ Bùi Hiển. Tuy nhiên nếu dùng ngôn ngữ học để phân tích, mình nghĩ tiến sĩ đã mắc sai lầm.

Vì sao ông ấy lại mắc sai lầm?

Mình sẽ lí giải đây. Cái này không phải ý kiến cá nhân, nó liên quan đến chuyên môn. Xin đừng đem dạ tiểu nhân đo lòng quân tử nếu bạn nghĩ mình bốc phét. Hãy dùng trái tim của bạn cảm nhận xem những điều mình viết đây có lí không. Chúng ta qua mạng ảo và mình không thể chứng minh cho các bạn biết được sự chân thành, lựa chọn nghe hay không nghe là quyền của bạn.

Ngôn ngữ tồn tại trong đời sống con người không phải ngẫu nhiên. Nó đặc trưng cho mỗi dân tộc khác nhau. Đó là vì sao cùng một từ ‘tôi’ nhưng người Anh phát âm là ‘I’, người Hoa phát âm là ‘wo’, người Việt phát âm là ‘tôi’. Cái tiếng ‘tôi’ nó khác với tiếng ‘I’ hay ‘wo’ nhưng chỉ biểu thị cùng một nghĩa mà thôi. Tại sao lại có sự khác nhau đó? Câu trả lời đơn giản: vì tiếng nói mỗi dân tộc mỗi khác.

Như vậy kể cả khi không có ký tự quy định tiếng ‘tôi’ phải viết là ‘T’ – ‘Ô’ – ‘I’ thì với người Việt ‘tôi’ vẫn là đại từ dùng để chỉ bản thân mình. Chữ viết mỗi thời kì mỗi khác, thời Văn Lang, Âu Lạc không biết chữ ‘tôi’ được viết thế nào, mà cũng không xác định được thời đó chúng ta có chữ viết chưa, đến thời Bắc thuộc thì chữ ‘tôi’ viết theo hán tự, đến thời hiện đại bây giờ thì ‘tôi’ viết là ‘TÔI’. Dù ký tự quy định chữ đó có đổi thay theo thời gian, thì tiếng đó vẫn giữ nguyên như vậy. Kể cả sau này đến vạn vạn năm sau, tiếng của người Việt mãi mãi không thay đổi. Đó là cái mà chúng ta gọi là ngôn ngữ.

Nhưng tại sao con người lại sáng tạo ra chữ viết ? Họ hoàn toàn có thể trao đổi với nhau bằng lời mà không cần một ký tự nào cả, tuy nhiên làm thế thì lượng thông tin họ khai phá được sẽ dần biến mất theo thời gian. Chính nhu cầu lưu lại những thông tin đó khiến con người sáng tạo ra ký tự. Như vậy, ký tự chỉ đơn giản là một công cụ để lưu lại ngôn ngữ mà thôi.

Để làm được việc này, trước hết ký tự phải đồng nhất với ngôn ngữ. Ký tự phải thể hiện được cái hồn của ngôn ngữ. Tại sao người ta viết xa xăm mà không viết là sa săm ? Vì chữ ‘x’ khi phát âm hoàn toàn khác với chữ ‘s’. Chữ ‘x’ phải mở rộng môi theo chiều ngang trong khi chữ ‘S’ lại mở rộng môi theo chiều dọc và cách phát âm chữ ‘x’ sẽ tạo cảm giác kéo dài hơn, như những gì muốn diễn đạt, một nơi xa xôi… Vậy đó, một chữ được viết nên không phải chỉ vì sự quy định của người khác, nó còn phải thể hiện được ngữ nghĩa của tiếng, cảm giác của tiếng, ngữ điệu của tiếng. Khiến cho khi đọc chữ đó, người ta có thể liên tưởng đến nghĩa của tiếng ngay. Đó cũng là lý do mà thơ ca lay động lòng người. Tại sao khi đọc những câu như ‘Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm’ trong đầu ta lại liên tưởng đến hình ảnh núi non hiểm trở ? Bởi từ ‘khúc khuỷu’ khi đọc ra phải phát âm một cách trúc trắc, hơi bị giữ lại ở cổ họng như thể đang mệt. Giống như đương leo núi vậy. Các nhà thơ, nhà văn đã tận dụng tính chất này của ngôn ngữ và chữ viết để gieo vần, chọn từ… Tại sao phải là ‘miếng cám nghẹn bứ trong cổ họng’ ? Bởi từ ‘bứ’ nghe giống như tiếng nghẹn vậy… Và còn hàng ngàn ví dụ khác, nếu các bạn chịu khó để ý sẽ thấy. Không phải ngẫu nhiên mà Đặng Thai Mai nói tiếng Việt giàu và đẹp.

Bản thân ngôn ngữ của người Việt đã đẹp và đa chiều rồi, kể cả khi không có chữ Quốc ngữ, chữ Hán hay chữ Nôm, hay bất kì các hệ thống chữ viết nào khác thì tiếng Việt vẫn tồn tại. Trừ khi tất cả người Việt trên cõi đời đều chết hoặc câm hết.

Vậy thì việc thay đổi ký tự không thể khiến cho ngôn ngữ trở nên tốt hơn. Đúng nó sẽ gọn, nhưng gọn liệu có phải là lý do chính đáng trong khi vai trò của ký tự chỉ là để thể hiện ngữ nghĩa ? ‘Tiếng’ Việt, từ ‘tiếng’ khiến ta nghĩ đến tiếng nói, bởi tiếng khi phát âm không ngắn, không dài, vần ‘ng’ khiến nó kéo dài nhưng dấu ‘sắc’ lại làm sự kéo dài đó dừng lại đột ngột. Cũng giống như những tiếng nói mà ta vẫn thường phát ra, có khi ngắn, có khi dài vậy. Còn từ ‘Tiếq’ phát âm như thế nào ? Là ‘Tiến quờ’ à ? Nó không thể diễn tả được ngữ nghĩa của ‘Tiếng’.

Để đáp lại nguồn gốc chữ Quốc ngữ của Hexagon, mình xin mạn phép hỏi một câu : Như bài mà bạn bê nguyên xi vào thì chữ Quốc ngữ được hình thành kể từ năm 1600, chữ Nôm cứ cho là vào thời kì Bắc thuộc, vậy, trước khi có hai hệ thống chữ viết này, người Việt viết bằng hệ thống chữ viết nào ? (Đừng trả lời là chữ Hán nhé, nếu bạn trả lời vậy thì trước chữ Hán, chúng ta viết thế nào ?)

Cái này phải phiền bạn trở về thời cấp ba một chút, trong sách giáo khoa ngữ văn lớp mười đấy, dù cơ bản hay nâng cao, chúng ta đều phải học qua một phần quan trọng. Đó là gì ? Vâng, văn học dân gian.

Thế các bạn biết văn học dân gian từ đâu mà có ? Nếu các bạn có tìm hiểu hoặc còn nhớ, thì nó còn được gọi là văn học truyền miệng. Vậy, vì sao lại là truyền miệng ? Chính xác, vì không có chữ viết nên mới phải truyền miệng chứ.

Vậy, kể cả không có chữ viết, ngôn ngữ vẫn được tạo ra và lưu truyền. Những sản phẩm lấy ngôn ngữ làm chất liệu như thơ ca, nhạc họa vẫn được tạo ra. Dù không thể ghi chép.

Tựu chung, chữ viết chỉ là thứ dùng để thể hiện ngôn ngữ. Nói chính xác thì là thể hiện ngữ nghĩa của ngôn ngữ. Dù chữ viết tồn tại hay không, thay đổi ra sao, ngữ nghĩa vẫn không thay đổi. Nhưng vì sao chúng ta lại chấp nhận lối viết cũ mà phản đối cải cách của tiến sĩ Bùi Hiển?

Tính theo lịch sử mà nói, chúng ta phải thay đổi hệ thống chữ viết đến tận ba lần. Từ thời Bắc thuộc chúng ta sử dụng chữ Hán. Nhưng vì chữ Hán không thể thể hiện hết những âm điệu của tiếng Việt nên các nhà nho thời đó đã sáng tạo ra chữ Nôm. Điều này có thể lý giải qua dấu nhấn của ngôn ngữ. Như người Hoa họ có các dấu thanh điệu khác, người Việt có các dấu thanh điệu khác. Nếu dùng để diễn tả những từ Hán Việt thì không vấn đề nhưng sẽ gặp khó khăn khi thể hiện những từ thuần Việt. Bạn có thể thấy điều này rất rõ qua sự so sánh thơ giữa Hồ Xuân Hương và bà huyện Thanh Quan.

Nói chung từ chữ Hán sang chữ Nôm – tại sao sự thay đổi này được chấp nhận ? Bởi vì nó thêm thanh điệu vào tiếng Hán để có thể mô tả tiếng Việt chuẩn hơn.

Đến khi chữ Quốc ngữ ra đời, xin lỗi, bạn dẫn nguyên một bài dài như vậy rốt cuộc bạn có thể hiểu vì sao lại là " Con gno muon bau tlom laom Hoalaom chian " không ? Bởi vì nó gần giống với cách phát âm của người Việt. Tựu chung của một bài tư liệu dài như vậy rút ra cũng có mỗi ý nghĩa này : Những giáo sĩ phương Tây trong quá trình truyền đạo đã ghi lại cách phát âm của người Việt bằng bảng chữ cái Latinh. Như vậy những gì mà giáo sĩ đó viết chính là Tiếng Việt do ông ta mô phỏng lại thông qua việc lắng nghe và vì ông ta không thể sáng tạo ra hệ thống chữ mới nên đã dùng hệ thống chữ mà mình đã học – chữ Latinh để thể hiện lại.

Vậy, từ khi được manh nha hình thành cho đến khi trở thành chữ Quốc ngữ, tại sao hệ thống chữ viết ấy vẫn không ngừng được cải tiến ? Nếu nó hoàn thiện thì đã không cần thiết cải tiến nữa. Nếu nó thể hiện được cách phát âm trọn vẹn của người Việt và ngữ nghĩa của âm đó thì liệu có cần thiết cải tiến không ? Tại sao trước đây người ta viết ‘Đường kách mệnh’ mà giờ mình lại hiểu là ‘Đường cách mạng’ ? Tại sao ngày xưa là ‘Đờn bà’ mà bây giờ lại là ‘Đàn bà’ ? Tại sao vậy ?

Còn nữa, khi người Pháp sang đô hộ Việt Nam, chúng ta cũng tiếp thu những từ mới của Pháp và Việt hóa lại. Những từ như xà phồng, pa tê… là những từ Pháp được Việt hóa lại, vậy thì tại sao chúng ta phải Việt hóa nó ?

Bởi vì tiếng nói của dân tộc vốn dĩ là thế, chỉ với những thanh điệu đó, cách đọc đó, không thể khác được. Chữ quốc ngữ được cải tiến cho đến khi hoàn thiện đến giờ cũng chỉ để thực hiện nhiệm vụ cao cả là thể hiện được thanh điệu và cách phát âm của tiếng Việt một cách trọn vẹn nhất mà thôi.

Vậy nên những bạn viết sai chính tả đừng đổ lỗi cho chữ viết. Bởi mỗi tiếng, mỗi dấu câu, mỗi âm đều có ý nghĩa riêng của nó. Những nhà ngôn ngữ lỗi lạc, những nhà thơ tài hoa của thế kỉ trước đã để lại tiếng Việt hoàn thiện cho chúng ta sử dụng. Nhưng chỉ vì chữ ‘GỌN’ mà ta phá vỡ sự hài hòa cũng như công lao của họ thì thực quá sai lầm.

Hãy đọc chữ Luật giáo dục của Bùi Hiển xem : Luật Záo Zụk ? Tại sao chúng ta lại phát âm Gi ? tại sao chúng ta lại phát âm D ? Đó là ngôn ngữ dân tộc chảy từ trong huyết quản khiến chúng ta phải bậc lên là Gi trong khi nhiều dân tộc trên thế giới lại không thể phát âm được âm đó. Vậy việc chúng ta thay đổi cái riêng trong tiếng nói dân tộc thành cái chung có phải là một sự đi ngược lại tổ tiên ? Học theo người khác là tốt, hòa nhập là tốt nhưng chớ hòa tan. Mỗi dân tộc có một cái hay riêng và người Việt cũng vậy. Cứ đứng núi này trông núi nọ đến bao giờ trong khi còn chưa hiểu hết được cái hay của tiếng Việt ?
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bên trên