Trường Sinh Chú - Cập nhật - NNHH

HongHani

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
24/12/16
Bài viết
11
Gạo
0,0
Chương 2:

(3)

Cũng cùng lúc đó, tại rìa phía Nam Yên. Tô Tú và Thải Liên đã xới tung tất cả những gốc hoa lê ở vùng gần ranh giới nước Yên.


Phải đào đào cuốc cuốc không ngừng nghỉ trong tiết trời lạnh giá, cả đội vệ binh tinh nhuệ cũng đã thấm mệt. Họ đã đào cả nửa tuần, nhưng vẫn chưa tìm được gì.


Tô Tú thở hồng hộc, mồ hôi làm tóc bết dính cả vào sau gáy, gió vẫn thổi lạnh, khiến mồ hôi khô rồi lại tuôn, tuôn ra rồi lại khô lại. Cô cắm sâu chiếc xẻng sắt vào nền đất. May mà chỗ này tuyết rơi cũng không đến nỗi dày. Cô đạp mạnh vào xẻng, hất cả đất lẫn tuyết lên. Mồ hôi rơi cả vào mắt Tô Tú, cô giơ chiếc xẻng lại định lặp lại động tác cắm chiếc xẻng xuống đất vốn đã đều đặn như máy, bỗng chợt thấy một thứ gì đo đỏ lộ ra dưới tuyết.


Chiếc xẻng trong tay Tô Tú rơi xuống, cô quỳ sụp xuống, lấy tay đào xuống dưới lớp đất lạnh tê cóng. Chạm phải thứ gì âm ấm trơn nhẵn, Tô Tú vừa mừng vừa lo nâng nó lên, phủi hết đất rồi lại tuyết bám trên, làm lộ ra nước ngọc trắng trong.


Tô Tú sung sướng tột cùng, muốn nắm chắc một nửa miếng ngọc bội tết sợi đỏ vì mừng mà cũng chỉ dám nâng trên tay nhẹ nhàng như sợ vỡ, reo lên, giọng hơi khàn khàn do mấy ngày vùi trong tuyết mà đào xới : « Tìm được rồi, em tìm được rồi. »


Thải Liên từ đằng xa cũng ném chiếc xẻng trong tay mình, vội vàng chạy lại, nâng nửa miếng ngọc trên tay Tô Tú lên. Cô lật lên rồi lại lật xuống, đôi mắt đen nhung nhìn kỹ từng vân ngọc một. Ngọc bội quý bị vỡ, khuyết mất một nửa, nhưng phần còn lại không có chút tì vết nào. Sợi dây đỏ tết quanh qua bao nhiêu năm đã mủn cả ra, chỗ đỏ chỗ nâu, mềm oặt như chuẩn bị nát thành từng vụn. Thải Liên nhìn Tô Tú, nói : «Đúng là thứ cô Uyển cần rồi.»


Tô Tú mừng rỡ : «Mau đem về cho cô Uyển. Cô Uyển chắc là mừng lắm. Phải mau mau đi kẻo trễ. »


Thải Liên rút một chiếc khăn lụa, cẩn thận bọc miếng ngọc lại rồi gọi người lấy chiếc hộp gỗ nhỏ lót nhung, nhẹ nhàng đặt vào.


Tô Tú nhìn bầu trời tối đen như mực, vừa mới vui mừng giọng đã chợt trầm xuống buồn buồn : «Không biết cô Uyển đang thế nào rồi. »




Chiều lên, Lâu Uyển quyết định lên đường.


Một hộ vệ tiến lên hỏi Lâu Uyển: “Cô Uyển, có cần chờ nhóm Thải Liên…?”


Lâu Uyển lắc đầu: “Không cần, lộ trình của nhóm Thải Liên Tô Tú dễ đi nhưng khá dài. Ta còn giao cho họ việc riêng nữa. Trước mắt chỉ cần chừng này người là đủ.”


Đoạn, nàng lại ngước lên nhìn trời. Trời đã tầm về chiều. Vào đông rồi nên tối rất nhanh, đi sẽ rất khó. Lâu Uyển nói: “Thời gian gấp gáp, phải tiếp tục lên đường luôn. Chỉ khổ cho các người không được nghỉ ngơi, đành cố gắng thêm một chút.”


Hộ vệ vội nói: “Bọn tôi bất tài chẳng giúp được gì cho cô Uyển, nếu không cô Uyển cũng chẳng phải ra mặt, vất vả chạy ngựa đường xa thế thế.”


Lâu Uyển cười: “Bất tài gì chứ, nước Yên gần như bị cô lập, địa hình rất kỳ quái, khó tìm đường đi. Chẳng phải người ở đây thì không mất mười ngày nửa tháng dò đường đi gần như là không thể rồi. Mà chuyện lần này lại phức tạp, ta không tự mình ra mặt thì không yên tâm nổi.”


Dứt lời, nàng kéo lại mũ choàng, khẽ thúc ngựa: “Thôi được rồi, phải mau chóng lên đường nhanh thôi. Trước khi trời tối mà không tìm được là hỏng chuyện.”



Lâu Uyển dường như rất thông thuộc đường đi nước bước nơi đây. Có vẻ ngày trước hồi còn ở Yên nàng sống ở kinh đô, sáu năm không quay lại nhưng vẫn thạo đường.


Nàng ta cùng toán hộ vệ đi đúng con đường hôm trước dẫn đến con ngõ cụt. Họ đi vào một con phố vắng. Con phố rất dài, nhưng đường thì hẹp, càng vào bên trong càng hẹp hơn, nhà sin sít nhau, nhưng phần lớn là bỏ hoang, về phía cuối đường thì không có người nào ở. Một hộ vệ trong đoàn tuy đã tới một lần nhưng không khỏi thốt: “Nước Yên quả thật kỳ lạ, nơi nào cũng thấy có chỗ bí hiểm.”


Lần này không còn bức tường nào ngăn họ lại nữa. Đi mãi cũng đến cuối đường, bị chắn bởi một chiếc cổng tàn tạ đã rỉ sét, bị cuốn mấy vòng xích khóa chặt lại.


Lâu Uyển ngước nhìn, đoán chừng toán lính lần trước cũng không phá cổng mà chỉ dám để ngựa lại mà leo vào. Nàng ta đưa mắt nhìn trưởng đoàn hộ vệ. Kẻ kia cũng biết ý, cao giọng hô: “Phá cửa!”


Người đứng gần nhất ngay lập tức rút kiếm, chém mạnh vào dây xích cuốn quanh cánh cổng. Dây xích đã xuống cấp tàn tệ, nhưng vẫn phải mất hàng chục nhát chém mới đứt đoạn. Cánh cổng cũng nặng trịch, tuy rằng sờ vào toàn vụn sắt, phải hai người cùng đẩy mới ra. Nhìn vào khoảng đất rộng lớn đằng trước, Lâu Uyển phất tay ra lệnh cho đoàn người cùng tiến vào.


Cách khoảng đất rộng không xa là một rừng trúc. Trúc mọc khá thưa, đám người cùng cưỡi ngựa tiến vào.


Mấy hộ vệ đi trước dùng kiếm rẽ trúc, có mấy tia sáng lọt qua những phiến lá nõn nà như nước ngọc, như những bông hoa sáng rơi trên trán và gò má Lâu Uyển. Lã Như Ý chăm chú nhìn nàng, đôi mắt đầy tò mò. Đến lúc Lâu Uyển quay lại nhìn thì thót cả tim.


Lâu Uyển cũng chẳng mấy khó khăn để tìm đường đến tòa thành bỏ hoang kia. Toán hộ vệ nhìn nàng ta thuộc từng đường đi nước bước mà sợ hãi. Quang cảnh quá mức hư ảo, tưởng đường cụt mà hóa ra vẫn ra được lối, vòng vèo như một mê cung, lại mù mịt sương, nhuốm một thứ màu sắc kỳ lạ bất an như có kẻ đang rình rập sau lưng.


Len lách vòng vèo một hồi rồi cũng tới nơi. Trước khi vào Lâu Uyển cởi bỏ áo choàng, khẽ phủi lớp bụi đường và tuyết đọng trên tà váy, dặn dò mấy hộ vệ: “Các người cứ đứng đợi ở đây, một chốc nữa ta sẽ ra.”


Toán hộ vệ nghe vậy muốn can ngăn nàng ta, nhưng cũng biết không nên quá phận, vả lại người như nàng ta ắt hẳn cũng đã có tính toán rồi mới quyết định, bèn cố dẹp lo âu mà lùi xuống, nhìn bóng Lâu Uyển thoáng chốc đã mất hút trong tòa điện hoang phế.



Dưới chân bụi đất phủi đầy, nhưng lại không bám vào đôi giày lụa trắng của Lâu Uyển. Nàng ta qua từng gian phòng đổ nát, rồi dừng lại trước căn phòng treo đầy những bức tranh lụa đã hằn vết thời gian mà ngả sang một sắc ngà ngà cũ kĩ.


Người đàn bà như chưa từng di chuyển, vẫn nguyên cái tư thế ấy, cái bóng lưng ấy. Ánh sáng len qua những khe hở chằng chịt trên bức tường đã có tuổi, thêu những bông hoa sáng trên căn phòng âm u và vạt áo của những hai kẻ kia.


Người đàn bà hồi lâu mới thốt lên: “Ra là một đứa trẻ lanh lợi. Nào, vào đây.”



Người đàn bà mơ màng, đôi mắt xám nhạt bỗng trong vắt, lại lấp lánh lên những tia sáng không rõ tên, dõi theo cái bóng vẫn vương hơi lạnh buốt của Lâu Uyển đang chầm chậm tiến lại gần, rồi rạp xuống đất.


Tay áo gấm, đầu gối, lòng bàn tay, năm ngón tay, lọn tóc đen, trán, tì xuống mặt đất lấm lem bụi cát. Đóa hoa trên váy như đã cắm mình xuống đất mà nở rộ, mái tóc đen là cành, tà áo lụa là lá.


“Được gặp tiền bối là vinh hạnh của Lâu Uyển.”


Hạt bụi li ti lấp lánh trong màn sáng nhạt, người đàn bà nhìn kẻ đang quỳ trước mặt mình, gương mặt không lộ tâm tình.


Hồi lâu, một bàn tay mới đưa ra, giữ lấy vầng trán đang kề mặt đất, những bông hoa trên tà áo gấm như đang chuẩn bị bén rễ nở bung trên đất: “Ngươi có biết không, ta đã ở đây rất lâu rồi.”


Người đàn bà ngẩng đầu, để những hạt nắng đậu trên gò má, gương mặt được quầng sáng nhuộm thành một màu dịu dàng: “Càng ngày, ta càng mau quên hơn. Mỗi ngày quên một ít. Không nhớ được là đã quên những gì, chỉ biết là một ngày chợt nhận ra mình chỉ còn duy nhất một thứ.”


“Xung quanh chỉ có bốn bức tường. Ta cử động rất khó. Ta muốn nhìn ra bên ngoài, nhưng cứ hướng ra ngoài căn phòng này là tầm nhìn lại đặc một màu đen. Ta không có ký ức, không thể di chuyển, cũng không thể nhìn. Ta còn không biết mình đã ở đây bao lâu, vì cứ tỉnh táo lại là nhận ra mình đã quên chuyện hôm trước, cũng không nhớ nổi hôm qua là ngày thứ bao nhiêu.”


Lâu Uyển từ từ ngẩng đầu, nàng thấy người đàn bà đang nhìn mình, bà ta sờ lên đôi mắt nàng: “Nhưng không sao. Ta cảm thấy nếu ta đã bị trói trong căn phòng này, ắt phải có điều gì ta cần đợi, chuyện gì ta cần làm. Ta phải hoàn thành cho trọn nghĩa vụ của mình. Đứa trẻ, ngươi có biết điều ta cần làm là gì không? … Ngươi… ngươi có biết ta là ai không?”


Lúc ấy Lâu Uyển cảm thấy, nàng không nên bị dao động.


Hồi còn trẻ, nàng từng rất dễ bị lung lay. Trẻ dại, sống theo cảm xúc, thiếu lý trí.


Bây giờ, nàng không còn trẻ như trước nữa. Thỉnh thoảng nàng sẽ cảm thấy có lẽ mình sẽ lại bị dao động. Có người từng nói với nàng phụ nữ thường không làm được việc lớn. Vì phụ nữ có trái tim mềm yếu bẩm sinh. Vừa cảm tính lại vừa đa cảm, dễ nổi giận, dễ tha thứ, dễ mềm lòng, thiếu kiên định. Tức là thiếu hoàn toàn điều kiện tiên quyết để làm việc lớn.


Lâu Uyển cũng cảm thấy mình có trái tim mềm yếu. Nhưng mặc cho trái tim yếu ớt đa sầu đa cảm, nàng vẫn làm việc mình cần làm như lẽ đương nhiên. Thỉnh thoảng nàng nghĩ có khi thế này mới là làm việc lớn. Trái tim cảm tính nhưng hành xử như một cỗ máy. Lâu Uyển chợt nghĩ, ắt hẳn những người trước đây nhìn lúc nàng mềm yếu mà tiếc hận giờ mà hấy nàng sẽ phải hài lòng lắm.


Thế nên, giờ phút này trong lòng nàng cảm thấy người đàn bà ấy thật đáng thương. Nàng kính trọng, nàng yêu bà ta, cũng thật buồn cho bà ta. Thậm chí nàng còn nghĩ có khi mình sẽ không kìm lòng được mà bỏ đi.


Nhưng đương nhiên nàng sẽ không làm như vậy.


Nhìn đôi mắt đầy hi vọng, thậm chí có phần cầu xin của người đàn bà. Lâu Uyển dập đầu xuống: “Xin tiền bối hãy cho Lâu Uyển một manh mối về Trường Sinh chú.”


Tia sáng trong mắt người đàn bà nhạt mất. Bà ta hỏi: “Ngươi biết ta là ai đúng không? Vậy nếu ta nói cho ngươi biết nó ở đâu, ngươi có thể cho ta biết ta là ai không ? »


Lâu Uyển ngước đôi mắt nhạt màu nhìn bà ta. Người đàn bà cũng im lặng. Dường như đã cân nhắc một hồi, bà ta lên tiếng : « Phía Nam. Đi về phía Nam. Nhưng chỉ được đến khi mùa đông đã qua.»


Vừa dứt lời. Người đàn bà như có thể thấy được những rặng xương xỉ xanh mướt mát, bà thấy vùng trời phía Nam đẹp như những nét vẽ. Bà ta ngây ngẩn, không còn thứ mùi ẩm mốc, dột nát của căn thành cổ, không còn bụi bặm của phế tích, chỉ có thứ hương cỏ tươi mát thoang thoảng và những làn gió mát, những tia nắng dìu dịu.


Người đàn bà nhìn xuống tay mình, bàn tay đã trong suốt như thủy tinh.


Bà ta hỏi Lâu Uyển : « Nói cho ta biết được không. Sắp hết thời gian rồi.”


Đáp lại bà ta chỉ có đôi mắt xám của Lâu Uyển.


Đến khi cả phần cơ thể từ dưới cổ người đàn bà trở nên trong suốt, bà ta mới buồn buồn cúi đầu.


Lâu Uyển nói: “Tiền bối đừng nên nhớ làm gì. Những năm tháng bị chôn chân trong này chỉ là bất hạnh của tiền bối. Nhớ lại chỉ khiến tiền bối đau đớn day dứt, muốn đi không đi được muốn ở không ở nổi. Cứ thế này mà đi còn tốt hơn.”


Người đàn bà nói: “Đối với ta, ra đi mà không có lý do, khác nào chưa sống đã phải chết.”


Rồi người đàn bà tan biến như chưa hề tồn tại.


Còn Lâu Uyển thì có cả một con đường dài phía trước.

 
Chỉnh sửa lần cuối:

HongHani

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
24/12/16
Bài viết
11
Gạo
0,0
Chương 3:

Nàng tưởng tượng mình ôm lấy đứa trẻ ấy, rồi băng qua Xích Châu, rời khỏi biển lửa.


(1)

Lâu Uyển hay thường nghĩ về những đứa bé.


Khi còn nhỏ, nhiều lúc cuộc đời nàng không thuận lợi, nhưng cũng có những khoảng thời gian gặp được người tốt, được yêu thương hết mực. Nhưng cũng chính vì thế mà mỗi lần nàng rơi từ vòng tay bao bọc của họ rơi xuống đất, thì mặt đất bằng phẳng như mọc lên hàng trăm hàng nghìn những dây gai nhọn hoắt, khiến nàng ngỡ ngàng, rồi đau xót.


Được yêu và được hạnh phúc quá nhiều khiến cho nỗi đau đớn còn lớn hơn thực tế nhiều.


Không có tình yêu. Nỗi đau sẽ liền sẹo nhanh và mờ nhạt hơn. Nhưng những lớp sẹo chằng chịt ấy, dù không đau nhưng sẽ khiến ta dần dần trở nên lạnh lẽo.


Vậy nên Lâu Uyển thường hay lựa chọn giúp những đứa trẻ, nàng cảm thấy trái tim vô cảm là cái giá quá đắt.


~oOo~


Lâu Uyển chưa vội về Sở. Nàng cho người về báo tin trước. Đến sẩm tối thì đoàn của Tô Tú Thải Liên vào tới thành.


Đoàn người chọn một nhà trọ sạch sẽ sang trọng để nghỉ ngơi ăn uống. Lâu Uyển xem chừng rất thích Lã Như Ý, còn để cô ngồi cùng bàn, hai bên là Thải Liên Tô Tú.


Thải Liên đứng gắp thức ăn cho Lâu Uyển, Tô Tú thì cứ ngắm nghía Lã Như Ý như món đồ lạ, cuối cùng không kìm được hỏi: “Bé nào đây, nhà ở đâu mà sao lại theo cô Uyển nhà bọn tôi thế này, có biết là nguy hiểm lắm không.”


Thải Liên dùng bàn tay không cầm đũa đập khẽ vào tay Tô Tú một cái: “Bé nào nào, cô Uyển đã bảo tên em ấy là Như Ý cơ mà, gọi cho đàng hoàng.”


Lâu Uyển gắp mấy gắp rau rồi cũng thôi, buông đũa, nói: “Hòa thuận với con bé đấy. Lần này ta sẽ đưa nó về Cẩm Tú Điện, em chăm sóc quan tâm nó một chút.”


Nghe vậy, Tô Tú nhanh nhảu đáp, miệng cười lộ ra hàm răng trắng đều tăm tắp như hạt ngô: “Ồ, cô định đưa con bé về à, thế là em lại có thêm người trò chuyện cùng. Mà em chăm sóc người khác cũng giỏi lắm, cô Uyển yên tâm, về đến nơi em sẽ lo cho nó cẩn thận.”


Nụ cười Tô Tú hơi có chút ranh mãnh, cô nói với Như Ý: “Mấy đứa ở Cẩm Tú Điện chỗ cô Uyển mà về tới tay chị là sẽ ngoan như mèo con vậy. Em về tay của chị Tô Tú thì cũng ngoan như mèo con ngay.”


Thải Liên phết vào tay Tô Tú thêm một cái, nhìn cô gái yểu điệu mà sức lực kể cũng thật đáng sợ, để lại một vệt hồng dài trên mu bàn tay khiến Tô Tú xuýt xoa. Thải Liên nói: “Em ấy trêu em đấy. Chỉ giỏi làm trò thôi, đừng nghe em ấy huyên thuyên.”


Lã Như Ý suy nghĩ trong tích tắc rồi hỏi: “Cẩm Tú Điện là đâu vậy ạ?”


Thải Liên cười: “Nhà mới của em đấy.”


Như Ý thấy hơi hồi hộp, vui mừng, nhưng đồng thời cũng buồn rầu. Chỉ trong vài hôm thôi đã từ cô gái được yêu thương, có nhà có cửa thành ra nông nỗi này. Đoàn người này thân phận cao quý bí hiểm, đi theo họ chẳng sợ bị gia tộc bắt lại, nhưng thật lòng cũng không biết tốt xấu thế nào. Nhưng cô Lâu Uyển khiến Lã Như Ý rất tin tưởng, họ lại cứu mạng mình, hơn nữa dù có thế nào cũng tốt hơn là bị chôn sống. Nghĩ tới đây, từ rầu rầu Lã Như Ý lại chắc bụng chắc dạ, tự an ủi mình.


Ăn uống xong xuôi, Lâu Uyển cho mọi người lên phòng nghỉ ngơi, dưới lầu chỉ còn lại Thải Liên và Tô Tú. Tô Tú rút từ trong tay áo ra một nửa miếng ngọc tết nút đỏ, nói: “Bọn em đến Xích Châu tìm đúng ba ngày. Rồi thấy được bên dưới gốc lê trên đồi.”


Lâu Uyển tiếp lấy miếng ngọc trên tay Tô Tú. Nhìn nước ngọc trắng muốt, nàng không khỏi nở nụ cười. Nàng như nhìn thấy đứa bé trắng như bông tuyết, hai má ửng hồng vì rét, đôi mắt to lay láy, ôm riết lấy mình. Nhưng nụ cười của nàng ta tan dần ngay khi nhìn ra sắc đỏ gai mắt trên miếng ngọc.


Thải Liên dè dặt: “Vệt máu này rất kỳ lạ, nhìn tươi cứ như còn mới nhưng tẩy không nổi.”


Lâu Uyển nắm chặt miếng ngọc trong lòng bàn tay như muốn khảm nó vào người, nàng ta cúi đầu, hồi lâu mới cất tiếng: “Không sao. Còn vật này là còn hy vọng.”


Lâu Uyển cảm thấy hơi mệt, nàng gối tay trên bàn, chiếc áo choàng tím bao phủ cả cơ thể, chỉ lộ ra gương mặt nhợt nhạt. Nàng nhìn ra cửa sổ, bên ngoài mênh mang tuyết: “Khi ta đi nó lớn chừng này. Chỉ tới bậu cửa sổ kia. Tiền bối dặn ta phải tìm nó, phải chăm sóc nó. Ta đi lâu như vậy không biết giờ này nó thế nào, sống có tốt không.”


Thải Liên nắm lấy tay Lâu Uyển: “Cô Uyển đừng lo, công chúa nhất định đang sống rất tốt. Công chúa còn đang chờ chúng ta tới đón.”


Rồi Thải Liên cũng không kìm nổi băn khoăn mà hỏi: “Tiền bối… Cô Uyển đã gặp tiền bối chưa?”


“… tiền bối đi rồi, cũng không nhớ lại gì cả.”


Thải Liên hơi buồn buồn, thở dài: “Thôi thế cũng tốt. Nếu nhớ lại thì… tiền bối sẽ hận lắm.”


Nhắm mắt lại. Trước mắt Lâu Uyển lại là biển lửa thiêu đốt cả Xích Châu. Xích Châu đẹp như tranh. Mỗi khi chiều xuống trời ở đó sẽ chuyển thành một màu đỏ rực, mềm mại chảy trong sắc vàng, thành một lớp màu không ai có thể nhuộm ra. Gió thanh thanh, cỏ mềm mại phủ khắp núi đồi. Khắp nơi bạt ngàn hoa lá như chốn bồng lai. Thời khắc ấy trời và trăng như hòa làm một, chảy ra một thứ màu rừng rực mà mềm mại dịu dàng, khiến cả thảo nguyên như hóa thành một hòn ngọc đỏ.


Đấy đáng ra phải là quê hương của Lâu Uyển.


Lâu Uyển nhớ mình đứng giữa biển lửa, người đông như kiến chạy khỏi Xích Châu. Chỉ có nàng là đứng bàng hoàng như bức tượng hướng về phía Xích Châu rừng rực thiêu đốt.


Lửa thiêu trong tuyết. Ngày ấy tuyết cũng lưa thưa buông xuống thế này. Lâu Uyển nằm rạp trên bàn, cả lầu hai quán trọ yên tĩnh chỉ nghe được tiếng hít thở nhẹ. Đôi mắt nàng đăm đăm dõi ra ngoài.


Bất chợt một chiếc ô giấy lọt vào tầm mắt nàng. Lâu Uyển ngỡ ngàng, chỉ nhìn thấy dưới tán ô hé ra nửa gương mặt đã quá quen thuộc, rồi mới chớp mắt đã chẳng thấy đâu, như thể tan được vào trong tuyết.



~oOo~


Lã Như Ý ngồi trong gian phòng nhỏ. Hôm nay thời tiết ấm lên nhiều, những cánh cửa sổ được mở tung khiến căn phòng thoáng hơn rất nhiều. Trong mùi hương liệu, son phấn, dầu thơm, Như Ý ngửi cả được mùi gỗ từ chiếc lược của Thải Liên. Một thứ hương nhè nhẹ, man mát.


Như Ý được Thải Liên chải tóc, vấn một kiểu rất đáng yêu, còn cài thêm một chiếc trâm hoa bằng ngọc. Thải Liên vừa chải lại đuôi tóc cho Lã Như Ý vừa nói: “Tóc em đẹp thật đấy, tiếc là lần này đi vì công chuyện nên chẳng mang mấy những thứ trang sức, trâm cài. Nhưng về đến Dụ thành thì bạt ngàn, chị sẽ chọn cho em những món thật đẹp.”


Nghe những lời của Thải Liên, Lã Như Ý không khỏi cảm động. Trải qua cơn hoạn nạn rồi được cứu giúp, được lo lắng, đối xử chu đáo khiến Lã Như Ý biết ơn vô cùng, cô nhìn trong tấm gương đồng, nhỏ giọng với Thải Liên: “Cảm ơn chị nhiều lắm.”


Thải Liên khẽ vỗ vào vai Tô Tú, đáp: “Không có gì đâu.”



Hôm ấy là ngày cuối của Như Ý tại Yên. Trở về không có gì gấp gáp, đoàn người thuê hai chiếc xe ngựa. Lúc lên xe, Lâu Uyển nói với cô: “Trước khi đi nhìn lại một lần đi. Có lẽ bây giờ em chưa cảm thấy gì nhiều, nhưng sau này lúc nhớ lại sẽ cảm thấy rất mất mát.”


Bước lên xe ngựa, Như Ý ngoái đầu nhìn lại quê hương mình một lần nữa. Thành quách lộng lẫy, gia tộc bỏ rơi đứa con đứa cháu của mình, con người sống hạnh phúc với dối trá. Nhưng đây là quê cô, là nơi cô lớn lên. Lúc rời xa, trong cô vẫn có cảm giác trống rỗng.


Lã Như Ý dứt khoát không nhìn nữa, mắt cô nong nóng. Cô ngồi vào trong xe ngựa, bàn tay giữ tấm mành che buông xuống.


Tạm biệt.


~oOo~


Lâu Uyển về lại Sở vào gần hai tháng sau. Nàng ta để Thải Liên và Tô Tú đưa Lã Như Ý về Cẩm Tú Điện, phần mình thì vào cung gặp vua Sở ngay.


Lâu Uyển trước nay không cần hoạn quan cung nữ dẫn đường, đi thẳng vào Cần Điện. Đường đến Cần Điện phải băng qua ngự hoa viên. Lâu Uyển đi giữa một bể hoa tím lịm, chợt thấy một bóng lưng đã quá quen.


Cơ Chiêu quay người lại, cười nói: “Đã về rồi à.”



Lâu Uyển cho người về báo cho Cơ Chiêu trước nên lúc này cũng chỉ vắn tắt kể lại chuyện ở Yên. Nhưng dù chỉ nghe có vậy thôi, tâm trạng Cơ Chiêu vẫn càng thêm thoải mái, ông ta cười: “Làm tốt lắm, tốt lắm. Lần này khanh có công lớn, muốn ban thưởng gì cũng được.”


Đương nhiên Lâu Uyển cũng không yêu cầu đặc biệt được thưởng cho thứ gì, vậy là Cơ Chiêu lại theo lệ cũ, ban cho nàng một rương châu ngọc, một trăm thước vải thượng hạng cùng với rất nhiều hương liệu quý, gỗ quý.


Cẩm phu nhân ở bên cạnh tò mò hỏi: “Lâu Uyển này, vị tiền bối mà cô ghé đến ở nước Yên là ai vậy?”


Lâu Uyển cũng chẳng giấu diếm, đáp: “Tiền bối là người có địa vị lớn trong tộc của Lâu Uyển nhưng qua đời từ ngày Lâu Uyển còn nhỏ. Trường Sinh chú vốn là thánh vật của người Tây Miên nên phải được bảo vệ tuyệt đối, nhưng lại không được phép thất truyền nên tiền bối được truyền lại manh mối về Trường Sinh chú rồi tự vẫn, làm phép chôn xương xuống thành cổ chờ hậu duệ của tộc tìm được đường tới.”


Trong đám tro tàn, đổ nát, người đàn bà nói: “Chôn ta trong cổ thành. Khi nào hối hận thì hãy đến tìm ta.”


Cẩm phu nhân là phụ nữ nhưng không phải kẻ nhát gan, nghe vậy chỉ nhướn đôi mày liễu. Phu nhân nâng chén ngọc, nhấp một ngụm trà, khẽ thốt: “Ồ.”


Đặt chén trà xuống bàn, Cẩm phu nhân đưa đôi mắt đen láy đẹp tuyệt của mình về phía Lâu Uyển, hỏi: “Có vẻ Lâu Uyển cũng thân quen với vị tiền bối này. Ngài thấy có buồn không.”


Ngoài Cần Điện gió thổi rì rào, mấy con chim hoàng yến lông như dát vàng đang tụ tập ngoài cửa, thỉnh thoảng lại khẽ mổ cái mỏ nhỏ xíu lên nền đá sáng đến mức soi được mặt người.


Lâu Uyển ngẩng đầu, cười với phu nhân: “Phu nhân nghĩ thế nào.”


Gương mặt xinh đẹp của Cẩm phu nhân lộ vẻ ngạc nhiên. Rồi từ ngạc nhiên, phu nhân cười phá lên. Đôi mắt cong như trăng khuyết, khuôn miệng như hoa, Cẩm phu nhân cười đến nỗi những chiếc thoa vàng và hạt châu trên đầu đánh vào nhau leng keng, bộ đồ gấm đỏ trên người cũng rung bần bật theo tràng cười của phu nhân. Phu nhân cười đến chảy cả nước mắt, tiếng cười khanh khách như tiếng chuông: “Chao ôi, sao ta lại hỏi câu như vậy. Buồn hay không thì có ích gì chứ.”


Nước nhỏ lách tách trên sàn.
 
Bên trên