Trường Sinh Chú - Cập nhật - NNHH

HongHani

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
24/12/16
Bài viết
11
Gạo
0,0
Tên truyện: Trường Sinh chú

Tác giả: NNHH
Tình trạng sáng tác: Đang sáng tác
Tình trạng đăng: Cập nhật
Lịch đăng: 1 - 2 tuần/ chương
Thể loại: Cổ trang
Độ dài: Chưa rõ
Giới hạn độ tuổi đọc: 14+
Cảnh báo về nội dung: Không

Giới thiệu:
Ngươi có muốn trường sinh không?

Mục lục:

Chương 1 (1) (2) (3)
Chương 2 (1) (2) (3) Chương 3 (1) (2) (3)
 

HongHani

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
24/12/16
Bài viết
11
Gạo
0,0
Chương 0 :

Hôm nay là một ngày đẹp trời.


Gió mơn man, mặt đường khô ráo, tiết trời mát mẻ. Nhưng trong cặp mắt, đôi tai của Như Ý, tiếng gió thổi chợt nghe u oán, mặt trời lẩn sau mây chẳng hào phóng mà ban lấy nổi một tia nắng để kéo vỡ cái vẻ xầm xì xám xịt, đến từng nhành cây nhánh cỏ trông cũng thật u buồn.


Nhẩm đếm, đã mười ngày nay chủ nhân của Cẩm Tú Điện là Lâu Uyển chưa về, cũng chẳng tin tức gì. Như Ý là học trò của nàng, từ ngày nàng đi hôm nào dọn cơm ra cũng không thấy người về ăn, đợi đến khi mâm cơm nguội ngắt Lâu Uyển vẫn chưa về.


Lâu Uyển là người có tài, vốn chẳng cần lo nàng có chuyện gì, nhưng từ đêm qua Như Ý đã có dự cảm không lành.


Như Ý mang theo một hộp cơm, trở bước từ Cẩm Tú Điện vào cung. Trong lòng cô chộn rộn, chỉ biết nhìn chiếc hộp sơn mài ba tầng.


Đêm hôm ấy lòng bứt rứt không rõ lý do, Như Ý dậy từ lúc tờ mờ sáng, thổi cơm trắng, làm tận bốn món mặn ba món rau, thêm cả điểm tâm. Tỉ mẩn làm, dần dần đáy lòng bức bối day dứt cũng nguội lại vài phần.


Tờ mờ sáng, Như Ý mặc áo choàng, mang theo hộp cơm bước ra khỏi Cẩm Tú Điện.


Đêm đông dài, mặt trời còn chưa tỏ, Cẩm Tú Điện hôm nay lại thắp đèn rất muộn, gà chuẩn bị gáy đèn lồng vẫn le lét. Như Ý dẫm chân trần trên hành lang lạnh buốt, lồng đèn giấy nhẹ tênh chao đảo trong gió, khiến chiếc bóng của cô trong ánh đèn cam cũng như nghiêng ngả theo.


Lòng cô vốn hơi mơ màng, chân bước mà đầu thì như trên mây.


Một cánh cửa kéo dọc hành lang bỗng chợt bật lên một tiếng kêu sắc lạnh, khiến Như Ý thót tim. Hóa ra là Thải Liên đẩy cửa, đang nghiêng người ra ngoài nhìn cô.


Thải Liên là nữ thiên sư trong Cẩm Tú Điện. Nàng này là cô trò được yêu thương nhất Lâu Uyển.


Cả tòa điện còn đang say giấc, còn Thải Liên chẳng biết đã mặc quần áo chỉnh tề, tóc vấn gọn gàng tự bao giờ, đang hướng ánh mắt hơi chút lạnh nhạt ra ngoài hành lang, hỏi : « Em đi đâu đấy. »


Bộ đồ trắng muốt trên người Thải Liên hơi quen. Hình như hôm qua nàng ấy cũng mặc bộ đồ thế này. Như Ý nhận ra Thải Liên không ngủ. Ánh mắt nghiêm nghị của Thải Liên khiến cô cảm thấy mình như kẻ trộm. Như Ý hơi ngạc nhiên, đáp : «Em đi thăm cô Uyển. Lâu lắm cô chưa về, em thấy không yên tâm.»


Đôi mày lá liễu của Thải Liên cau lại, hình như hôm nay nàng hơi nóng nảy hơn mọi ngày. Hất cằm ra ngoài sân, nàng nói : «Làm gì có chuyện ra vào hoàng cung như đi chợ như vậy. Trời còn chưa sáng. Quay lại phòng đi.»


Đoạn, cánh cửa lại đóng sập lại.


Thải Liên đang sốt ruột. Như Ý hiếm khi nào thấy nàng mất bình tĩnh thế, hình như nàng đang giấu điều gì đó, mà còn là giấu chuyện rất quan trọng. Như Ý biết là dù Thải Liên có đang giấu điều gì thì một khi nàng đã can lại, Như Ý cũng tuyệt đối không nên làm trái lại lời nàng, trăm cái thiệt chẳng có lấy một cái lợi. Biết là thế, nhưng cô vẫn nôn nao tới lạ, vẫn không chút đắn đo mà cất bước tiếp.


Như Ý đi cửa sau ra khỏi Cẩm Tú Điện. Ngoài trời sầm sì, lúc này Như Ý mới nhận ra là cả Cẩm Tú Điện nguy nga trống hoác không một bóng người, chỉ có những nữ thiên sư trong căn phòng khóa chặt, chẳng có lấy một dáng một cô hầu nào đang trực. Tim cô đập thình thịch, ngoảnh đầu đưa một ánh nhìn mờ mịt về phía ngôi nhà im lìm chìm trong một màu xám xịt âu sầu của mình.


Thải Liên trong phòng đã không thể chịu đựng nổi nữa.


Thu ánh mắt như xé được lớp vải trắng che kín khung cửa, Thải Liên thổi ngọn nến đã được thắp trọn một đêm. Tăm tối lấp đầy căn phòng nhỏ. Đầu nàng đập nhẹ xuống chiếc bàn thấp.


Bệ hạ ưu ái thiên sư, ưu ái Lâu Uyển, Cẩm Tú Điện được bố trí gần hoàng cung vô cùng. Như Ý đi bộ men theo con đường quen thuộc, chẳng mấy chốc đã tới nơi.


Lúc dừng lại trước cấm cung, chợt cổ họng Như Ý đắng nghét. Tòa điện phả ra một hơi thở ảm đạm. Lúc nào nơi đây cũng không thiếu người qua kẻ lại, nhưng vẫn cảm thấy thiếu thốn hơi người.


Trước cổng cung cấm là hai tên lính gác, trông hơi quen mặt. Thường thì người của Cẩm Tú Điện ra vào cung cấm rất dễ dàng, nhưng hôm nay Như Ý bị chặn lại. Thấy lạ, cô chần chừ, suy nghĩ một hồi mới thấp giọng : «Đừng có làm lỡ chuyện của cô Uyển.»


Tên lính canh ngần ngừ nhìn Như Ý : «Nhưng người bên trên không có căn dặn gì. Giờ này không ai được phép vào cả.»


Người bên cạnh đã nhận ra Như Ý là người bên cạnh Lâu Uyển từ lâu, chắc cũng đã nghĩ kỹ, lại thấy sắc mặt Như Ý không tốt, bảo : «Cho thiên sư này vào đi. Đây là người thân tín bên cạnh cô Uyển, nhỡ đâu có việc gấp bề trên không kịp thông báo, lúc đấy trách tội xuống chúng ta không gánh được.» Vả lại một mình Như Ý yếu ớt là thế có lẻn vào cung cấm thì cũng có làm gì được.


Soát người xong, Như Ý cầm theo hộp gỗ. Không theo thói cũ bước vào nơi nghỉ ngơi của Lâu Uyển trong cung, Như Ý đi thẳng vào Cần Điện – nơi họp bàn triều chính của hoàng đế.


Hoàng cung trống huơ trống hoác. Lòng Như Ý thầm sợ hãi, chân cũng bước nhanh hơn. Không có lấy một bóng cung nữ, hoạn quan nào trực xung quanh. Không có gió nhưng gáy lạnh toát. Không có nắng lưng cũng đẫm mồ hôi.


Cần Điện, nơi Sở vương xử lý chính sự hé ra một góc.


Như Ý thấy một cái bóng trắng.


Cái bóng trắng muốt ấy chợt nhỏ xuống những chấm đỏ. Những vệt đỏ thắm cứ loang dần ra, ngày một rộng, nhuộm đỏ lừ sắc trắng. Chốc lát, cái bóng trắng muốt đã được tắm bằng máu.


Chiếc hộp gỗ rơi xuống, những chiếc bát vỡ toang. Sành sứ men xanh tinh tế duyên dáng chỉ trơ lại những vụn sắc lẹm chẳng ra hình. Ngổn ngang đầy đất.


 
Chỉnh sửa lần cuối:

HongHani

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
24/12/16
Bài viết
11
Gạo
0,0
Chương 1 :


Ngày ấy khi gặp Cơ Chiêu, nàng nhìn thấy những nếp nhăn hằn sâu nơi khóe mắt của ông ta. Không biết vì chuyện gì mà trong lòng lại buồn.



Đông Nhật Đài là tòa đài mới được dựng từ đời Sở U Vương, nằm chính giữa trung tâm của khối kiến trúc đình điện Sở cung, cấm người ra vào trong vòng bán kính năm trượng xung quanh, trừ Sở vương Cơ Chiêu và thiên sư Cẩm Tú Điện từ nhị phẩm trở lên, ai tự ý xông vào đều bị chém bỏ.


Đông Nhật Đài tính đến nay mới chừng được bốn mươi năm, nhưng đứng sừng sững già cỗi ở đó cứ như một cây cổ thụ già đang vươn mình lên tận trời. Công trình này xa hoa tinh tế, được chống bởi bốn chiếc cột trạm hình rồng vàng đang leo lên mây, cao chót vót.


Đêm xuống trên đỉnh Đông Nhật Đài lạnh lẽo vô cùng, gió thổi phần phật, trăng lạnh gần như vươn tay có thể với được, soi lên những cái bóng trên đỉnh đài.


Từ một tháng nay Sở vương Cơ Chiêu đã cho người đặt một chiếc lò lớn trên Đông Nhật Đài. Mấy thiên sư luyện đan, canh lửa suốt gần một tháng nay, tới tận bây giờ mới thấy có chút biến chuyển. Cơ Chiêu nghe tiên đan trong lò sắp thành bèn vội vàng tự mình tới canh giữ.


Lúc này trong lò luyện đan sôi sùng sục nước, những viên đan sa cùng vài thứ kim loại, khoáng quý đang lục bục nổi trong đám bọt nước và khói trắng. Đứng gần chiếc lò luyện đan nhất là đại thiên sư Lâu Uyển. Nàng ta khoác chiếc áo chùng đen thêu sen trắng, quỳ trên thảm, tóc đen xõa như thác, mắt sâu mũi thẳng như tượng tạc, nhưng ánh mắt tan tác vô định khiến người ta nhìn vào có cảm giác không thật. Đằng sau nàng ta là hai nữ thiên sư thân cận, thân mặc đồ trắng, đầu cài trâm ngọc mã não tượng trưng cho thiên sư nhị phẩm, một tên Thải Liên một tên Tô Tú. Cả hai đều xinh xắn thanh tú, một người điềm đạm cẩn trọng một người mau lẹ tinh nhanh, như hai bông hoa quý mỗi người một vẻ.


Trên đài còn có bốn thái giám và cung nữ hầu hạ, ai nấy thấp thỏm nhìn lò luyện đan đang sôi ùng ục, khói bốc lên nghi ngút, nhìn đến vã mồ hôi mà cũng không ai dám ngẩng đầu lên xem vị quân vương đang đứng chắp tay quan sát « tiên dược » trong lò từ sẩm tối đến tận bây giờ.


Sở vương Cơ Chiêu mặc long bào tím, đôi lông mày khẽ cau, gương mặt đăm chiêu trầm tư.


Cơ Chiêu năm nay chưa đến bốn mươi mà tóc đã bạc, vết nhăn đã hằn rõ trên mặt.


Ông ta lên ngôi tính đến giờ đã hơn mười năm mà cứ như đã tại vị được nửa đời người, trên người đượm vẻ tuyệt vọng rệu rạo như một kẻ gần đất xa trời. Nhưng bất chấp sự mệt mỏi hằn trên gương mặt, mắt ông ta vẫn sáng ngời uy quyền, vẫn giữ tôn nghiêm quyền lực của một vị đế vương.


Tất cả những con người nơi đây vẽ nên một bức tranh câm, không một tiếng động, không một cử động, như một thế giằng co, vừa vững chắc vừa mong manh. Rồi chợt trong đêm quang đãng không gợn mây, một tia sét lóe lên đánh thẳng xuống Đông Nhật Đài, giáng trúng chiếc lò luyện đan đang nghi ngút khói trắng, khiến ngay cả hai nữ thiên sư lanh lợi vốn biết kiềm chế cùng phải hét lên một tiếng sợ hãi mà ngã ngồi ra đằng sau. Tia sét bổ đôi lò luyện đan, cũng xuyên thủng bức tranh câm giằng co mỏng đến mức nhìn thấu được qua từng thớt giấy.


Tia sét xanh giáng nát cả đỉnh lò, lộ ra những viên đan sa đã bị cháy đen, có mấy viên còn tan ra như tro, ấy thế mà không hề hấn gì đến những người xung quanh, ngay cả đại thiên sư Lâu Uyển quỳ sát rạt cũng chỉ bị thổi tung mấy lọn tóc.


Mấy kẻ đứng trên đài hoảng hồn một hồi nhìn lò luyện đan bị sét đánh cho cháy đen, rồi lại kinh hồn quỳ xuống : « Xin hoàng thượng thứ tội. »


Đôi mắt Cơ Chiêu tối đi một phần, nhưng cũng không nổi giận mà chỉ chau mày phất tay. Đôi mắt đen thẫm tối đi phần nào, ông ta thở dài : « Thôi lui ra đi. »


Mấy cung nữ thái giám đều cúi đầu lui xuống, Thải Liên và Tô Tú đưa mắt nhìn nhau rồi cũng khom người rời khỏi đài.


Đông Nhật Đài gió thổi lồng lộng, chỉ còn Cơ Chiêu và Lâu Uyển, thiếu bóng người càng thêm lạnh lẽo.


« Tách » một tiếng. Trên thân lò chắc như đá hằn lên một vết nứt, rồi vết nứt ấn lan rộng không thể kiềm nổi, chẳng mấy chốc đã chạy dọc trên thân lò, rồi vỡ toác ra, thành từng mảnh tan tác trên đất. Nước sôi trào ra nhưng chỉ dừng đến vạt áo của Cơ Chiêu và Lâu Uyển rồi dừng lại. Một vụn lửa bắn lên góc áo Cơ Chiêu, lưỡi lửa liếm vụn chừng nửa tấc vải đã bị nước lụi đi. Cơ Chiêu bước đến cạnh lan can, ông ta ngẩng đầu, nhìn trăng sáng treo trên đỉnh đài. Gió trên cao thổi lồng lộng, ngọn lửa trong đèn lồng đỏ cũng chấp chới chực tắt, giọng Cơ Chiêu như tan vào theo tiếng gió: « Yên My, khanh nói xem trẫm đã làm sai bước nào. »


Lâu Uyển biết Cơ Chiêu đang gọi mình. Tên chánh của nàng ta là Lâu Yên My, nhưng đã mấy chục năm nay hầu như chẳng có người nào gọi cái tên này, duy có mình Cơ Chiêu.


Lâu Uyển từ đầu tới cuối đều như một con rối được đặt trên Đông Nhật Đài, không nhìn, không nghe, không nói. Cơ Chiêu nói vậy, nàng lẳng lặng đưa mắt nhìn bóng lưng ông ta đang kéo dài trên sàn, uể oải như đã cả nghìn kiếp trôi qua.


Đôi mắt Cơ Chiêu mờ đục, ánh trăng chiếu lên gương mặt ông ta, khiến những nếp nhăn càng thêm rõ : « Trước đây hồi tiên đế còn sống, cả đời đi tìm một thứ. Ông ta cũng muốn trường sinh. »


Đôi mắt Lâu Uyển khẽ chớp động.


« Ông ta cất công xây dựng đình đài lầu các, chiêu vời thuật sĩ, lùng tìm khoáng vật tiên dược để luyện đan, giết trinh nữ lấy máu, tăng thuế, mặc cho đạo sĩ tham quan hoành hành, lấy khiến Sở suy sụp đến cùng cực. Hồi đó ta căm thù thứ này đến tận xương tủy. Nó hủy hoại cả cuộc đời ta, hủy hoại bách tính Sở, cũng hủy hoại chính ông ta. Xưa kia ta luôn tự hỏi trường sinh có gì ghê gớm khiến ông ta cuồng si say mê đến như vậy ?»


« Nhưng hình như bây giờ ta hiểu ông ta rồi. Trong lòng bàn tay ta là thiên hạ. Ta ngửa tay nó phồn thịnh, ta lật tay tàn lụi. Ta có thể hô phong hoán vũ, có thể xoay vần vạn vật. Nhưng lúc ta mở lòng bàn tay mình ra thì hóa ra chẳng có gì cả. Nếu không tìm thấy thứ đó, tất cả chẳng còn ý nghĩa. Ta cũng muốn nắm được nó trong lòng bàn tay. Yên My, có nó thì có phải đánh đổi bất cứ thứ gì cũng đáng. »


« Yên My, ta muốn có Trường Sinh chú. »


Cơ Chiêu quay lại nhìn Lâu Uyển. Ông ta không hỏi, nhưng dường như muốn tìm từ Lâu Uyển một đáp án.


Cơ Chiêu vừa hạ một quyết tâm lớn, xưa kia Lâu Uyển chưa một lần nghe ông ta dám thốt nên cái từ “Trường Sinh chú”, dường như nếu đã lỡ nói ra từ ấy là ông ta sẽ bị hãm sâu, bị xiềng xích trong sức mê hoặc của trường sinh. Nhưng giờ đây chính ông ta lại tự thắp lên một khát khao “Trường Sinh chú”. Đôi mắt đen ông ta lại tỏa ra thứ ánh sáng chói lòa kiên định, phập phồng sục sôi sức sống. Lâu lắm rồi Lâu Uyển chưa thấy Cơ Chiêu thế này. Nàng ta cũng không biết mình đang cảm thấy thế nào.


Lâu Uyển thôi không nhìn Cơ Chiêu nữa, chiếc quạt lụa trong tay xòe ra đủ mười sáu nan, trên đôi tay nàng ta như một bông hoa sen nổi lên từ vạt áo đen, nàng nói “Ý đã quyết. Hỏi Lâu Uyển nào có ích gì.”


Cơ Chiêu nói: “Yên My, kiếm tìm Trường Sinh chú có nên hay không?”


Lâu Uyển nói: “Nên hay không nằm trong lòng bệ hạ. Lâu Uyển nói không, trong lòng bệ hạ cũng không tự khắc đổi theo ý Lâu Uyển. Mà đương nhiên Lâu Uyển cũng sẽ không nói “không”, cuối cùng cũng chỉ để củng cố thêm quyết tâm của bệ hạ.”


Đôi mắt đen như một viên ngọc thạch của Cơ Chiêu rọi thẳng lên gương mặt Lâu Uy cười: “Khanh nói đúng lắm. Trường Sinh chú bén rễ trong lòng ta, là ai cũng không nhổ được.”


Đoạn, Cơ Chiêu quay người rời khỏi đài. Cái bóng đen dài trên Đông Nhật Đài biến mất, chỉ để lại một mình Lâu Uyển như một pho tượng đá cắm mình trên đài.


Trăng lên cao, nhấn chìm Đông Nhật Đài trong một màu bàng bạc vừa lạnh lùng vừa u uất.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

HongHani

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
24/12/16
Bài viết
11
Gạo
0,0

Chương 1:


Sấm giật, khiến Cẩm phu nhân của Triêu Phượng cung đang căng chặt sống lưng cũng phải giật mình. Nàng cao giọng: “Người đâu, đốt đèn.”


Cung nữ vội vàng tiến vào thắp ngọn đèn dầu đặt trước mặt Cẩm phu nhân, vừa mới vươn tay ra định đốt tiếp mấy cây nến nữa thì đã bị bàn tay thon thả của phu nhân giữ chặt, chiếc lắc vàng trên tay nàng ta chạm vào người cung nữ khiến cô ả lạnh buốt. Cẩm phu nhân nói: “Thôi, để đấy.”


Bên ngoài thỉnh thoảng truyền ra tiếng trò chuyện nhỏ xíu của mấy cô cung nữ, các cô đoán trời sắp mưa, vì có tiếng sấm rất to ngoài kia.


Cẩm phu nhân ngồi một lúc lâu. Gương mặt đẹp của phu nhân nửa mờ nửa ảo bên ánh lửa bé tẹo, những hoa văn lấp lánh thêu chìm trên tà áo phu nhân dưới ngọn đèn chợt như những viên đá nhỏ xíu. Ánh lửa ấy không đủ soi sáng cả căn điện xa hoa, nhưng chỉ thứ ánh sáng nhỏ nhoi đấy cũng đã đủ cho Cẩm phu nhân.


Mấy tiếng gõ khe khẽ vang lên, Cẩm phu nhân hé cửa, nghe tiếng tên hoạn quan thì thầm: “Phu nhân, sét đánh trúng lò luyện đan, tất cả tiên đan đều bị hủy cả rồi ạ. Nhưng không có ai bị thương hết.”


Cẩm phu nhân khẽ xoay người, nàng ngả vào lưng ghế. Thế là ông trời không đồng ý với con đường trường sinh bất tử này rồi. Muốn được trường sinh thì chỉ có thể nắm cho bằng được Trường Sinh chú, vòng vèo một hồi lại quay về chốn cũ.


Để nguyên ngọn đèn, Cẩm phu nhân nâng tà váy thướt tha của mình, bước khỏi điện Triêu Phượng.


Năm nay phu nhân hai mươi ba tuổi. Nhập cung từ năm mười tám, năm năm trong cung cấm là năm năm nàng nắm chắc danh vị phu nhân được sủng ái nhất vương cung. Phu nhân là người xinh đẹp nhất, gương mặt như hoa sen, bước đi uyển chuyển như múa. Nàng là con bạch hạc cao quý nhất, là cơ thiếp được yêu thương nhất. Phu nhân biết chọn bộ đồ khiến cho mình đẹp nhất, phu nhân cũng biết cách để khiến địa vị của mình ngày này qua tháng khác không một chút suy chuyển. Một người phụ nữ xinh đẹp và thông minh.


Cẩm phu nhân gặp Sở vương. Khi đó trời đã rất tối. Không như những những cô cung nữ đoán với nhau, trời không mưa, chỉ rét lạnh. Trước khi ra ngoài cung nữ đã khoác cho phu nhân một chiếc áo choàng bông, vẫn còn thoang thoảng mùi hương trầm.


Cẩm phu nhân và Sở vương cùng bước về long điện. Phu nhân nhìn Sở vương Cơ Chiêu hai lần, nhưng không cất lời. Gió thổi khiến những sợi ngọc trên chiếc trâm của Cẩm phu nhân rung ring. Sở vương cũng không để ý, chỉ ngước mắt nhìn mấy vì tinh tú lấp lánh, nói: “Sét đánh thẳng vào lò luyện đan.”


Phu nhân bấm nhẹ vào tay áo: “Bệ hạ không sao chứ?”


“Không. Chỉ có đan dược là bị hủy. Có lẽ ông trời cũng không đồng ý với cách này.” Bảy năm nay, chưa một mẻ đan dược nào được luyện ra nguyên vẹn.


Cẩm phu nhân ngẩng đầu nhìn Cơ Chiêu, hỏi: “Vậy bệ hạ định…?”


“Ta sẽ tìm Trường Sinh chú.”


Cẩm phu nhân kéo chặt lại cổ áo choàng đã gần tuột. Phu nhân ngẩng đầu nhìn Đông Nhật Đài tối tăm, nhưng dường như lại có bóng người hiện lên rõ hơn bao giờ hết.



Buổi triều sớm mỗi sáng đều được an bài ở Cần Điện. Sáng tinh mơ hôm sau, còn chưa đến giờ dự triều sớm Lâu Uyển đã men theo con đường lát đá mà đến Cần Điện. Đêm qua nàng nghỉ lại trong cung, Cơ Chiêu cho một hoạn quan chuyển lời, mời nàng hôm nay dự triều.


Cấm cung nhiều lần được tu sửa, cảnh sắc nơi nào cũng lung linh. Lâu Uyển bước lên cầu đá, theo sau hầu là Thải Liên Tô Tú. Hồ nước bên dưới nước gợn lăn tăn, nuôi mấy con cá rầm xanh, toàn thân phủ một lớp vảy bàng bạc, lấp lánh ánh tím. Lặn xuống màn nước trong vắt vẫn lấp lánh ánh hắt lên mặt hồ như những viên đá quý chìm sâu trong nước. Cảnh đẹp ý vui, thích mắt vô cùng.


Xuống đến chân cầu, nàng trông được từ xa hai cung nữ đang vừa cười đùa vừa dợm bước lại. Hai cô này nom còn rất trẻ, gương mặt búng ra sữa. Có lẽ nghĩ trời còn sớm, trong cung vắng vẻ, các quý nhân cũng chưa thức giấc nên không chú ý xung quanh mà trêu đùa nhau. Nắng chiếu lên những chiếc thoa bạc, lấp lánh sáng bừng.


Cười đùa không để ý, lúc gần tới cầu thì va phải Lâu Uyển, rơi cả khay gỗ bưng trên tay. May mà bên trên chỉ có lụa là vải vóc, không rơi vỡ mất thứ quý giá gì.


Hai cô cung nữ đâm vào người nàng thì vội hoảng hốt nhặt đồ lên, kêu: “Nô tì vô lễ, nô tì vô lễ.”


Thải Liên và Tô Tú lúc này cũng đang đi đằng sau. Tô Tú phì cười: “Cung nữ ở cung nào đây, lóng ngóng quá thể.”


Hai cô này vào cung cũng chưa lâu lắm, Lâu Uyển lại ít khi ở trong cung, cũng khó biết được nàng là ai. Vừa lúng túng vừa sợ, không biết mình va phải ai, tính tình vị quý nhân này thế nào, hai cô mặt thoắt đỏ thoắt trắng, cúi gằm xuống không dám nói gì.


Tô Tú nói: “Sao thế này, lại còn không cả đáp cơ à. Rốt cuộc mấy nhóc này ở cung nào đấy, không ý tứ phép tắc gì cả, phải trị thật nghiêm.”


Lâu Uyển phẩy tay với Tô Tú: “Chỉ biết dọa trẻ con.” Rồi lại nói với hai cung nữ: “Ở đây cũng chẳng ai muốn phạt mấy cô đâu. Ngẩng đầu lên đã nào, trông ta đáng sợ thế cơ à?”


Hai cô cung nữ nghe giọng điệu Lâu Uyển trong lòng khẽ buông lỏng thở ra một hơi. Ngẩng đầu lên trộm nhìn quý nhân trước mặt. Tóc dài, áo lụa, nhưng gương mặt thì hơi là lạ. Trong lòng cảm thấy có gì không ổn lắm, nhưng cũng không biết là không ổn ở chỗ nào.


“Bọn nô tỳ là người mới của cung Triêu Phượng. Hôm nay vâng lệnh Cẩm phu nhân tới lĩnh lụa là vải vóc đến cho phu nhân chọn để kịp may áo đông. Bọn nô tỳ đáng chết, vô ý không hiểu chuyện, lỡ va phải làm quý nhân giật mình.”


Thải Liên ngắm kỹ hai cô hầu thanh tú, nói: “Ra là người của cung Triêu Phượng à. Thảo nào ăn nói cũng lưu loát quá chừng nhỉ, không uổng công Cẩm phu nhân dạy dỗ.” Cẩm phu nhân này nổi tiếng tao nhã tài hoa, cũng qua lại ít nhiều với Lâu Uyển.


Hôm nay xem chừng tiết trời dễ chịu, tâm trạng Lâu Uyển lại tốt, chẳng mấy kiệm lời, nói: “Cẩm phu nhân khéo léo thông tuệ, mấy đứa cũng lanh lợi đáng yêu, nhớ làm việc cho tốt đừng khiến phu nhân mất mặt.”


Nhìn mấy cô hầu vội vàng vâng dạ, Tô Tú khúc khích cười, bàn tay vốn quy củ chắp trước bụng đưa lên che miệng, lệnh bài rủ bên hông vốn được che bởi tà áo bồng bềnh cũng theo đó lộ ra. Lúc này một cô hầu mới giật mình ngẩng đầu nhìn Lâu Uyển, lại cúi đầu, lấy khuỷu tay thúc cô cung nữ bên cạnh, vội hô: “Đại thiên sư, chúng nô tì vô lễ không biết là Đại thiên sư.”


Cô bên cạnh nghe vậy cũng hốt hoảng quỳ theo, sau gáy rịn ra một lớp mồ hơi lạnh. Lâu Uyển biết hai cung nữ sợ, bèn cười: “Thôi lui đi, lần sau cẩn thận hơn một chút.”


Hai cô vội vàng hành lễ, chờ Lâu Uyển đã đi khuất mới dám kéo nhau đi, một cô thở hắt ra: “Đại quý nhân, đại quý nhân. Sao tờ mờ sáng lại đụng phải đại quý nhân thế này. Tôi đến hết hồn.”


“Tôi nào biết, bình thường vị quý nhân này được mấy khi lưu lại cung cấm đâu. Nhưng cũng may có vẻ ngài ấy dễ tính quá. Nếu chẳng may đụng phải mấy vị khác…”


Cô cung nữ kia vội bịt miệng bạn mình, thấp giọng: “Lại đi nói linh tinh, chẳng biết giữ mồm gì cả. Để người khác nghe được thì có chết cũng không hết tội.”


Tô Tú Thải Liên học võ, tai thính mắt tinh hơn người bình thường rất nhiều, đương nhiên các nàng đều nghe được, chỉ thầm cảm thấy hai cô gái trẻ kia vừa ngô nghê vừa đáng yêu. Tô Tú có chút tiếc nuối, xoay đầu nhìn hai cô gái trẻ, đôi mắt nâu càng thêm nhạt hơn, nói: “Ngày trước mình cũng thế này này…”


Chưa dứt lời đã thấy thắt lưng bị Thải Liên cấu một cái. Tô Tú giờ đã đỡ bộp chộp hơn nhiều ngày trước, nhưng tính vô tư thỉnh thoảng vẫn lộ ra. Nàng vốn hơi nóng tính, cũng lại ngây thơ, nếu thả ra bên ngoài không ai uấn nắn thì còn có thể gọi là một cô gái đanh đá. Thải Liên thì ôn nhã khôn khéo, nhưng đôi lúc kiệm lời, suy nghĩ nhiều, bù trừ cho nhau là vừa đủ. Trước đây cũng thường xảy ra chuyện lỡ lời thế này, nhưng Thải Liên đều tinh ý mà cản lại.


Tô Tú bị cấu cũng biết mà im lặng, lén liếc Lâu Uyển. Lâu Uyển không có biểu hiện gì. Mà Tô Tú cũng đã liệu trước được, nhưng vẫn không khỏi cúi đầu hối hận.



Sáng hôm ấy lâm triều có mặt Lâu Uyển. Lâu Uyển tuy được Cơ Chiêu cho phép tham dự vào chuyện triều chính nhưng ít khi có mặt, người ta thường chỉ thấy nàng ta chôn mình ở Cẩm Tú Điện, hoặc cùng lắm là ngồi xem thiên văn trên Đông Nhật Đài. Trừ khi có chuyện quan trọng lắm mới thấy bóng nàng ta trên triều.


Vừa nhìn thấy cái bóng áo trắng kia văn võ bá quan đã có linh tính không hay, quả đúng như vậy, bãi triều, Sở Vương lại triệu bốn người lại. Bốn người này, một là Đại thiên sư đứng đầu Cẩm Tú Điện Lâu Uyển, một là chánh nhất phẩm Thái úy Trần Lăng, một nữa là tòng nhất phẩm Khu mật sứ Nguyễn Thế Ngọc người còn lại là tòng nhị phẩm Lại bộ Thượng thư Đỗ Dự Lân.


Trần Lăng ngồi trên ghế chánh nhất phẩm Thái úy đến nay đã ngót nghét hai chục năm. Hai đời vua Sở đều có cả huy hoàng cả lụi bại, bao nhiêu chuyện trên đời, bao nhiêu biến cố ông ta đều kinh qua. Đến khi Cơ Chiêu lên ngôi đã là vị quân chủ thứ ba ông ta phục vụ, Trần Lăng chưa có điều gì chưa từng thấy, cũng không có chuyện gì không nghe qua, giờ chỉ cần nghe đến chuyện Cơ Chiêu lại định lặp lại lịch sử của Sở U Vương là ông ta đã biết là tương lai của Cơ Chiêu, tương lai của cả nước Sở này sắp chuẩn bị tan nát thành tro, đến hàng lông mày bạc trắng cũng phải xoăn tít lại: “Bệ hạ, việc tiếp tục duy trì Cẩm Tú Điện và chế độ thiên sư đã là quá lắm rồi, người không thể tiếp tục đi theo con đường của tiên đế được. Chẳng lẽ bệ hạ đã quên những năm tháng trước đây của Sở dưới tay lũ thiên sư thế nào ư?”


Cơ Chiêu từ trên bục cao nhìn xuống, tư thái cao cao tại thượng mới xứng bậc đế vương làm sao, mũ miện rủ xuống che cả ánh mắt, chỉ nghe được giọng nói điềm nhiên: “Thái úy nhầm rồi, tiên đế muốn tìm trường sinh nhưng đi theo con đường sai lầm, còn trẫm nhất định không bao giờ nhầm đường được. Hơn nữa thứ đạo sĩ tầm thường ngu muội làm sao so được với những thiên sư Tây Miên thông tuệ am hiểu thuật pháp như những vị ở Cẩm Tú Điện bây giờ. Trường sinh chẳng phải thứ xấu xa tà đạo gì, đi theo hướng đúng đắn mà kiếm tìm há chẳng phải là tốt sao?”


Lại nói, Cẩm Tú Điện là biệt điện dựng ngoài cung cấm, dành cho các thuật sĩ nghiên cứu thuật pháp, tính quẻ xem chiêm tinh, luyện đan dược. Biệt điện này được dựng từ thời Sở U Vương, về sau lúc Cơ Chiêu lên ngôi toàn bộ những thuật sĩ đều bị chém đầu, nhưng lại không dỡ bỏ Cẩm Tú Điện mà ba năm trước đây đã bắt đầu tiếp tục tìm kiếm những cô gái trẻ có tố chất, sau lại đưa về từ vùng xa mấy thiếu nữ người Tây Miên. Người tộc này không phải người Sở mà ở tận nước Yên nghèo khó lụi bại, nhưng rất giàu truyền thống thờ thần, ai nếu đều tinh thông thuật pháp, tính quẻ và xem chiêm tinh rất giỏi. Những thiếu nữ trẻ kia đều nghìn tuyển vạn tuyển, là xuất chúng trong xuất chúng. Cơ Chiêu tin dùng những nữ thiên sư này vô cùng, còn cho thiên sư đứng đầu Cẩm Tú Điện là Lâu Uyển dự triều, ban cho rất nhiều vàng bạc châu báu, nhiều chuyện hệ trọng nàng ta cũng có thể góp tay vào.


Đương nhiên, điều này chỉ càng thêm khiến Trần Lăng gai mắt. Ông ta nhìn sang Lâu Uyển ngồi trên tấm nệm nhung phía đối diện. Chiếc quạt lụa che kín quá nửa gương mặt, chỉ lộ ra một đôi mắt xám như tro tàn.


Ông ta luôn cảm thấy nàng ta tuy còn trẻ tuổi, bề ngoài rất nhu hòa điềm đạm nhưng đôi mắt xám nhìn qua tan tác thiếu thần thái lại như một con sói, mà lại còn là một con sói đang ẩn nhẫn chờ đợi thời điểm tốt nhất mà xé xác con mồ, lòng dạ chằng chịt toan tính mưu mô.


Càng nhìn Trần Lăng càng cảm thấy nhức nhối khó chịu. Lâu Uyển thực chất là kẻ tinh ranh, ả ta chắc chắn không một mực khuyên nhủ Cơ Chiêu tìm Trường Sinh chú, nhưng chính cái ỡm ờ nước đôi miệng can gián nhưng vẫn âm thầm đưa tay ra đẩy Sở vương theo con đường của tiên đế mới khiến ả càng mưu mô thủ đoạn hơn. Ả sẽ không nói toạc ra nhưng từng lời bâng quơ của ả sẽ đưa Cơ Chiêu vào một cái lưới, khiến ngài cảm giác như việc mình tìm Trường Sinh chú vốn là số mệnh của mình, là điều vốn nên làm, là điều vốn muốn làm.


Trần Lăng nắm tay chặt lại thành nắm đấm, tức đến đỏ bừng cả tai, chỉ nhìn Lâu Uyển rồi rít nhẹ lên một tiếng: “Thứ yêu nghiệt.”

Đôi mắt xám chỉ lẳng lặng nhìn ông ta rồi nhẹ liếc sang hướng khác. Dưới lớp quạt lụa trắng như in một nụ cười ngạo nghễ của một con rắn.


Trần Lăng biết lời mình nói cũng khó mà giúp ích được nhưng vẫn không kìm được nhìn Cơ Chiêu trên long tọa mà cất tiếng: “Kính xin bệ hạ cân nhắc lại, cũng hai mươi năm trước đây lúc Sở U Vương bước vào con đường tìm Trường Sinh chú, tiên đế cũng đâu có nghĩ một ngày mình sẽ bị che mắt mê hoặc mà làm hại dân hại nước. Vạn vật trên thế gian này sinh sôi nảy nở đều có sống có chết, đó đã là quy luật tự nhiên, hà tất phải phá vỡ? Trường sinh chưa chắc đã là tốt, thậm chí còn là trái với lẽ tự nhiên. Mà còn không ai chắc chắn được thứ gọi là Trường Sinh chú có thật sự tồn tại không, hay chỉ là lời của tiên đế lúc thần trí mơ hồ. Nếu như có thật thì bằng hàng chục năm, hàng ngàn mạng người và số của cải khổng lồ mà tiên đế đổ vào tìm kiếm Trường Sinh chú thì ắt đã sớm phải tìm thấy.”


Nghe Trần Lăng nói vậy, Khu mật sứ Nguyễn Thế Ngọc suy nghĩ một lúc, khẽ nhấp một ngụm trà rồi ung dung cất tiếng: “ Thái úy nói vậy cũng không hoàn toàn chính xác rồi. Đúng là tiên đế đã… có những bước đi sai.”


Trần Lăng hừ lạnh: “Đâu phải chỉ là bước đi sai. Ta quả thực không có ý bất kính, nhưng hai mươi năm trị vì của tiên đế là hai mươi năm tăm tối nhất của Sở từ khi lập quốc tới nay.”


Nguyễn Thế Ngọc nói tiếp: “Nhưng cũng đâu có nghĩa là những người khác cũng sẽ đi sai đường giống tiên đế. Mặc dù không biết thật sự Trường Sinh chú có phải có thật hay không, nhưng nhắc đến trường sinh thì cũng thấy khó mà cưỡng lại được. Không phải chỉ là ham muốn cá nhân, mà thật sự nếu đạt được thứ này trong tay, thậm chí Sở ta có thể thống nhất thiên hạ, trường tồn với trời đất, vĩnh viễn hưng thịnh.”


Lại bộ Thượng thư Đỗ Dự Lân một bên lắc đầu: “Chưa biết đạt được sẽ có bao nhiêu quyền uy thao túng trời đất thiên hạ, chỉ biết là nếu thứ này xuất hiện, thiên hạ tất loạn. Ta cùng ý kiến với Thái úy.”


Nguyễn Thế Ngọc nói: “Loạn vì thứ này, kể cũng đáng lắm. Nhưng nếu là người như bệ hạ có thể nắm được nó trong tay, thứ tiếp theo chỉ có thể là vinh quang uy quyền, không phải không thể kiềm chế những kẻ có lòng tham đoạt bảo vật.”


Trần Lăng chau mày: “Nói thì hay lắm, ai biết được điều gì sẽ xảy ra. Nếu quả thật có thứ kỳ diệu như thế, không loạn mới là lạ. Mà không thể không nhắc lại lần nữa, liệu có chứng cớ nào chứng minh rằng Trường Sinh chú thật sự tồn tại không? Hay đấy chỉ là niềm tin mù quáng của Sở U Vương?”


Sở vương Cơ Chiêu vốn im lặng thong dong, quan sát ba vị thần tử được mình tín nhiệm nhất tranh luận, lúc này mới mỉm cười, cất giọng: “Chuyện này thì phải hỏi Yên My.”


Cả ba ánh mắt bên dưới đều đồng loạt chiếu lên người Lâu Uyển. Từ đầu đến giờ chưa thấy nàng ta mở miệng nói câu nào, chỉ im lặng ngồi hòa vào khung cảnh xung quanh khiến ba vị đại thần mải mê tranh luận mà quên mất hẳn sự tồn tại của nàng ta. Giờ ba cặp mắt đồng loạt hướng về phía Lâu Uyển chờ đợi, đồng thời lòng cũng bình ổn lại mà vạch ra những toan tính suy nghĩ của riêng mình.


Lâu Uyển chậm chạp gập đầu với Sở vương. Đôi mắt xám của nàng ta như một cái lưới phủ kín Cần điện, khiến người ta giật mình cố nhớ lại có phải lúc nãy nàng ta cũng đã dùng ánh mắt này để quan sát mình trong im lặng, hay đơn giản chẳng để tâm tới lời nào mà nhắm mắt bỏ qua toàn bộ sự việc.


Giọng nói trầm bổng vừa đủ, vừa gãy gọn vừa dễ nghe của Lâu Uyển vang lên, giọng nàng ta vốn nhẹ nhàng nhưng nhả chữ rất rõ, trong Cần điện vốn im lặng lại càng vang hơn: “Các vị đây chắc cũng biết, Lâu Uyển nay thân ở tại Sở, là triều thần của bệ hạ nhưng vốn là người nước Yên. Chừng hơn một trăm năm trước đây Yên cũng có thể coi vào hàng có thế lực lớn, tuyệt đối không có dáng vẻ lụi bại như bây giờ.”


“Ngày đó nước Yên nổi tiếng nhất về truyền thống thờ thần và một bộ phận thiên sư được giữ những chức quan lớn trong triều. Tổ tiên của Lâu Uyển cũng nằm trong số những thiên sư này. Mà những thiên sư được trọng dụng trong triều phần lớn đều xuất thân là người tộc Tây Miên – một tộc ít người sống ở cao nguyên phía Đông nước Yên. Tộc Tây Miên khác người, tính quẻ, xem thiên văn đều rất giỏi, có người còn có thể nói chuyện với quỷ thần.”


Giọng điệu nàng ta thong thả chậm rãi, mấy điều nàng ta nói cả năm người ở đây cũng đều biết, nhưng vẫn không bỏ sót chữ nào, chỉ chăm chú nghiền ngẫm lắng nghe tiếp.


“Về sau các thiên sư trong triều bị vu oan, lại thêm chuyện Yên vương vốn có lòng nghi ngờ mà giết hại, sau này Yên cũng vì nhiều lý do mà suy sụp, người Tây Miên trốn chạy khỏi quê cũ mà phân tán ra nhiều nơi thành các tộc người nhỏ, một số lưu lạc sang các nước lân cận, một số vẫn tiếp tục sống trên đất Yên. Lâu Uyển cũng là một trong số đó.”


“Tuy phải lưu lạc nhiều nơi, bộ tộc lại bé nhỏ, chưa đến bốn chục người nhưng vẫn giữ truyền thống cũ, dạy những đứa bé trong tộc gieo quẻ, học chiêm tinh. Chính vì thế nên Lâu Uyển từ ngày còn nhỏ đã được tiếp xúc với thuật pháp, cũng được nghe đề cập đến một thứ, thứ này có thể coi như Thánh vật của toàn tộc Tây Miên, đó chính là Trường Sinh chú.”


Những đôi mắt vẫn nghiềm ngẫm, đầu óc vẫn cẩn thận suy tính, xác thực độ thực hư trong lời nói của Lâu Uyển.


“Lâu Uyển bị lạc mất đồng tộc từ ngày còn nhỏ, nhưng vẫn nhớ kỹ về truyền thuyết này. Trường Sinh chú là thứ gì trừ những người đứng đầu tộc ra thì không ai biết, điều duy nhất mà người Tây Miên biết chính là thứ này xác thực có tồn tại. Thứ này khiến người trong tộc vừa kính vừa sợ, vừa tin vừa yêu, coi đây chính là thứ tượng trưng cho tộc người của mình, đem lại niềm tin và tôn nghiêm cho bộ tộc. Đồng thời đều cảm thấy mình có sứ mệnh phải bảo vệ Thánh vật này. Không chỉ người Tây Miên tôn sùng, mà một bộ phận người Yên cũng tin vào truyền thuyền thuyết này.”


Đỗ Dự Lân cố tìm sự thật trong đôi mắt Lâu Uyển: “Vậy ý thiên sư là thật sự Trường Sinh chú có tồn tại? Trước đây tiên đế cũng từng tin rằng thật sự có một thứ có tên như vậy, nhưng tìm kiếm bao nhiêu năm cũng không tìm được một manh mối nào.”


Nguyễn Thế Ngọc lúc này cũng quan sát Lâu Uyển.


Nàng ta đúng là được đưa về từ Yên, nhưng đừng nói tới Trường Sinh chú, ngay đến tộc người Tây Miên cũng chỉ tồn tại qua những lời truyền miệng, từ lúc Yên suy vong là những kẻ bí ẩn thuộc tộc người này cũng sớm bốc hơi không chút vết tích, không biết giờ còn giấu mình ở đâu hay đã sớm diệt tộc.


Người Tây Miên gương mặt sắc nét như chạm khắc, nhiều người tóc vàng như ráng nắng mắt xanh như ngọc biếc. Nhìn Lâu Uyển gương mặt nhu hòa nhưng vẫn pha nét khác lạ không giống người thường, hốc mắt sâu, tròng mắt xám trong như một chất thủy tinh là lạ, tóc lại đen bóng. Vừa hư vừa thực, vừa có nét giống lại vừa có nét không, nửa thật nửa giả. Nếu không nói thì chỉ cảm thấy có chút khác, nói rồi nhìn kỹ lại thấy giống. Có thể là, qua bao năm tháng lưu lạc của bộ tộc, pha trộn huyết thống, thứ chứng tỏ dòng máu Tây Miên trong người nàng ta chỉ còn sót lại chừng nay. Hoặc giả, Lâu Uyển chính là một con cáo khôn ranh.


Nếu Lâu Uyển thật sự là một con cáo khôn ranh, thì quả thật nàng ta cũng thực xuất sắc, vì kiếm tìm thật giả trong mắt nàng ta quá khó khăn. Giọng nói đều đều, đôi mắt thiếu cảm xúc, không phân biệt được đâu là thật đâu là giả. Nhưng trong lòng vị Khu mật sứ trẻ được Sở vương hết sức tin dùng này mong lời nàng ta nói là thật. Vì nếu có tồn tại thứ gọi là Trường Sinh chú, thì thật quá mức thú vị.


“Tiên đế không tìm được Trường Sinh chú cũng chẳng có gì lạ. Trường sinh đâu phải thứ dễ dàng mà có được. Thậm chí có phải bán thành quách, dâng giang sơn cũng chắc gì đã nắm được trong tay. Tiên đế lại chỉ mơ hồ nghe thấy cái tên, chưa từng nhìn thấy, không rõ tung tích, hơn nữa còn hiểu sai ý nghĩa của Trường Sinh chú. Muốn trường sinh nhưng lại đánh đổi bằng cái chết của người khác, dùng trẻ con tế trời, làm khổ bách tính, loanh quanh luẩn quẩn không lối thoát, chỉ dùng những phương thức tàn độc mê muội mà không tìm nổi một manh mối. Trường sinh đánh đổi bằng máu kẻ vô tội, thì không nên tồn tại trên đời.”


Đỗ Dự Lân nghe vậy liền hỏi tiếp: “Nếu theo Đại thiên sư tiên đế đã tìm Trường Sinh chú sai cách, vậy thế nào mới là đúng cách, và thiên sư cũng có cách nào để chứng minh là Trường Sinh chú có thật ngoài những lời bâng quơ?”


Sở vương trên long tọa nghe xong cười ha hả, những nếp nhăn trên khóe mắt càng rõ hơn, đôi mắt vừa cao ngạo vừa mừng vui, ông ta nói: “Có khó gì.”


Đoạn, bước xuống khỏi bục cao, Sở vương Cơ Chiêu tiến đến gần Lâu Uyển, lại rút ra từ thắt lưng một con dao nhỏ được chạm khắc đẹp đẽ, lưỡi dao sáng loáng, trong thanh tao ẩn chứa sắc bén, chất kim loại loang loáng xám xanh mới chỉ ẩn nhẹ vào cổ tay Lâu Uyển đã thấm máu.


Ba người trên điện thấy Sở vương lấy dao cắt vào tay nàng ta đều ngạc nhiên không hiểu, rồi mới chợt thấy miệng vết thương ngừng chảy máu rất nhanh, chốc lát sau đã tự khép miệng. Sở vương lại lau máu trên cổ tay Lâu Uyển, ba người kia mới sững sờ nhận ra trên cánh tay trắng như ngó sen kia sớm đã chẳng còn vết thương nào.


Nguyễn Thế Ngọc ngạc nhiên: “Vậy… chẳng lẽ trên người Đại thiên sư lại có Trường Sinh chú?”


Lâu Uyển lắc đầu, tiếp lấy con dao trên tay Sở vương, vén lại tay áo trắng thêu hoa chìm, rạch thêm một đường, lần này không nhẹ như Sở vương mà mũi dao lún cả một phần xuống thịt, máu tuôn xối xả, chỉ là lần này không ngừng, cũng không mau chóng lành lại như lần trước. Da thịt mềm mại như nước thế kia, bị một vết dao sắc thế kia cắt qua, nhìn cũng thấy đau thay cho nàng ta.


Lâu Uyển dùng một chiếc khăn tay trên bàn bịt vết thương lại, máu thấm ướt cả khăn như đóa hoa đỏ bung nở trong tích tắc. Lâu Uyển nói: “Đây là chuyện từ hồi còn nhỏ. Thứ trên người Lâu Uyển không phải Trường Sinh chú, chỉ là một thứ thuật pháp mà đứa trẻ nào người Tây Miên cũng được ếm lên người, giúp các vết thương nhẹ mau chóng liền lại, da thịt lành lặn, ít bị thương tổn, cũng giảm cảm giác đau, nhưng nếu sâu một chút thì cũng khó mà lành. Đương nhiên cũng không thể giúp Lâu Uyển trường sinh được. Ồ, chuyện này các vị cũng không nên truyền ra ngoài, biết là không cần nhắc thừa nhưng để yên tâm vẫn phải nói với các vị. Không lại uổng công có kẻ muốn kiểm tra có đúng trên người Lâu Uyển không có Trường Sinh chú thật chăng mà đến cho một lưỡi kiếm. Lâu Uyển có thể nói luôn kết quả, chính là chết ngay tức khắc. Đến lúc đấy muốn tìm ra Trường Sinh chú cũng khó.”


Đôi mắt Nguyễn Thế Ngọc nheo lại, vẫn dán trên cổ tay loáng máu của Lâu Uyển, cất tiếng: “Người Tây Miên quả thật quá kỳ diệu. Chỉ là thứ thuật pháp nhỏ mà đứa bé nào cũng có mà đã tuyệt diệu thế này, dù không có Trường Sinh chú thì cũng phải có những thứ quý giá kỳ lạ, hiếm gặp trên đời.”


Lâu Uyển im lặng, vốn tưởng không định cất lời nữa, được một lúc, nàng lại nhẹ nhàng nói: “Nhưng Lâu Uyển phải cảnh báo trước. Có những thứ không như tưởng tượng. Có thứ gọi là Trường Sinh chú thật, nhưng không biết nó có thật kỳ diệu như Thượng thư nghĩ. Thứ này không ai ở đây từng nhìn thấy, cũng không ai biết rõ, kể cả Lâu Uyển, nên nó có thể là liều thuốc tiên, cũng có thể là viên thuốc độc. Người sẽ thấy nó rất diệu kỳ, rất hấp dẫn, nhưng nó cũng là con dao sắc, không chỉ đơn giản là một vết rạch máu không ngừng chảy như trên tay Lâu Uyển, mà có thể là một dao cứa đứt cổ họng, đến sống tới tuổi già còn không mong được, chứ đừng nói đến trường sinh.”


Trần Lăng chăm chú nhìn Lâu Uyển: “Đại thiên sư nói như vậy là có ý gì? Mới chỉ vài tích tắc trước còn thấy thiên sư ủng hộ việc tìm kiếm Trường Sinh chú, khẳng định sự tồn tại của nó. Hiện giờ lại lập lờ, khuyên nhủ chúng ta không nên tìm kiếm? Rốt cuộc ý muốn của thiên sư thế nào, thiên sư biết gì về nó?”


Lâu Uyển quay đầu, những tia sáng len theo khe cửa phủ trên người nàng ta những bông hoa nắng lấp lánh, khiến người ta không nhìn rõ vẻ mặt: “Ta chưa từng khuyên người đi tìm Trường Sinh chú, nhưng cũng sẽ chẳng cản người lại. Ta chỉ khẳng định có Trường Sinh chú, nhưng không khẳng định nó sẽ thật sự giúp người trường sinh. Ta chỉ ra những cái lợi nếu nắm giữ được trường sinh, nhưng cũng nói cho người cái hại. Không xúi giục người làm gì, ta chỉ cho người biết những thứ người muốn biết.”


Trần Lăng nheo mắt: “Đại thiên sư thật lấp lửng nước đôi. Nhưng câu nào của người cũng đầy thâm ý, tưởng như người ngoài cuộc, nhưng nào biết sau lưng người đang khéo léo giật dây thế nào.”


Ráng nắng không tắt, khiến đôi môi Lâu Uyển như nhếch lên một nụ cười: “Ồ, thật vậy chăng.”


Chao ôi, quả thật là một con cáo mà.


Chuyện buổi sáng ngày hôm ấy kết thúc đã như kết thúc như thế. Mười ba năm ròng rã trước đây, Cơ Chiêu cũng đổ tiền bạc, đổ sức lực vào tìm kiếm trường sinh, nhưng chỉ như một kẻ mù lạc đường đi mãi không tìm được lối ra, vừa tìm vừa sợ, vì đã nhìn thấy có kẻ vạch sẵn đường nhưng lại là đường dẫn tới vách núi. Ngày hôm đó Cơ Chiêu bước tiếp theo con đường vạch sẵn tới vách núi ấy, vừa đi vừa tìm cách từ đó mà rẽ ra một nhánh đúng. Không biết có đến đích hay không, hay là luẩn quẩn lại về đường cũ. Ngày đó cũng có thể coi như là đánh dấu bước đầu của thêm một triều đại Trường sinh.


Tất nhiên gọi nó là Trường sinh, chẳng phải vì ai cũng bất lão bất tử, vui vẻ hạnh phúc, mà chỉ đơn giản đây là triều đại điên cuồng tìm kiếm trường sinh. Trường sinh như một nỗi ám ảnh, như một căn bệnh nan y di truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác của vua chúa đất Sở, lây sang cả thần dân đất Sở.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

HongHani

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
24/12/16
Bài viết
11
Gạo
0,0
Chương 2:


Năm ấy mười tám tuổi, nàng phiêu bạt khắp trời Nam đất Bắc.


(1)
Lã Như Ý chạy suốt một tiếng đồng hồ.


Tuyết lạnh. Như Ý là người nước Yên, từ nhỏ đã quen chịu lạnh, nhưng lúc bỏ chạy cô không mặc áo choàng, trên người chỉ có bộ áo kép khó chống chịu được với cái rét cắt da cắt thịt nơi phương Bắc.


Tóc Lã Như Ý ướt sũng nước tuyết, da thịt lạnh toát, chân cô cũng sớm đã mất cảm giác, chỉ thỉnh thoảng truyền lạ xúc cảm tê dại như kim châm.


Lã Như Ý cảm thấy người trong gia tộc điên rồi. Điên mất rồi.


Nỗi sợ hãi gặm nhấm trái tim, khiến Như Ý run lên liên hồi. Cô vẫn ngửi thấy mùi hương liệu, mùi cỏ, mùi nước thuốc trên mình, cô còn nhớ cả cảm giác lúc bị treo lên cây cột, như một con nai tìm cách quẫy đạp khỏi mũi dao đang chuẩn bị xẻ thân mình ra từng mảnh.


Nước Yên thất thế. Bộ tộc Tây Miên bị diệt. Phong tục thờ thần linh cũng phải gập mình trước cái đói cái nghèo, tuy nhiên ở những thành quách phồn hoa, việc ưa chuộng bùa phép, tìm tòi đạo thuật tuy không được như xưa nhưng vẫn không thiếu. Kinh thành nước Yên cách ly hẳn khỏi những quận huyện hoang tàn nghèo xác xơ khác, cũng thoát khỏi luôn cơ cực loạn lạc, tiền bạc khắp nước Yên cũng chỉ đổ về nơi đây, đình các vàng son, nhà cao cửa rộng, nam thanh nữ tú áo quần lụa là, nhìn nơi đâu cũng thấy người đeo bùa cầu may trên mình, đền đài chùa miếu không đâu là không có.


Trong kinh thành có mấy gia tộc chuyên học hỏi tu luyện đạo thuật. Những kẻ nhà giàu rất thích, thường xuyên đến xin bùa, xin quẻ, tiền cứ thế mà dâng lên vô số kể. Gia tộc của Như Ý cũng như thế.


Như Ý từ bé rất thông minh, lại yêu thích đạo thuật, mới mười mấy tuổi đầu cô đã thấy sự sai lệch nhất định của gia tộc mình. Có lẽ đây không phải là đạo thuật chính thống, dù thời gian dài trôi qua cũng ít người hiểu được thế nào mới là chính thống. Chỉ là thứ đạo thuật này tàn độc, lại có vô số lỗ hổng. Oái ăm thay chính cái tàn độc này càng khiến giới quý tộc nước Yên tin tưởng hơn, nó nhanh, dễ dàng, và trên hết là hiệu quả, chỉ đòi hỏi hy sinh nhân tính. Con người ta thường tin tưởng hơn những điều mà phải trả một cái giá lớn để đạt được.


Lã Như Ý từng nhiều lần thấy có nhà giàu muốn giấu của cải để lại cho con cháu, tìm đến nhờ thầy vời thần giữ của. Thậm chí cô cũng được đi với người lớn vài lần. Thầy sẽ xem giúp cho khách một mảnh đất tốt, tính vận, xây mộ, rồi cùng đi chọn một trinh nữ, thường thì là mấy cô bé mồ côi nghèo khổ, nhốt vào trong mộ, cho ngậm một củ nhân sâm sao cho sống được một trăm ngày. Đến khi chết đi, cô gái ấy chính là thần giữ của.


Như Ý từng chăm sóc một trong số những cô gái ấy. Cô gái đó chỉ bằng tuổi cô, thế mà đã bị nhốt vào quan tài, gương mặt lờ đờ do bị cho uống thuốc, lúc nắp quan tài đóng xuống, đôi mắt đen lay láy xoáy sâu vào mắt Như Ý khiến sống lưng cô lạnh toát, tim đập đập như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Đôi mắt giống đôi mắt của con nai trước lúc bị thợ săn giết. Loang loáng nước, tuyệt vọng, van vỉ.


Cô sợ hãi, cũng ghê tởm phương cách của gia tộc đến cùng cực. Từ ngày đó, Như Ý càng dốc sức nghiên cứu đạo thuật nhiều hơn, không tiếc tâm tư tiền bạc tìm kiếm những tài liệu ghi chú chính thống còn sót lại về đạo thuật chính thống. Cô không đủ sức để thay đổi cả gia tộc, nhưng cũng phải cứu vãn được ít nhiều. Còn không, cô sẽ bỏ đi, không dính líu gì đến thủ đoạn tàn độc thế này. Nhưng tính đi tính lại, Lã Như Ý cũng không nghĩ tới có một ngày chính mình lại bị gia tộc hiến tế, như một đứa trẻ lang thang côi cút bị cái chết tra tấn từ từ mà trở thành thần giữ của.


Gia tộc ngày càng sa sút. Tiền bạc, của cải, địa vị lấy được từ những phép tà đạo, bùa ngải rồi cũng đến lúc phải trả lại. Nhiều người ốm rộc, có người chết bất đắc kỳ tử, tiền bạc thì hao hụt, làm việc gì cũng chẳng thuận lợi. Nhưng gia tộc cũng đã tính đến điều đấy từ trước rồi, thế là họ liền hiến tế đứa cháu gái xuất sắc nhất làm vị thần bảo hộ cho cả gia tộc.


Lã Như Ý thật sự không hiểu. Tại sao lại là mình? Cô là người thông minh nhất, cũng sẽ là người có tương lai xán lạn nhất, thế mà cô lại bị giết, trở thành một linh hồn vất vưởng, phải chôn người ở mảnh đất ấy, không biết mình là ai, u mê mà tồn tại đến khi thiên địa đảo lộn, trời đất hòa làm một.


Như Ý không cam tâm. Cô đập vỡ tấm gương giấu trong tay áo, cứa đứt dây trói rồi đánh ngất bà cụ người ở. Kiêng người chết trong nhà, gia tộc giam cô trong một căn nhà nhỏ trong rừng hoang, lại phải lúc trời mưa, tầm nhìn bị cản, âm thanh cũng bị lấp, cô may mắn mà chật vật trốn được.


Đi đã nửa ngày. Mưa tạnh, nhưng tuyết lại đổ xuống. Sức khỏe Như Ý tốt nên vẫn còn chưa gục, nhưng cô cảm thấy nếu không phải bị gia tộc cắt hết máu thì cứ như thế này cô cũng sớm chết thôi.


Ngã quỵ trên lớp tuyết. Cô chợt nhận ra.


Tuyết không mềm mại như bông, không bồng bềnh như mây. Nó cứng, lạnh, tàn nhẫn.


Như Ý nghĩ.


Ông trời ơi. Từ nhỏ con đã ngoan ngoãn. Con học thật nhiều. Con sống thật tốt. Năm nay con mười tám tuổi, chưa sống được đến nửa cuộc đời, thậm chí cuộc đời con còn chưa bắt đầu. Con còn rất nhiều điều chưa làm. Nếu mà không thể làm những điều ấy, con chết cũng không yên.


Con vẫn còn muốn sống.


“Lộc cộc. Lộc cộc.”


Tiếng móng ngựa đập xuống tuyết nghe như có như không, Lã Như Ý ngẩng đầu lên, nhìn đoàn người tiến lại gần như mờ như ảo, nhòe nhoẹt, không rõ ràng.


~oOo~


Thật sự thì, Cơ Chiêu vốn không muốn hai cây cột trụ là Đỗ Dự Lân và Trần Lăng tham gia trước vào chuyện tìm kiếm Trường Sinh chú. Hai người này chắc chắn không đồng ý, nhưng vẫn phải ép buộc đưa vào, vì sức ảnh hưởng lớn có ích lợi trong kế hoạch của ông ta, mà cũng để kiềm chế những đứa trẻ mới này.


Cơ Chiêu không thích những con cáo già đầy kinh nghiệm, dù rằng chính những kẻ này đã giúp một tay đưa ông ta lên ngai vàng. Trong thâm tâm ông ta vẫn còn nhiều vướng mắc, cũng luôn muốn xóa sạch hoàn toàn bóng dáng của thời kỳ trị vì trước kia của tiên đế.


Từ lâu Sở vương đã muốn đào tạo nên một thế hệ mới. Có thể không già dặn, không lão luyện, cũng không thông minh được như lớp người cũ. Nhưng trẻ hơn, trung thành hơn, ngoan ngoãn hơn, mà cũng ngây thơ hơn, bừng bừng nhiệt huyết hơn. Ông ta cảm thấy nhìn những kẻ trẻ tuổi ấy khiến ông ta cũng như trẻ lại.


Nhưng những đứa trẻ mới, gần như đứa nào cũng có chút thiếu khuyết. Đến ngay như Nguyễn Thế Ngọc cũng vẫn bồng bột, lại nóng vội lôi kéo bè phái. Nếu để cho chúng nghĩ mình là đặc biệt, là quan trọng thì dễ sinh ra kiêu ngạo, e là hỏng chuyện. Phải có người kìm kẹp, cho chúng một bài học, hoặc thậm chí làm chúng ngã thì mới mài dũa bớt tính tình chúng được.


Chỉ có Lâu Yên My là khiến ông ta yên tâm. Nàng là kẻ khiến ông ta hài lòng nhất.


Lâu Uyển rong ruổi trên ngựa, nhớ lại ánh mắt mãn nguyện của Cơ Chiêu. Mũ áo choàng rũ xuống che kín tầm mắt khiến nàng phải đưa tay vén lên, rồi lại thúc ngựa, tiến lên trong màn tuyết mịt mờ.


Nàng đang tiến vào sâu trong lãnh thổ của nước Yên. Nơi này quanh năm lạnh giá, mới chớm đông mà đã ngập một màu tuyết trắng, như một vương quốc băng. Bốn phương đều được tuyết san bằng, trống rỗng chỉ lóa lên một sắc trắng bỏng lạnh cả đôi mắt. Gió thì sắc như dao, lạnh lùng khứa từng nhát lên bất cứ vật thể nào xuất hiện trên mảnh đất mênh mang trắng.


Lâu Uyển khoác một chiếc áo gấm tím trùm kín mặt ngăn gió tuyết, cưỡi trên một con ngựa trắng muốt.


Bóng nàng thoắt ẩn thoắt hiện trong muôn ngàn tuyết trắng. Nàng không thấy lạnh, dường như cũng đã quen với cái khắc nghiệt của miền đất này. Một tay giữ cương, một tay túm chặt mũ áo kéo ngang mặt, Lâu Uyển không ngừng tiến về phía trước.


Nước Yên không phải nơi khởi nguồn cho Trường Sinh chú, càng không phải là quê cha đất tổ của bộ tộc Tây Miên, nhưng dọc theo chiều dài lịch sử thì đây là nơi những người này gắn bó lâu nhất. Muốn tìm kiếm tung tích của bọn họ, đây chính là nơi khả thi nhất.


Lâu Uyển vốn được đưa từ Yên về, đương nhiên vô cùng am hiểu về nơi này, Cơ Chiêu nhân cơ hội này cũng có ý cho nàng đến đây truy tìm tung tích của Trường Sinh chú. Chuyện về Trường Sinh chú tạm thời không được công khai, Lâu Uyển lại vốn ít khi ra khỏi Cẩm Tú Điện, có một số việc thì lại chỉ có thể để người có năng lực, có địa vị, cho người được việc như nàng ta đi là tốt nhất.


Không được và cũng không cần thiết phái nhiều binh lính đi, cả đoàn Lâu Uyển chỉ gồm mười người, nhưng những kẻ đi theo đều không ai là không tinh nhuệ xuất chúng. Lúc tiến vào biên giới nước Yên, Lâu Uyển tách đám người làm hai, cả Tô Tú và Thải Liên cũng bị tách sang nhóm còn lại, đi theo hai con đường khác nhau tiến sâu vào lãnh thổ Yên. Lâu Uyển chỉ mang theo ba người, dẫn đầu đoàn, đi thẳng theo hướng Bắc.


Con đường mà Lâu Uyển chọn rất khó đi. Không phải là chông chênh hiểm trở, núi cao sông rộng, mà là quá lạnh, quá trống vắng. Khắp nơi mù mịt chỉ có tuyết, đến những gốc cây cổ thụ trụi lá cũng khó tìm thấy, không biết hướng nào là hướng nào, rất dễ đi luẩn quẩn mà mất phương hướng. Đứng một chỗ dõi mắt ra xa là không bao giờ tìm thấy điểm dừng, chỉ thấy mình như lạc vào một cõi hư vô trống trải.


Nhưng con ngựa của Lâu Uyển vẫn phăm phăm tiến về phía trước, như là chủ nhân của nó đã nhìn thấy con đường rải sẵn trước mắt. Chưa từng quay đầu, chỉ để lại những dấu chân nóng hổi in trên làn tuyết lạnh.


Đường xa, khắc nghiệt. Họ đi đã mất tròn một tháng trời, thay không biết bao lần ngựa, nhưng cả đoàn quân vẫn thẳng tắp mà tiến về phía trước. Ai nấy đều là tinh anh đã nếm không biết bao nhiêu khổ cực khắc nghiệt.


Tiếng Lâu Uyển trong gió tuyết vang lên: “Cô bé sao rồi.”


Lã Như Ý vốn nửa mê nửa tỉnh, nghe giọng Lâu Uyển bỗng chợt tỉnh táo lại. Cô nhìn bóng áo tím trên con ngựa trắng muốt, trông thản nhiên như chưa từng cất tiếng.


“Ơn của cô Như Ý không biết phải báo đáp thế nào, nếu hôm nay không có cô thì em đã phải bỏ xác ngoài này.” Như Ý vội đáp, giọng vẫn run rẩy vì lạnh.


Bóng áo tím khẽ khoát tay, cũng chẳng đáp lời nào.


Nữ hộ vệ cưỡi cùng ngựa với Lã Như Ý nói: “Em chẳng cần báo đáp gì, chúng tôi cũng chỉ cho em tấm áo miếng cơm ít ngày. Bọn tôi không có xe ngựa, lại vội công chuyện, chỉ có thể để em đi nhờ ngựa.”


Như Ý khóc nhọc xua tay, người vẫn lạnh đến bủn rủn: “Với mọi người chỉ là một cái phất tay, nhưng với em đã là ơn cứu mạng rồi.”


Đoạn, cô liếc nhìn vùng đất hoang vắng trắng xóa tuyết, hỏi: “Không biết mọi người đang định đến đâu vậy?”


Nữ hộ vệ đáp: “Bọn tôi muốn tới kinh đô nước Yên. Cô bé quần áo sang trọng, chắc cũng là từ kinh đô đến? Nhà em ở đâu mà lại lạc đến tận chỗ này, để lúc xong chuyện bọn tôi sẽ đưa em về.”


Vừa nghe dứt lời, Lã Như Ý đã cảm thấy tay mình bắt đầu phát run.


Thấy mặt Như Ý bỗng chốc xám ngoét, nữ hộ vệ biết là có điều không ổn: “Em sao thế.”


Như Ý suy nghĩ một hồi rồi mới đáp: “Thực ra… gia đình em có chuyện xích mích rất lớn. Quả thật chuyện gia đình không thể nói ra, nhưng nói không quá, nếu về nhà thì nửa đời này của em cũng không yên nổi. Mà nhà em thì lại ở chính trong kinh đô.”


Mấy hộ vệ trong đoàn nghe xong cũng không gặng hỏi, nhìn cô bé này thì chắc mẩm là chuyện ép gả chồng, an ủi cô đôi lời, nữ hộ vệ hỏi xong ý Lâu Uyển nói: “Em đừng lo, cô chủ sẽ giúp em. Việc của bọn tôi khó chậm trễ nên không thể cho người tách ra tìm nhà trọ, lo liệu cho em được, em đành phải theo bọn tôi thêm đôi ngày, đợi xong chuyện rồi tính tiếp. Nhưng nếu chỉ là chuyện gia đình lặt vặt, thì khuyên em cũng đừng giận dỗi cha mẹ, cha mẹ nào cũng chỉ muốn tốt cho con thôi.”


Có mấy người trong đoàn sợ người lạ đi theo làm hỏng chuyện, hay làm lộ cơ mật, nhưng vì là ý của đại thiên sư nên cũng đành dẹp băn khoăn đi. Lã Như Ý không biết đoàn người này đến đây có chuyện gì nhưng nhìn vẻ gấp gáp thì đoán hẳn là chuyện hệ trọng, cũng biết mình sẽ vướng tay vướng chân bèn không ngừng cảm ơn.


Mãi rồi đêm cũng xuống, trời còn lạnh hơn nữa. Đoàn người dựng trại, lại đúng may tìm được một cánh rừng mà nhóm một đống lửa lớn. Đống lửa được xếp rất bài bản, ba lớp gỗ xếp như một chiếc bếp, khiến lửa trong đêm tuyết bốc lớn khó tắt nổi. Lúc Như Ý đang nhận đồ ăn tối mọi người phân, cô để ý thấy Lâu Uyển bỏ vào trong rừng cây. Bất giác Như Ý có cảm giác thúc giục mình đi theo chẳng rõ xuất phát từ đâu, bèn nói với người trong đoàn một tiếng rồi đi theo.


Tuyết lạo xạo dưới chân. Như Ý cũng chắc Lâu Uyển biết mình đi theo, nhưng nàng cũng không lên tiếng bảo cô về.


Lâu Uyển cũng không đi xa, dù sao trời sẩm tối, đi vào rừng cũng nguy hiểm. Nàng ta dừng ở một khoảng đất thưa cây. Phủi đi đám tuyết mỏng trên một phiến đá phẳng, nàng nói: “Ngồi đi.”


Lã Như Ý hơi ngơ ngẩn, cũng ngồi xuống theo lời nàng. Bàn tay của cô chợt thấy ấm sực, nhìn xuống đã thấy có một chiếc lò sưởi nhỏ cầm tay. Lâu Uyển đang nhìn bàn tay cô, lốm đốm những vệt trắng do đi lạnh, giờ cô mới nhận ra.


“Nhà em theo đạo thuật phải không?”


Giọng Lâu Uyển đột ngột vang lên khiến Như Ý giật mình, bật hỏi: “Sao cô lại biết ạ?”


Lâu Uyển đưa tay vuốt tấm bùa treo trên thắt lưng Như Ý. Tấm bùa làm rất khéo, bên ngoài là một lớp gấm vàng óng ánh, năm sợi dây luồn ngọc rủ xuống nhìn vô cùng vui mắt: “Nước Yên có tục đeo bùa, nhà quyền quý nào cũng có. Bùa tết ba sợi chỉ đỏ. Sợi một cầu chúc an khang phát đạt. Sợi hai bện lại vạn sự như ý. Tết sợi ba trọn đời bình an.”


Như Ý tiếp lời: “… riêng những người theo học đạo thuật, bói toán thì dư ra hai sợi. Sợi thứ tư tiếng động tới trời. Sợi thứ năm thọ ngang trời đất.” Điều này rất ít người biết, vì một số nhà quyền quý cũng yêu cầu lá bùa tết năm sợi, các gia tộc vẫn làm, nhưng tết hai sợi cuối hơi khác một chút, không tinh ý sẽ không nhận ra.


Lâu Uyển ngước đôi mắt xám như một tầng sương, nhìn thẳng vào mắt cô. Nàng nói, làn khói lạnh phả ra: “Sai rồi. Kết sợi thứ tư song tuyệt chí tôn(*). Sợi cuối cùng an phận thủ thường.”


(?. Con người dùng từ bi và trí tuệ để sống. Lấy trí tuệ để giải quyết mọi việc, lấy từ bi để xoa dịu vạn vật. theo wikipedia. Chưa được kiểm tra rà soát lại)


Nghe lời nàng, Như Ý ngạc nhiên, đôi mắt cũng mở lớn. Cô nói: “Không phải mà. Em chưa nghe đến bao giờ.”


Lâu Uyển nói: “Em chưa nghe bao giờ không có nghĩa là không đúng.”


“…nhưng mọi người đều nói vậy mà.” Như Ý lúng búng. Thực ra thường nếu lâm vào hoàn cảnh này cô sẽ không phản bác, nhưng đứng trước mặt Lâu Uyển cô cứ tự bật thốt, không cảm thấy phải suy nghĩ nhiều hơn.


Lâu Uyển cười lên một tiếng: “Nhưng mà những người xung quanh ta lại nói thế đấy.”


Lã Như Ý còn định nói, nhưng lại nghĩ ra điều gì, ủ dột cúi đầu.


Nhắc đến đạo thuật, nhắc đến gia tộc là lòng Lã Như Ý lại thấy đau. Phút chốc cô bỗng chợt rệu rạo. Sự tò mò cũng tan biến trước nỗi âu sầu băn khoăn. Khi đã qua cơn thất vọng, cô lại hoang mang. Cô không còn nhà nữa, chẳng biết đi đâu về đâu. Niềm vui thích say mê đạo thuật hừng hực như ngọn lửa giờ lay lắt bập bùng. Bao công sức trước nay phỏng có ích gì, làm gì có ai quan tâm, vì người ta chỉ sùng bái mù quáng với thứ người ta tin là đúng. Mà thứ đúng thì chỉ có quyền lực, có tiền tài.


Như Ý ngần ngừ một lúc mới ngước lên, gương mặt thiếu đi phần tươi sáng do mệt mỏi và thời tiết khắc nghiệt nhưng vẫn xinh xắn như một con búp bê ngày Tết. Cô nhìn gương mặt Lâu Uyển. Đường nét lạ lùng, đôi mắt nhạt màu. Tuyết đọng trên lớp áo lông mềm mại, màu sắc như hòa với màu da nàng. Như Ý chợt có cảm giác không đúng lắm. Cô hỏi: “Cô là ai thế ạ?”


Trời lại lất phất tuyết. Trong rừng cây cối khô héo xám ngắt nhưng vẫn sừng sững chờ ngày vươn cao tán lá xum xuê. Tiếng Lâu Uyển nghe như tiếng tuyết rơi: “Ta là Lâu Uyển. Em không còn nhà để về, có muốn đi theo ta không.”

 
Chỉnh sửa lần cuối:

HongHani

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
24/12/16
Bài viết
11
Gạo
0,0
Chương 2:

(2)


Lâu Uyển rất thích những đứa bé theo học đạo thuật. Tô Tú Thải Liên ngày đó được nàng chọn cho đi theo cũng vì lý do này. Mỗi lần nàng nhìn thấy những đứa trẻ ấy, nàng cảm thấy trong lòng mình sẽ thanh thản hơn, cũng tràn đầy mãn nguyện mà chẳng cần lý do.
Người đứng đầu đoàn hộ vệ nói với nàng: “Cô Uyển, thế này không ổn đâu. Đành rằng chỉ là một đứa bé, ít ra cũng phải đưa nó đến kinh đô an toàn, nhưng sao phải dắt con bé theo vào tận nơi, lại kể cho nó nhiều vậy. Chẳng phải chuyện cơ mật sẽ lộ hết.”


Nữ hộ vệ gắt nghe vậy, gắt: “Anh đang chất vấn cô Uyển đấy à? Cô Uyển ắt tự có tính toán riêng.”


Người đàn ông phân bua: “Không phải tôi chất vấn cô Uyển, chỉ là… như thế này thật sự không ổn. Chuyện quan trọng đến vậy sao có thể để sơ hở.”


Lâu Uyển liếc nhìn Lã Như Ý. Cô đã lại sức phần nào, cũng tự cưỡi được ngựa, đang vừa ruổi ngựa vừa nhìn ngắm quang cảnh.


Nàng nói: “Không sao. Đứa bé này ta sẽ mang theo về Dụ thành. Mà dù sao cũng chỉ là một đứa trẻ, có nhìn thấy gì cũng chẳng hiểu.”


Người đàn ông ngạc nhiên: “Cô Uyển định mang nó về Sở ư? Chẳng lẽ nó có tài cán gì?”


Nữ hộ vệ nói: “Con bé thông minh lắm. Nó là người Yên, hơn nữa còn biết xem tứ trụ, chiêm tinh. Nếu đem về Cẩm Tú Điện thì kể cũng không tồi.”


Người đàn ông vẫn không yên tâm: “Nhưng chúng ta đâu biết gốc gác nó thế nào. Nhỡ có gì mờ ám...”


Nữ hộ vệ cười: “Làm việc lớn tất phải cẩn thận, nhưng quá cẩn thận thì không có cơ hội làm việc lớn.”


Đi cả một ngày, đến ba hộ vệ đi theo cũng cảm thấy gió và tuyết sắp quạt nát da thịt mình thì một tòa thành lớn đã hiện ra trước mắt. Tòa thành đội tuyết mà sừng sững mọc lên lấp lánh như thủy tinh.


Đội người đến trước cổng thành thì giảm tốc độ. Hai tên lính canh người Yên khoác áo lông xám chặn lại, hỏi, giọng sang sảng: “Người từ đâu đến?”


Nữ hộ vệ nghe vậy bèn thúc ngựa lại gần, đáp: “Cô chủ nhà bọn tôi là nữ chủ nhân của thương đoàn lớn từ Yên sang Đông Lô, giờ trở về quê muốn mang thử chút hàng hóa ở Đông Lô mở rộng buôn bán. Phía sau bọn tôi còn vài xe hàng do đường trắc trở mà chưa đến kịp, bọn tôi đành tìm đường vào thành trước để nhờ hỗ trợ.”


Đoạn, cô ta trỏ về phía những kiện hàng nhỏ chất trên lưng ngựa.


Lâu Uyển cũng thúc ngựa tiến lên trước, thả mũ áo choàng đang che ngang nửa gương mặt ra, từ trong túi áo lấy ra một thẻ bài gỗ và một cuộn trúc, nói với hai lính canh. Mỗi tiếng cất lên là một đợt sương khói lạnh buốt phả ra: “Đây là chứng thân và thông hành, mời các vị xem cho. Thời gian gấp rút, bọn tôi phải vội tìm người đến giúp đoàn xe.”


Hai tên lính canh nhìn tốp người áo quần xa hoa trước mắt. Cô chủ đoàn thương buôn đích xác là người gốc Yên, đoàn người cũng toàn những kẻ dáng vóc cao lớn khỏe mạnh, mặc trang phục truyền thống Đông Lô. Đông Lô mê võ học, nam nữ ai nấy đều biết cưỡi ngựa bắn cung. Nhìn những kẻ này ai nấy đều khoác gấm lụa sang quý, biết là thân thế chẳng tầm thường, giấy tờ không có vấn đề gì, lại đang có việc gấp, vội vàng gác thương xuống mời vào thành.


Tốp ngựa thuận lợi tiến vào trong kinh đô nước Yên.


Yên là một mảnh đất lạ kỳ, thành quách trơ trọi mọc lên giữa vạn ngàn hoang vắng, nhưng bên trong thì phồn hoa tấp nập lạ kỳ. Người qua kẻ lại, áo quần rực rỡ, sạp quán đầy hai bên đường.


Lâu Uyển đối xử với Như Ý rất tốt. Sức khỏe Như Ý không tệ, được một vài ngày mà đã khá lên nhiều dù trên đường hiếm thấy chỗ nghĩ chân nào tử tế. Lâu Uyển để Như Ý cưỡi một chú ngựa thuần tính, đi ngay bên cạnh ngựa của mình, xem chừng rất để ý đến cô.


Lã Như Ý khoác một chiếc áo choàng Đông Lô che kín mít khuôn mặt, nhưng vẫn hơi lo lắng. Thấy Như Ý bồn chồn không yên, Lâu Uyển cười: “Đừng lo, có ta ở đây rồi. Gan bé thế này làm sao đi theo ta được.”


Thế mà nghe vậy Như Ý lại yên lòng.


Lâu Uyển nghĩ ra điều gì, chợt hỏi: “Em ở Yên lâu rồi, có từng nghe thấy thành cổ đời vua Giản không?”


Nhà họ Giản là dòng dõi đế vương, từng trị vì Yên một thời gian dài, khoảng thời gian nhà họ Giản nắm quyền cũng là khoảng thời gian huyền thuật hưng thịnh nhất. Sau này Yên suy sụp, không lâu sau nhà họ Giản cũng bị lật đổ.


Lã Như Ý suy nghĩ một hồi mới đáp: “Hình như em từng đọc qua ở đâu đấy rồi, chuyện này cũng khá kỳ lạ đặc sắc, nhưng mà ghi chép lại sơ sài. Em chỉ nhớ rằng sau khi nhà họ Giản bị lật đổ, đời sau dựng vương cung mới, một thời gian sau quay lại thì thấy toàn bộ lối đi vào tòa thành cũ đều bị bít kín, lòng vòng phá tường, tìm đường đi nhưng như bước vào mê cung không tìm nổi tòa thành này.”


Thấy Lâu Uyển không nói gì, Như Ý hỏi: “Cô có chuyện cần tìm đến thành cổ sao?”


Lâu Uyển khẽ cười.


“Thực ra chuyện về ngôi thành cổ này cũng rất ít người biết. Đời sau thiêu gần hết bản chép sử có liên quan đến nhà họ Giản, chỉ còn vài trang ghi chép thất lạc, chuyện bây giờ hầu hết đều là truyền miệng.”


Lâu Uyển gật đầu: “Chuyện này ta cũng biết. Em còn trẻ mà đã hiểu chuyện, đọc nhiều biết nhiều, quả là không giống mấy đứa trẻ bình thường.”


Lâu Uyển cũng không nói với Như Ý rằng, nàng vốn biết tòa thành cổ đó ở nơi nào, mà hơn hết còn nắm rõ nó như lòng bàn tay.


Lâu Uyển hỏi: “Em bao nhiêu tuổi rồi?”


Nghe Lâu Uyển hỏi vậy Như Ý hơi bất ngờ, vốn Lâu Uyển dường như chẳng có điều gì tò mò về thân phận của cô, nhưng vẫn đáp: “Năm nay em mười tám.”

Lâu Uyển không nhìn Lã Như Ý nữa, chỉ đưa tay vuốt lớp bờm ngựa, nói: “Mười tám à, còn trẻ lắm, nhớ phải sống vui vẻ một chút. Ở Sở kể thế mà cũng có nhiều chỗ vui, khi nào về sẽ cho người dắt em đi.”


Như Ý được dỗ như dỗ trẻ con, không biết nói gì chỉ cười khúc khích. Nụ cười còn chưa kịp tắt, bờ vai đã thấy bị húc nhẹ. Có một mùi hương thoảng quá, như mùi hoa lá cây cỏ, lại như đá gạch, đất ẩm. Còn có mấy sợi tóc mềm mại như tơ khẽ bay lên. Lã Như Ý quay lại, một người một ngựa từ hướng ngược lại đang ruổi bước, bóng lưng thon thản xinh đẹp. Người này yểu điệu lả lướt vô cùng, nhưng trên người lại có thứ mùi hương kỳ lạ, của cỏ, của đất, và hình như là… mùi tro.


Mới nghĩ tới đây, chợt Như Ý thấy người đàn bà dường ngoái lại, chếch bên sườn mặt là một nụ cười. Cái bóng của người đàn bà ấy mờ mờ ảo ảo, rồi chẳng mấy chốc đã chợt mất hút.


Nhìn bóng người đàn bà trên lưng ngựa cứ mờ nhạt dần rồi tan vào khoảng không, Lâu Uyển im lặng xoay người lại. Phố phường vẫn huyên náo, ai vẫn bận chuyện người nấy, như chẳng ai thấy một người một ngựa không biết từ đâu xuất hiện rồi lại đột nhiên biến mất về đâu. Như Ý ngẩng đầu, hỏi Lâu Uyển: “Người phụ nữ kia…”


Một bàn tay mát lạnh đặt lên đỉnh đầu cô, vuốt nhẹ hai cái, như tỏ ý không muốn nói nữa.



Hôm ấy, Lâu Uyển dắt đoàn người đi vào một con ngõ cụt bỏ hoang. Nàng đứng đó một lúc. Nữ hộ vệ hỏi: “Có cần phá tường không ạ?”


Lâu Uyển nhìn bức tường dột nát, đằng sau tối như hũ nút, lắc đầu: “Không cần, người chúng ta cần gặp không có ở đây. Về đợi đã.”


Tòa thành nàng ta nắm rõ như lòng bàn tay, hiện giờ không vào nổi.




Cách đây một tháng, Lâu Uyển lại được gọi vào cung. Đó cũng là lúc chặng đường tìm kiếm Trường Sinh chú bế tắc đã ba tháng trời bỗng chợt mở ra một con đường.


Một khoảng thời gian trước đó, Lâu Uyển cử một toán lính Sở đóng giả thương đoàn tiến về Yên tìm kiếm manh mối về Trường Sinh chú, dặn dò rõ ràng từng bước từng bước, từng nơi tìm kiếm, từng người phải lưu ý trong chuyến đi. Cuối cùng, cả một đoàn lính tinh nhuệ, trở về chỉ có một người.


Người trở lại thần trí mơ hồ, đôi mắt trống rỗng, như một xác sống đứng trước mặt Cơ Chiêu, nhưng lời nói rõ ràng rành mạch, vừa chi tiết lại vừa trôi chảy. Anh ta kể lại khoảng thời gian ngắn ở lại Yên, theo manh mối Lâu Uyển cho mà chật vật tìm được trong tòa thành bỏ hoang một người đàn bà Yên, áo quần lạ kỳ, đôi mắt xám tro. Trước đó Lâu Uyển cũng đã báo trước về người này, nàng ta gọi bà là một vị tiền bối của nàng.


Người đàn bà kỳ lạ ngồi trong tòa thành đổ nát như một bức tượng ngọc, có những khả năng vô cùng quái đản.


Lúc toán lính tiến vào, bà ta đang ngồi đối mặt với bức tường phủ đầy mạng nhện, xanh rêu phong, không quay đầu nhìn cũng nghe được tiếng bước chân nhẹ như không của toán lính tinh anh, cười khanh khách: “Chờ bao lâu cũng có khách đến thăm kia đấy.”


Toán lính nghe lời dặn của Lâu Uyển, không dám bất kính, bèn rất dè dặt cung kính chào hỏi và mở lời thăm dò bà ta như có như không về Trường Sinh chú.


Người đàn bà nghe xong vẫn không ngoảnh đầu lại, chỉ lộ ra sườn mặt trắng muốt như sứ, giọng điệu như chuông ngân vẫn lẫn tiếng cười: “Đến được tận đây thì chắc cũng phải có kẻ nào cao minh lắm chỉ đường. Chà, nhưng lại để mấy tên oắt con này đến chào hỏi, kẻ cao minh này có vẻ không hiểu tính của ta lắm nhỉ.”


Toán lính biết bà ta không phải kẻ tầm thường, vội nói: “Cô chủ của bọn tôi đây chính là Lâu Yên My Lâu Uyển. Cô chủ có giao tình cũ ít nhiều với người, liệu người có còn nhớ?”


Người đàn bà nghe tới đây bỗng chốc ngây dại, gương mặt dưới ánh sáng trắng dường như trong suốt sắp tan vào nắng. Bà ta như suy nghĩ rất lâu, rồi thốt: “Lâu Uyển, Lâu Uyển nào. Là Lâu Uyển nào nhỉ?”


Bần thần hồi lâu, đoạn, bà ta phất tay: “Ta cũng chẳng biết là Lâu Uyển nào. Có lẽ có từng quen thật. Nhưng thôi, cứ gọi cái kẻ xứng đáng nói chuyện với ta đến đây. Rồi muốn bàn gì thì bàn.”


Sườn mặt hư hư ảo ảo của bà ta lại biến mất sau lớp tóc đen óng. Người đàn bà lại ngồi thẫn thờ như một bức tượng, hứng những tia sáng lấp lánh từ khe tường rọi vào.


Toán lính dợm nói gì bỗng chợt thấy một cơn gió kỳ lạ nổi lên, khiến đá vụn của tòa điện xập xệ cũng lộp bộp rơi xuống, bụi mù mịt, bay cả vào mắt toán lính. Mắt cay xè đau đớn, chưa kịp đưa tay lên lau đi đã thấy đầu váng vất, cả người bỗng chợt nhũn ra, từng khớp xương đều như tê liệt, ngã rạp xuống đất, chỉ riêng còn lại kẻ có võ nghệ cao cường nhất là còn trụ vững nhưng cũng mặt mày tái xám xây xẩm.


Người đàn bà nói: “Còn đứng được cơ à, thế thì để ngươi về chuyển lời đi. Nhưng bảo kẻ kia nhanh lên đấy. Mùa xuân sắp đến rồi, nhưng ta cũng chỉ có thể chờ đợi nốt mùa xuân này thôi. Nếu đến lúc giữa đông mà không tới đây được thì ta cũng chẳng biết thế nào đâu.”


Người đàn bà quay người, vươn đôi tay trắng mềm mại như ngó sen, đầu ngón tay khẽ điểm lên trán tên lính, khiến kẻ kia trong chốc lát đôi mắt đã đen đục mờ mịt không tiêu cự, rồi xoay người bước đi cứng ngắc như một xác sống.


Toán lính này mất hai tháng rưỡi tìm ra được đường vào kinh đô nước Yên, người lính kia lại trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh mà trong tháng rưỡi đường dài đã về đến Dụ thành kinh đô nước Sở. Toàn thân ướt đẫm nước tuyết chưa khô nổi, gương mặt trắng cắt không còn giọt máu, nhưng vẫn giữ được một hơi. Báo xong tin liền ngã vật ra đất.


Vua Sở đăm chiêu một hồi rồi gọi Lâu Uyển đến. Kiểm tra người lính kia một hồi, Lâu Uyển nói: “Quả thật đã gặp đúng người cần tìm. Xin bệ hạ cho Lâu Uyển lĩnh tám hộ vệ, lập tức lên đường sang Yên trong ngày.”


Để người có địa vị như Lâu Uyển tự mình ra mặt cũng rất mạo hiểm, nhưng manh mối về Trường Sinh chú quý giá là vậy, lần này vuột mất thì không biết đến bao giờ mới lùng ra được lần nữa.


Cơ Chiêu thầm cân nhắc. Nhưng manh mối này quý giá, cũng không quý giá bằng Lâu Uyển Lâu Yên My. Tiên đế ròng rã bao nhiêu năm trời công dã tràng là vì cớ gì, vì không có căn bản vững chắc, không tìm được đúng đường để tìm trường sinh. Còn Lâu Uyển chính là cái nền để tìm kiếm Trường Sinh chú.


Nhưng Lâu Uyển chỉ cười đáp: “Chỉ đến chào hỏi một vị tiền bối mà cũng chẳng làm được thì Lâu Uyển còn ở đây làm gì.”


Vì cớ đó nên nàng ta mới có mặt ở đây.



Đêm hôm ấy Lâu Uyển có một giấc mơ.


Lúc chiều, trong lúc nhìn thấy bóng lưng rong ruổi trên ngựa của người đàn bà kia, Lâu Uyển chợt vô thức lặp lại hành động của bà ta. Nàng mơ màng nhớ lại, ngày xưa bà ta từng vuốt tóc nàng, dùng chiếc lược thơm mùi gỗ chải mái tóc còn chưa mọc dài của nàng, áp bờ má mịn màng nóng hổi lên má nàng.


Lâu Uyển mơ thấy bà ta nắm chặt lấy bả vai nàng, đôi mắt đẹp trợn trừng như đang ép buộc nàng: “Chôn tro cốt ta ở dưới tòa thành cổ. Ta sẽ ở đó chờ ngươi. Đến khi hối hận hãy tới đó tìm ta, tìm Trường Sinh chú.”


Lâu Uyển mở mắt. Một gương mặt đẹp đẽ như tranh đã áp sát lấy nàng tự bao giờ, người đàn bà treo ngược mình, lửng lơ trên không trung, nửa tò mò nửa nghi ngại nhìn nàng. Đôi mắt xám lạnh có phần ngây thơ không hợp với tuổi tác trưởng thành dán chặt lên gương mặt Lâu Uyển.


Lâu Uyển nhìn bà ta. Nàng thấy bà ta chăm chú nhìn mình, thấy gương mặt tưởng như đã quá quen thuộc trong những giấc mơ đến với nàng hàng đêm, nhưng giờ đây lại hơi lạ lùng. Nàng đưa tay chạm vào má bà ta. Bàn tay trắng muốt với chiếc nhẫn ngọc xanh mướt, kỳ lạ làm sao lại trùng màu với làn da của bà ta, cũng mượt mà mang sắc màu khó bắt gặp.


Người đàn bà ngạc nhiên, bà ta hữu hình nhưng vô thể, như bóng ma lập lờ đụng vào là tan như không khí.


Nhưng ngay sau đó, người đàn bà cũng nhận ra Lâu Uyển không thật sự chạm vào mình, bàn tay nàng áp lại gần má bà ta, tưởng như đang vuốt ve nhưng luôn cẩn thận giữ một khoảng cách khó nhìn để không chạm vào cơ thể làm bằng tro bụi của bà.


Người đàn bà cũng đưa tay lại gần, như đang chạm lên gương mặt Lâu Uyển, bà ta hỏi: “Ngươi biết ta sao?”


Lâu Uyển không nói, chỉ nhìn người đàn bà.


Người đàn bà nói: “Ngươi vừa đến đây là ta được thả ra, ta có thể đi lại, có thể nhìn, nói, nghe, ta rời được thành cổ.”


Lâu Uyển nhìn đôi lông mày cong cong của bà ta, giọng nói nhẹ nhàng như đang ru một đứa bé: “Đương nhiên tôi biết bà. Tôi còn nhớ bà. Tôi nhớ bà từng vuốt tóc tôi, hát cho tôi nghe, đút sữa cho tôi uống. Lúc tôi chào đời, bà là người đầu tiên ôm tôi.”


Người đàn bà cười khanh khách: “Ta là mẹ ngươi đấy à?”


Lâu Uyển mỉm cười: “Không.”


Người đàn bà hỏi: “Thế đừng có nói dối ta, làm sao ngươi nhớ được lúc mình chào đời thế nào chứ.”


“Thế mà tôi lại nhớ được đấy.”


Người đàn bà lại cười với Lâu Uyển, nụ cười của bà ta có vẻ âu yếm, còn đôi mắt thì ấm áp. Bà ta chống má, nói: “Lâu lắm rồi ta không vui như thế này đấy, tại vì ta được ra ngoài, lần đầu tiên được ra ngoài đấy. Bởi vì nếu trở về thành cổ thì ta sẽ lại bị giam lại, sẽ lại quên hết nên ta còn không dám quay trở lại. Cả ngày hôm nay ta cứ ở bên ngoài, rồi ta nhìn thấy ngươi, lúc nhìn thấy ngươi ta đã biết ngươi là kẻ quan trọng. Ta chẳng nhớ nổi ngươi, cũng chẳng biết ngươi làm thế nào mà biết ta, nhưng nói xem, ta nên báo đáp ngươi thế nào đây.”


Lâu Uyển nhìn bà, nói: “Có một thứ mà bà biết.”


Nụ cười của người đàn bà vẫn in trên gương mặt xinh đẹp, nhưng có vẻ nhạt nhẽo hơn trước nhiều: “Nếu đấy là điều ngươi muốn, thì ngươi phải trả ta nhiều hơn thế này đấy.”


“Vậy tôi phải trả bà thứ gì đây?”


Trăng đang lên cao, rọi qua khung cửa sổ để hé, rọi cả lên đôi mắt của người đàn bà: “Không phải ta không biết ơn ngươi hay là ta tiếc rẻ không muốn nói cho ngươi biết mấy điều cỏn con đấy. Chỉ là cô bé ạ, thật sự ta chẳng có gì trong tay đâu, chỉ trừ cái điều ngươi đang muốn hỏi thôi. Nếu ta mà nói ra thì ta sẽ trắng tay thật sự. Ta không phải người mà chỉ một hũ tro, chắc ngươi cũng biết rồi, một khi ta hoàn thành trách nhiệm của mình cũng là lúc ta phải biến mất. Mà ta thì không muốn bao nhiêu năm buồn đau của ta phải kết thúc trong u mê thế này.”


Bà ta nói tiếp: “Ta không phải người đòi hỏi, mà cũng không đòi hỏi được. Chỉ cần ngày mai tìm đến tòa thành cổ, ta tin nếu ngươi đã biết đến ta mà tìm tới tận đây thì cũng chẳng khó gì mà tìm thấy nó.”


Người đàn bà nhìn nàng với ánh mắt hy vọng: “Ngày mai, khi đến, chỉ cần nói cho ta biết, tại sao ta lại ở đây? Ta đã chết thế nào? Ta là ai? … Ngươi là ai?”


Bà ta còn chưa dứt lời, Lâu Uyển giang tay, tay áo xanh lam phủ lên người người đàn bà như một con suối đang bao lấy người bà ta. Người đàn bà ngỡ ngàng, đôi mắt nhạt màu mở to. Lâu Uyển thì thầm điều gì vào tai bà ta. Là lời hát ru. Bằng một thứ ngôn ngữ xa lạ.


Giây phút ấy, trong đầu óc vốn trống rỗng đã quá lâu của người đàn bà chợt xuất hiện rất nhiều điều.


Người đàn bà chợt nhớ về một nơi.


Tên nó là Xích Châu.


Đó là nhà của bà ta.


Bà ta nhớ hoàng hôn đỏ rực của Xích Châu, trên ngọn đồi gió thổi mát rượi.


Bà ta nhớ mình ôm một đứa trẻ, hát cho nó nghe lời hát đã đưa nôi cho bất cứ đứa trẻ nào lớn lên ở Xích Châu.


Mưa kìa con

Mưa thấm đẫm cỏ

Mưa ôm lấy hoa

Ô, mưa sà xuống lán

Mưa cuốn đi trâu đi bò

Mưa cuốn đi chúng ta

Đi từ quê ta

Đến nơi xa lạ


Người đàn bà thấy mình đang nắm lấy tay đứa bé, nó đang cười khúc khích với bà, đầu chỉ lưa thưa chút tóc.


Đây là đâu

Đây là đất Yên

Đây là quê mới của ta

Bà áp má lên má nó, gọi : «Yên My.»


Yên đâu rồi

Yên đã tan tác

Yên uống máu của ta, rồi lại chết chìm trong máu

Rồi người đàn bà lại nhớ cái ngày đứa bé kia quay lại. Bà là người nhận ra nó đầu tiên. Nhưng bà ngẩng đầu lên nhìn nó bằng ánh mắt xa lạ : «Ngươi là ai ?»


Ta đưa theo trâu bò, đưa theo chị em, đưa theo con ta, theo máu ta

Ta nhìn Ngô vẫy vùng rồi lụi bại

Ta nhìn Trần chết dưới vó ngựa

Ta nhìn máu Lỗ ròng ròng chảy

Ta nhìn Sở leo lên

Rồi lại tự buông mình xuống dòng nước lạnh ngóm








Rồi bà ta lại thấy mình đang bị bao bởi một vòng lửa ngùn ngụt bốc tới tận trời, thấy thây người chồng chất quanh thân. Bà ta thấy giọng vang mình như kẻ đang bị người ta xé nát cổ họng : « Đừng bao giờ quên ngày hôm nay. »


Rồi bà ta thấy bàn tay bẩn thỉu két cả máu lẫn đất đen kịt của mình rút cây trâm vàng trên búi tóc lỏng lẻo, rồi cắm ngập vào bụng. Nhìn thấy máu phun ra, lấm tấm bắn trên áo Yên My.







Bà ta đã chết từ lâu rồi. Điều này bà vốn cũng đã biết.


Bà được thiêu xác, trở thành một hũ tro cốt sống dưới lớp đất ẩm ướt ở tòa thành cổ hàng chục năm trời không ai ghé lại. Hôm nào bà cũng ngồi, ngó ra bên ngoài những khe tường, tìm ánh sáng mặt trời, tìm cỏ cây bên ngoài.


Lúc Lâu Uyển trở vào kinh đô, cái bóng ma vất vưởng vốn áp sát vào bức tường dột nát của bà ta chợt xuyên qua cả từng tầng đá lạnh lẽo, đổ sụp thân ra ngoài.


Bà ta nhìn bầu trời, rồi hít một hơi thật sâu.


Thực ra thì, thực tế thì chẳng cảm thấy gì. Nhưng lúc đấy bà ta mường tượng được nắng đậu trên da rất ấm áp, bà ta cảm thấy gió luồn vào trong ống tay áo man mát.


Bà ta lang thang, không ai nhìn thấy bà ta. Bà ta thử động vào vai của một kẻ qua đường.


Đầu ngón tay bỏng rát, bà ta thấy cả thân thể mình vỡ vụn. Lúc tỉnh dậy, mình đã lại ngồi trong thành cổ. Đầu trống rỗng, ánh mặt trời, gió, không khí, tất cả những ký ức biến mất sạch sẽ như chưa hề tồn tại. Thứ duy nhất còn lại chính là cảm giác có một thứ quan trọng đang từ từ lại gần, cởi bà ta khỏi xiềng xích của tòa thành cổ. Và, thứ cảm giác cháy rát ở đầu ngón tay đi vào tiềm thức của bà ta, nhắc nhở bà ta rằng chớ có đụng vào bất cứ thứ gì ở thế giới không thuộc về mình.




Lúc này, người đàn bà đang nhìn Lâu Uyển. Lần này bà ta không cảm thấy làn da mình bỏng rát, có lẽ vì những ký ức xộc vào đầu khiến mọi nỗi đau trên thể xác vốn mong manh của một linh hồn cũng nhòa đi không thấy rõ. Nhưng bà có thể cảm thấy lượng ký ức vừa chảy trôi trong đầu mình chưa được bao lâu cũng đang từ từ tan biến. Bà ta nghĩ. Có rất nhiều điều bà muốn nói với Lâu Uyển.


Bao nhiêu năm nay ngươi sống ra sao.


Có vui không. Sống có tốt không.


Ta nhớ ngươi nhiều lắm.


Cơ thể người đàn bà như một con búp bê vỡ, không ngừng xuất hiện những vết nứt, bà ta xoa đầu Lâu Uyển: «Ngươi trưởng thành rồi, Yên My. Ta không phải mẹ, cũng chẳng bế ẵm ngươi được mấy ngày, nhưng ta rất tự hào về ngươi.»


Người đàn bà biến mất. Có lẽ đã lại trở về thành cổ, quanh quẩn bên hũ tro cốt.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Mạc Chẩm

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
21/10/14
Bài viết
195
Gạo
0,0
Mình mới đọc chương một, chỉ có vài nhận xét, để lát nữa nếu không buồn ngủ sẽ đọc tiếp. Còn không thì hẹn bạn ngày mai. =))

- Chương một khá ảm đạm, mình đọc mà cũng thấy lo lắng theo nhân vật. Bạn có mở đầu gợi được sự tò mò của người đọc á.

- Câu văn của bạn đôi chỗ mình thấy hơi cụt lủn, có thể là do cảm nhận vậy thôi. :s Có mấy lỗi chính tả nhưng mình dùng điện thoại, lười gõ nên chỉ bạn sau vậy. :))

- Khúc mà "Không có người, không đi xe ngựa..." các thứ mình thấy hơi thừa thãi.
 

HongHani

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
24/12/16
Bài viết
11
Gạo
0,0
Mình mới đọc chương một, chỉ có vài nhận xét, để lát nữa nếu không buồn ngủ sẽ đọc tiếp. Còn không thì hẹn bạn ngày mai. =))

- Chương một khá ảm đạm, mình đọc mà cũng thấy lo lắng theo nhân vật. Bạn có mở đầu gợi được sự tò mò của người đọc á.

- Câu văn của bạn đôi chỗ mình thấy hơi cụt lủn, có thể là do cảm nhận vậy thôi. :s Có mấy lỗi chính tả nhưng mình dùng điện thoại, lười gõ nên chỉ bạn sau vậy. :))

- Khúc mà "Không có người, không đi xe ngựa..." các thứ mình thấy hơi thừa thãi.


Cảm ơn bạn vì đã đọc và nhận xét truyện của mình nhé. Mình đọc lại thấy chương đầu mình viết cũng thiếu cẩn thận và nhiều câu văn thừa thãi thật, mình sẽ cố gắng sửa lại trong thời gian sớm nhất <3.
 

Mạc Chẩm

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Tham gia
21/10/14
Bài viết
195
Gạo
0,0
Cảm ơn bạn vì đã đọc và nhận xét truyện của mình nhé. Mình đọc lại thấy chương đầu mình viết cũng thiếu cẩn thận và nhiều câu văn thừa thãi thật, mình sẽ cố gắng sửa lại trong thời gian sớm nhất <3.

Cố lên nha. Mình thích đọc cổ trang nên sẽ theo dõi truyện của bạn. :3 Mà kiểu đọc lại sẽ sửa nhiều lắm. =)) Mình cũng sửa đi sửa lại truyện của bản thân mà huhu.
 

HongHani

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
24/12/16
Bài viết
11
Gạo
0,0
Cố lên nha. Mình thích đọc cổ trang nên sẽ theo dõi truyện của bạn. :3 Mà kiểu đọc lại sẽ sửa nhiều lắm. =)) Mình cũng sửa đi sửa lại truyện của bản thân mà huhu.

Mình cũng thường hay đọc lại truyện của mình xong thấy một đống lỗi, cả diễn đạt lẫn chính tả, sửa đi sửa lại, cứ cách một thời gian lại lặp lại :)). Cảm ơn bạn đã ủng hộ nhée !
 
Bên trên