Xít - Cập nhật - Phung QA

Phung QA

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
26/1/19
Bài viết
21
Gạo
0,0
Chương 10: Quyết Đấu

Ngày hôm sau hai đứa chả có việc gì làm, ngoài nằm dài trên sàn chờ màn đêm buông xuống. Quả là một ngày dài chờ đợi. Chúng tin con Sói Hai Đầu cũng đang nóng lòng chờ đợi một cuộc đối đầu với chúng, chỉ là nó đang chờ một cơ hội mà thôi. Mong rằng ngọn lửa thịnh nộ vẫn bừng bừng, réo rít thúc đẩy nó, đêm nay chúng sẽ cho nó cái cơ hội hằng mong chờ đó!
Ánh chiều tà vừa nghiêng bóng lập tức hai đứa leo xuống đi về phía bờ đầm. Sắp đặt đâu đấy, ra hiệu nhắc nhở nhau lần cuối, chúng bắt đầu lặng lẽ chờ đợi đêm đầu tiên.
Màn đêm lành lạnh chầm chậm phủ xuống vạn vật.
Ánh trăng đêm nay đột nhiên trong và sáng hơn hẳn, treo lơ lửng ngay trên đầu; cứ như nó cũng đã biết và đang ngóng đợi, chứng kiến một cuộc chiến khốc liệt giữa Rừng Chết đêm nay vậy. Nền trời như tấm vải nhung, rắc lác đác mấy vì sao thưa lấp lánh.
Xít ngồi lặng lẽ một mình bên đống lửa nhỏ gần gốc cây Muồng trắng, ánh mắt chăm chăm vào ngọn lửa bập bùng trước mặt. Đêm đã về khuya.
Đột ngột một cơn gió lạnh lướt qua, Xít khẽ rùng mình. Một bóng đen đứng lêu nghêu trên đỉnh sống đất từ lúc nào không hay, tựa một bóng ma. Hai chân trước nó chống trên mấy cây gỗ, mình vươn cao, bốn con mắt đỏ rực như những hòn than lừ lừ nhìn xuống.
Sau khi nhìn chằm chằm một lúc, nó mới khẽ dùng chân đẩy mấy cây gỗ lăn xuống ầm ầm, rồi phóng vụt xuống. Không gì khác, chính là con Sói Hai Đầu! Thoắt chốc nó đã chỉ còn cách Xít chừng hai chục bước chân. Lần đầu tiên Xít được ngắm nhìn rõ con quái thú, thứ nghiệp chướng của đời nó. Món nợ máu bằng xương bằng thịt đứng ngay trước mặt. Loài quái thú đã trút máu tanh và gieo biết bao khổ đau, căm hận lên gia đình nó!
Con sói có thân hình to lớn dài cả sải, cái lưng võng xuống uốn lượn uyển chuyển theo mỗi bước đi; hai bả vai nổi u nhấp nhô theo nhịp những bàn chân to như cái bát ấn sâu vào đất. Nhìn nó to lớn khác thường và từ nó ào ạt tỏa ra một sự đe dọa của một chúa sơn lâm. Toàn thân từ đầu tới chót đuôi nó phủ một lớp lông dày, mượt và đen kịt như bóng đêm. Ngoại trừ một vệt xám như cái yếm bạc nằm ngay trước ức. Và cũng từ cái ức sáng ấy hai chiếc cổ dài đong đưa mọc chẻ ra; chúng vươn lên xà xuống, uốn éo như hai chiếc cổ rắn. Cái cổ bên trái rậm lông đen mướt đỡ một cái đầu sói to như đầu một con gấu ngựa, nhìn vô cùng hung dữ. Cả cái đầu là một khối đen tuyền làm nổi bật hai con mắt cháy rực, ẩn sâu bên trong đang chiếu ra nhìn Xít với ánh mắt nung nấu, đầy sự thèm khát man dại... Ánh trăng rờ rỡ soi xuống như làm cái đầu ấy lại gần hơn.
Nhưng cái đầu thứ hai bên phải nhìn mới thực sự đáng sợ. Nó mọc trên một cái cổ đỏ bầm, trụi lóc, nhìn như một con trăn vừa bị lột da đỏ quạch. Trên đó là một cái đầu kỳ dị: nhỏ quắt, mõm dài nhọn hoắt.
Cái đầu ấy dường như chỉ có lớp da đỏ sọng, trơn láng bọc trọn lấy hộp sọ. Không một cọng lông, ngoại trừ vài chiếc to cứng như lông lợn lòi dựng tua tủa đâm ra ngay trước trán, nằm giữa hai cái tai nhăn nheo mỏng dính như hai mẩu da thừa dính sát xuống da đầu. Trên da mặt của cái đầu ấy mọc lên những mụn thịt đỏ bầm như mụn cóc; và làn da bị kéo căng ra, tựa như có bàn tay sau gáy túm chặt làm khóe mắt nó sếch ngược lên lòi cả lòng trắng trắng dã. Cái mép đỏ lòm bị kéo giật lên tận mang tai, phơi ra cái lợi đỏ lòm cùng một hàm răng vẹo vọ, đâm tua tủa như một mớ gai mây chìa ra toang hoác. Nhìn nó vừa kinh tởm, vừa quái dị.
Khác với cái đầu kia, chiếc đầu này có hai con mắt tí hí lừ lừ ẩn dưới hai mí thịt đỏ sưng tấy, căng mọng như hai con đỉa no máu bám sát vào bờ mi. Cái đầu ấy đang cúi xuống rà rà sát đất, như đầu một con rắn đang lia lưỡi đánh hơi mùi hiểm họa tỏa ra từ một cái bẫy giấu ở đâu đó. Một mắt nó hé nhếch lên liếc nhìn Xít đầy vẻ thâm hiểm, gian giảo, trong khi con mắt kia lia liếc bốn bề xung quanh dò xét đầy vẻ ngờ vực.
Xít chậm dãi đứng lên, miệng nó khẽ lầm bầm: "Mày, quả là xảo quyệt lắm! Nhưng thế là chưa đủ đâu!"
Chờ con sói bước tới thêm vài bước, Xít mới cúi xuống móc đầu sợi thừng vùi dưới chân lên, vẫy mạnh một cái cho sợi dây bật hẳn lên khỏi mặt đất, rồi ném mạnh vào đống lửa trước mặt. Ngọn lửa lập tức bắt lấy sợi dây thừng cháy phì phì, phun ra thứ lửa tím ngắt. Con sói khẽ giật mình liếc nhìn. Ngọn lửa lan nhanh như rắn bò, lem lém chạy dọc theo sợi dây dẫn tới những khúc gỗ vừa lăn xuống. Chỉ trong chớp mắt cả khu đất trống đã bị lửa dựng lên bừng bừng quây kín, chỉ còn ngoại trừ phía bờ đầm.
Nhìn lại, thấy vòng vây lửa bao quanh chỉ có vậy, con sói tỏ vẻ chẳng hề e sợ, tiếp tục lặng lẽ bước tới cái bóng đang đứng đơn độc trước mặt. Nhưng vừa bước lên hai bước, một lần nữa, nó lại phải giật mình khựng lại. Từ dưới mặt đầm lầy lõng bõng, đen quánh một cái đầu vừa đội nước thò lên, và rồi một thân hình cao lớn, toàn thân bóng nhẫy bùn đen, tay cầm lao dài từ dưới nước đi lên. Dưới ánh trăng bàng bạc, cái bóng đen nhễ nhại ấy nhìn như một hung thần vừa xuất hiện.
Con sói ngay lập tức hiểu ra nó vừa rơi vào một cái bẫy, kẻ trước mặt nó không hề đơn độc. Nhưng lửa từ mấy thân cây đang bốc lên ngùn ngụt sau lưng, nó chẳng còn đường nào để lui. Đôi mắt trên cái đầu nhỏ quái dị càng thu hẹp lại, lừ lừ ngước lên đầy nham hiểm. Đan, cái bóng ướt sũng vừa ngoi lên, bước lại gần đứng sát bên Xít. Hai đứa nắm chắc vũ khí trong tay, từng bước cùng nhau tiến tới.
Con Sói Hai Đầu khẽ lùi lại một bước, chân trước hơi chùng xuống, cái đầu hạ thấp. Hai đôi mắt nó trợn tròng đỏ rực, gầm gừ; sống mũi soắn tít lại, xếch lên để lộ hai hàm răng nanh trắng ởn, to cồ cộ như ngón tay cái, cùng cái mép đỏ như tiết nhểu rớt rãi dòng dòng.
Đột nhiên nhìn vào cái miệng đỏ như bát máu ấy, Xít chợt nhớ tới bà Bơ Nót và những chiếc sọ người trong hang. Nó nghiến răng kèn kẹt, xiết chặt cán lao. Máu trong người bỗng chốc nóng bừng, hừng hực như vừa nốc một bát rượu mạnh, cơ bắp toàn thân giần giật thôi thúc xông tới, thèm khát được lăn xả vào một cuộc chém giết, quyết tử.
Xiết căng toàn bộ cơ bắp, nhìn thẳng vào con sói, Xít nghiến răng gầm gừ: "Hừ! Đêm nay! Tao sẽ cho mày biết, không chỉ có mình mày mới là quỉ dữ trong cánh rừng này đâu!"
Rồi không bảo nhau mà cả Đan và Xít cùng đồng loạt tiến lên. Tay lao nhọn tay dao dài, chúng xông tới như hai con cọp dữ đâm chém vùn vụt. Con Sói Hai Đầu cũng chẳng hề nao núng, hai cái đầu hiếu chiến vươn ra chẳng chút e ngại, vừa né tránh vừa cắn trả rất nhanh. Nhưng hai ngọn lao thi nhau đâm ra vun vút quá rát, làm nó bắt buộc phải lùi dần. Con mắt ti hí một lần nữa rà thấp, liếc lên đầy gian xảo như toan tính gì đó. Rồi lùi nhanh một bước dài, bất chợt con sói phóng mình lao thẳng vào hai đứa như một thân cây từ ngọn thác cao phóng xuống. Đan và Xít chẳng hề né tránh, chúng kề sát vai nhau cùng vung dao chống trả. Một trận quyết chiến nổ ra. Con Sói lăn xả vào giữa cắn xé, quăng mình rầm rầm, lồng lộn như một con trăn dữ. Những chiếc nanh cứng tựa thép lóe lên như chớp giật, quay cuồng đối đầu cùng ánh dao bay loang loáng dưới ánh trăng vằng vặc. Xít và Đan cũng thả hết, để mặc cơn say máu bạo liệt trong mình bùng lên, mặc nó cuốn chúng vào vòng xoáy điên cuồng, hoang dại của đâm chém và gào thét. Chúng phạt ngang chém dọc bằng tất cả sức mạnh đáng sợ của sức trai mười bảy đương thì, bằng lòng hận thù ấp ủ bấy lâu nay và những miếng đánh Tay-Yia uy mãnh nhất.
Cả ba quấn vào nhau không còn phân biệt nổi đâu người đâu sói, trong những tiếng quật "thình! thịch!" Và màn bụi trắng bay lên mờ mịt. Răng nanh và dao sắc, vốt lớn với lao dài, tất cả hừng hực, toàn lực lao vào nhau với một ý chí quyết tử đáng sợ. Tiếng hầm hừ thét lác vang dội cả một góc rừng đêm.
Quần thảo một hồi, bất chợt con sói nhảy vọt ra khỏi vòng chiến. Đan và Xít cũng dừng lại không truy sát. Cuộc chiến kinh hoàng đột nhiên tạm thời ngừng trong giây lát. Vì tuy không dài nhưng cuộc hỗn chiến quá khốc liệt, đã lấy đi khá nhiều sức lực của cả hai bên. Cả ba đều đứng hóp bụng vào thở hồng hộc. Nhưng đó cũng là lúc những vết thương trên cả ba cái thân thể bắt đầu cắn rứt, phát tác.
Đan và Xít thấy đau buốt khắp nơi, cùng mình là những vết cứa, xé rát bỏng. Cả hai ngọn lao cũng đã mất: cây của Xít đã gẫy đôi trong một cú đâm tận lực, còn của Đan thì đã bị hất văng ra xa cả hơn chục bước.
Nhưng xem ra tình hình con sói có vẻ còn tệ hơn nhiều, toàn thân nó không dưới chục vết thương. Nó đứng hít thở từng hồi nặng nhọc, một chân trước hơi run run co lên, một dòng máu đen theo lớp lông rỉ xuống nhểu thành vũng, nổi bật trên lớp bụi trắng.
Sau vài hơi hít thật sâu lấy lại sức, dù đau buốt toàn thân, không bảo nhau Đan và Xít vẫn lập tức tiến lên, tiếp tục tấn công. Không thể hạ gục đối phương bằng sức mạnh phủ đầu, con Sói Hai Đầu quyết định giở thứ vũ khí tối hậu của mình. Nó lùi lại vài bước giữ khoảng cách, rồi vươn cổ, hai cái mõm ngửa lên trời, bắt đầu tru lên những âm thanh rền rĩ, quỉ mị như tiếng quỉ gào vọng về từ địa phủ - Những âm thanh từ thấp lên cao, rồi cứ cao dần, đan quyện vào nhau đâm xoáy vào màng tang len lên tận óc, đã bóp ngẹt lý trí, hạ gục biết bao kẻ thù.
Nhưng thật kỳ lạ! Nó đã tru lên hai ba hồi, mà chờ mãi mà vẫn thấy hai kẻ tử thù kia lừng lững bước tới, chẳng hề có biểu hiện gì chậm lại, hay liêu xiêu mê loạn. Không tin kẻ thù có thể khánh cự trước chuỗi âm thanh đầy yêu ma mê mị, con sói ưỡn lưng, phồng căng hết ngực tru lên một hồi dài cao vút bất tận nữa. Nhưng lần này nó thật sự e sợ, hoảng hốt. Hai cái thân hình cao lớn cuồn cuộn cơ bắp, mồ hôi bóng nhẫy, từ đầu đến chân bê bết loang lổ những mảng bụi trắng trộn lẫn máu đỏ toe toét, nhìn tựa như hai ác thần từ dưới đất chui lên kia vẫn cứ như gỗ, như đá lầm lụi tiến tới.
Quá bất ngờ trước thứ vũ khí đoạt hồn tối thượng lại hoàn toàn vô dụng, con sói bắt đầu trở lên hốt hoảng, lúng túng. Nó gầm gừ lùi lại, đảo hai cái đầu hết nhứ lao qua phải lại lao qua trái tìm đường tháo lui trước vòng vây đang dần khép lại, vòng lửa bừng bừng gào thét sau lưng chẳng còn cách mấy bước. Sau cùng bất ngờ và liều lĩnh, nó nhao người lách qua phía Đan vọt ra ngoài, cam chịu một nhát chém cực nhanh và mạnh sượt xéo vào đuôi mắt của Đan. Con sói gào lên đau đớn phóng về phía gốc cây. Dù biết con sói không thể thoát ra khỏi bãi trống, nhưng đang hừng hực khí thế áp đảo, Đan và Xít liền hối hả quay người lao theo truy sát ráo riết.
Nhưng không ngờ chỉ trong một khắc nóng vội bất cẩn trọng, chúng đã mắc phải một sai lầm và phải trả giá đắt.
Vì gần hơn nên Đan lao tới trước Xít vài bước. Vừa đuổi tới gốc cây, Đan tưởng chừng con sói sẽ chạy vòng luồn qua. Nhưng bất ngờ, nó vô cùng ranh ma và liều lĩnh, phóng mình lên thân cây rồi mượn đà bật ngược trở lại, từ trên cao bổ xuống ngay sau lưng Đan. Đang đà lao tới Đan chỉ kịp khẽ lạng người sang phải, nhưng vẫn không sao tránh nổi cả phần thân sau đồ sộ của con sói quăng mạnh vào sườn. Đan bị dội bắn vào gốc cây đánh "Uỵch!" rồi văng ra đất như một súc thịt, nằm sõng soài bất động. Ngay phía sau, Xít cũng vừa lao tới thì đã thấy hai bộ răng nanh trắng ởn giương lên chờ đón. Nó vội ngã nhào sang bên, cuộn tròn một vòng trên đất né tránh, nhưng vẫn thấy cùi chỏ nhói lên đau buốt. Cú lăn ấy vô tình đưa Xít đến gần mũi cây lao gãy, nó liền nắm chặt lấy nhổm dậy. Vừa đứng lên nó đã thấy một cái đầu đen trũi phóng thẳng vào bụng như tên bắn. Khoảng cách quá gần không kịp thu dao về Xít liền đưa đầu gối thúc thẳng lên. Cái đầu gối cứng như gốc cây của nó chẳng khác gì cái đầu vồ phạt ngang. Một tiếng "Khộc!" vang lên, đầu con sói bật ngửa hẳn ra sau, Xít cũng loạng choạng bắn văng ra xa. Vừa gượng hết sức đứng dậy, Xít vội nhào tới chỗ Đan đứng che chắn trước bạn.
Cú thúc gối xem ra khá mạnh, làm con sói choáng váng giây lát, nó đứng lúc lắc cái đầu mấy cái mới từ từ tiến tới. Giờ nó chẳng có gì phải vội, kẻ thù trước mặt chỉ còn một mình đơn độc, và cũng đã cùng mình thương tích, như con nai con hoẵng sa xuống hố chẳng thể chạy đâu cho thoát. Cái họng kia rồi sẽ sớm ngập trong hàm nó!
Cái đầu lớn đen trũi, khẽ đưa lưỡi liếm một vòng tròn quanh cái mép đỏ lòm, ướt rượt. Trong khi cái đầu kia vẫn cúi xuống gườm gườm liếc nhìn nó đầy nham hiểm.
Tình thế đảo ngược quá nhanh, từ kẻ đang thắng thế truy đuổi, bỗng chốc Xít trở thành kẻ thất thế, bị dồn tới đường cùng. Đã mất đi sự trợ giúp đắc lực - thua về lực lượng; lại chẳng thể tự do di chuyển tránh né. Cùng lúc con quái thú đang lên cơn điên giận hăng máu nhất, giữa một nơi bốn bề trống trải.
Không còn đường lui, Xít nghiến răng trụ cứng hai chân xuống đất, tay nắm chặt chuôi dao cùng đoạn lao gãy. Trên bắp đùi nó bốn năm vết cứa dài đang ứa máu, nhức buốt tận xương.
"Được!" Xít nghiến răng. Phóng ánh nhìn tử thủ gườm gườm của một con thú đã cùng đường xuyên qua mảng tóc bê bết bụi rủ ngang mặt, chiếu thẳng vào con sói, nó lầm bầm: "Hôm nay phải chết thì cùng chết! Mũi dao này sẽ xuyên thấu tim mày! Đừng hòng động đến bạn tao! Hôm nay tao thề sẽ tận diệt mối hậu họa này cho làng bản Tơ Gúc!"
Rồi Xít chợt thấy lòng nhẹ nhõm hẳn, một sự thanh thản lạ thường tràn ngập trái tim nó. Xít thả lỏng người chậm dãi đưa cây dao lên ngang ngực chờ đợi, mũi lao gẫy chúc xuống che giấu đòn đánh.
Như cái bóng của tử thần đùa giỡn trước một linh hồn đang hấp hối, con sói cứ chậm dãi đi lại chờn vờn trước mặt Xít. Nó không xông vào ngay, như thể tuân theo một ý đồ đen tối của cái miệng cười nửa mép nham hiểm, trên cái đầu đỏ hỏn trọc lóc kia - kéo dài giây phút hấp hối, tận hưởng sự kinh hoàng, khiếp sợ của con mồi trong khoái trá, và dình dập một cơ hội đoạn mạng.
Nhưng Xít, lâu nay với bản tính cương cường, cùng ý trong lòng đã quyết! Nên nó đâu còn thấy sợ. Không hoảng loạn, nên Xít cũng nhận ra một ý đồ khác của con sói: nó đang muốn lừa, dồn Xít tách ra khỏi gốc cây và chỗ Đan nằm, tới một chỗ trống trải hơn để hai chiếc đầu có thể dễ bề tấn công cùng lúc. Ngầm hiểu được thâm ý của con quái thú, Xít kiên định đứng yên tại chỗ, nhất định không di chuyển, dù con sói có cố tình tạo cho nó một khoảng trống để thoát ra. Thấy không đạt được ý đồ nham hiểm, con sói mới từng bước chậm dãi tiến thẳng lại. Bốn ánh mắt đỏ lòm dán chặt, quây tròn lấy Xít, lạnh lùng như một con linh miêu trước con mồi bé nhỏ cùng đường.
Chỉ còn cách ba bốn bước chân, Xít có thể nhìn rõ những chiếc lông gáy con sói đang từ từ dựng lên. Đột nhiên nó chợt nhớ đến bà Bơ Nót, đến ánh mắt khốn khổ của bà đã kinh hoàng tột cùng thế nào trước khi chết thảm. Chớp mắt hai cái đầu cùng đồng loạt phóng tới.
Xít gầm lên một tiếng như cọp, vung dao chém vùn vụt, cả hai món vũ khí trong tay nó cứ nhắm thẳng vào cái đầu cồ cộ đen trũi mà nhào tới, đâm tới tấp.
Xít đã có chủ ý. Nó quyết tâm chỉ nhắm vào cái đầu ấy hạ gục cho bằng được, mặc cho chiếc đầu kia cắn xé thế nào cũng mặc.
Cái đầu đen trũi đã bị thương do vết dao chém của Đan, lại to lớn hơn, di chuyển có phần chậm chạp, nên nhận luôn thêm hai ba nhát chém của Xít. Con sói bật lùi lại trước sự phản kháng quá dữ dội của kẻ thù. Nhưng ngay sau đó nó lại xông tới, vẻ điên cuồng hung hăng hơn. Rõ ràng những vết thương đã làm nó say máu, liều lĩnh hơn. Nó quyết dùng toàn lực áp đảo hạ gục Xít bằng mọi giá.
Cái đầu đen nháy loang lổ máu đỏ đầm đìa, trông ghê rợn như một loài ác quỉ, một lần nữa chồm tới. Xít liều chết vung dao đâm chém cật lực. Nhưng đó là một cuộc chiến không cân sức. Con Sói to lớn và quá khỏe, và nhất là khi nó sẵn sàng liều mình xông thẳng vào dao kiếm quyết hạ gục con mồi, kết thúc một cuộc chiến chớp nhoáng, thì sức nó mạnh như một con quỉ.
Nhanh chóng chỉ trong chớp mắt, Xít đã bị dí sát vào gốc cây, những nhát dao của nó dần vướng víu rối loạn, chẳng còn nhanh nhẹn, khốc liệt như ban đầu. Và rồi trong cuộc chiến hỗn loạn không cân sức ấy, chẳng biết bằng cách nào, cái hàm răng tua tủa như khúc gai của con sói đã luồn được vào giữa, đớp trúng đoạn lao trên tay Xít. Nó nghiến hai hàm răng lại giữ chặt lấy, Xít cũng gồng hết sức như một con trăn oằn người ghì lại.
Một cuộc giằng co quyết liệt diễn ra. Những tiếng thở hồng hộc, mồ hôi đẫm đìa giữa ánh lửa tím nhập nhòa nhảy múa bao quanh, như hò reo cổ vũ cho trận chiến nghiệt ngã khốc liệt.
Giữ lúc giằng co quyết liệt nhất, bất ngờ con sói tinh quái há miệng nhả khúc lao ra, làm Xít ngã ngửa ra ra sau, loạng choạng ngã ngửa đúng vào giữa mấy cái rễ cây. Ngay lập tức một bàn chân to như chiếc vồ đá chồm tới đè cứng lên ngực Xít, bàn chân còn lại giẫm lên cánh tay đang nắm chuôi dao.
"Thế là hết!" Xít nghe từng chiếc móng cắm vào da thịt đau buốt, một sức nặng ghê gớm đè xuống ngực mỗi lúc một nặng, tưởng chừng như xương lồng ngực đang rạn vỡ ra từng mảnh; hơi thở đau đớn, nhức buốt như dao đâm.
Hai cái đầu sói từ trên cao chờn vờn hạ dần xuống mặt Xít như hai chiếc đầu rắn khổng lồ; ánh mắt chúng bừng lên sự khoái trí, sắc lạnh và man dại. Dòng rớt dãi trong suốt, hôi tanh tởm lợm từ hai chiếc lợi đỏ lòm, nhễu nhão rỏ tong tỏng xuống ngực Xít.
Xít trợn trừng mắt như muốn rách khóe, nhìn thẳng vào bốn con mắt đỏ rực đang chiếu xuống mình. Thật lạ, nó chẳng hề thấy sợ, chỉ thấy một niềm uất hận tột cùng, dâng lên trong tim. Vậy là cuối cùng nó đã lỗi hẹn với tất cả! Chẳng cứu được Đan! Không về được với Dơ lin! Và cả cái ước nguyện cuối cùng: thọc mũi dao xuyên vào tim con ác thú này.
Cái chết chậm chạp hạ xuống. Nhích dần từng đốt, từng đốt...
Bất chợt phía sau con sói có gì đó khẽ nhô lên. Ngay khi Xít còn chưa kịp tròn mắt kinh ngạc, thì Đan, bỗng như một cái xác vừa sống lại, lừ lừ đứng dậy. Rồi thoắt một cái, nó phóng vọt lên cổ con sói như một con nhái bén; nằm bò ra, vòng tay quặp chân xiết chặt lấy cổ con sói.
Dưới sức nặng của Đan, cổ con sói xiêu rụi xuống không ngóc đầu lên được. Và ngay khi cả con sói lẫn Xít còn chưa hết bàng hoàng, thì bằng một hành động đột ngột, ghê gớm tiếp theo Đan làm Xít tròn mắt kinh ngạc. Nó luồn đầu xuống dưới, hả hai hàm răng ngoạm vào cổ họng con sói. Cú cắn kinh hoàng có phần ghê rợn ấy làm con sói rống lên đau đớn. Chỉ cần nhìn nó nhảy dựng lên vật vã điên cuồng, hai mắt trợn trừng lên trắng dã, đủ biết nó đau đớn cỡ nào. Nó quăng người ầm ầm giãy giụa, sùi bọt mép cố hất cái thứ đang bám chặt trên cổ mình văng xuống đất.
Nhưng với ý chí lỳ lợm, cùng những ngón tay cứng như sắt của Đan đã soắn chặt lớp lông mềm thì không gì có thể giãy ra được. Nó càng giẫy càng lắc, Đan càng như một con tắc kè dùng tất cả móng vuốt lẫn hàm răng bám cứng lấy cổ nó, nhất định không buông tha. Cái đầu đỏ hỏn dị hợm cũng chẳng còn giữa được vẻ lừ lừ gian sảo nữa. Nó quay đầu vươn cổ sang tìm cách táp liên hồi vào vai vào cổ Đan giật xuống. Nhanh như chớp Xít liền lao vào chia sẻ hiểm nguy với bạn. Nó cứ nhằm cái đầu quái đản ghê tởm kia mà chém tới tấp. Những nhát chém ào ạt bỗng chốc lại bừng lên lấp loáng, xẻ xuống những đường dao chí tử, liên tiếp không ngừng.
Không gượng nổi trước sự lì lợm, ngoan cường và đòn độc của hai đứa, con sói quay đầu lồng lên bỏ chạy. Nhưng Xít không để nó dễ bề đào thoát như thế. Nó vung dao áp sát lại chém rất dát, cố bám theo cái đầu vẹo vọ, quyết không để nó mang Đan đi.
Đang chém vùi, chợt thoáng thấy sợi dây thừng cháy dở nằm vắt dưới chân, Xít liền sục chân hất mạnh về phía trước. Cú hất chính xác. Sợi dây bay vút lên quàng ngay vào chiếc cổ trần đỏ hỏn của con sói quấn liền hai, ba vòng.
Bị lửa tím phừng phừng quấn quanh cổ; kinh hoàng, con sói dùng toàn lực chồm lên bỏ chạy. Nhưng chạy đâu cho được khi sợi thừng níu vào thân cây kéo giật nó lại, làm nó càng thêm kinh sợ cuống cuồng.
Cơ hội ngàn vàng trước mắt. Xít liền cúi xuống nhặt đoạn lao gãy xông tới. Nhưng nó vừa xông tới, cùng lúc hai cái đầu sói chợt trừng trừng quay ngoắt lại. Trông ánh mắt chúng đột nhiên trở lên lạnh lẽo, ghê rợn khác thường; như thể có thứ gì đó vừa nhập vào linh hồn chúng. Những ánh mắt bỗng trở lên xanh lét, man dại và trống rỗng, dường như không còn biết sợ trước bất cứ dao kiếm hay lửa thiêu gì nữa. Và dường như sức nó cũng đột nhiên khỏe kinh người, vươn cái cổ nhấc bổng luôn cả Đan lên. Sâu hun hút bên trong đôi mắt ấy, Xít như thấy những cánh cửa của âm ty đang mở ra, kêu gọi, triệu hồi những linh hồn chết chóc u tối bước vào. Linh hồn điên dại của con quái thú đã hoàn toàn bị ma quỉ chế ngự! Nó chồm tới lao thẳng vào Xít tựa như một con thú phát cuồng, một con quỉ dữ.
Không lùi nửa bước, hít một hơi thật sâu. "Giết!" Xít rít lên giữa hai kẽ răng. Và với một sự điềm tĩnh lạ thường, nhưng vô cùng chính xác, quyết đoán. Chờ con sói lao tới đúng tầm, Xít bước xéo lên một bước, lấy chân sau làm trụ, toàn thân xoay mạnh nửa vòng, hai cánh tay vung chéo ra tựa hai cánh én.
Lưỡi dao trên tay phải phóng ra vạch một đường cong biếc sắc thép dưới ánh trăng tà, đâm xuyên qua hàm cái đầu bên trái, thọc lên tận sống mũi. Cùng lúc cánh tay trái của Xít vung mạnh ra sau, đón đúng cái cổ họng đỏ lòm đang ngoác ra chồm tới. Mũi lao nhọn hoắt đi ngọt lịm, thuốn sâu vào cổ họng con sói, lút tận cán.
Một cú ra đòn chính xác.
Con sói từ từ khụy xuống, đổ gục, chết không kịp ngáp. Kéo theo hai chiếc cổ nằm vật ra sõng soài trên mặt đất như phủ phục dưới chân Xít. Bên cạnh Đan cũng úp mặt xuống đất, nằm bất tỉnh như một cái xác, chân nó vẫn vòng ôm cứng chiếc cổ.
Buông tay ngã khụy xuống, Xít cũng nằm vật xuống đất. Tất cả sức lực trong cơ thể nó đột nhiên rút đâu hết, toàn thân rã rời. Trong một khoảng khắc, Xít cảm thấy khoan khoái trút bỏ tất cả sự nặng nhọc của cả đầu óc lẫn thân thể, để mặc cái thân xác rã rời bồng bềnh trôi đi vô định. Thật là một sự thoải mái, dễ chịu!
Một lúc sau, Xít mới hít một hơi thật sâu gượng dậy, bước khập khiễng về phía chỗ Đan. Vết cứa ở đùi trái giờ đây càng cắn rứt, rát bỏng, mồ hôi pha máu rỉ trên mép mằn mặn. Nó dùng hết sức sốc hai nách mới lôi được Đan ra khỏi cái xác chình ình của con sói đè lên, kéo lê về phía gốc cây. Kê đầu bạn lên đùi, nó lấy ống nước trong túi dốc lên mặt Đan, rửa ráy cái mồm đỏ lòm nhoe nhoét máu trông thật ghê sợ.
Nước lạnh làm Đan tỉnh lại. Nó nằm im chớp chớp mắt nhìn cái xác sói như muốn hỏi: "Nó chết thật rồi sao?"
Xít khẽ mỉm cười gật đầu. Rồi hai đứa lại ngả người nhắm mắt lim dim, nằm im.
Vầng trăng mỏng như vừa ngáp dài một cái rồi lẩn vào trong đám mây. Đêm đã sâu, những chấm sáng lấp lánh bắt đầu lấm tấm hiện ra trên mặt đất.
Nằm một lúc tận hưởng mùi vị chiến công, hai đứa ngồi dậy. Việc đầu tiên là mở túi, lấy gói thuốc giải của cụ Sóc dán lên tai. Phần thuốc còn lại là một thứ giống như thạch: trong suốt màu xanh lá trông rất đẹp, được phết một lớp rất mỏng, bóng lọng kẹp giữa hai mảnh lá buông tươi. Chẳng hiểu sao đã hơn hai chục ngày mà vẫn còn xanh ngắt. Nó có mùi thơm cay dìu dịu như vỏ cây bạc hà, rất dễ chịu.

Tách đôi hai lớp lá buông, chúng chia nhau mỗi đứa một nửa đặt lên áp vào tai chỗ đã châm cây gai xuyên qua.
Chúng im lặng chờ đợi, phải một lúc lâu sau mới bắt đầu thấy một cảm giác man mát lan tỏa khắp đầu, tê tê. Đan và Xít ngả người ra sau, nhắm mắt cảm nhận có cái gì đó bên trong đầu như đang được gột rửa dần. Cái đầu dần thông thoáng, nhẹ bẫng. Rồi "póc!" một cái, màng nhĩ chúng như nẩy lên. Một âm hưởng nhớ nhung, quen thuộc của rừng đêm ùa ập vào đầu: tươi mới như lần đầu được rót vào tai nghe vô cùng êm ái và rõ ràng, dù Rừng Chết trong đêm gần như hoàn toàn tịnh mịch im ắng. Hai đứa vui sướng ôm chầm lấy nhau cười ha hả.
Thật không gì sung sướng bằng được nghe lại những âm thanh sau khi bị điếc đặc: nó vừa lạ vừa quen, thật thú vị! Và biến thế giới câm lặng u ám xung quanh đột nhiên trở lên sinh động đầy màu sắc.
Mà nhất là khi, đó lại là những tiếng cười rổn rảng, vui vẻ của đứa bạn thân thuộc trong niềm vui không gì tả xiết. Hai đứa cứ ôm nhau cười sung sướng, vỗ bồm bộp vào lưng nhau, nhìn như hai đứa rồ. Chúng có quá nhiều niềm vui, quá nhiều điều để nói, để kể cho nhau nghe sau cả mấy như cả tháng trời câm lặng.
- Ta sẽ mang cả hai cái đầu về chứ? - Xít hỏi.
- Cả hai cái ư? - Đan hỏi lại - Cả hai thì nặng và cồng kềnh quá, nhất là cái đầu lớn. Ta chỉ cần cắt cái đầu nhỏ hơn kia mang về là đủ thỏa lòng mọi người rồi!
Xít gật đầu, nó xăm xắn cầm dao bước tới, chỉ vài đường dao Xít đã cắt lìa cái đầu nhỏ quắt vẹo vọ hất ra lăn lông lốc trên đất. Chúng dồn đồ hai túi vào làm một, để lấy một túi riêng đựng cái đầu sói. Cái đầu chết ngoẻo nhưng hình hài, vẻ mặt quái dị của nó vẫn làm hai đứa có chút ghê sợ, kinh tởm, nên chúng dùng cán chiếc lao gãy hất nó vào miệng túi, rồi buộc túm lại thật chặt lại; cứ như thể nó có thể nhảy ra mà cắn vậy. Ngay cả xách Đan cũng chẳng muốn, nó đem cái túi buộc vào đầu ngọn lao rồi vác lên trên vai chứ chẳng chịu cầm lủng lẳng bên người.
- Vậy mà lúc nhảy lên cắn, sao cậu không chọn cái đầu này mà cắn? - Xít trêu chọc.
- Lúc đấy tỉnh lại, tớ bỗng thấy thèm được cắn vào một cái cổ, dù là bất cứ cái cổ nào! - Đan thủng thẳng đáp, mặt tỉnh rụi - Và hình như bây giờ cơn thèm ấy lại dâng lên, tớ cần cái cổ của một đứa nào đấy!
- Cậu là Anh Hùng của tớ đấy! - Xít cười nói, rồi móc túi ra một viên sỏi bé tí để lên lòng bàn tay nó giả làm Đan, diễn trò "Chết! Chết đi! Đồ khốn!"
Đan cũng bật cười, tiện chân nó đạp cho thằng Xít một đạp vào mông.
Ngồi một lát hai đứa xách túi, đẩy nhau trèo lên sống đất. Đứng trên đỉnh, một lần cuối chúng nhìn lại cái xác chình ình, đen trùi trũi của con sói phơi ra giữa nền đất trắng và cái bãi chiến trường chúng vừa tranh thắng với tử thần.
Vậy là từ nay, con sói mãi mãi chỉ còn là cái bóng ma không đầu. Huyền thoại về nó đã chấm dứt đêm nay, dưới ánh trăng này. Bản Tơ Gúc, và có lẽ còn nhiều những bản làng khác nữa, từ nay sẽ được mãi mãi bình yên. Nỗi ám ảnh về một bóng ma ghê sợ sẽ chỉ còn là dĩ vãng!
Tất cả vẫn đang nhập nhòa trong ánh lửa tím biếc bập bùng phát ra từ mấy khúc cây cháy dở, cùng ánh trăng xanh rời rợi dải xuống nền rừng lấm tấm sao rơi. Đẹp đẽ và chết chóc đem lại cho khung cảnh bãi đất trống một màu ảm đạm, ma quái dị thường.
Hai đứa quyết định đi ra khỏi Rừng Chết trước khi trời sáng, rồi sẽ tìm chỗ nghỉ ngơi ngoài rừng U Linh ngoài kia. Chúng đi một mạch, chỉ dừng lại nghỉ chân một lần trong chốc lát.
Đêm nay màn mưa đó lại thưa mỏng hơn, chẳng biết có bao giờ nó ngừng hẳn. Hai đứa ngồi dưới tán lá dày vững chãi, thong thả ngắm nhìn lần cuối cái vẻ đẹp kỳ ảo hiếm hoi ấy. Chúng biết rồi đây, sau khi trở về, nó sẽ là một chi tiết chẳng hề kém phần thú vị trong câu chuyện săn Sói Hai Đầu; và sẽ còn được mọi người nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các buổi tụ họp, lễ hội sau này.
Nghĩ tới đó chúng không thể giấu được một niềm tự hào âm ỉ dâng lên trong lòng. Dù gì, trong mắt mọi người chúng vẫn chỉ là những đứa thiếu niên hiếu thắng, bồng bột; còn trẻ người non dạ lắm! Nhưng hôm nay chúng đã lập được một chiến công lớn! Chiến công này sẽ là minh chứng cho sự trưởng thành của chúng. Và có lẽ từ chiến tích này, hai đứa sẽ không cần phải vượt qua bất cứ thử thách theo thông lệ nào nữa để làm cái lễ Trưởng Thành nay mai như mọi đứa trai khác khi bước vào tuổi mười bảy. Một chiến công mà sau này mọi người không dễ gì lãng quên... Nhưng quan trọng hơn cả là từ nay: bản làng Tơ Gúc sẽ không bao giờ còn phải nghe thấy những tiếng kêu khóc xé ruột, ai oán, bất thình lình vang lên nữa. Sẽ không còn đứa trẻ nào phải chịu cảnh mồ côi, lớn lên trong tủi nhục và côi cút nữa!

Gần sáng thì chúng ra tới bìa rừng già bên ngoài. Đi ráng thêm một lúc chúng tìm được một khe nước nhỏ đầy ăm ắp, nước trong leo lẻo. Hai đứa liền lội ào xuống tắm rửa kỳ cọ cho thật thỏa thích. Nhất là Đan, nó ngâm mình thật lâu trong làn nước, cho tay vào miệng chà sát, kỳ cọ hàm răng đến suýt bật máu mới thôi. Xít đứng phía sau lặng thầm nhìn bạn, nó hiểu rằng phải có sự thôi thúc mãnh liệt nhường nào, lòng can đảm thế nào mới cho Đan vượt qua nỗi ghê tởm ấy!
Tắm táp xong, chúng lên bờ nhóm một đống lửa để hong quần áo và chuẩn bị bữa ăn luôn. Trong khi chờ đợi Xít lấy bó thuốc của cụ Sóc cho bôi dịt lên những vết thương lớn, đứa nào cũng bị sáu, bảy nhát cứa xẻ thịt, chẳng thể nào biết đâu là vết răng đâu là móng vuốt, còn những vết xước hay bầm tím thì vô kể.
- Hi vọng nanh của nó không có độc như lũ rắn hay mãng xà! - Đan vừa dịt thuốc vừa nói.
- Dù có thành tinh nó cũng chỉ là loài sói, sao mà răng nanh có độc được chứ? Nếu có nó đã phát tác ngay trong Rừng Chết, đâu chờ tới bây giờ? - Xít nói.
- Ừm - Đan gật gù. Ngừng một lát rồi nó nói - Mà sao mấy hôm nay lẫn cả đêm qua, không thấy con Chim Trắng đâu nhỉ?
- Nó hình tích ẩn hiện bất thường lắm, ta chẳng thể biết được đâu! Nhưng tớ đoán, có lẽ từ nay chắc ta sẽ chẳng còn gặp lại nó nữa đâu! - Xít nói.
- Sao cậu nghĩ vậy?
- Tớ chỉ đoán vậy thôi! - Xít đáp - Có lẽ nó chỉ đi theo chúng ta khi ta còn săn tìm con Sói Hai Đầu. Giờ con sói đã bị hạ, nó cũng không cần theo hỗ trợ gì ta nữa. Chẳng hiểu chúng có liên quan gì tới nhau? Chẳng lẽ nó cũng có mối thù với con sói? Thật chẳng có cách nào để giải thích điều này! Mà đấy cũng chỉ là tớ đoán thế thôi! Chứ tớ còn mong gặp lại nó gấp trăm lần. Dù sao chúng ta cũng nợ nó một cái ơn cứu mạng quá lớn, khó mà trả nổi.
- Ừ mà nó thần thông như thế thì cần gì mình trả! Không biết tình hình ở bản giờ ra sao nhỉ? - Đan đột ngột chuyển qua chuyện khác.
- Chắc mọi người cũng đã lên đường rồi từ lâu rồi! - Xít nói - Ngay hôm đi nhìn ánh mắt khổ sở, nặng trĩu của cụ Sóc, tớ đoán cùng lắm cụ cũng chỉ nín nhịn được một ngày là cùng.
- Nín cái gì?
- Thì việc giấu chuyện chúng ta đi, không cho trưởng bản biết ấy!
- Ừm! Nếu đúng như vậy thì ít nhất mọi người cũng đi được hơn mười ngày rồi! Chẳng biết giờ này họ đang ở đâu? Liệu có đi theo đường chúng ta đã đi không?
- Dấu chúng ta để lại thì chẳng khó tìm. Tớ chỉ e mọi người tìm được vết chân Sói Hai Đầu thì sẽ lần theo hướng khác.
- Hy vọng là vậy! Mong họ đừng đi cùng lối với chúng ta! - Đan lẩm nhẩm.
- Đừng đi cùng lối? Ý cậu là sao? - Xít chau mày nhắc lại lời Đan.
- Nếu cùng hướng với ta, chắc chắn họ sẽ đi vào cái Thung lũng Đỏ ấy! - Đan nói - Mà chui vào đấy, không may mắn gặp được Chim Trắng bảo vệ như chúng ta thì cậu thử hình dung xem, điều gì sẽ xảy ra?
- Ừ! - Xít gật đầu vẻ mặt lo lắng - Tớ không nghĩ ra điều ấy! Chỉ mong mọi người không lần ra chúng ta mà đi theo lối khác.
Nhìn vẻ mặt lo lắng của bạn, Đan chợt nghĩ ra, xoa dịu:
- Đừng lo! Chúng ta nghĩ chưa tới, chứ chắc chẳng đến nỗi nào đâu. Vì ít nhất, họ cũng đi theo từng nhóm hàng chục, hai chục người, đông như thế, cung tên giáo mác lại đầy đủ, có đi vào thung lũng đó cũng không đến nỗi khốn đốn như hai đứa mình!
Nghe Đan nói vậy Xít mới vơi đi phần nào trong lòng. Ừm! Hóa ra cái thằng bạn mà nó vẫn coi là loại cào đồi, phá núi này, đôi khi cũng suy nghĩ sâu xa, cặn kẽ ra phết chứ chẳng chơi!
Ăn xong, hai đứa kiếm một phiến đá lớn ngay cạnh khe nước đánh một giấc dài lấy lại sức sau một đêm thức trắng đã vắt kiệt cả sức lực lẫn tinh thần.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Phung QA

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
26/1/19
Bài viết
21
Gạo
0,0
Chương 11: Ngôi Đền Đá


Chúng tỉnh dậy, bắt đầu chuyến hành trình trở về khi mặt trời đã lên quá đỉnh đầu.
Thân thể sau mấy ngày bụi bặm, hôi hám được gột rửa sạch sẽ, tâm hồn lâng lâng thư thái, trời xanh nắng nhẹ, gió ngàn hây hây đưa đẩy, chúng khoan khoái lên đường. Cứ thong thả theo đường cũ mà đi.
Khung cảnh rừng già quen thuộc lại lần lần bao bọc, ôm ấp lấy chúng. Bốn năm ngày quanh quẩn trong màu trắng tang tóc, lạnh lẽo của Rừng Chết, làm chúng giờ đây thấy màu xanh ngằn ngặt của rừng U Linh vẫn còn gần gũi thân thiện chán!
Những rừng cây đại thụ khổng lồ, thâm trầm vươn cao hun hút, nối tiếp nhau nghiêng mình đón chào những người chiến thắng trở về; lá xanh khua xào xạc, rỉ tai nhau truyền đi lời ca ngợi những chiến công. Muôn tán đan xen kết thành vòm rừng bất tận, thi thoảng mới chừa ra một khoảng trống hiếm hoi cho chút nắng vàng dọi xuống, lấp lánh như rắc bạc trên nền đất tơi mịn. Rừng xa, vọng tiếng chim quyên tha thiết gọi bầy; lá mục, êm đỡ những bàn chân trở về trong náo nức.

Chiều chiều, vì đã thuần thục việc dựng sàn; hơn nữa, không chắc cánh rừng U Linh này còn giấu giếm những loài dã thú kì quái gì nữa có thể xuất hiện, nên hai đứa vẫn cẩn trọng, dựng sàn trên cao để ngủ cho chắc ăn.
Đường về đã rành, lại chẳng còn phải dò dẫm lần tìm dấu vết như lúc đi, nên chúng đi khá nhanh. Hết ngày thứ hai chúng đã về gần tới cái thung lũng mọc đầy thứ nấm đỏ quái dị mà được Đan ưu ái đặt cho cái tên - Thung lũng Máu. Còn thằng Xít thì lại có vẻ khoái cái tên "Thung Gà Nướng" hơn.
Sau khi bàn bạc, chúng quyết định đi xuôi xuống, hơi chếch về phía Tây Nam để tránh phải đi qua cái thung chết tiệt ấy, rồi sau đó sẽ vòng lại bắt về đường cũ.
Tới chiều ngày thứ ba, lúc mặt trời đã ngả về tây, nhuộm sắc vàng đồng rực rỡ, phủ kín đường chân trời, hai đứa vẫn chưa dừng chân. Chúng dự tính đi rốn thêm một đoạn nữa sẽ tìm chỗ ngủ qua đêm là vừa.
Nhưng vừa đi được một đoạn, rẽ qua một khúc ngoặt bị che khuất tầm mắt bởi những đám dây leo Liên thảo rậm rì từ trên cao thả xuống tựa như một bức vách xanh ngắt, bỗng hai đứa giật bắn mình. Ngay sau chỗ rẽ, cách chưa đầy chục bước chân, một khối trắng lóa mắt hiện ra, đứng sừng sững ngay ở đó.
Sau một khắc hoảng hốt bình tĩnh lại, Đan và Xít nhận ra đó chính là con Chim Trắng. Chẳng biết nó đứng ở đó tự lúc nào, hiện thân nguyên hình là một con chim trắng cực lớn, cao hơn hẳn hai đứa một tầm với, đang nhìn xuống chúng với cặp mắt long lanh như hai khối ngọc bích. Làn sương khói nhè nhẹ vẫn tỏa ra từ dưới lớp lông trắng muốt, nhìn nó như thể đang đứng bồng bềnh giữa không trung, sắp tan ra thành đám sương nhẹ bay lên. Giữa rừng già tối sẫm con Linh Điểu nổi bật như một đóa hoa lộng lẫy, khổng lồ. Chiếc đầu nhỏ thanh thoát vươn cao, ánh mắt uy nghiêm đường bệ khác thường. Xít một lần nữa lại khẽ giật mình thảnh thốt. Ánh mắt ấy đang khẽ lay động, như muốn nói một điều gì đó, y như cái đêm trong Rừng Chết, nó đã nhìn Xít.
Lấy lại bình tĩnh, hai đứa cung kính chắp tay cúi đầu hướng về phía con linh điểu.
- Dường như Nó muốn chúng ta lại gần? - Xít nhìn vào đôi mắt con Linh Điểu nói khẽ, rồi bước lên tiến về phía trước.
Lưỡng lự một lát, rồi Đan cũng bước theo.
Con chim Trắng có vẻ hài lòng, đứng im phăng phắc. Chờ hai đứa tới sát gần, nó mới khẽ kêu lên "Khột! Khột!" hai tiếng, rồi xoay người bước về bên trái, vừa đi nó vừa khẽ nghiêng đầu quay lại nhìn.
Dáng đi của nó thật thanh thoát, uyển chuyển: cái đầu ngẩng cao, hai cánh ép lại cong vút sau lưng. Từng bước chân mềm mại đặt xuống, duyên dáng, đường bệ như những bước chân của loài hạc.
- Có vẻ nó muốn chúng ta đi theo? - Đan nói.
- Ừ, có lẽ vậy! Chúng ta cứ thử đi theo xem sao? - Xít đáp, rồi hai đứa lò dò bám theo, lòng mông lung chẳng hiểu con Linh Điểu đang dẫn mình đi đâu. Lối này nghe chừng cây cối có vẻ rậm rạp, âm u hơn lối chúng chọn nhiều.
- Chúng ta sắp dấn thân vào cái gì đây? Nhìn ánh mắt nó, việc này có vẻ hệ trọng lắm! - Đan thì thào, khi hai đứa đi sát bên nhau trong rừng chiều mỗi lúc một sẫm dần.
- Chẳng biết được! Nhưng dù gì chúng ta cũng cứ đi, hãy cứ tin vào nó! - Xít nói quả quyết - Nó đã từng cứu mạng chúng mình! Giờ mình sao có thể chối từ những gì nó mong muốn? Mà chắc gì đã phải chuyện dữ? Đừng vội lo lắng!
Đi được một quãng thì bỗng con chim nhún người bay về phía trước. Sải cánh trắng muốt căng ra, người nó lướt đi là là trôi êm cách mặt đất chừng nửa sải tay, như thể bên dưới có dòng nước nhè nhẹ đưa nó đi vậy. Kỳ lạ là vừa bay, thân hình nó vừa thu nhỏ lại trong chớp mắt, thoáng chốc đã chỉ còn cỡ bằng con chim công, nên chẳng hề vướng mắc vào bất cứ thứ gì. Bay một quãng khá dài nó mới nhẹ nhàng đáp xuống như chờ đợi hai đứa đi theo. Rồi cứ thế, nó cứ bay lên trước lại đứng lại, vừa chờ đợi vừa dẫn đường. Bóng chiều càng lúc càng nhạt nhòa, nhưng điều đó chẳng gây khó khăn gì cho việc theo vết con chim. Vì thật kỳ lạ, trời càng tối thì bộ lông của con Chim Trắng càng sáng rực lên như ánh bạc lấp lánh, tựa cái đêm nó đã xòe cánh che chở cho hai đứa ở trong Rừng Chết. Trong bóng tối dễ dàng nhận ra nó từ cách xa cả dặm, nên chẳng lo mất dấu.
Khoảng rừng con Chim trắng dẫn chúng xuyên qua càng vào sâu cành trở lên âm u, hoang lạnh. Khắp bốn bề không một tiếng chim tiếng thú; không khí u tịch, rờn rợn. Đan và Xít bất giác đi sát lại gần nhau hơn. Trong màn tối loang lổ những hàng cổ thụ đứng vặn vẹo, uốn éo dọc lối đi tựa những hình nhân khổng lồ đầu tóc xõa xượi, chùm khăn phủ kín, sắp rùng mình nhảy lên múa may; vươn thân cành cong queo như những cánh tay lều nghều, xương xẩu ra túm lấy chúng. Ánh trăng nhợt nhạt tái mét như làn da một thây ma, lỗ rỗ xiên qua kẽ lá, càng tô điểm cho màn nhảy múa thêm ma quái.
Đột nhiên, một tiếng hú ghê rợn thét lên như sấm động từ trong rừng đêm phát ra, xé toạc màn đêm yên tĩnh; một tiếng thét chấn động vang vọng khắp không gian. Không bảo nhau, Đan và Xít cùng ngã nhào nằm ẹp xuống đất. Tiếng thét quá ghê sợ, vừa lớn vừa kỳ quái, chưa từng nghe thấy bao giờ.
Một không khí ghê rợn lan tỏa, rừng núi chung chiêng; cây cối xào xạc, rùng mình, bủn rủn. Tiếng thét ấy, như từ một chiếc cổ họng khổng lồ gào lên giữa rừng vắng. Một tiếng duy nhất rồi im bặt, nhưng âm vang rờn rợn của nó còn vang vọng mãi, dường như đủ ghê rợn để làm đông cứng cả bầu không gian mênh mang của rừng già, khiến vạn vật phải đứng im, không thứ gì dám cử động.
Con Chim Trắng vụt bay vào rừng sâu mất hút.
Đan và Xít nằm im thít đến thở cũng chẳng dám thở mạnh. Tiếng thét khủng khiếp vừa rồi là cái gì? Chúng chịu chẳng biết, chưa từng nghe thấy cái gì đáng sợ như vậy. Xít hơi hoang mang. Con Chim trắng đã biến mất, chúng phải làm gì bây giờ? Nhưng trong lòng nó vẫn không hề oán trách con Chim Trắng, chắc chắn phải có điều gì đó bất thường đang xảy ra.
Đang miên man suy nghĩ, chợt hai đứa nghe có tiếng "gù!! gù!!"
Ngẩng đầu lên đã thấy con Chim Trắng đang đứng ở ngay gần đó, chỉ cách chỗ cũ vài bước, cứ như nó chưa hề biến đi đâu vậy. Hình tích con chim này quả thật biến ảo khôn lường, làm hai đứa có phần yên tâm đôi chút.
Con chim trắng nhìn về phía hai đứa, cái cổ phập phồng phát ra tiếng gù gù như khẽ gọi. Vẫn chưa hết bàng hoàng, kinh hãi với tiếng thét vừa rồi, thoáng chút phân vân, rồi hai đứa cùng nhỏm dậy bước tới. Con Chim Trắng dẫn chúng đi thêm chừng hơn trăm bước rồi dừng hẳn lại, đứng yên bất động nhìn thẳng về phía trước. Đan và Xít bước tới gần, chúng tròn mắt nhìn.
Ngay trước mắt chúng, giữa rừng già quây kín xung quanh hiện lên một khoảng đất trống quang đãng, bằng phẳng, tròn vành vạnh. Khoảng trống đó rất rộng, mỗi chiều phải vài trăm bước chân, thênh thang nằm giữa rừng già cô tịch, dưới ánh trăng nhàn nhạt mờ ảo. Không có bất cứ một thứ cây cỏ gì mọc trên đó, nhưng kỳ lạ là, ở ngay chính giữa khoảng trống ấy mọc lên ba cây đa cổ thụ cực lớn, ngọn vươn chót vót; ba cái tán khổng lồ kết lại như một quả đồi đứng lơ lửng giữ không trung, phủ một vành tròn đen ngòm lên khoảng đất. Từ giữa tán lá chúng thả hàng ngàn chiếc rễ chằng chịt, to như bắp chân cắm xuống đất, tạo thành một khu rừng nhỏ dày rịt, kín như bưng bao quanh ba cái gốc lực lưỡng đen trũi. Và ở giữa đám rễ bịt bùng, chằng chịt ấy có một tòa tháp đá hình tròn, phía trên đỉnh mum múp thu nhọn lại như mũi giáo, nhìn nửa giống một ngôi đền thờ cổ xưa, nửa giống một cái nhà mồ khổng lồ, được ghép bằng những khối đá xù xì, rêu phong, kín mít cao chừng bốn năm sải. Tòa tháp đá nằm cuộn tròn giữa đám rễ như một cái kén. Phía trước tháp đá ấy có hai cây cột trụ bằng đá cũng được xếp đặt một cách thô kệch, to cỡ hơn vòng tay, trên đỉnh đặt hai khối đá lớn chạm trổ vằn vện có sừng cong vểnh lên, nhìn như hai chiếc đầu trâu vừa được cắt cổ đặt lên, lưỡi vẫn còn thè lè.
Đan và Xít cau mày nhìn nhau, không hiểu con Chim Trắng dẫn chúng tới giữa nơi rừng vắng, kỳ quái này để làm gì?
Chúng còn đang thắc mắc, thì bỗng thấy con chim trắng vươn cao người bước ra giữa khoảng đất trống. Cái đầu thanh tú hơi ngửa lên; đôi cánh bạc như hai làn mây mềm mại ôm vòng ra phía trước. Toàn thân nó chợt như cao vụt hẳn lên, tỏa sáng lấp lánh ngùn ngụt, uy nghi lộng lẫy vô cùng dưới ánh trăng bàng bạc, lai láng. Nó bước tới, với những bước đi thanh thoát uyển chuyển nhất mà Xít từng được thấy trên đời: cái cổ chân bẻ cong như chân hạc, mềm mại xoải ra đặt xuống nhẹ như lá; xoay tròn, từng bước tiếp bước quấn lấy nhau, như sải trong một điệu vũ, mắt thường không thể nào theo kịp. Cái ngực trắng toát của nó căng lên kiêu hãnh, cùng đôi cánh cong vút từ từ dang rộng đưa lên qua đầu, toàn thân nó như một làn sương bạc cuốn tròn chuẩn bị bay lên. Con chim đang múa, một điệu múa tiên giới kỳ lạ và đẹp đến mê hồn. Chẳng biết tự lúc nào Đan và Xít cùng ngẩn người ra ngắm nhìn, quên bẵng cảnh vật xung quanh, chưa bao giờ chúng nhìn thấy cái gì đẹp đẽ đến vậy, nó còn mê mẩn hơn cả màn sao băng rơi trong Rừng Chết.
Chỉ đến khi con Chim Trắng dừng lại với cái đầu cúi thấp như nghiêng mình kính cẩn bái lạy, những chiếc lông vàng trên đỉnh đầu rung nhè nhẹ như một đóa hoa, hai đứa mới chợt sực tỉnh. Đột nhiên Xít nghe Đan thì thào sát bên tai "Nhìn kìa!" Xít nhìn theo hướng tay chỉ, nó trố mắt sững sờ.
Theo hướng tay Đan chỉ, cả hai cùng kinh ngạc khi thấy trên mặt tường đá tối xẫm của cái tháp có một nét xanh mờ, rất mảnh đang dần hiện lên, vẽ một đường cong hình dáng tựa như khuôn một cái cửa. Nó được tạo lên bởi một thứ ánh sáng nào đó từ phía sau những phiến đá phát ra. Thứ ánh sáng ấy cứ lóe lên rồi lại lịm dần mờ đi, rồi lại lóe lên, lập lòe như bụng một con đom đóm. Kỳ lạ là, Con Chim Trắng càng tới gần thì cái nét sáng xanh ấy càng lúc càng sáng rõ, lấp lánh như đường gân của những tia chớp. Rồi chẳng mấy chốc một khung cửa hình vòm sáng rực lên, nổi bật trên mặt đá.
Cánh rừng im phắc não nề bỗng như vừa trở mình thở phì. Hơi gió lào xào nổi lên. Đột nhiên như tỉnh ra, Xít nói: "Nó muốn chúng ta vào cái cửa đó! Chắc chắn đó là lý do vì sao nó dẫn chúng ta tới đây!" "Dường như là thế!" - Đan lẩm bẩm.
Hai đứa liền đặt túi xuống đất, chạy lại trước cái viền sáng ấy. Hơi do dự vì không biết phải mở cánh cửa đó bằng cách nào, Xít quay lại nhìn con Chim Trắng như tìm lời mách bảo, nhưng con chim chỉ nhìn nó chăm chăm. Đang phân vân, chưa nghĩ ra được gì thì Xít đã nghe cái "rầm!" Đan vừa giơ chân tống thẳng một đạp vào cái cửa. Kỳ lạ, cái cửa đổ sụm xuống một cách dễ dàng, rơi lăn lóc ra thành một đống đá vụn. Những viên đá to bằng nửa nắm tay, cạnh vẫn còn mờ mờ ánh sáng xanh nhạt. Xít vung dao chặt nốt mấy sợi rễ buông kín trước cửa. Chẳng còn gì phải đắn đo, hai đứa khẽ lách mình qua cái khe hẹp bước vào trong. Bên trong là một căn phòng rộng hình tròn có chóp mái nhọn, cao khoảng bốn sải, tường đá bao quanh thô ráp, xù xì; không gian lớp nhớp ẩm ướt. Những chiếc rễ đa ăn xuyên qua tường, phình ra to như bắp đùi, bò lan ra đan nhằng nhịt khắp căn phòng. Ngay chính giữa căn phòng có một chiếc bệ đá lớn hình tròn cao ngang bụng, trên đó đặt một khối đá lớn xù xì, cao gần sát tới nóc. Xung quanh bệ đá có những cây cột nhỏ cắm cách đều nhau, trên mỗi đầu cột đều đặt một cái đĩa đá, trong đó sền sệt một thứ chất lỏng gì đó có màu đỏ sẫm vẻ như máu, đã khô quánh lại trên đáy đĩa.
Đi qua cái cửa vào bên trong, chỉ cách nhau một bước chân, nhưng bên trong căn phòng là một bầu không khí khác hẳn: im phăng phắc, nặng nề đến ngộp thở. Nó im tới mức hai đứa bỗng nghe rõ tiếng tim mình đập từng hồi, vang dội như tiếng cồng trong lồng ngực. Tiếng thở dù đã cố giữ nhẹ nhàng, chậm dãi mà sao cứ nghe rít váng lên ồ ồ.
Và một điều kỳ lạ khác là, không hiểu sao vừa bước vào là chúng có ngay cảm giác, có một đôi mắt bí ẩn nào đó rờn rợn bám dính sau gáy đang chằm chặp dán vào chúng, theo sát từng cử động. Theo cùng là một cảm giác tù túng, giam hãm đặc sệt ở nơi đây, như thể đã qua lớp lớp thời gian, không khí giam hãm tù đọng nơi đây đã lắng đọng, tích tụ trong cái mồ đá này đặc quánh đến có thể quết được ra trên đầu ngón tay.
Thứ ánh sáng duy nhất soi sáng trong căn phòng đá lờ mờ này chính là cái ánh sáng xanh nhạt kia, phát ra từ một điểm nào đó mé bên kia của tảng đá.
Chẳng hiểu con Chim Trắng muốn hai đứa vào đây để làm gì? Trong này ngoài những thứ kỳ cục và sơ sài như vậy, chẳng còn gì khác. Kiềm nén cái cảm giác nhột nhạt, rờn rợn đang rí rách bò khắp cơ thể, hai đứa rón rén đi trên nền đất ẩm lổm ngổm đầy rễ đa bò chồng chéo, vòng qua bên kia cái bệ. Cứ mỗi bước đi chúng lại càng cảm thấy rõ rệt hơn, có ánh mắt nào đó đang dán chặt vào mình.
Bước gần tới chỗ ánh sáng xanh nhạt phát ra, vừa ngước nhìn lên Đan bỗng giật bắn người suýt hét lên. Một khuôn mặt to như cái bồ quái dị, dữ tợn từ trên cao đang cúi xuống, dí sát vào mặt nó. Giật mình lùi lại tựa vào người Xít, rồi Đan cũng nhận ra đó chỉ là một khuôn mặt cứng đơ bằng đá, nhập nhòa trong thứ ánh sáng xanh lúc mờ lúc tỏ từ dưới hắt lên. Lùi lại nhìn kỹ, hai đứa nhận ra tảng đá nằm giữa căn phòng thực ra là môt bức tượng đá có hình dáng y như một con vượn khổng lồ đang ngồi khoanh chân trên chiếc bệ, cái lưng cong gập xuống, trên hai bả vai bè bè là một cái đầu lớn có khuôn mặt quái dị, trông vô cùng nanh ác, nửa người nửa quỉ: hai mắt nó như bát tô lớn trợn trừng lòi ra ngoài, đang trừng trừng nhìn chúng; ở giữa mặt bằng trịn, chẳng có mũi miếc gì cả, còn bên dưới là một cái miệng mà hai hàm cũng gần như lồi hẳn ra khỏi mặt, chìa ra những chiếc nanh nhọn hoắt nham nhở; phủ trên đầu là một cái bờm bù xù, chảy dài ra sau lưng như đám rễ cây. Đôi tay bức tượng đá thả thõng xuống, hai bàn tay đan vào nhau để ngay trước cái bụng chình ình phưỡn ra. Và có một vật gì đó phát sáng lập lòe ở ngay chính giữa hai bàn tay đó. Xít và Đan cùng thận trọng bước tới gần xem vật đó là gì, và cả hai vô cùng ngạc nhiên khi thấy nằm gọn giữa những ngón tay đá đan bọc lại ấy cũng là một bức tượng chạm bằng ngọc, cao cỡ chỉ gần gang tay. Chẳng biết bức tượng được tạo ra từ thứ đá gì hay có phép màu nhiệm gì mà có thể phát ra luồng sáng mạnh như thế? Kỳ lạ là, những ngón tay đá này đan vào nhau rất khít, không ai có thể cho một bức tượng như thế vào giữa hai lòng bàn tay. Nhìn những đầu ngón tay đá đang bồi dần dính vào nhau, Xít rùng mình: "Hay thứ đá này có thể mọc ra như đang... sống?" Ý nghĩ đó thực sự làm Xít cảm thấy nổi gai ốc liên tưởng đến ánh mắt có thể liếc nhìn trên kia. Và điều đặc biệt nữa là bức tượng ngọc này cũng chạm hình một người đang ngồi khoanh chân để tay trước bụng, cái bụng cũng phình ra to tướng. Chỉ có điều bức tượng này chạm một ông già mặt mũi nhìn rất hiền hậu, miệng mỉm cười vui vẻ, khác hẳn với vẻ kỳ quái dữ tợn của bức tượng đá trên bệ.
- Chả lẽ đây là thứ con Chim Trắng muốn ta lấy cho nó? - Đan nhìn Xít dò hỏi.
- Chắc chắn là thế! - Xít trả lời quả quyết - Thứ này trông hoàn toàn chẳng phù hợp gì với nơi này. Và nó cũng là thứ duy nhất ta có thể mang ra.
- Trông nó dường như bị giam hãm giữa những ngón tay này vậy!
- Thôi khỏi cần bàn cãi! Ta cứ mang nó ra khỏi đây đã. - Xít nói.
Cũng lại Xít chưa kịp nói dứt lời, Đan đã lách tay vào tìm cách nhấc bức tượng ngọc lên. Nhưng đâu có dễ, bàn tay có thể lùa qua những cái khe, nhưng khi nhấc lên thì vướng cả tay lẫn tượng không rút ra được. Đan cứ loay hoay lựa đủ cách mà không sao lấy được bức tượng ra, rồi chợt nó khẽ kêu lên lo sợ:
- Sao thế này?
- Gì vậy? - Xít hỏi, không hiểu có chuyện gì.
- Tớ không thể rút tay ra! - Đan khẽ nói - Vừa rồi mới cho tay vào còn rộng. Hình như bàn tay đá này đang nắm lại! - Đan kêu lên hoảng hốt.
Bất giác Xít ngửng lên nhìn bức tượng đá, dường như có gì đó khang khác vừa thay đổi trên khuôn mặt đó. Một ý nghĩ đáng sợ vụt lóe lên trong đầu, Xít vội rút con dao ngắn bằng thép thiêng bên cạnh sườn ra. Quả thật cái khe Đan vừa cho tay vào, giờ kỳ lạ đã như vừa bóp lại.
Không do dự, Xít lách mũi dao vào giữa rồi bẩy thật mạnh, nhưng chẳng ăn thua, thứ đá này rất cứng. Xít lách qua lách lại đều không ổn. Nó thấy rõ những giọt mồ hôi bắt đầu lấm tấm trên trán Đan. Ngoài kia, tiếng "Khột! Khột!" của con Chim Trắng bất ngờ lại vang lên vẻ như giục giã. Không còn cách nào khác, đưa mũi dao vào giữa hai ngón tay mỏng nhất theo kiểu đòn bẩy, lấy hết sức, Xít chặt cạnh tay xuống cán dao. "Cách!" một tiếng khô khốc vang lên, ngón tay đá gãy làm đôi, mũi dao quá đà trượt lên tạo thành một vết xước nhỏ trên vai bức tượng ngọc. Đan vội nắm lấy bức tượng kéo ra. Không chần chừ, hai đứa lập tức rời khỏi căn phòng.
Vừa bước qua cửa, chúng đã thấy con Chim Trắng đứng xa xa bên rìa bãi đất trống, đang nghển cao đầu, ráo rác nhìn về phía rừng đêm u tối phía sau ngôi đền; ánh mắt, dáng vẻ đầy bồn chồn. Bất chợt một cơn gió từ rừng xa ào tới, khua cành lá cuốn lên dào dạt như một cơn giông; lông cánh trên người con Chim Trắng cũng bời bời cuộn lên. Nó cất tiếng "Khột khột!" lần nữa như rất sốt sắng, giục giã hai đứa. Đan và Xít vội chạy tới, đưa bức tượng ra trước mặt con Chim Trắng. Ánh mắt con Chim Trắng long lanh sáng rực lên, tỏ vẻ mừng rỡ vô cùng, nhưng ngay sau đó nó quay người bay vụt đi vẻ rất vội vã làm Đan và Xít đứng ngẩn ra chưng hửng, chẳng hiểu thế nào. Linh cảm có chuyện chẳng lành đang đến, phải khẩn cấp rời đi. Xít quyết định chớp nhoáng, nó dốc ngược cái túi đổ hết ra ngoài, rồi nhanh tay nhặt một vài thứ gọn nhẹ cần thiết cùng bức tượng ngọc đút vào túi, rồi khẽ giục Đan: "Chạy thôi! Càng nhanh càng tốt!" Đan lập tức nhặt túi và cây lao lên, hai đứa không bảo nhau cùng phóng vọt đi như hai con hoẵng.
Chạy một đoạn chúng đã thấy bóng con Chim Trắng thấp thoáng phía trước. Nó cứ bay một đoạn lại dừng lại vừa chờ đợi vừa nghểnh cao đầu lên nghe ngóng gì đó. Rừng đêm hoang lạnh, ánh trăng nhạt nhòa lốm đốm soi lối. Hai đứa mải miết chạy, đã vấp ngã mấy lần đau điếng mà dường như con Chim Trắng chẳng hề có ý định bay chậm lại. Nó cứ miệt mài bay trước mỗi lúc một xa, như muốn giục hai đứa chạy nhanh hơn.
Đang chạy, chợt Đan để ý lắng nghe, dường như đâu đó thi thoảng có những tiếng lạch xạch rất khẽ vang lên trên những tán lá sau lưng chúng, lúc xa lúc gần. Vừa thở hổn hển Đan vừa quay sang hỏi Xít: "Cậu có nghe thấy tiếng gì không?" "Không... tớ chẳng nghe thấy gì cả." Xít đáp lại như mất hơi, vừa nói nó vừa quay lại nhìn phía sau. Không, rừng đêm vẫn im lìm, yên ắng chẳng có gì phía sau lưng chúng. Hai đứa tiếp tục bám đuổi theo con chim. Nhưng chẳng bao lâu sau, cái âm mà Đan nghe thấy lúc trước mỗi lúc một rõ dần, lần này xen vào giữa những tiếng lạt xạt của lá cây là những âm thanh chíu chít rất khẽ lúc được lúc mất, nhưng rất rõ không thể nhầm được. Lần này thì ngay cả Xít cũng tỏ rõ sự lo lắng khi nhìn lại phía sau. Dù vẫn chẳng thấy gì, nhưng những âm thanh kia thì không thể chối cãi. Những tiếng lạch xạch, chíu chít cứ mỗi lúc một mau một nhiều và áp tới gần hơn, như thể giữa rừng đêm sau lưng đang có cả một đàn rơi bạt ngàn đang chen chúc ào ào bay tới, ngàn vạn đôi cánh xương xẩu chập choạng quẹt vào cành lá khua rừng đêm rào rạt. Một cảm giác gai lạnh chạy dọc sống lưng hai đứa, chúng cố căng mắt ra quan sát phía trước, dướn người chạy nhanh hơn. Nhưng dù chúng chạy nhanh thế nào những âm thanh ríu rít kia vẫn ào ào ập tới, từ khắp bốn phía như cơn sóng dồn, áp sát sạt sau lưng. Kỳ lạ, rừng đêm nhập nhòa vẫn không hề thấy một cái bóng.
Bỗng Đan hét lên, kéo Xít ngã rạp xuống. Con Chim Trắng bất ngờ bay ngược chiều như một mũi tên, lướt vút qua đầu hai đứa. Cách sau lưng hai chục bước, nó đâm bổ xuống đất đứng khựng lại, rồi bất ngờ ngực ưỡn vươn cao, xòe đôi cánh vũ lộng quạt mạnh về phía trước; đôi mắt nó quắc lên như tóe lửa. Từ đôi cánh rộng tỏa ra một làn bụi li ti lấp lánh, cuộn lên trào dâng thành một khối sáng mờ ảo. Đan và Xít giật mình kinh hãi. Ánh sáng từ đám bụi tỏa ra, soi rõ hàng trăm chiếc đầu lâu không biết từ đâu bỗng hiện lên, bay lượn lơ lửng giữa không trung; chúng lúc nhúc loi choi như một bầy chuột bị nhét trong cái lồng. Những chiếc đầu lâu quái dị: nhỏ như những chiếc đầu khỉ phơi khô quắt, bọc lớp da đen đúa, dăn dúm. Cũng như cái đầu trong ngôi đền đá, chúng không mắt, không mũi chỉ có những chiếc mõm nhọn vẩu ra, chìa những chiếc răng nhọn tua tủa đang cạp cạp đầy vẻ ghê tởm, hung hăng; sau gáy chúng là một mớ tóc dài nhớp nháp như mớ giẻ, đen đúa bay uốn éo.
Quầng sáng vừa lóe lên, những cái đầu lâu ma quỉ ấy ré lên kinh hãi; đám bụi li ti bung ra quyện lấy, bám vào da mặt chúng thiêu đốt như tàn lửa, làm chúng đau đớn nhăn nhúm lại, rồi cháy dụi tan biến trong không khí. Những chiếc đầu còn lại cuống cuồng bay vọt lên, quay đầu bỏ chạy toán loạn; những mớ bờm đen như làn khói uốn lượn, phất phới bay theo. Dường như chúng là loài nô bộc của đêm tối, máu thịt hôi hám của bóng đêm... Nên vừa bay khỏi vùng bụi sáng lấp lánh, dù ánh trăng vẫn còn mờ mờ, chúng bỗng tan biến, trở lên vô hình vô ảnh trong không khí, chẳng còn thấy một bóng dáng nào, chỉ còn những tiếng chí chít vang lên ở khắp nơi. Nhưng ai cũng biết, chúng đang lúc nhúc đầy cả khu rừng này.
Đan túm vai Xít kéo mạnh, kêu lên: "Còn nhìn gì nữa? Chạy mau! Con Chim đang cản đường cho chúng ta đấy!" Xít vội chồm dậy, ôm sát túi vải có bức tượng vào cạnh sườn lao theo Đan, giờ thì nó đã hiểu, dù còn lờ mờ, rằng bức tượng này quan trọng thế nào. Hai đứa cứ nhắm thẳng hướng trước mặt mà lao tới. Thật kỳ lạ, dù mặt đất gập gềnh, nhấp nhô; bụi rậm, cành rễ đan cài nhằng nhịt, nhưng chúng chẳng hề vấp ngã một lần nào. Chúng chạy ào ào trong đêm tối, nhảy vọt qua những rễ cây, cắt ngang qua những bụi rậm. Đôi bàn chân vừa như mọc mắt, khéo léo đưa chúng luồn lách, tránh né vượt qua tất cả.
Nhìn quầng sáng phía sau thỉnh thoảng lại nhoáng lên, Đan và Xít hiểu rằng, con Chim Trắng đang ra sức cản đường cho chúng rút chạy. Nhưng sau mỗi lần nhoáng lên, cái quầng sáng ấy lại mờ dần, nhợt nhạt hơn đi. Chợt một tiếng rít the thé vang lên như xoáy vào màng nhĩ hai đứa, ngay sát sau gáy. Đang chạy, bỗng Đan kêu thét lên ngã lăn ra đất, cánh tay và bả vai nó bỗng như có hàng ngàn cây kim đâm xuyên vào tận xương, lạnh buốt đau thấu gan. Quay nhìn qua vai, Đan hoảng hồn, trên cánh tay nó có một mớ tóc đen ánh, nhỏ như tơ đang quấn chặt lấy. Những sợi tơ đen ánh ra sức ngoáy sâu, chui vào da thịt nó; lơ lửng phía trên là một cái sọ ma quái xanh lè, ửng sáng, bộ mặt hung tợn ấy đang bay vèo vèo nhặng xị. Theo bản năng, Đan vùng vẫy thật mạnh, hòng rũ bỏ cái thứ ghê tởm ấy ra khỏi cánh tay. Nhưng đó chỉ là một hành động vô ích, càng rũ mạnh thứ tơ tóc ấy càng bết lại, bùng nhùng quấn chặt thêm vào cánh tay nó. Ở ngay cạnh, chẳng biết giúp bạn bằng cách nào, Xít chỉ còn biết vung chiếc túi quay tít, đập bừa vào cái sọ. Nhưng cái túi như đập hụt vào nơi trống rỗng, trượt đi vô vọng, chẳng va chạm vào bất cứ cái gì. Cái sọ ấy như một bóng ma, vẫn cứ hiển hiện ngang nhiên giữa không khí. Chẳng còn cách nào, Xít cứ quay tít cái túi, đập túi bụi. Chợt cái sọ kêu ré lên trước khi vỡ ra tan như một bụm khói, kéo theo những sợi tơ tóc cũng tan biến. Cái túi trong tay Xít vừa rồi chợt sáng lên xanh ngời.
Xít nhào tới kéo Đan đứng dậy, hỏi:
- Cậu có sao không?
- Tớ không sao! - Đan cắn răng, ráng chịu đau nói.
- Còn chạy tiếp được không? - Xít lo lắng hỏi.
- Được! Cái vai chỉ râm ran chút thôi! - Đan đáp cho bạn yên tâm.
Xít cúi xuống vừa định ghé vai đỡ bạn dậy chạy tiếp, bỗng nó chợt nhận ra điều gì đó. Nhìn lại phía sau nó thảnh thốt hỏi:
- Con Chim Trắng đâu nhỉ?
Quả thật vừa rồi, trong một lúc chúng không còn thấy những quầng sáng yếu ớt nhoáng lên nữa.
Rồi chẳng đợi Đan trả lời, nó vội nhảy vọt lên phóng quay trở lại. Đan hớt hải chạy theo. Vừa chạy Xít vừa lo ngại lia mắt khắp nơi tìm kiếm. Chạy được một đoạn thì đúng như nó lo sợ. Con Chim Trắng đang rã xoãi cánh, nằm rệp dưới một gốc cây. Bộ lông nhợt nhạt chuyển sang mờ xám, nó đang cố gắng gượng, chống đỡ một cách vô vọng. Xung quanh nó hàng trăm cái đầu lâu đang bu lại cắn xé, như một bầy giòi đen ngòm bâu vào một cái xác.
Điên giận, cả Đan và Xít cùng lao thẳng tới, lăn xả vào vung túi đập túi bụi. Những cái đầu quái dị bay vọt lên, chạy tán loạn. Chúng rít lên the thé, lượn qua lượn lại vèo vèo như một đám nhặng xanh nuối tiếc thèm khát máu tanh. Được giải thoát, con Chim Trắng cũng ập tức vươn mình đứng lên, mổ bùm bụp vào bóng đêm. Những tiếng kêu thét vang lên chói lói.
"Chạy đi!" lần này là tiếng Xít hét vang. Nó chạy trước vung chiếc túi sáng xanh mở đường, giờ thì nó đã biết tác dụng của pho tượng: khi nó sáng lên thì những cái đầu bị đập trúng đều phải hiện thân, vỡ nát hoặc sợ hãi bỏ chạy. Đan chạy ngay sau lưng Xít cũng vung túi đập bừa, dù phần lớn nó chả nhìn thấy gì, chỉ đập hú họa. Con Chim Trắng thì hết bay ra đằng trước lại vút ra đằng sau, đan tới đan lui, dùng mỏ mổ tới tấp. Giờ nó chỉ còn sự lanh lẹ và uy vũ của một con Linh Điểu chứ chẳng còn linh khí để tỏa ra những màn bụi tinh ngân kỳ ảo trấn áp, tiêu diệt lũ đầu lâu ma quái kia nữa.
Cứ thế vừa đánh vừa chạy, cả ba đã chạy được một quãng đường khá dài. Chân Xít rã rời nặng như đeo đá, chiếc túi vung lên cũng chẳng còn sức nữa. Đằng sau nó, bước chân của Đan cũng chệnh choạng dần dần tụt lại, hơi thở khò khè đứt quãng. Xít lùi lại xốc vai bạn dướn lên. Nó cố vung tay lên đập tứ phía, nhưng cái cánh tay chẳng còn chịu nghe lời, không vung nổi quá ngang vai. Sức lực nó gần như đã cạn kiệt. Mồ hôi hai đứa vã ra như tắm, chúng chẳng còn sức mà chạy nữa, những bước chân nặng trĩu bắt đầu xiêu đi, nghiêng ngả. Tiếng chí chít vẫn dai dẳng rình rập vây quanh. Duờng như chúng chỉ chực chờ cả ba kiệt sức, quị xuống để bày ra một bữa tiệc máu me cho thỏa thê.
Bỗng một tiếng gào kinh hồn thét lên, từ rừng xa vang vọng lại. Vẫn là tiếng thét hồi chiều, nhưng giờ nghe có vẻ gần hơn, đâu đó trong cánh rừng phía sau. Máu trong người Đan và Xít như đông lại, đôi chân rối loạn; chút ý chí, lòng can đảm cuối cùng trong người phút chốc như bị rút cạn sạch.
Chợt ngay lúc đó Xít thấy thân mình nhẹ bẫng, lâng lâng; đôi chân bỗng chốc được giải thoát khỏi sức nặng của cơ thể đè xuống, nhẹ tênh. Rồi thân hình nó bay lên, là là lướt đi trên đầu những ngọn cỏ. Một cảm giác lâng lâng, khoan khoái vô cùng dễ chịu. Xít ngửa mặt nhìn lên. Con Chim Trắng đang quắp hai đứa mang đi. Nhưng khi nhìn con chim Trắng, chợt cái cảm giác khoan khoái của Xít vụt tắt, thay vào đó là một sự áy náy. Con Chim Trắng đang vươn đôi cánh run rẩy, nặng trĩu mang chúng đi, cái đầu chúi xuống trong một nỗ lực quá sức mà nó có thể đảm đương; ánh mắt gắng gượng mệt mỏi chống lại sức nặng đang vít xuống. Chưa hết, trên cánh và cổ nó hàng chục cái đầu lâu đang vục răng xuống cắn rứt, như một đàn ve bám vào hút máu... Để mặc, con Chim Trắng vẫn nhẫn nại sải cánh bay trong đêm tối.
Rồi đột nhiên một luồng gió thốc vào người Xít mát lạnh; không gian bỗng mở òa ra mênh mang... ánh trăng vụt chan hòa rạng rỡ. Thoắt nhiên, con Chim Trắng thoát khỏi rừng cổ thụ, phóng mình ra một khoảng không bao la, vời vợi. Cúi nhìn xuống, bất giác Xít khẽ rùng mình: nó và Đan đang treo mình lơ lửng giữa trời, trên một cái miệng vực sâu hun hút. Mặt đất đột nhiên thụt xuống hàng trăm sải, một bên là vách đá đen xì, dựng đứng và lạnh lẽo, một bên là vùng đất hạ thấp hẳn xuống tựa một bình nguyên. Lấp lánh xa xôi dưới đáy vực sâu là một sợi chỉ bạc uốn lượn nằm nổi bật giữa bóng tối.
Con Chim Trắng bỗng vươn người hớp mạnh một hơi, rồi sải cánh chao nghiêng lượn tròn một vòng, từ từ hạ xuống. Ánh trăng dường như đang tiếp thêm sức mạnh cho nó. Những chiếc lông trắng cứ dần sáng rực lên, đôi cánh dần sải căng mạnh mẽ, toàn thân bắt đầu tỏa ra làn bụi tinh ngân lấp lánh mờ ảo. Đôi mắt con linh điểu lại linh hoạt sáng quắc. Nó rũ mạnh hai cánh, rồi vươn đầu khoan khoái mổ nhanh như chớp vào những chiếc đầu lâu vừa rụng ra đang khiếp hãi tìm đường bỏ chốn giữa không trung. Những tiếng chí chít vang lên thảm thiết, trước khi bị con Chim Trắng bứt ra há mỏ đớp gọn vào họng. Đan và Xít khoái trá ngắm nhìn màn rỉa lông ấy thật đã con mắt.
Con Chim Trắng từ từ nghiêng mình, chúc đầu, thân hình nó lao xuống mỗi lúc một nhanh hơn. Cái vực khá sâu, vách đá xám lạnh chạy hun hút xuống tưởng như bất tận, sợi chỉ bạc dưới đáy là một dòng suối chảy uốn lượn xuôi về phía Đông, đổ xuống một địa tầng thấp hơn nữa thành một ngọn thác nhỏ ở phía cuối vực. Mặt suối tĩnh lặng như gương, soi vầng trăng khuyết long lanh, cong cong như chiếc liềm bạc trôi giữa đôi bờ.
Con Chim Trắng là là hạ xuống, cách mặt nước chừng hơn sải tay, nó thả nhẹ hai đứa vào dòng nước mát lạnh, rồi đáp lên trên một tảng đá lớn ngay gần đó. Đan và Xít vừa đứng xuống đã thấy chân chạm đáy, chúng vịn vào nhau bước lên bờ nằm vật ra đất nghỉ ngơi một lát. Con Chim Trắng cũng nằm ệp trên tảng đá, vươn chiếc cổ dài thon thả xuống dòng nước uống từng ngụm lớn. May sao mà lại có cái miệng vực này, nếu không hôm nay chắc chắn hai đứa và con Chim Trắng khó lòng chạy thoát!
Dưới ánh trăng trong vắt, đáy vực này không hẳn là tối mịt, vẫn có thể nhìn rõ mọi thứ nơi đây. Dòng suối trước mắt không nhỏ như lúc nhìn ở trên cao kia: lòng nó khá rộng, nhiều chỗ mở ra tới hai ba chục sải tay, mà độ nghiêng của đáy cũng khá xoải, nên con suối chảy rất phẳng lặng, hiền hòa. Sát mép bờ bên kia là chân vách đá phẳng lì, đâm lên dựng đứng: hun hút và sắc lạnh, chạy dọc bờ suối như một bức tường vĩ đại. Cả cái vách chỉ toàn đá, không một thứ cây cỏ nào bám rễ nổi trên nó bởi quá cheo leo và chẳng có nổi một cái kẽ nút nào để bám rễ. Ngược lại, bờ bên này lại có một dải đất thoai thoải, thoáng đãng nằm giữa vách đá với mép suối; vách đá bên này khá thấp, gồ ghề xen kẽ cùng sỏi đất, nên cây cối mọc khá um tùm. Thậm chí có cả một rặng những cây Trám trắng, Lim xanh... cổ thụ mọc ngay ở ven bờ, đổ bóng xuống dòng nước lặng.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Phung QA

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
26/1/19
Bài viết
21
Gạo
0,0
Chương 12: Tử Chiến

Vẫn nằm ngửa người, nửa trên cạn nửa dưới nước, nhịp thở đều đều còn chưa kịp trở lại. Chợt hai đứa lại nghe thấy con Chim Trắng khẽ kêu lên một tiếng "Chóc!" khô gọn. Chỉ mới làm quen từ chiều nay, nhưng mỗi lần tiếng kêu ấy vang lên chúng hầu như đều phải đâm đầu chạy chối chết. Nên hai đứa giật thót mình, vội ngồi nhổm dậy đưa mắt ngó nghiêng, quan sát bốn phía. Nhưng chẳng thấy gì. Đáy vực vẫn yên tĩnh im lìm, chẳng hề có động tĩnh gì lạ, chúng chẳng hiểu con chim vừa kêu là có ý gì? Còn đang ngó nghiêng, chợt Đan khẽ bóp vai Xít, mím môi hất hàm chỉ lên đỉnh vực chót vót trên cao. Xít nhìn lên, nó lặng người không nói lên lời. Hai đứa rón rén, bò thật chậm thả mình trở lại dòng nước.
Trên cao, nơi đỉnh mép vực đá đen thẫm vẽ thành một đường dài nham nhở rạch ngang bầu trời đêm vời vợi, một khối gì đó đen kịt như bồ hóng, tựa một đám mây đang từ từ bò ra, đứng lơ lửng trên miệng vực.
Từ trong cái khối đen kịt ấy, dường như có một ánh mắt lạnh lẽo đang chiếu xuống săm soi, tìm kiếm.
Bầu trời chợt thoáng tối sầm; vầng trăng như tái nhợt, run rẩy.
Xít đưa mắt lên bờ tìm con chim trắng. Thật kinh ngạc con Linh Điểu đã biến mất tự lúc nào. Rõ ràng nó vừa mới ở đây mà? Dù có bay nhanh cỡ nào, nó cũng không thể rời đi mà Xít không thấy? Bỗng ngờ ngợ nhìn kỹ lại tảng đá con Linh Điểu vừa đứng, Xít tròn mắt kinh ngạc. Ngay cạnh tảng đá vừa mọc lên một cái cây khá lớn, lá màu xám bạc phủ kín từ trên xuống dưới, tán lá rì rào phe phẩy, đong đưa theo gió. Nhìn nó chẳng khác gì đám cây cối xung quanh. Nếu không biết đó là chỗ con chim vừa đứng, thì ngay kể cả Xít cũng không thể nhận ra cái cây giả vừa mọc lên sừng sững ấy. Một lần nữa cho thấy, tài biến hóa, ẩn thân của con Chim Trắng thật vô cùng ảo diệu, khó lường! Phải nhìn kỹ lắm mới thấy, cái mỏ ngà của nó gục xuống khéo léo giấu kín giữa đám lông ngực.
Cả ba cùng nín thở, dõi theo từng cử động nhỏ của cái đám khói đen im phăng phắc trên kia. Sau một lát đứng im, đột nhiên nó biến thành một thứ như chất lỏng, đặc quánh như mật vắt ra từ một miếng sáp ong ướt đẫm, chầm chậm nhỏ xuống đáy vực, kéo dài thành một giọt dài thẳng tắp chảy dọc theo vách đá mà chẳng hề đứt đoạn.
Vừa chạm xuống mặt suối, thứ đó lập tức lan tỏa ra bốn phía, dàn trên mặt nước phẳng lặng thành một màng mỏng đen kít, bóng nhẫy như màu cánh của loài bọ hung, nom rất kỳ quái.
Không gian dưới đáy vực đột nhiên im ắng một cách kỳ lạ. Tất cả dường như đang nín thở dõi theo sự xuất hiện của thứ kì quái, lớp nhớp kia.
Chả mấy chốc cái khối đen ấy đã trút hết xuống. Cái màng đen trên mặt suối cứ loang rộng ra, lớn dần lớn dần phủ kín mặt nước, cái mép nó lan dần tới chỗ Đan và Xít. Hai đứa hồi hộp nhìn nhau, chầm chậm hít một hơi thật sâu, dìm mình xuống thấp hơn trong làn nước, chỉ thò đôi mắt lên sau những tảng đá theo dõi.
Cái màng đen nhớp nháp ấy lan tới rất nhanh, chẳng mấy chốc đã tràn đến trước mặt. Nhìn gần trông nó càng thêm kỳ dị, quái đản. Cái thứ đen kít ấy chẳng giống khói, cũng chẳng phải một thứ chất nhầy, mà ở gần nó lại giống như hàng ngàn, hàng vạn sợi tóc đen kít kết lại thành một khối mềm nhuyễn, có thể tùy cơ biến hóa ra muôn hình muôn dạng. Từ cái mép mỏng của nó vươn ra hàng ngàn chiếc chân nhỏ xíu nhớp nháp, bò lào xào trên mặt nước như những cái chân của loài nhện độc. Vừa đi chúng vừa thỉnh thoảng dừng lại giơ lên không trung khua khua, dò rẫm, như cặp râu gián tìm kiếm, đánh hơi cái gì đó. Mảnh và nhỏ nên chúng có thể len vào tận từng ngóc ngách, tràn cả lên những mỏm đá thấp nhấp nhô trên mặt suối rờ mó, sờ soạng.
Đan chưa kịp lặn xuống, thì đã bị thứ lồm ngồm, nhớp nhúa ấy đã ập tới bò lên mặt, leo lên đầu nó.
Một cảm giác gai gai, ghê tởm chạy khắp toàn thân, Đan chỉ ước gì được lặn hẳn xuống dưới làn nước. Nhưng nó biết, chỉ một khẽ động đậy lúc này cũng sẽ đem lại hậu quả chết người cho cả đám, nên nó đành gắng gượng, cắn răng cố chịu đựng thứ kinh tởm đó dờ dẫm lên mắt lên mũi. Hai bàn tay Đan nắm lại xiết chặt, chống lại một cái rùng mình giữa dòng nước lạnh.
Nhưng rồi mọi nỗ lực, nín nhịn của Đan cũng đều trở thành công cốc. Những cái chân mềm nhũn rờ rờ lên đầu tóc nó như có linh tánh riêng. Chúng tự cảm nhận được điều gì đó khác thường, dừng lại chậm chạp luồn những cái chân li ti, ướt lạnh vào mái tóc Đan, mò mẫm. Không thể chịu nổi sự nhột nhạt kèm lẫn ghê tởm ấy hơn nữa, Đan ngoi lên khỏi mặt nước, thở phì phì.
Lập tức cả cái màng đen kia xao động. Những gợn sóng nhỏ, nhóng nhánh cuộn lên đổ dồn về phía hai đứa. Hàng trăm sợi tơ tóc li ti trên đầu Đan lập tức cũng vươn ra quấn lấy, bọc chặt mặt mũi nó như đang vội vã túm trói giữ lại.
Đan vùng vẫy, rồi ra sức dùng tay giằng rứt. Xít cũng chẳng ẩn mình nữa, nó trồi lên lao tới giúp bạn bứt gỡ những thứ ghê tởm ấy ra khỏi đầu.
Thế rồi cùng lúc nhiều việc sảy ra. Giữa suối, cái màng đen rùng mình, trồi lên một khối tròn bùng nhùng, dẻo quánh nhìn như một cái kén nhầy khổng lồ, bên trong tựa như có một con trăn đang giãy giụa chui ra. Nó phình lên rất nhanh, chớp mắt đã dựng lên thành hình một cái đầu to lớn xù xì, y hệt cái đầu quỉ trong ngôi đền đá với cái miệng vẩu ngoác ra, nổi lên giữa mặt suối. Cùng lúc ấy trên bờ, cái cây lá bạc cũng bất ngờ rũ mình đứng lên sáng rực giữa vực tối, con Chim Trắng hiện nguyên hình đứng trên mỏm đá. Rồi rất nhanh, không chờ cái đầu khổng lồ kia kịp thành hình trọn vẹn, con Chim Trắng kêu lên "Oác!" một tiếng thật lớn. Nó phóng vút mình bay cắt ngang mặt suối tựa một vệt sao băng, lao thẳng vào cái miệng đen ngòm đang ngoác ra. Một vừng sáng chói lòa bùng lên rực rỡ giữa lòng suối. Cái miệng ngoác ra vừa bị thân hình con Chim Trắng đâm toác một lỗ lớn, xuyên ra tận sau gáy. Nó sụm xuống rã rời như một đụn cát khô, từ bên trong một tiếng rú đau đớn, rền rĩ vang lên.
Phóng mình sang bờ bên kia, con chim trắng liền nghiêng mình đáp lên một mỏm đá. Đôi mắt nó chằm chằm dõi xuống làn nước như tìm kiếm một cái gì đó. Rồi đột nhiên lát sau, nó bỗng bình thản sải cánh lướt là là trên mặt suối, về phía thượng nguồn. Ngay lập tức, cái màng đen nổi lềnh bềnh dưới suối rùng rùng dồn lại, biến thành một chiếc đầu dèn dẹt, như đầu một con rắn cực lớn, rẽ làn nước đuổi theo.
Chẳng mấy chốc, cái đầu rắn vươn cao dần, lặng lẽ tiến tới sát sau lưng con Chim Trắng. Con Linh Điểu dường như chẳng hề hay biết hiểm họa ngay phía sau, nó vẫn nhẹ nhàng, thong thả lướt đi.
Quá lo sợ, quên cả tình huống hiện tại, Xít định chồm dậy hét lên cảnh báo. May sao đúng lúc đó Đan kịp đưa bàn tay hộ pháp ra bịt lấy mồm, ấn vai nó xuống.
"Im, im nào! Nó chỉ đang dụ thứ ấy đi theo mình thôi" Đan rít lên khẽ khọt, bàn tay nó siết môi Xít đau điếng.

Chớp mắt khoảng cách giữa cái đầu rắn và con Linh Điểu chỉ còn hơn sải tay. Bất ngờ cái đầu co lại, rồi phóng lên rất nhanh. Nhưng quả nhiên, đúng lúc cái đầu rắn vừa vươn tới, thì bất ngờ con Chim Trắng quật cánh quay ngoắt lại. Cặp mắt nó long lên giận dữ, chiếc mỏ ngà hung hăng phóng ra mổ tới tấp, còn cặp vuốt bén như thép giương lên cào xé tơi bời, dồn cái đầu rắn chúi xuống mặt nước. Đột nhiên trông nó trở lên uy vũ, hung tợn khác thường.
Ngay sau cú đánh bất ngờ, chớp nhoáng, con Chim Trắng lại thoắt thu mình lao vút đi. Để lại đằng sau nó, chiếc đầu rắn đau đớn, lồng lộn đuổi theo.
Bỏ chạy thì Đan và Xít rất yên tâm, thừa tin tưởng vào sức bay của con Chim Trắng. Nó đã bay thì khó có thứ gì mà theo kịp! Nhưng không, thật không ngờ, cái đầu rắn kia cũng bay nhanh không kém. Nó không bay theo đường thẳng mà xoáy tròn theo hình xoắn ốc, chỉ trong thoáng chốc đã đuổi sát sau lưng cái bóng trắng.
Xem chừng có thể đoán: thứ ma quỉ đen kít kia rất ghê gớm, con Chim Trắng hẳn không phải là đối thủ của nó, nên đành chọn cách vừa đánh vừa tháo lui.
Phút chốc, với tốc độ bay cực nhanh của cả hai, một cuộc rượt đuổi vô cùng kỳ lạ, gay cấn diễn ra dưới đáy vực tối. Một ánh sao bay sáng rực, như tia chớp dẫn trước; đằng sau, một lằn đen cuồn cuộn bám hút theo như hình với bóng. Chúng vạch thành những lằn chớp ngang dọc, loằng nhoằng, đan vun vút giữa không gian; không mắt nào có thể theo kịp.
Hết dượt đuổi dưới đáy, con Chim Trắng lại lao vọt lên miệng vực. Ngay lập tức cái đầu rắn dựng thẳng thân bám theo sát gót. Chỉ trong khoảng khắc nó đã mím bắt kịp. Vừa vượt qua mép vực, con Chim Trắng liền bất ngờ bẻ ngoặt đường bay, chao nghiêng, lượn một vòng rất sát ôm lấy một mũi đá nhọn chỉa ngang ra từ đỉnh vách, hai vạt cánh nó căng rộng như mái nhà Rông, tỏa sương trắng mờ ảo. Làn khói đen lách mình lướt qua màn sương trắng như một bóng ma hư hư thục thực đón đầu, cắt ngang đường bay của con Chim Trắng. Dọc thân nó bất ngờ mọc lên những cái gai như sừng đen bóng, nhọn hoắt, nhìn tựa một dải xương rồng uốn lượn, vùng vẫy giữa không trung. Nhưng may sao con Chim Trắng đã kịp lanh lẹ xoay dọc người, như một con én lách qua một khe đá hẹp, khiến cái lằn đen với đầy gai nhọn bị chặn lại bên ngoài không thể lọt qua.
Cái lằn đen không dễ bị bỏ rơi, lập tức cái đuôi của nó biến hóa thành đầu, quấn theo mũi đá bám theo.
Trên đỉnh vực, giữa không gian mênh mang, không còn giới hạn bởi bất kỳ vách đá, đáy khe nào, những đường bay của cả hai càng lúc càng trở lên biến hóa khôn lường.
Dù bay không nhanh bằng thứ kỳ quái bám riết phía sau, nhưng con Chim Trắng tỏ ra rất khôn ngoan. Với sự bé nhỏ linh hoạt của mình nó thường xuyên bẻ ngoặt bất ngờ, hoặc lượn gấp một cách tinh quái, làm thứ phía sau luôn bắt hụt, không sao tóm được nó.
Cuộc rượt đuổi vô cùng gay cấn, lại trực tiếp can hệ đến vận mệnh của hai đứa, nên Đan và Xít cứ ngây ra nhìn, quên cả bỏ chạy thoát thân. Ngâm mình trong làn nước chúng nín thở theo dõi, trầm trồ ngắm nhìn từng đường bay, mỗi cú bẻ ngoặt tài tình của con Linh Điểu.
Đột ngột từ giữa lưng chừng trời, cả hai, con Chim Trắng và cái Lằn Đen kia cùng theo nhau phóng thẳng xuống, bám dọc theo vách đá dựng đứng, vạch thành hai đường thẳng tắp, tựa những lằn tên bắn ra từ những cánh cung kéo tận lực.
Đáy vực bỗng chốc trở thành cái đích của một cuộc đua nước rút khốc liệt.
Đan và Xít tưởng như chúng sắp phải chứng kiến một cú va chạm kinh hồn. Nhưng không. Thứ truy đuổi phía sau đã thay đổi thủ đoạn. Đang bay, bất ngờ cái đầu rắn phía sau tách ra làm đôi, đột ngột biến thành hai chiếc. Chúng rướn người bay vọt lên phía trên lưng con Chim Trắng đè xuống, ép nó vào vách đá.
Thoáng chốc bốn bề con Chim Trắng đều bị vây kín, như bị một bàn tay úp lên, vô kế thoát ra. Nhận ra tình thế nguy khốn, con Chim Trắng một lần nữa thu mình vận hết sức phóng xuống. Trên vách đá đen ngòm dựng cao vời vợi, thân hình nó nổi bật lên như một mũi tên bạc xé gió lao đi.
Nhưng hai cái đầu rắn như đã lường trước được tình thế. Chúng cũng ráo riết tăng tốc bịt đường, không cho con Chim Trắng dù chỉ một chút cơ hội mong manh thoát khỏi cái lồng vây hãm đang chụp xuống. Hai cái đầu vượt hẳn lên, ép dần ép dần con Chim Trắng vào vách đá. Tình thế càng lúc càng tuyệt vọng, chỉ cần một cú đè xuống nữa là đủ làm con chim phải miết mình vào vách đá tan xác.
Xít hít một hơi thật sâu, tim nó như ngừng đập. Không gian đột nhiên ngưng đọng, tĩnh lặng tuyệt đối. Trong mắt nó chỉ còn hình ảnh con chim trắng đang lao đi trong tuyệt vọng.
Nhưng đúng trong thời khắc tưởng chừng cầm chắc cái chết, đột nhiên con chim xoay chuyển. Nhoằng một cái, nó vươn cổ sang đớp một cái đầu rắn cắn chặt ngang miệng, đồng thời xoay ngược mình, cặp vuốt cứng như thép giương lên cào vào vách đá. Những chiếc móng ngời ngời tóe lửa, rạch lên mặt đá những vệt dài đỏ rực như sắt nung. Thân hình con Chim Trắng gần như đứng khựng lại. Trong khi đó cái lằn đen kia đang ra sức phóng xuống, không thể dừng. Một cái đầu của nó bị con Chim Trắng kéo ngược lên, kéo theo thân hình nhớp nháp dài thượt bị rách toạc ra làm đôi, tựa như người ta dùng tay xé một tàu lá chuối.
"Hay!" Quá bất ngờ và phấn khích, Đan và Xít cùng chém tay vào nước kêu lên khoái trá.
Một âm thanh ma quái gào lên vang dội giữa vực sâu, trút vào vách đá tất cả sự đau đớn lẫn cuồng nộ, nghe sởn lạnh gai ốc.
Giữa lưng chừng không trung, cái lằn đen kia giãy giụa, quằn quại như một miếng giẻ nhàu nát khổng lồ.
Sau cú phá vây suất sắc của con Linh Điểu, những tưởng cuộc chiến đã đến hồi kết hay ít ra cũng tạm ngưng trong chốc lát. Nhưng không ngờ, con Chim Trắng tỏ ra là một thần thú đầy từng trải, thiện chiến. Thấy kẻ thù đã mang trọng thương, dù cũng đã mệt mỏi nó vẫn tận dụng cơ hội áp đảo, vận toàn lực còn lại phóng mình lao xuống, quyết tung một đòn chí mạng, tuyệt diệt.
Bộ móng sắc xòe ra phủ chụp lên cái màn đen đang vật lộn quay cuồng. Những chiếc móng có thể cào rách đá tóe lửa hẳn không phải vừa. Nhưng thứ ma quỉ kia cũng tỏ ra không kém phần tỉnh táo, sớm phát hiện ra cú tấn công chí mạng đó, nó vội thu mình, phóng xuống đáy vực đào tẩu.
Con Chim Trắng quyết liệt truy sát, nó dùng hết sức bay vun vút bám theo. Chỉ trong chớp mắt cả hai đã lao xuống sát mặt nước.
Nhưng vừa chạm nước, cái lằn đen thoắt biến, nó luồn vào làn nước êm như một con rái cá. Dù đang lao xuống với một tốc độ chóng mặt, vậy mà nó chỉ làm mặt nước khẽ gợn lên một lớp sóng nhẹ lăn tăn. Chui xuống lòng suối đen thẫm, nó lập tức mất dạng. Cái mặt suối cũng gần như lập tức đóng lại, phẳng lặng yên tĩnh như một tấm vải nhung, cứ như thể chẳng có điều gì xảy ra. Một sự bao che, che đậy thật trắng trợn và trơ tráo.
Cả một khối đen lớn như thế, trong nháy mắt đã biến mất khỏi tầm mắt hai đứa. Ngay lập tức trong đầu hai đứa hình dung ra có hàng ngàn, hàng vạn sợi tóc đen nhớp nháp đang luồn trong làn nước vươn tới quấn lấy chân chúng. Hai đứa vội nhào lên bờ.
Cái lòng suối bỗng chốc trở nên đầy phản trắc, đáng ghét.
Không thể lao theo vào dòng nước, con Chim Trắng dang cánh bay chầm chậm lên cao, đôi mắt của nó quắc lên long lanh, săm soi xuống dòng nước đen thẫm.
Quả là loài thần thú, làn nước đen ngòm kia ngoài phản chiếu ánh trăng nhợt nhạt trên mép vực còn chẳng để lộ ra bất cứ thứ gì, nhưng cũng không thể che giấu nổi ánh mắt của loài linh điểu
Thong thả lượn tròn một vòng, rồi dường như phát hiện ra gì đó, nó lập tức lao đầu chúc xuống, tạo thành một đường cong vút rà sát mặt nước rất nhanh, vẻ quyết liệt khác thường. Trong chớp mắt thân hình nó thu nhỏ thành một chấm tinh ngân chói lọi, y như bữa nào trên mép thung, bay vùn vụt dọc con suối. Làn nước phẳng như gương rẽ ra làm đôi, rạch một đường thẳng tắp dưới đường bay của chấm sáng. Nó xẹt ngang qua hai đứa tựa một ánh sao băng. Ánh trăng trên mặt suối một lần nữa xao động. Quả nhiên phía trước nó, từ dưới mặt nước một lằn đen vừa phóng vọt lên, lao về phía cuối vực. Con Linh điểu lập tức bám hút theo. Một cuộc đua mới nổ ra, cuộc đua của những lằn chớp. Nhưng giờ thì đã đổi vai: con Chim Trắng là kẻ săn mồi, đang phóng tới chặn đường "kẻ tháo chạy" thoát ra ngoài miệng vực.
Hai đường bay xé gió lao đi, cả trên và dưới cùng hướng tới đỉnh thác, nơi vách đá kết thúc và mở ra không gian bao la ngoài kia.
Vách đá dựng lên hai bên ở chỗ đỉnh thác thu lại khá hẹp, dọc trên vách lại có những bụi cây bám cheo leo. Nếu cái lằn đen kia kịp thoát ra, thì con Chim Trắng khó bề mà bắt kịp nó ở nơi thênh thang bên ngoài khe vực này. Nhưng cơ hội bắt kịp nơi đỉnh thác thật là quá mong manh và cũng chỉ có một lần duy nhất.
Chớp mắt chúng đã lao tới cuối vực, hai đường thẳng cứ ép sát vào nhau, sắp chập làm một. Đan và Xít mím môi chờ một cú va chạm nảy lửa.
Nhưng thật bất ngờ, đúng vào những khoảng khắc cuối cùng, cái chấm trắng sáng chói ấy bằng sức bay kinh hồn đã vọt lên, ép cái lằn đen phải hạ thấp xuống, bay qua vách đá nơi có những bụi cây mọc chĩa ra.
Và rồi trong chớp mắt, tất cả ý đồ của nó cũng trọn vẹn lộ ra. Vừa lướt qua lùm cây, đốm sáng bất ngờ lóe lên, nổ tung thành một vừng hào quang lấp lánh. Giữa đỉnh thác con Chim Trắng hồi thân vỗ cánh uy vũ, nó vươn cổ khạc ra đằng sau một đám bụi lấp lánh phủ kín tàng cây. Nháy mắt giữa không trung hiện lên một tấm lưới bạc rực sáng.
Cái lằn đen bị ép lao thẳng vào cái tàn cây như sao rắc ấy, thân hình dài thượt, nhớp nháp của nó như một mớ tóc rối bù lao vào bụi gai mây, mắc cứng lại. Ngay lập tức những hạt bụi li ti, lấp lánh kia hút dính vào nó, lan ra khắp mình. Có lẽ thứ bụi sao ấy thiêu đốt ghê gớm lắm, chẳng khác gì lửa. Chỉ thấy cái màn đen nhớp nháp ấy oằn lên giãy giụa một cách vô cùng đau đớn, điên cuồng giữa không trung. Nhưng càng giãy giụa nó càng dính, càng rối hơn; gai quấn vào tóc, tóc quấn vào gai, không sao gỡ nổi. Những đốm sáng kia bò càng nhanh, loằng ngoằng lan ra khắp thân thể nó thiêu đốt.
Đòn đánh của con Chim Trắng thật ác nghiệt. Lần này thì còn chẳng nghe thấy tiếng gào rú nào nữa, ngoài những cú giật quẫy rầm rầm nhưng đầy tuyệt vọng.
Hai đứa sung sướng đứng nhìn cái thứ nhớp nháp ấy giẫy giụa trong bẫy lửa của con Chim Trắng. Lát sau nó đuối dần, rồi thõng xuống bất động như một tấm giẻ tả tơi, đen đúa rơi là là xuống đáy vực. Làn nước lập tức cuốn lấy nó đẩy về phía bờ thác, rồi ném vào vực thẳm. Nháy mắt đã chẳng còn gì.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Phung QA

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
26/1/19
Bài viết
21
Gạo
0,0
Chương 13: Bên Ánh Lửa Tàn.

Chờ một lát cho chắc chắn cho thứ ma quỉ ấy không thể hiện hình trở lại thêm một lần nữa, Đan và Xít mới bước ra khỏi chỗ nấp sau mấy tảng đá. Chúng đứng đó cầm sẵn pho tượng ngọc ở tay, nhìn về phía con Chim Trắng, chờ nó quay lại để trao trả pho tượng. Nhưng không, con Chim Trắng nãy giờ chỉ đứng lặng yên trên đỉnh vách đá nhìn kẻ thù từ từ giãy chết. Xong nó vươn cổ lên bầu trời cao thăm thẳm, hướng tới ánh trăng sáng vằng vặc, kêu lên mấy tiếng lảnh lót trong vắt như ngọc vang vọng khắp không gian, rồi vỗ cánh bay thẳng ra chốn bao la phía ngoài miệng vực. Đôi cánh mềm sải rộng thênh thang trong gió, thân hình nó nhẹ trôi giữa thinh không cứ xa dần xa dần về phương Nam, chẳng mấy chốc đã chỉ còn là một chấm trắng khuất sau vách đá.
Đan và Xít ngạc nhiên, thẫn thờ đứng nhìn theo. Lúc sau Xít mới bần thần đút pho tượng lại vào túi.
- Vậy là sao? Sao nó không quay lại lấy pho tượng chứ? - Đan vẫn đứng đó chau mày, thắc mắc hỏi.
- Ừ, tớ cũng không hiểu vì sao nó lại không quay lại lấy pho tượng này? - Xít nói - Hoặc nó có ẩn ý gì đây, hoặc có lẽ lúc nào đó nó sẽ quay lại lấy. Giờ thì ta đành phải mang theo nó vậy, chứ không lẽ để lại đây?
- Đương nhiên, chắc chắn là không rồi! Dù con Chim Trắng không muốn pho tượng thì với bao công sức của hai đứa mình, không đời nào tớ bỏ lại pho tượng này! Chỉ có điều nhìn nó chiến đấu can đảm và ác liệt như thế mới dành được pho tượng. Sao lại dễ dàng để mặc cho chúng ta giữ một thứ quan trọng với nó như thế? - Đan vẫn chưa chịu thôi đặt ra những câu hỏi.
- Biết đâu đấy lại là chủ ý của nó! Muốn ta giữ pho tượng? Mà thôi, kệ đi! Để những chuyện đau đầu, rắc rối ấy tính sau. Giờ ta cần rời khỏi đây càng nhanh càng tốt. Tớ chẳng muốn nhây nhưa ở chốn chết tiệt này thêm chút nào nữa! - Xít làu bàu. Rồi vẻ không muốn tranh cãi thêm mất thời gian, nó chỉ về phía vách đá trước mặt nói:
- Dường như chỗ kia có thể leo lên được, chúng ta tới đó xem sao?
Đan nhìn rồi gật đầu đồng tình. Vì ở đó nó thấy vách đá lô nhô, lại không dựng ngược lên như những chỗ khác, trong khi đó cây cối mọc trên sườn vách buông rủ xuống cũng khá rậm rạp, có thể bám víu được để leo lên.
Nhưng trước hết chúng phải cởi quần áo vắt sạch nước trước đã. Nãy giờ ngâm dưới suối ướt sũng, quần áo cứ dính nịt vào người; xoay sở, cử động không được thoải mái cho lắm. Chúng vẫn còn hai bộ quần áo dự phòng trong túi, nhưng lúc này nó còn ướt hơn cả hai bộ đang mặc. Sau khi vắt kiệt nước mặc tạm lại, chúng thấy đi lại cử động dễ chịu hơn hẳn, rồi mới bắt đầu tiến về phía chỗ vách đá leo lên.
Dù vách đá bên này thấp khuất ánh trăng, nhưng vẫn đủ ánh sáng trăng từ trên chiếu xuống lờ mờ để nhìn rõ địa hình leo lên. Khác hẳn với vách đá đối diện bên kia, vách bên đỡ dựng đứng và thấp hơn nhiều. Hơn nữa, vách không hẳn chỉ toàn là đá, mà còn xen lẫn những kẽ đất ở giữa, nên cây cối mọc khá nhiều. Chúng len lỏi bám rễ xiên vào những kẽ đá, dẻo dai và chắc chắn.
Hai đứa dễ dàng bám đu vào cành, chân đạp lên những mũi đá mà leo lên. Có lúc chúng còn liều lĩnh treo mình lơ lửng giữa lưng chừng vách, chỉ bám bằng hai tay vào những cái cành to như cổ chân, truyền đi như những con vượn. Vẫn chưa hết kinh tởm cái đầu sói quái dị, nên Đan nhứt khoát không chịu khoác cái túi lên lưng. Nó dùng một đoạn dây rừng buộc ngang eo, đeo tòng teng cái túi ấy cách mông chừng nửa sải, thế nên thỉnh thoảng vừa leo nó lại vừa phải quài tay ra sau gỡ cái túi mắc vào đám cành lá.
Một lúc sau Đan và Xít đã lên tới đỉnh. Chúng nằm vật ra ngay trên mép đá nghỉ lấy hơi. Nhìn địa hình phía trước mặt, chúng mừng thầm trong bụng. Vì mở ra trước mắt chúng là cả một vùng rừng núi đen thẫm, trải ra mênh mông, khá bằng phẳng; ngoại trừ triền đất ngay trước mắt chúng là hơi đổ xuống xoai xoải, không đáng kể. Còn lại, dù dưới ánh trăng nhạt nhòa, vẫn có thể nhận ra chẳng hề có vách đá hay khe sâu nào chắn trước mặt, như chúng đã thầm lo ngại trong lúc leo lên.
Chúng lo ngại là bởi: từ lúc theo con Chim Trắng tới Ngôi Đền Quỉ kia, chúng đã dần mất hết phương hướng về hướng đi, định hình đường trở về. Rồi sau đó lại thêm cuộc tháo chạy hỗn loạn, chối chết đến đáy vực thẳm, thì chúng càng hoàn toàn mù tịt, không còn chút hình dung lờ mờ nào nữa về vị trí của mình ở giữa đại ngàn này. Giữa cánh rừng bạt ngàn ngàn lần đầu tiên đặt chân tới, chẳng có một chút vốn hiểu biết hay dựa dẫm vào bất cứ căn cứ gì; nên giờ đây chúng chỉ còn biết trông vào một thứ duy nhất để tìm về đó là rặng Kỳ Giông. Nó dài và gần như cao nhất, có thể nhìn thấy từ khắp mọi nơi giữa cánh rừng đại ngàn này, mà nó lại nằm đúng thẳng về hướng Đông. Chỉ cần chúng cứ trực chỉ đi về hướng Đông thì vài ba ngày tới nhất định chúng sẽ nhìn thấy nó. Vì vậy, điều chúng lo ngại nhất là sau khi leo lên miệng vực, gặp phải vách đá hay những khe vực tương tự chắn ngang trước mặt, và chúng nằm theo hướng Bắc Nam hoặc Tây Nam. Lúc đó hai đứa sẽ bắt buộc phải men theo chúng, phương hướng sẽ càng thêm rối loạn và có thể dẫn tới lạc lối, hay phải đi lòng vòng tốn thêm rất nhiều thời gian để tìm đường về.
Đứng từ mép đá bên này nhìn ngược lên mép đá bên kia, nơi cái bóng đen đã bò ra là cả một khoảng cách cao chất ngất, dựng lên đen ngòm, vời vợi. Ngoài con Chim Trắng đưa xuống thì không có cách nào xuống nổi. Xa xa mé tay trái, chúng thấy một phần ngọn thác mỏng manh như sợi chỉ, nổi bật giữa vách đá, buông xuống vực sâu thăm thẳm.
Nằm nghỉ một lát lấy lại sức, hai đứa tiếp tục cuộc hành trình. Bất biết phía trước là hướng nào, chúng cứ nhắm thẳng trước mặt mà đi, miễn là càng rời xa khỏi cái vách đá đen thui lùi sau lưng càng sớm càng tốt.
Cẩn trọng, chúng luôn tìm cách đi vào dưới những tán lá dày, từ tán này tới tán kia che kín trên đầu. Bởi cái cảm giác có đôi mắt bí ẩn nào đó ở tít tận trên cao vẫn đang soi mói, lùng kiếm chúng vẫn cứ lẩn quất gờn gợn trong đầu, làm chúng luôn thấy lo ngại bất an.
Dù vội vã rời đi, Đan vẫn không quên, lần này nó bẻ một đoạn cành ngắn cỡ sải tay, làm cây gậy treo cái túi vải tòng teng lên đầu chạc, không để cái túi áp sát mình. Xít không hiểu khi cắn vào họng con sói rứt ra cả mảng thịt, Đan đã nghĩ gì mà bây giờ nó lại ghê sợ cái đầu sói đã chết đến thế. Nó nhường Đan đổi cho mình chiếc túi để nó mang, nhưng Đan cũng chẳng chịu.
Hai đứa quyết định đi luôn một mạch tới sáng rồi dừng lại nghỉ luôn thể. Tuy chẳng nói ra nhưng chúng đều hiểu, sau khi đã tận mắt nhìn thấy những cái đầu lâu quái dị vô hình kia, thì chẳng đứa nào lại muốn ngủ dưới gốc cây trong đêm tối, nhất là khi vẫn còn ở ngay dưới bóng vách đá như thế này.
Đêm dài, mọi việc đều sảy ra chớp nhoáng và quá nhanh, nên tuy có vẻ đã rất nhiều chuyện xảy ra, nhưng thực tế nhìn trời lúc này cũng chỉ mới chừng quá nửa đêm một chút. Những ánh sao khuy thưa thớt càng về khuy càng sắc lạnh, khi vầng trăng mỏng bỏ chúng lại bầu trời, chậm dãi trôi về phương Nam. Như vậy tức là hai đứa còn cả một hành trình dài phía trước phải đi, và chỉ có thể dừng lại nghỉ ngơi khi trời sáng hẳn.
Mệt và đói, lại chẳng thể trò chuyện vì giữ cố im lặng để căng tai lên nghe ngóng những âm thanh lạ, kiểu tiếng vỗ cánh lạt sạt của loài rơi lúc trước, nên hành trình nốt phần còn lại của buổi đêm thật dài dằng dặc. Chúng cứ thế im lặng mà đi cho tới tận sáng. May sao suốt dọc đường không hề có thứ quỉ quái gì xuất hiện!
Khi ánh mặt trời đã le lói những tia nắng đầu tiên trên vòm rừng, chúng mới dừng chân và tìm được một chỗ ngủ khá cao ráo, nhưng được che chắn kín đáo ngay dưới gốc một cây Thầu tấu cổ thụ.
Chúng ngủ ngay khi gần như lưng chưa kịp đặt đất. Xít nằm ôm lấy pho tượng đã gói gém kỹ cuốn chặt vào lòng, chưa yên tâm nó còn quấn cái túi hai ba vòng quanh cổ tay nắm chặt trước ngực, trong khi Đan lại đem cây gậy treo chiếc đầu sói cắm xuống đất cách hẳn nó cả chục bước. Hai đứa lập tức chìm vào giấc ngủ mê mệt, nhưng chẳng mấy yên ả.
Chúng tỉnh dậy khi những tia nắng vàng rực xuyên qua tàng lá rì rào đang nhảy nhót, quấy quả chiếu lên mắt. Mặt trời giữa trưa đang dọi thẳng xuống. Hai đứa vươn vai khoan khoái ngồi dậy. Một ngày đẹp trời, trời cao xanh ngắt, nắng vàng tỏa chiếu muôn nơi. Nắng, quả là thứ tuyệt diệu, sưởi ấm cơ thể, hong khô quần áo và tuyệt nhất là nó thúc đẩy tinh thần hai đứa lại đầy hào hứng, phấn chấn trở lại.
Hai đứa khoác túi tiếp tục lên đường. Đi được một đoạn chợt chúng nghe thấy phía trước có tiếng nước róc rách chảy. Hai đứa liền tạt sang phải rẽ về hướng có tiếng nước, chúng muốn đổ đầy hai ống nước đã khô khốc cùng tắm gội gột sạch lớp mồ hôi lớp nhớp bám trên người sau cả một đêm vật lộn, bươn bả.
Khe nước chẳng bao xa, nó nằm ngay dưới một vạt dốc thoai thoải lô nhô đá tảng. Một khe nước không lớn lắm nhưng ăp ắp nước chảy ào ạt vào một cái vũng rộng chừng bốn năm sải, quanh mép vũng rễ cây đâm xuống chằng chịt bọc kín. Vừa xuống gần đến nơi, Đan chợt bật kêu lên sung sướng "Có món hời! Chúng ta vớ được món hời rồi!" Chẳng biết cái gì mà làm Đan vui sướng thế, Xít liền bước lên mấy mỏm đá nhảy xuống. Vừa nhìn xuống cái vũng mắt nó cũng liền sáng lên. Trong vũng nước chỉ sâu ngang đầu gối, dưới làn nước trong leo lẻo, một đàn cá chừng hơn hai chục con to gần bằng bàn tay đang bơi lượn lờ.
Một đàn cá trong cái vũng, đúng lúc đúng nơi... Quả là một may mắn bất ngờ. Vừa thấy đàn cá quẫy đuôi tung tăng trong làn nước lập tức cái đói trong bụng chúng ngồi dựng dậy, cứ như thể đàn cá đã nướng thơm phức dí ngay trước mũi vậy. Quả thật từ trưa hôm qua tới giờ chúng đã có gì cho vào bụng đâu. Hai cái dạ dày bắt đầu xốn xang nhai chóp chép.
Hào hứng, hai đứa lập tức bỏ túi xuống mép vũng nước, bẻ hai cành cây vót nhọn đầu rồi lội xuống. Chỉ một lúc chúng đã xiên được hơn chục con vất vào cái hốc đá, những con cá tươi rói, dầy mình, đầy tay giãy đành đạch nhìn thật sướng mắt. Tiện thể của trời cho, Đan và Xít đâm thêm vài con nữa cho cả bữa sau. Đang nhăm nhăm mũi lao theo một con cá khá to bơi gần sát mép vũng, đột nhiên ánh mắt xít khựng lại. Chiếc đầu sói không lông trong cái túi Đan để bên mép đá không hiểu rách từ lúc nào mở toác ra. Cái đầu lòi ra quá nửa chĩa thẳng vào Xít. Đôi mắt y như còn sống, lừ lừ nhìn nó chằm chặp dưới cái mí mắt sưng tấy, đỏ bầm. Mép nó vẫn nhếch lên như giấu một nụ cười giễu cợt, nham hiểm pha lẫn vẻ bí ẩn. Quên phắt con cá, Xít cứ nhìn chằm chằm vào đôi mắt đó. Có gì đó dù ghê tởm nhưng rất cuốn hút từ đôi mắt đó tỏa ra níu lấy nó, làm nó không dứt ra được. Đột nhiên nó đứng ngây ra đờ đẫn như mất hồn, tay vẫn giơ cao cây lao. Mặt nước phản chiếu ánh nắng nhấp nhóa, lao xao như một tán lá vàng chói rung rinh dưới đáy nước hắt lên mặt. Rồi Xít thấy mình như chìm vào rừng lá ấy, thân hình nhẹ bẫng, nó chìm sâu chìm sâu mãi; cái vũng nông choèn bỗng trở lên sâu thăm thẳm. Rồi đột nhiên giữa rừng lá vàng như ảo mộng sâu vô tận ấy, bỗng nó nghe như thấy có tiếng gọi xa xăm mơ hồ từ phía trước vọng lại. Nó muốn nhao tới, nhưng đột nhiên rừng lá ấy rùng mình xếp kín lại như bưng, đẩy nó lùi lại hun hút ra sau. Một cú vỗ mạnh vào vai làm Xít giật nảy tỉnh lại, mắt nó chớp chớp, khuôn mặt vẫn tái dại, nhợt nhạt.
- Xít! Xít! Cậu sao thế? - Đan cầm vai bạn lắc mạnh hỏi.
Đứng một hồi Xít mới nói:
- Không!Tớ không sao, tớ ổn. - Mặt nó vẫn thần ra thở ào ào.
- Cậu làm tớ sợ phát khiếp! Tưởng có chuyện gì. Mà cậu vừa bị làm sao vậy? - Đan hỏi.
Biết không kể không xong, Xít chỉ vào cái đầu sói thòi ra ngoài kể lại cái cảm giác kỳ lạ vừa rồi.
Đan cúi xuống bịt mũi nhìn cái đầu sói chằm chằm một hồi, nhưng chả thấy gì lạ, nó nói:
- Cậu chắc không bị sao chứ? Tớ thấy có gì đâu?
Nó ngửng lên nhìn mặt Xít săm soi như thể trên ấy đang có một lỗ thủng giữa trán vậy.
- Nhìn gì? - Xít gắt - Tớ đã bảo ổn rồi, không sao mà!
Chợt Xít nhao lên bờ, nó nhanh tay nhặt mấy con cá đang quẫy mình đành đạch nhảy ra khỏi cái hốc, sắp trườn cả xuống nước. Nhìn đôi tay Xít khéo léo chộp lại những con cá, Đan mới thở phào nhẹ nhõm, tin thằng bạn mình vẫn ổn. Nó kiếm một cành nhỏ, tuốt lá xiên cả hơn chục con cá vào thành một dây, rồi hai đưa leo lên bờ dốc tìm chỗ nướng cá.
Món cá nướng thơm phức còn tuyệt hơn cả mong đợi. Những tiếng xèo xèo, những lườn thịt trắng phau ngọt lừ thơm mùi củi ám, dóc ra vẫn còn bốc khói nóng hôi hổi, được quấn cùng với những búp lá Guộc non cay nhẹ, cho vào miệng làm thỏa thê tan chảy mọi giác quan của cả mắt, mũi, tai, miệng cùng lúc hòa làm một.
Sau bữa ăn ngon no nê, hai đứa tiếp tục lên đường, cứ nhắm thẳng phía Đông mà đi tới. Chúng đồ rằng cứ với tốc độ này chắc chỉ một hai ngày nữa chúng có thể thấy lại dãy Kỳ giông.
- Vết thương trên tay cậu thế nào rồi? - Vừa đi Xít vừa hỏi.
Đan cởi vai áo kéo xuống, trên bắp tay nó vẫn còn những chấm tím đen li ti tạo thành một vòng tròn cỡ bằng bàn tay.
- Chẳng còn đau đớn gì, sờ lên chỉ thấy hơi ram ráp! - Đan nói - Tớ nghĩ không sao!
- Chắc có lẽ những sợi tơ ấy chỉ để bám vào để quấn lấy, chứ không đủ độc như miệng chúng. May mà chưa bị nó cắn đấy!
- Quả thật, trên đời chưa thấy thứ gì quái dị, ghê tởm hơn cái giống ấy! - Đan nói.
- Thế thì cái sau lưng cậu kia cũng chưa kinh tởm lắm nhỉ? - Xít trêu chọc.
- Ờ thì... Dù sao nó vẫn mang hình hài của một loài thú, - Đan nói - đâu có ghê tởm như cái thứ quái dị kia! Cậu cứ thử bị nó chạm vào người, sờ vào mặt như tớ xem; cảm giác lúc đó thật kinh khủng, gớm ghiếc! Ừ, mà nhắc mới nhớ! Sao tớ cứ bị nó túm suốt, hai ba lần, mà cậu thì chẳng bị lần nào nhỉ? Để tớ đỡ phải mất công giải thích cái cảm giác đó thế nào.
- Ừ đúng nhỉ? - Xít giả đò ngẩn người ra ngạc nhiên, rồi hỏi giọng châm chọc - Hay ở cậu có gì đó phi phàm, đặc biệt cuốn hút chúng, mà chính cậu cũng chưa nhận ra?
Rồi Xít làm bộ nheo mắt quay qua ngắm nghía khuôn mặt Đan.
- Đặc biệt cái con khỉ! - Đan tức, làu bàu - Chỉ tại đi với cậu tớ mới bị xui xẻo đến thế! Chắc tại bao nhiêu may mắn cậu vơ vét cả, chả chừa cho ai tí nào! Giờ lại còn giọng giả nhân giả nghĩa: "cuốn cuốn" với chả "hút hút"! Hút cho cậu một đạp vào mông thì có!
- Thế mà tớ đang ghen với cậu đấy! Này nhé, ít ra cậu còn có bằng chứng chiến tích rất oách trên người để khoe khoang! Còn tớ đâu có gì? - Xít cười hinh hích.
- Chiến với chả tích! - Đan dài giọng - Mỗi lần nhớ lại, vẫn còn rùng mình gai hết cả người lên đây này! Giờ mà chúng xuất hiện ở đây, tớ thề sẽ đập cho mỗi con một phát nát bét, rồi xiên hết vào que đem nướng trên than hồng; cho chúng kêu gào như lúc bị con Chim Trắng thiêu đốt. Nhìn thật đã con mắt!
- Híc! Đập cho nát bét! - Xít trề môi - Không biết đứa quái nào đêm qua chạy cong đít lên như trâu bị ong chích, miệng la bai bải ấy nhỉ? Bây giờ sao cao giọng anh hùng thế!
- Hì hì - Đan cười - Dù cắm cổ chạy thì tớ vẫn đập được năm sáu con đấy thôi!
Im lặng một lát rồi Đan nói:
- Sao đến giờ, mà chẳng thấy con Chim Trắng quay lại lấy pho tượng nhỉ?
- Tớ chẳng nghĩ nó sẽ quay lại đâu! - Xít nói - Tớ không biết pho tượng với con Chim Trắng có mối liên hệ thế nào? Nhưng có lẽ, nó không chỉ muốn ta giúp lấy lại pho tượng ra khỏi ngôi đền ma quỉ ấy, mà còn muốn chúng ta mang luôn theo bên mình. Bởi nếu muốn giữa pho tượng thì nó đã quay lại lấy ngay lúc ở dưới vực, đâu cần chờ đến bây giờ! - Mang theo ư? Ta còn còn phải mang nó đi đâu nữa sao? - Đan kêu lên thảnh thốt - Đến đường về nhà chúng ta còn chưa biết, thì sao biết đường mà mang đi đâu?
- Thì ta cứ đành mang nó bên mình vậy! - Xít nói - Đi tới đâu ta mang theo tới đó! Bao giờ con Chim Trắng quay lại hẵng hay!
- Nhưng nếu con Chim không quay lại, chả lẽ chúng ta mang nó theo về bản sao? - Đan dừng lại nhìn Xít hỏi, vẻ ngạc nhiên.
- Ừ! Chúng ta sẽ mang nó về bản - Xít khẳng định - Có sao đâu? Cậu không nghĩ vậy à?
- Tớ nghĩ..! - Đan ngần ngừ nói - Ta chưa biết đích xác pho tượng này là cái gì? Nó có liên quan tới quỉ thần hay không? Cho dù đây có là một bức tượng thần, thì từ xưa tới nay, bản Tơ Gúc ta cũng đâu được phép thờ bất cứ vị thần nào? Biết đâu đưa về, lại chẳng mang họa cho bản làng, lúc đó chẳng phải chúng ta mang tội lớn sao? Hơn nữa chuyện này thế nào cũng phải xin phép, hỏi ý kiến Trưởng bản trước. Chắc gì ông ấy đã đồng ý?
- Tớ thì tớ tin - Xít suy nghĩ giây lát, trầm ngâm đáp - con chim ấy là giống Thần Điểu. Cho dù chưa từng cứu chúng ta đi nữa, thì nó vẫn là loài Thần Thú, luôn đứng về phía chính nghĩa! Nhìn nó nổi giận, quyết chiến với loài ma quỉ như vậy, lẽ nào lại mang tai họa gieo rắc cho chúng ta, những người đã giúp nó? Mà cậu nhìn thấy rồi đấy! Bức tượng ngọc này đâu có vẻ gì ma mị, đáng sợ?
Nhưng rồi suy nghĩ một lát, Xít tiếp:
- Ừ, nhưng việc này cậu nói cũng đúng! Chưa chắc Trưởng bản đã cho phép chúng ta mang nó về bản, nếu ông biết chúng ta tìm ra nó thế nào! Chúng ta đã tận mắt thấy thì có thể tin, chứ mọi người e ngại cũng chẳng trách được họ.
Hai đứa vừa đi vừa trầm ngâm suy nghĩ. Chẳng ngờ chuyện mang theo pho tượng ngọc tưởng như chẳng hại gì, lại nảy sinh việc khó xử thế này. Sau một hồi suy nghĩ, Đan nói:
- Sao ta không đem về hỏi cụ Sóc? Những việc khó xử thế này, chỉ có cụ mới cho lời khuyên xác đáng được.
- Nhưng làm sao đưa cụ Sóc xem, mà không mang pho tượng về bản được? - Xít hỏi lại.
- Ta sẽ giấu nó ở ngoài bìa rừng - Đan đề xuất - rồi đưa cụ Sóc ra đó xem, sau đó sẽ quyết định.
- Không, không được! Ta không thể mạo hiểm thế được! - Đan chưa nói hết lời, Xít đã kêu lên cắt ngang, rồi nó nói - Từ lúc cầm pho tượng này! Không hiểu sao tớ luôn cảm giác như có một thứ gì đó, như thể một ánh mắt bí ẩn, vẫn luôn theo dõi từng bước đi của chúng ta. Nhất định chúng ta không thể để nó ngoài bìa rừng được. Điều đó quá mạo hiểm, dù có chôn giấu kín thế nào!
Xít chưa nói dứt lời, Đan đã giật nảy người, nó quay lại ngó nghiêng tứ phía, hạ giong thì thào nói:
- Sao cậu không nói sớm?
- Nó chỉ là một cảm giác mơ hồ. Đừng có giật lên như vậy! - Xít nói - Nhưng vì thế, dù gì, tớ cũng sẽ không để pho tượng này lại ngoài bìa rừng đâu. Trải qua bao vất vả, nguy hiểm ta và con Chim Trắng mới giành được nó, nhỡ sau này con Chim Trắng quay lại, ta biết nói làm sao? Nhất là khi nó biết, ta đánh mất pho tượng chỉ vì một lý do ngốc nghếch như thế?
Im lặng một lát Xít nói:
- Tớ nghĩ pho tượng ngọc này chẳng có hại gì. Ta cứ lẳng lặng mang về hỏi ý kiến cụ Sóc, cụ tất sẽ có cách.
- Nếu cậu đã quyết chí, thì chỉ còn cách đó! - Đan lầm bầm - Hóa ra con chim ấy đã có chủ ý, ngầm theo ta từ đầu, mà chúng ta không hề biết. Có lẽ nó đã theo chúng ta ngay từ khi đến chân rặng Kỳ Giông, hay có khi ngay từ lúc rời bản, cũng chưa biết chừng?
- Ừ, việc ấy chẳng thể biết từ lúc nào? - Xít nói - Nó đã sắp đặt tất cả từ đầu. Còn rất nhiều bí ẩn mà chỉ có nó mới giải thích được. Vì sao pho tượng này lại bị đem tới giam cầm trong ngôi đền thờ bí ẩn đó, và bằng cách nào? Nếu cứ dựa vào nốt mọc dài ra của những ngón tay đá kỳ dị ấy, thì pho tượng đã bị đặt vào đấy từ rất lâu rồi! Vậy sao bây giờ con Chim Trắng mới đến giải thoát? Sao một con linh điểu lại cố sống chết để giải cứu một pho tượng ngọc? Chúng có quan hệ gì với nhau? Ôi thật là cả một mớ bùng nhùng!
Rừng cây quang đãng, nền rừng khá bằng phẳng, nên dù chẳng gấp gáp, vừa đi vừa trò chuyện chỉ trong buổi chiều hai đứa đã đi được một quãng đường khá dài, bốn năm dặm. Vách đá cao hun hút của vực sâu đêm qua đã lùi xa, chìm khuất vào giữa biển lá xanh ngờm ngợp đang nhuốm bóng chiều tà.
Đêm đó chúng bắc sàn ngủ trên cành cao, và cả đêm sau nữa. Đường về phía Đông khá thuận tiện suôn sẻ, chẳng gặp chướng ngại nào đáng kể.
Chiều ngày thứ ba, chúng men theo một triền dốc thoai thoải chạy dài theo một khe suối. Mãi đến lúc sập tối, bóng đêm đã đổ xuống, chúng mới đi hết triền dốc và gặp được chỗ bằng phẳng. Trời đã tối mịt chẳng còn thời gian để tìm cây dựng sàn, vả lại đã hai ba ngày nay, mọi thứ đều bình thường, chẳng thấy có hiện tượng gì lạ sảy ra, nên chúng quyết định đốt lửa ngủ ngay trên mặt đất.
Sau khi đánh chén nốt nửa con gà rừng và hơn chục quả trứng chim chúng mót được từ một cái tổ tít trên cao vào trưa hôm trước, hai đứa đi nằm. Chúng chia nhau ra thức, Đan canh phiên đầu để Xít ngủ trước. Quãng quá nửa đêm chẳng chờ Đan gọi, Xít đã tự trở dậy. Vươn vai vặn người mấy cái vẻ khoan khoái, nó giục Đan đi ngủ, rồi ngồi xích lại gần đống lửa, tựa mình vào một cái rễ cây canh chừng nốt phần đêm còn lại.
Đêm rừng Đại ngàn bốn bề mênh mông tịnh mịch, yên ắng không một tiếng động. Vầng trăng khuya trong trẻo trải nhẹ ánh sáng xanh mướt, mượt mà xuống núi rừng đang thiêm thiếp; dìu dịu phủ lên ngàn lá đang say giấc nồng, như một lời ru mỏng êm ái vỗ về.
Gối đầu lên khúc rễ, Xít đưa mắt ngắm nhìn một vì sao cô tịch, đứng lặng lẽ trên bầu trời hun hút sâu thẳm: đơn chiếc, cô quạnh và cũng như Xít, nó đang lặng lẽ chờ đêm dài trôi qua. Xít khẽ thở dài, chợt chạnh lòng. Nó thấy số phận mình cũng giống ngôi sao kia: đơn lẻ, côi cút và bối rối: chẳng biết mình đang chờ đợi điều gì.
Từ nhỏ, Xít biết phận mình. Nó đã quen cắn môi giấu mọi nỗi khao khát, mong muốn xuống tận đáy lòng. Lâu dần thành quen, thành chai sạn. Giờ nó chẳng cần phải cố gắng giấu giếm cũng ít ai thấy được những phút giây mềm yếu ấy lộ ra trên khuôn mặt nó.
Mọi người vẫn luôn thấy một thằng xít vui vẻ, hay cười hay nói, hòa nhã tốt bụng với tất cả; nhưng ít ai biết khi đêm về, nơi góc khuất, chỗ ngả lưng sát bức vách, đôi mắt nó lại đắm đắm vào bóng tối, trăn trở thao thức trong những tiếng thở dài thật khẽ. Khi chỉ có một mình, khuôn mặt ấy bỗng trở lên già dặn đăm chiêu với ánh mắt nhìn xa xăm. Đó là sự tủi thân nó vẫn thường giấu giếm, nỗi thèm muốn có một gia đình trọn vẹn, đầy đủ như người ta. Thèm một bờ vai người cha vững chãi, tin tưởng để nương tựa, chia sẻ; một vòng tay mẹ để ôm ấp xóa đi cái lạnh côi cút. Thèm một bữa cơm quây quần bên bếp lửa, ấm tiếng cha cười, ngọt ngào tiếng mẹ ru; một vòng tròn bên mâm trọn vẹn đủ mặt người thương yêu, ấm lòng sưởi chung một bếp lửa... Nỗi thèm khát mà chỉ làm nó càng thêm tủi, mỗi khi bước vội, ngang qua bữa cơm nhà ai đó.
Nó thương cho mình một, thì thương cho đứa em gái mười. Tội cho con bé, mới nằm nôi đã không thấy được cả mặt cha lẫn mẹ, chỉ biết đến thứ tình thương gồ ghề thô ráp duy nhất của thằng anh, là nó. Chẳng được một ngày ôm ấp vỗ ru...
Thật may sao cuộc đời anh em nó còn có những người như bà Bơ Nót, như Đan, cụ Sóc... Nhớ những năm tháng xa xưa, hai anh em nó sống trong sự đùm bọc của bà Bơ Nót và dì A mui. Hai người phụ nữ - một già yếu, một tật nguyền - đã giang tay đưa anh em nó về nuôi nấng, dưới mái nhà rách rưới xiêu vẹo.
Xít bất giác lại thở dài. Thời gian trôi quá vội, chẳng cho nó cơ hội chăm sóc bà ngày nào để trả cái ơn như núi ấy, cái mái lá rách nó cũng còn chưa kịp rậm lại cho lành lặn, vậy mà. Dường như mọi việc trong đời đều cố tình băng qua thật nhanh, luôn đi trước nó một bước, lúc nó còn chưa đủ sức lo toan gánh vác, để rồi lòng nó luôn phải mang một nỗi niềm day dứt, nuối tiếc... Còn quá nhiều điều anh em nó nợ bà mà chưa kịp nói một lời. Những năm tháng sống với bà dù khó khăn đói khổ, nhưng nó biết, anh em nó đã may mắn thế nào.
Nhà bốn người già trẻ quây quần, yêu thương, quấn túm lấy nhau trong sự vây bọc của nghèo khó, thiếu thốn quanh năm. Cái bản Tơ Gúc đã nghèo, mái nhà xiêu đổ của mấy bà cháu nó còn chiếm luôn cái vị trí nghèo nhất, một cái nhất mà người người né tránh, nhà nhà chối từ chả ai muốn giành với mấy bà cháu nó.
Trong căn nhà xập xệ dột nát ấy, cái hũ gạo cũ nứt nẻ lúc nào cũng trống hoác, trơ đáy, là nơi ngủ vùi ưa thích của con ma đói, nằm khoanh giơ xương sườn, mốc meo; cái sào phơi đầu sân, quanh năm chỉ lơ phơ vài manh áo bạc nhả vá chằng vá đụp từ năm nảo năm nào, là nơi vắt vẻo đùa vui của con ma túng, ma bấn. Đói nghèo là hai ông khách quí thường xuyên ghé thăm và luôn ở lỳ lại mời chẳng chịu đi. Thường xuyên đến mức bà cháu nó thường đùa với nhau rằng: nhà có hai ông bụng hóp mắt lồi, da xanh tái mét như thế coi nhà thì bà cháu nó có đi đâu cũng chả sợ mất mát gì!
Nhưng nghèo, đói có thể lấy đi nhiều thứ của bà cháu nó, chứ không thể lấy được tình thương yêu, đùm bọc và những tiếng cười đùa của những kẻ đồng số phận nghietj ngã, hẩm hiu. Quên sao được những đêm đông lạnh giá, bốn bà cháu co ro ôm nhau ngủ, rúc vào nhau để quên đi tiếng ọc ạch của những cái dạ dày lép kẹp, nhưng chưa bao giờ dưới tấm chăn đằm đắp tạm bằng sợi gai rách hở lỗ chỗ, lại thiếu tiếng cười rúc ríc trẻ thơ của bé Dơ lin, tiếng mắng, vỗ yêu của bà Bơ Nót. Những bữa ăn không cả ngô sắn, chỉ độc rau rừng, bà cháu lén nhường nhau buông đũa đứng lên sớm...
Tất cả cái gia đình nhỏ bé ấm cúng đơn sơ ấy, chỉ với một hàm răng nanh, con Sói Hai Đầu đã xé nát tất cả. Tất cả cuộc đời đau đớn, côi cút, cơ cực của Xít vô hình chung đều bởi Con Sói khốn kiếp ấy mà ra cả.
Ngôi sao cô lẻ vẫn đứng lặng lẽ giữa trời, những tia sáng dài lóe lên buốt lạnh. Xít co người lại khoanh tay trước ngực, ngắm nhìn vì sao sáng, để mặc những ý nghĩ trong đầu theo ánh sáng tinh khiết kia lang thang tít đỉnh trời.
Cứ miên man thả hồn trôi vô định, rồi chợt Xít thiếp đi lúc nào không hay.
Nó giật mình tỉnh dậy khi trời đã lờ mờ sáng. Thật kỳ lạ, một màn sương mờ, dày đặc chẳng biết tự bao giờ tràn đến đang lan ra phủ khắp khu rừng trước mặt. Giữa mùa này lại có sương mù? Mà chẳng hiểu sương ở đâu ra mà nhiều thế, cứ kéo về mỗi lúc một dày. Đan vẫn nằm ôm cái túi ngủ say sưa. Có lẽ Xít vừa mới chợp mắt lãng đi một lát, vì đống lửa vẫn còn hồng rực đang bập bùng cháy. Sương mù càng lúc càng dày, chẳng mấy chốc mấy cây cổ thụ ngay trước mặt cũng chỉ còn thấy lờ mờ. Bóng đêm chưa lui hẳn, cánh rừng vẫn còn nhập nhòa tranh tối tranh sáng. Xít ngồi hẳn dậy, với tay đẩy mấy khúc củi cho lửa cháy to hơn.
Bất giác, xa xa thấp thoáng sau rừng cây ẩn hiện, qua làn sương mù mờ ảo, một dải sáng xuất hiện. Dải sáng đó mỏng dính như một cái đĩa tỏa ra theo chiều ngang, quét vầng sáng hình rẻ quạt, từ trên cao xuyên qua những tầng lá từ từ đáp xuống. Dù sau lớp sương mờ nó vẫn rất sáng, rạng ngời chói lọi, rơi tới đâu soi sáng các tầng lá bừng lên như dát vàng tới đó.
Cả khu rừng vẫn yên ắng im lìm.
Xít đứng phân vân nhìn Đan đang ngủ say sưa, sự tò mò trỗi lên trong lòng nó mãnh liệt. Rồi cuối cùng nó quyết định không đánh thức bạn, một mình rón rén đi về phía quầng sáng.
Lách qua mấy gốc cây, đi giữa làn sương mù, nó chậm dãi tiến tới. Càng tiến tới, chẳng hiểu sao lòng nó càng dâng lên một nỗi hồi hộp vô cớ, trống ngực đập thình thịch, nhưng đôi chân thì cứ như bị cuốn tới chẳng có ý định muốn dừng. Nó đã đi được một đoạn khá dài, toàn thân chìm trong màn sương mờ mịt như bơi giữa một biển sữa trắng đục, nhưng quầng sáng kia tuy vậy dường như vẫn còn khá xa, và giờ nó đã chìm xuống đáy màn sương mờ như vừng dương cuối chiều đông.
Đang dò dẫm bước đi, bỗng Xít giật bắn mình, đứng khựng lại. Một bóng đen vừa phóng vụt qua, ngay bên mé trái. Chỉ cách nó vài sải, rồi lập tức khuất lấp ngay sau mấy gốc cây. Cái bóng vụt qua rất nhanh lẩn vào làn sương mở. Nhưng với ánh mắt tinh như cú, Xít đã kịp nhận ra đó là một bóng người khá cao lớn, đầu trùm mũ kín mít và một tấm áo choàng dài cuộn phần phật tung bay trên vai. Đặc biệt là trên tay bóng đen ấy như đang cắp một bọc gì đó.
"Trong rừng có người?" Xít bật thảnh thốt kêu lên. Rồi nó hoảng hốt nghĩ tới cái bọc bên sườn bóng đen: "Cái túi! Pho tượng ngọc! Có kẻ đánh cắp pho tượng!"
Nó lập tức bật lên như một con hoẵng, phóng theo cái bóng. Nhưng chạy lại gốc cây cái bóng vừa khuất nó chẳng thấy gì, chẳng có cái bóng nào ở đó, không một vết tích. Dù là mần sương mù đặc, nhưng với cả một con người to lớn như thế không thể dễ dàng biến đi thế được. Nhưng không biến mất thì cái bóng đó đâu? Xít dáo dác đưa mắt tìm kiếm, nhưng bốn bề sương trắng cuộn lên mờ mịt, chìm khuất chẳng nhìn thấy gì. Khu rừng vẫn im ắng một cách lạ thường, tưởng như có thể nghe thấy cả tiếng màn sương đang rí rách tràn về.
Đang loay hoay, Xít bỗng la lên, ngã ngửa người ngồi phịch xuống đất. Từ một gốc cây ngay phía bên trái, cái bóng phóng vọt ra, xẹt ngang vai nó lao về phía sau. Xít trợn tròn mắt, tấm áo choàng đen dài lướt thướt vừa rồi xuýt quét vào mặt nó. Cái bóng vừa vụt qua, biển sương mù dày đặc lập tức cuộn tròn ập lại như hai cánh cửa phủ kín xóa sạch mọi dấu vết.
Nhưng Xít đã thấy cái bóng ấy, nó thật cao lớn, và cái thứ nó ôm bên cạnh không phải là một cái bọc, mà là xác một người đàn bà đầu tóc rã rượi, người rũ gập xuống như một tàu lá héo. Và một điều đặc biệt nữa làm Xít bất giác thấy sởn gai ốc, rùng mình: cái bóng đó lướt qua nó dù bất ngờ và rất nhanh, nhưng nó vẫn kịp nhìn thấy, nửa phần thân dưới của cái bóng trống rỗng, chẳng có gì, không hề có chút chân cẳng gì.
"Là người hay quỉ?" Xít giật thót mình lạnh buốt. "Nhưng sao nó lại lẩn lút, trốn chạy giữa rừng này?"
Suy tính chớp nhoáng, Xít quyết định bám theo, dù thực sự trong lòng nó vẫn chưa hết run. Thật kỳ lạ, có một linh cảm nào đó cứ thúc giục nó bám theo, mà chính nó cũng chẳng lý giải được.
Chạy vòng quanh một hồi, len lỏi giữa những gốc cây cổ thụ cao lớn, căng mắt ra tìm kiếm giữa làn sương mờ đục, nhưng Xít vẫn chẳng hề thấy tăm tích gì của cái bóng. Nó cũng chẳng hy vọng gì cho lắm, vì giữa một biển sương mù đặc quánh, cùng những gốc cổ ken dày thế này, tìm một cái bóng đang cố tình lẩn trốn có khác gì đuổi chim trên cành. Nhưng bất chợt, khoảng hơn chục bước phía trước mặt, Xít thấy màn sương bỗng cuộn xoáy lên xao động. Nó lao bổ về phía đó, quả nhiên thấy cái bóng đang lướt đi rất nhanh thấp thoáng phía trước. Mím môi, Xít dồn toàn sức lặng lẽ đuổi theo, quyết không để mất dấu thêm một lần nữa. Linh cảm có điều gì đó hệ trọng, liên quan càng lúc càng thôi thúc nó. Cái bóng cứ thoắt ẩn thoắt hiện như một bóng ma, lúc vụt hiện ra ngay bên trái, lúc lại lất phất mờ ảo xa xa phía bên phải. Nhưng dù gần dù xa, trong làn sương mù dày đặc Xít vẫn chưa lần nào thấy được phần thân dưới của nó, và chiếc mũ chùm thì luôn che kín khuôn mặt.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Phung QA

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
26/1/19
Bài viết
21
Gạo
0,0
Chương 14: Ông Lão Có Ba Sợi Tóc Vàng

Cứ thế, mỗi lúc cái bóng càng dẫn Xít rời xa dần quầng sáng kỳ lạ mà Xít vẫn chưa biết là cái gì kia, đâm sâu vào rừng mãi. Bầu trời dần tở mở, chẳng biết đã bám theo được bao xa, đang cắm đầu hối hả bám theo cái bóng vừa khuất sau một gốc Chò chỉ lớn, nâu sẫm, cao thẳng tắp, quá đà Xít chợt thấy mình lao ào ào vào một rừng cây rậm rạp, toàn bụi cây gai góc um tùm, hơi dốc xuống. Bất biết Xít cứ đạp bừa lên mà lao tới, chẳng cần nghĩ nó dẫn tới đâu.
Nhưng vừa chạy được vài chục bước bỗng nó la hoảng, quơ tay loạn xạ, bíu chặt lấy cành lá hai bên, người nó trôi roàn roạt trượt xuống. Rất may, rồi nó cũng dừng lại được. Vừa đúng lúc người nó nhô hẳn ra bên ngoài một vách đá dựng đứng, chỉ chậm một khắc nó đã lao ra khoảng không, rơi thẳng xuống. Ngay dưới chân nó là một triền dốc trơ trụi đá, sâu chừng năm sáu chục sải. Bám vào mấy bụi cây lùi lại, Xít mới nhận ra mình đang đứng trên một sườn núi dốc, chân núi đổ ra thoai thoải. Những sườn núi liên tiếp nối nhau, trải dài như một bức tường dựng lên bao quanh một thũng lũng tròn hình lòng chảo ở giữa.
Rừng cổ thụ và đám sương mù tới đúng mép này đều đột ngột dừng lại, nhường lại cho những thảm cỏ xanh mướt phủ kín chân núi và đáy thung. Lòng thung khá lớn, ở chính giữa có một dòng suối nhỏ len lỏi chảy qua những tảng đá xám lớn mốc meo xù xì, và rải rác khắp lòng thung là những cây tràm đang đâm chồi non xanh mơn mởn.
Xít nóng lòng đưa mắt dọc đáy thung, tìm kiếm cái bóng sau những tán lá và tảng đá xù xì ngổn ngang. Nhanh chóng nó phát hiện ra chiếc mũ chùm đầu và tấm áo choàng đen đang thấp thoáng lướt dưới những tán cây. Và thật kỳ lạ, chỉ vừa mới khuất tầm mắt trong thoáng chốc, mà cái bóng đã tới giữa thung, nó đang băng qua con suối cạn.
Xít lập tức phóng ào xuống như một cơn lốc, bất kể sườn dốc cắm thẳng gần như dựng đứng, đất đá cuốn ào nhảy tưng tưng theo bước chân nó tràn xuống. Tới đáy thung nó liền mải miết băng qua những mạch suối nhỏ chảy ngoằn ngoèo đuổi theo cái bóng. Dù hối hả chạy gấp, Xít vẫn thoáng nhận ra sự kỳ lạ của thung lũng này. Dưới thung lũng nằm lăn lóc rải rác rất nhiều tảng đá lớn, nhưng chúng đều là những tảng đá được đục đẽo tròn hoặc rất vuông vức, một số tảng vẫn còn mờ nét hoa văn chạm khắc cầu kỳ. Đây đó ẩn dưới những tàng cây âm trầm, bị che rợp phủ kín bởi những đám dây leo khổng lồ vẫn lộ ra những mảng tường, chân cột, cổng vòm đá to lớn đổ vỡ ngổn ngang; như thể nơi đây đã từng đứng sừng sững một tòa thành đá uy nghi, khổng lồ xa xưa đã bị tàn phá, mà nay chỉ còn lại chút tàn tích của một thời vang bóng.
Mải miết băng qua, đến chân dốc bên kia lòng thung, vừa chui ra khỏi đám Trầu tấu rậm rì ngước nhìn lên đỉnh dốc, Xít bỗng giật mình đứng chết lặng. Trên đỉnh dốc cái bóng đen cao lớn đang đứng sừng sững như một bức tượng đá in vào nền trời đỏ rực như lửa. Nó đang nhìn chằm chằm vào Xít qua cánh vai vểnh lên như cặp sừng trâu phủ dưới tấm áo choàng thả dài chấm tận đất, tấm áo choàng dưới ánh tà dương chuyển màu đen thẫm pha ánh sắc đỏ bầm, nhìn như một tấm vải niệm chết chóc đẫm máu.
Bỗng một cơn gió nổi lên, chiếc mũ trùm đầu rơi xuống.Toàn thân Xít run lên lạnh toát, tê cứng. Bọc trong mớ tóc bờm xờm tung bay trong gió như một cụm mây xám lạnh lẽo, là khuôn mặt quỉ xám ngoét trơ sọ, da mặt nham nhở như được dính bằng trăm mảnh chồng chéo, với hai hố mắt u hồn của đám mây đen hơn mười năm về trước, hiển hiện không sai một nét. Cái hố mắt kinh hoàng, ghê rợn mà Xít chưa bao giờ quên.
Đôi mắt tối đen thăm thẳm ấy dọi thẳng vào Xít trong giây lát rồi chợt bùng lên hai chấm đỏ rực như phát ra từ đáy địa ngục u tối. Xít giật mình bất giác lùi lại. Ngay lúc ấy, cái mép mỏng dính trên chiếc sọ khẽ nhếch lên nở một nụ cười đầy nanh nọc, nham hiểm. Nó khè mạnh một tiếng giận dữ về phía Xít, vẻ vừa như thách thức vừa đe dọa, cùng hai hố mắt chợt bùng lên đỏ rực như có ngọn lửa từ dưới họng phụt lên.
Bất ngờ con quỉ vung tay phất mạnh tà áo ra sau, một thân hình cong oằn nằm rũ xuống bên sườn nó. Xít kinh hoàng thét lên "Mẹ!"
Cái thân hình mềm oặt, rũ xuống ấy chính là mẹ nó. Mái tóc dày mà mẹ nó vẫn thường ủ vào mặt nó, thơm nồng mùi nắng, đang xõa tung rối bời bay chờn vờn trong gió, khuôn mặt thân thương tái mét, đôi mắt nhắm nghiền...
Con quỉ chợt quay người phóng vụt đi khuất dạng sau đỉnh dốc, cùng một tràng cười quái dị. Một sự căm hờn trào lên như muốn xé tan lồng ngực Xít. Nó hộc lên như một con báo, phóng vọt lên đỉnh dốc. Con dốc cao dựng đứng mà Xít băng lên chỉ trong chớp mắt chẳng hề thở dốc; cũng như nó chẳng hề nhận ra mình đang đạp lên những bậc thang rộng kỳ lạ, ghép bằng những khối đá to bản, chạm khắc hoa văn cầu kỳ nhưng do đã trải qua dãi dầu sương gió chẳng biết bao lâu, giờ đã phai mờ, mòn vẹt theo thời gian khó còn nhận thấy, nhiều chỗ vỡ cả mảng lớn chẳng còn hình dạng.
Lên tới đỉnh Xít phóng mắt tìm kiếm, cái bóng đã biến mất. Và thật bất ngờ trước mắt nó không phải là núi rừng hoang vu, vách đá dựng đứng hiểm trở hay hang hốc âm u. Mà trước mặt lại là một ngôi làng nhỏ êm đềm, độ hơn trăm nóc nhà, nằm trải dài yên ả dưới dáng chiều tà. Giữa làng có một con đường đất bằng phẳng dẫn chạy thẳng về phía một ngọn núi độc nằm chắn ở cuối làng. Xít chạy vội tới đầu bản. Nó đi ngang qua một đám trẻ chừng 9-10 tuổi, mặt mũi quần áo lem luốc, đang chụm đầu vào chơi một trò gì đó giữa đường đất, chắc trò chơi đang vào lúc cao trào, nên chúng giằng giật cãi nhau inh ỏi, chả để ý gì đến một người lạ đang bước vào làng. Xít đi sâu vào giữa làng, nhưng hình như ở đây cũng vậy, mọi người chẳng ai nhận ra sự hiện diện của nó, kể cả người phụ nữ trẻ quấn chiếc khăn lệch một bên đầu, mồ hôi nhễ nhại, đang bực bội lùa mấy con lợn con bên gốc cây vả mà Xít đứng gần sát cũng chả thèm liếc nó lấy nửa cái. Thấp thoáng xung quanh những bóng phụ nữ đang tất tả chuẩn bị bữa cơm chiều. Một vài mái nhà lợp lá gồi đã bắt đầu lơ thơ khói bếp tỏa ra từ trái vách thấp tè. Ngôi làng này đơn sơ nhưng yên bình.
Xít hơi lấy làm lạ về thái độ lạnh nhạt dửng dưng của những người trong ngôi làng này, nhưng đang mải tìm kiếm nên nó cũng chẳng để tâm. Dưới cái hiên gỗ xiêu vẹo của một ngôi nhà nằm bên trái con đường làng, cách Xít không xa, một bà cụ bé nhỏ nhăn nheo đang ngồi bỏm bẻm nhai thứ lá gì đó, mắt nheo nheo ngắm cảnh chiều tà. Chiếc khăn thêu chỉ đỏ trắng, nửa quấn trên đầu nửa tuột xuống vai làm người ta dễ nhầm bà với một đống vải cũ, nằm gọn trong lòng bà là một con mèo xám đang nhắm nghiền mắt khoan khoái kêu gừ gừ, hưởng thụ những cái vuốt ve âu yếm của bà cụ. Xít bước tới tính cất tiếng hỏi, nhưng nó chưa kịp cất lời thì dường như bà cụ đã hiểu ý, dù mắt vẫn nhìn vầng dương đỏ ối đang chìm dần sau những rặng núi xanh mờ cuối chân trời, bà hờ hững hất hàm về phía cuối bản. Xít thật không chắc bà cụ có thấy nó hay không, nhưng quay đầu nhìn về cuối con đường, nó giật mình. Bóng chiếc áo choàng vừa khuất sau một khoảng rừng thưa nơi đó. Xít vội vàng lao đi chẳng kịp nói lời cảm ơn.
Cuối con đường là ngọn núi độc, nó gần như là một tảng đá nguyên khối khổng lồ, có hình dáng tựa như bàn tay dựng lên chắn giữa con đường, đổ bóng âm trầm phủ xuống khoảng rừng thưa nằm ngay dưới chân nó. Khi tới gần, khoảng rừng thưa đó nhìn lại từa tựa như một khu vườn hoang tịnh mịch: cổ thụ vươn cao xòe tán, cây cối thoáng rộng thẳng hàng, nhưng im ắng một cách kỳ lạ. Ở giữa có một lối vào trống trải mở rộng, nơi cái bóng vừa lẩn vào mất hút.
Đứng sừng sững giữa khu vườn âm u, nhập nhòa trong bóng chiều ấy là một ngôi nhà đen sẫm, to lớn kỳ lạ. Ngôi nhà cao gấp ba bốn lần những ngôi nhà bình thường, chiều ngang cũng trải ra ngoài năm chục bước; toàn bộ phần móng và tường đều được ghép bằng những tảng đá lớn đen trùi trũi. Hai mái vát lợp bằng những vỉa đá đen như vảy cá lượn cong hình lưỡi rìu, tựa áp vào nhau đâm vút lên như chiếc mào nhọn của con chim gõ kiến, vươn tới tận đám dây leo rậm như rừng, u tối từ trên vách núi thả dài xuống. Đứng chon von trên đỉnh đầu mái là hai con đại bàng lớn chạm bằng gỗ đang trừng mắt, dang cánh, nét chạm tuy thô phác nhưng nhìn vô cùng uy nghi, dữ tợn. Bốn cây cột lớn, cao lừng lững cùng những thanh xà to như cả cây gỗ vươn ra đỡ lấy một mái hiên rộng. Bên trong vùng tối lờ mờ của cái hiên hiện lên ba khung hình cửa tròn. Cái chính giữa vô cùng lớn, dường như là cửa chính ra vào, mở toang trống trải, chiều ngang chẳng dưới năm sải. Từ sâu bên trong căn nhà thấp thoáng có ánh lửa bập bùng hắt ra.
Đứng nhìn dò xét một lúc, Xít quyết định tiến vào. Dù có chuyện gì đi nữa, nó cũng không đời nào bỏ cuộc.
Bước qua lối đi trống trải, Xít cẩn thận nghe ngóng, đặt chân lên những bậc thềm, bước lên cái hiên rộng. Những cái bậc đá ở đây cũng lớn khác thường, chỉ ba bậc đã cao ngang đầu Xít. Cái hiên rộng ngang một ngôi nhà, sàn được lát bằng những phiến gỗ dày rất khít, in bóng thời gian đã lên nước bóng loáng; bàn chân Xít áp xuống nghe lành lạnh. Nó rón rén đi vào, tay khẽ đặt lên chuôi dao. Chiếc khung cửa tròn đen bóng dày cả gang, có viền xung quanh chạm trổ hình cây lá muông thú quấn vào nhau rất tinh xảo, dưới ánh lửa bập bùng từ trong nhà hắt ra, trông chúng như những sinh vật sống, đang cắn đuôi nhau chạy nhảy đùa giỡn, thật sinh động.
Mạnh bạo bước qua khung cửa tròn, Xít bước vào một căn phòng lớn khác thường, sàn cũng được lát bằng những phiến gỗ dày. Trên cao những thanh xà to cả người ôm đan qua đan lại gối lên những đầu trụ vững chãi đỡ cái mái tối đen như mực. Cả căn phòng trống hơ trống hoác, chẳng có đồ vật gì ngoại trừ một đống lửa lớn được chất ở giữa phòng. Ở bên trái, trên bức tường đá, có treo một tấm vải gì đó dày như một tấm da gấu, nhưng khổ rất lớn. Trên đó Xít lờ mờ nhìn thấy, dường như trước đây từng vẽ hình hài dăm bảy người gì đó; nhưng chắc đã quá lâu, màu thời gian phai bạc phủ mờ, giờ chỉ còn loang lổ chẳng nhìn rõ cho lắm! Bên dưới tấm vải là một chiếc ghế băng gỗ dài, còn nguyên khối đặt sát tường. Và tít trong góc phòng, nơi ánh sáng chỉ còn là thứ nhợt nhạt vươn tới, có một ống đá cao trong dựng sáu bảy cây lao móc dài cả hai sải. Tất cả đơn sơ chỉ có vậy, làm căn phòng đã rộng, càng trở lên rộng lớn, mênh mông.
Đống lửa được chụm bằng năm sáu khúc củi to như bắp đùi, ngọn lửa bập bùng vươn lên cao hơn đầu người, liếm quanh đáy một chiếc vạc đồng to như cái chiêng nhỡ, nặng nề treo lơ lửng giữa nhà. Chiếc vạc đồng có ba tay quai chạm hoa văn nổi như con trăn quấn quanh miệng, được ròng xuống từ một thanh xà bằng sợi xích sắt đen trũi to như cổ tay.
Xít đưa mắt tìm kiếm xung quanh, căn phòng chẳng còn gì khác ngoài hai cái cửa trống nữa. Một cái thông ra sau nhà và một cái dường như dẫn sang một căn phòng khác bên phía tay phải.
Có một điều lạ lùng là: Xít thấy dù đang lần theo dấu vết một con quỉ đáng sợ, nhưng nó lại chưa hề thấy một khung cảnh ghê rợn, đáng sợ nào, hay một thứ nguy hiểm gì. Nơi này tuy có im lìm trống trải thật, nhưng nó vẫn có cảm giác khá yên ổn thanh bình, chẳng có hơi hướng gì của một huyệt ma, động quỉ. Thật là kỳ lạ!
Xít vừa dợm bước, định đi tiếp về phía cánh cửa dẫn ra phía sau nhà, thì bỗng nó giật mình đánh thót. Có tiếng thở dài buồn bã vừa khẽ vang lên từ đâu đó trong căn phòng này. Bước chếch người qua một bước, nhìn về phía đống lửa nó nhận ra, từ lúc vào đến giờ mải nôn nóng tìm kiếm cái bóng, nó đã không nhận ra một bóng người đang ngồi trầm ngâm, khuất sau mé bên kia đống lửa. Nhìn kỹ lại nó giật mình, đó không phải là một người bình thường. Đó là một ông già râu tóc bạc trắng như bông lau, cao lớn một cách kỳ dị. Dù đang ngồi im lìm, khom lưng đăm đắm nhìn ngọn lửa, thì ông già cũng đã cao ngang với nó. Nó có thể hình dung, nếu ông già duỗi thẳng đôi chân bên dưới kia đứng dậy, thì không biết ông ấy sẽ cao tới mức nào? Trên đời này nó chưa từng dám nghĩ có ai cao đến thế! Lấy lại bình tĩnh Xít ngắm nghía thật kỹ. Ông cụ tuy có khổ người cao lớn phi phàm, nhưng thân hình lại hoàn toàn cân đối dễ nhìn, phong thái uy nghi, chẳng hề có gì kỳ quái đáng sợ. Dưới mái tóc dài và bộ râu trắng muốt, dường như được chải chuốt, chăm sóc thường xuyên chảy dài như dải thác xuống tận thắt lưng là một khuôn mặt quắc thước, vầng trán cao rộng thông thái và hai gò má nâu đỏ bóng lựng lên dưới ánh lửa bập bùng; sống mũi xương xương gồ cao và ẩn dưới hai hàng mày rậm cũng đã trắng phau là hai hố mắt sâu thăm thẳm đang đắm chìm trong ánh lửa.
Nhìn mặt thì khó thể đoán nổi tuổi tác của ông cụ, dù rằng chắc chắn là rất già, nhưng có lẽ "già" là chưa đủ nói lên lượng thời gian đã mải miết chảy qua khuôn mặt kỳ lạ này, bởi nếp nhăn trên mặt chẳng có nhiều, nhưng nếp nào nếp ấy cũng sâu như dao khắc vào gỗ, và đặc biệt ánh mắt ông: nó sâu thẳm hun hút, nơi dường như chứa đựng thời gian không phải tính bằng năm tháng mà phải tính bằng tinh tú trên trời.
Ông cụ choàng một tấm áo dài như thể được làm từ một loại gấm quí màu xám tro, nhưng chắc do tuổi tác phong sương của nó cũng đằng đẵng chẳng kém gì chủ nhân của mình, nên hầu như ánh tuyết và màu sắc đã chuyển thành màu trắng bợt bạt. Tuy thế nó vẫn không hề mất đi dấu tích của sự vương giả, sang trọng ngày xưa ấy, khi vẫn còn giữa lại những đường chỉ bạc thêu mềm mại, tinh tế và những viên đá lấp lánh nhỏ xíu gắn trên vạt áo và hai cổ tay buông dài. Trên tay trái, nằm trong những ngón tay gầy khẳng khiu, xương xẩu của ông cụ là một chiếc tẩu gỗ cong vút, dọc cần tẩu được khảm những hoa văn bằng đồng lấp lánh, vẫn âm ỉ khói. Dựng cạnh hông là một cây gậy gỗ lớn đen bóng như mun, nặng chịch; trên đầu gậy chạm hình một chiếc đầu hươu đang cúi gập xuống, chĩa cặp sừng lên kiêu dũng.
Xít vừa định bước lại gần ông lão, thì đột nhiên từ ngoài cửa một cơn gió lớn thốc mạnh vào, nổi lên ù ù. Ngọn lửa giữa nhà oằn mình, rồi quất mạnh lên quấn lấy những thanh xà. Nước trong chiếc vạc đồng sôi ùng ục, phun trào trút xuống. Ngọn lửa như bất ngờ bị cả chảo dầu trút vào, bùng lên một quầng sáng chói lọi với ngàn vạn đốm lửa trắng toát bắn lên tung tóe. Cả ông lão lẫn Xít cùng giật mình, ngửa người ra sau. Mái tóc dài như dải thác của ông lão bị gió cuốn lên bay lòa xòa. Và đúng lúc ấy Xít nhìn thấy một vệt sáng lấp lánh trên mai tóc ông lão. Thật kỳ lạ, đó là một lọn tóc vàng óng như kéo ra từ những sợi vàng dòng, nó uốn lượn bồng bềnh ẩn giữa làn tóc trắng.
Đột nhiên ông lão đứng vụt lên, cao lớn sừng sững vô cùng, ngửa mặt lên trần. Nét mặt ông thoáng chốc trở lên héo úa, đau khổ đầy buồn bã. Ông kêu lên, tiếng kêu vang trầm đục đầy uy lực, nhưng nghe như một lời than van, thống thiết: "Vệ thần hỡi! Phải chăng người đã tới? Hãy tới đây! Tới đây! Đêm đêm, ta đã nghe tiếng bước chân, tiếng bạn bè từ nơi ấy gọi ta đi! Tiếng gươm khua, tiếng trống giục thúc hồn kiệt quệ này! Ta mệt mỏi, thật sự mệt mỏi rồi! Chẳng biết còn đủ sức chờ Người đến khi nào!"
Xít ngạc nhiên đưa mắt nhìn quanh. Ông lão đang gọi ai? Trong căn phòng này đâu còn ai khác?
Đúng lúc đó, từ miệng chiếc vạc đồng chợt bùng lên một bụm khói trắng đặc như sữa. Bụm khói vươn lên tỏa ra như hình một cây nấm trắng khổng lồ, rồi từ từ nó lan tỏa ra thành những làn sương mỏng mềm mại, và bắt đầu xoay tròn quanh miệng vạc. Cả ông lão và Xít cùng mở to mắt, trân trối, dường như chính ông lão cũng chưa từng nhìn thấy bụm khói kỳ lạ như thế bao giờ. Và rồi chợt Xít nhận ra một điều kỳ lạ khác. Từ những sợi khói mềm mại, uyển chuyển uốn lượn liên tục ấy, chẳng hiểu vì sao, nhưng Xít thấy rõ ràng hình một con ngựa kết bằng sương trắng vô cùng đẹp đẽ, đang cuốn bốn vó như mây phi ẩn hiện giữa màn sương trắng. Con bạch mã thỉnh thoảng lại ngửa đầu như hí vang, tung cái bờm dài thướt tha phấp phới. Rồi bất chợt làn sương ấy biến đổi. Con ngựa trắng bỗng chốc biến hóa thành khuôn mặt một người đàn bà, khuôn mặt một người phụ nữ màu trắng rất lớn. Không thể đoán được tuổi tác già trẻ của khuôn mặt trong sương khói ấy, nhưng đó là một khuôn mặt rất đẹp; một vẻ đẹp với thần thái đầy uy nghi, vừa vô cùng thanh thoát, sắc sảo. Cái bờm ngựa trắng bỗng biến thành một dải suối tóc mây bồng bềnh cuộn dài phía sau.
Nhưng điều làm Xít sững sờ hơn cả là ánh mắt trên khuôn mặt người phụ nữ ấy. Một đôi mắt rất đẹp, vô cùng cuốn hút, nhưng nó đầy vẻ tôn nghiêm, cao quí một cách kỳ lạ. Ánh mắt đó nhìn thẳng vào nó đăm đắm rất lạ, vẻ vừa trìu mến vừa như thương cảm. Và vời vợi trong ánh mắt ấy, như có điều gì đó muốn nói, muốn gửi gắm tới nó mà không thể cất thành lời.
Xít và khuôn mặt hư thực ấy cứ nhìn nhau chằm chằm không rời, cho đến lúc khuôn mặt ấy nhòa dần, nhòa dần tan biến. Nhưng ánh mắt ấy, dù chỉ một thoáng chốc hiện ra giữa hư ảo, mơ hồ, nhưng cũng đủ để in hằn vào tâm trí Xít mãi mãi không thể nào quên.
Gần như cùng lúc, làn khói trên miệng vạc bỗng bốc lên cao, tan dần vào khoảng không tối đen hun hút của nóc mái, chẳng để lại chút vết tích.
Vẫn cương quyết muốn theo cái bóng quỉ cho bằng được, Xít vừa định bước tới chỗ ông lão cất lời hỏi thăm. Bất ngờ, nó thấy mắt ông quắc lên giận dữ, nhìn ra phía màn đêm đã tối đen thăm thẳm trước cửa, rồi hét lên: "Tới lúc rồi!" Cây gậy đen trong tay ông lão chợt giơ cao, đâm mạnh xuống nền. Một tiếng "Ình!" chấn động vang lên. Một cơn rùng mình lan đi trên nền gỗ dày hàng gang, truyền vào vách tường đá, làm những thanh xà và gác mái khẽ rung lên. Căn nhà khổng lồ chung chiêng, mặt sàn đột nhiên cuộn sóng như mặt hồ, các phiến gỗ dày đùn lên, xoay tròn vây quanh lấy Xít nhấn xuống. Xít kinh hãi vội nhảy bật lên, lăn lộn bên nọ vùng vẫy bên kia cố thoát ra. Nó vung chân đập tay rầm rầm rồi đột nhiên bừng tỉnh, thấy mình vẫn nằm giữa rừng đêm. Đống lửa bên cạnh vẫn bập bùng cháy, còn Đan thì vẫn đang say giấc nồng ngay gần đó.
Trống ngực Xít vẫn đập thình thịch, toàn thân ướt đẫm mồ hôi như vừa chạy lao từ một đỉnh dốc xuống. Nó nằm thở dốc nhìn trân trân lên bầu trời, vẫn chưa chịu tin đó chỉ là một giấc mơ. Nó khẽ trở mình quay người sang bên cạnh, bỗng nó giật bắn mình lùi lại. Ngay bên cạnh cái đầu sói trần trụi đỏ bầm đang nhe nanh nhìn nó chòng chọc. Cái đầu rõ ràng được Đan treo trên đầu gậy cách đó bốn năm bước, vậy mà chẳng biết bằng cách nào, đã rơi xuống nằm ngay cạnh Xít không quá gang tay. Vẫn đôi mắt lườm lườm như còn sống nhăn, nhìn Xít chằm chằm. Kinh tởm, Xít ngồi nhổm dậy, vung chân đá văng nó ra xa. Đúng vào giây khắc cuối cùng, trước khi tống cho cái đầu một đá, chợt Xít nhìn thấy một hình ảnh kỳ lạ, một hình ảnh chỉ kịp bắt vào đúng khoảng khắc cuối cùng. Phản chiếu trong ánh mắt con sói là ánh lửa của đống lửa đang cháy trước mặt bập bùng. Nhưng, nhưng ngay cạnh đống lửa ấy dù chỉ thoáng qua trong chớp mắt, Xít vẫn nhận ra, không thể nhầm được một ông lão cao lớn, với mái tóc trắng dài như thác đổ, đang suy tư ngồi ôm cây gậy, nhìn đăm đắm vào ngọn lửa. Nó thét lên sững sờ, muốn rụt chân lại. Nhưng đã quá muộn, cái chân vung ra thật lực, chẳng thể thu về. Một cú đá không bung hết sức nhưng cũng đủ tống cái đầu bắn vào giữa đống lửa. Một sự nhận ra quá muộn màng. Xít vội chồm tới, lao vào dùng hai tay vục tung đống lửa bắn tung lên; mặc cho than hồng bám đầy hai cánh tay, rồi nó cũng hất được chiếc đầu sói ra. Nhưng mọi cố gắng, níu kéo đều đã muộn. Chiếc đầu sói đã xém lửa, văng ra nằm lăn lóc trên đất, đôi mắt sống động lúc trước giờ đã bám bê bết đầy tro bụi, chẳng còn thấy được gì.
Vừa lúc đó nghe động Đan bật tỉnh dậy. Vẫn còn mắt nhắm mắt mở nhìn cảnh tượng kỳ quái trước mặt, nó tròn mắt tưởng bạn mình đang phát điên. Quả thật có đời thuở nhà ai, nửa đêm lại đem chiếc đầu sói ra nướng? Rồi lại cuống cuồng bới lửa móc ra thế kia chứ? Nó lao tới, túm áo Xít kéo ra xa khỏi cái đầu sói, miệng tíu tít lo lắng gọi: "Xít! Xít! Tỉnh lại! Tỉnh lại đi, Xít!"
Chằm chằm nhìn chiếc đầu sói dính đầy than tro, lòng vẫn còn tràn ngập trong nỗi nuối tiếc khôn nguôi, chẳng buồn gỡ tay Đan ra, Xít chỉ buông một câu ủ ê: "Thì tớ vẫn đang tỉnh mà!". Nghe thằng bạn nói giọng ủ rũ, Đan túm hai vành tai Xít xoay mặt lại nhìn thẳng vào mắt mình. Thấy thần sắc chẳng có vẻ gì mê mụ. Lúc ấy Đan mới an tâm, chắc chắn thằng bạn không sao. Nó hỏi:
- Có chuyện gì vậy? Sao cái đầu sói lại ở đây?
Xít chậm dãi kể lại cho Đan nghe về toàn bộ giấc mơ kỳ lạ, và việc cái đầu sói bỗng dưng không chân mà bò đến trước mặt mình. Sau khi kể xong, nó nói:
- Ánh mắt con sói, rõ ràng có sự liên quan nào đó đến giấc mơ này! Y như sáng nay, lúc ở cái vũng cá, chúng rất giống nhau. Tất cả ban đầu đều là một vừng sáng rực rỡ, xa xăm mời gọi tớ, phát ra từ cuối rừng sâu.
- Thôi đi! Kỳ lạ thì kỳ lạ nhưng làm gì có chuyện kỳ quái đến thế! - Đan lầm bầm vẻ không tin - Mắt của một con quái thú đã chết ngẻo từ đời tám hoánh nào, lại liên quan tới sự mất tích cả mười năm trước của mẹ cậu ư? Tớ thấy chẳng có sự liên quan nào cả! Nó sống còn hại người ta, giờ chết mà lại giúp cậu sao? Mà nó chỉ là một con quái thú tội ác chồng chất, chứ đâu phải thần thánh mà đi chỉ đường cho cậu? Cái này thật quá ư phi lý! Cậu nên ra rửa mặt cho tỉnh táo lại! Có lẽ do cậu nghĩ nhiều quá mà sinh ra mộng mị thế thôi!
Xít thần người ra chép miệng, lời Đan nói không hẳn không có lý. Nhưng nó vẫn chưa chịu.
- Không, không đời nào! - Xít cự lại - Dù chỉ là giấc mơ, nhưng tớ chưa bao giờ cảm thấy nó thật đến thế! Cái sàn gỗ mát lạnh, ánh lửa hồng rực phả ra còn rát mặt, cả cái ông già cao lớn có những sợi tóc vàng ấy nữa... Tất cả đều rất thực! Nhất là hình ảnh cái bếp lửa giữa nhà vẫn y hệt trong ánh mắt con sói khi tớ đã hoàn toàn tỉnh táo! Tất cả rõ ràng và chi tiết như một chuyến đi, chứ không hề giống mộng mị! Tại sao lúc đó tớ lại không thể kìm nổi cái chân mình chứ? - Xít rên rỉ tự trách - Nếu không, chắc chắn đôi mắt đó sẽ còn cho tớ biết nhiều điều nữa! Nó chẳng khác gì một lời chỉ dẫn tỉ mỉ vậy! Dù sao tớ cũng cảm thấy thế!
- Thôi được, cho dù là thật, thì cũng sao mà tìm chứ? - Đan nói - Trong giấc mơ của cậu toàn những điều kỳ lạ, chưa ai từng nghe thấy bao giờ! Làm sao mà tìm?
- Dù là dù... thế nào? Cậu có vẻ không tin tớ! - Xít nói - Ai dám nói là những điều kỳ lạ ấy chưa ai từng thấy? Chúng ta chưa từng thấy, đâu có nghĩa trên đời cũng chưa ai từng thấy? Từ bé đến giờ chúng ta đã bao giờ rời xa cái bản Tơ Gúc quá ba ngày đường đâu, mà biết có hay không? Nếu nó là thật, tớ tin trên đời nhất định sẽ có người sẽ biết chúng! - Xít vẫn khăng khăng bảo vệ suy nghĩ của mình.
- Thôi được! - Đan đành xuống nước, chấm dứt cuộc tranh cãi - Việc này ta cứ để về hỏi cụ Sóc. Chỉ có cụ mới đủ từng trải, thông thái để biết điều này đúng hay sai. Trước mắt chúng ta phải tìm đường về trước đã.
Xít gật đầu đồng tình với bạn. Nhưng ánh mắt nó thì vẫn bâng khuâng, cố níu kéo sống lại khoảng khắc trong cái giấc mơ kỳ lạ ấy.
Nhìn trời cũng sắp tờ mờ sáng, hai đứa quyết định dậy nai nịt quần áo, đưa chiếc đầu sói lấm láp tro bụi lại vào cái túi, lần này Đan buộc hẳn hai lớp thật chặt, rồi chuẩn bị lên đường khởi hành sớm.
Chẳng có gì phải vội vã, chúng cứ nhắm thẳng hướng Đông mà đi. Thủng thẳng tới trưa thì chúng vượt qua một sườn dốc chắn trước mặt. Leo lên đỉnh dốc, đứng trên một mũi đá cao, chúng phóng tầm mắt ra xa, bao quát khắp bốn bề rừng núi xung quanh.

Đã hai ngày nay toàn luồn rừng, phải đi giữa những vùng trũng thấp, cây cối bịt bùng, khí ẩm bí bách, giờ được đứng trên đỉnh cao khoáng đạt, đón những cơn gió ngàn lồng lộng thổi luồn vào từng lọn tóc mát rượi, vờn tung tà áo mơn man da thịt, hai đứa cảm thấy sảng khoái như vừa trút bỏ được một chiếc áo khó chịu bó khít lấy người. Vươn vai, ngửa mặt lên trời hứng những tia nắng mặt trời ấm áp đang tỏa sáng, Xít căng ngực hít mấy hơi thật sâu cho thỏa thích, rồi mới thong thả nhìn ngắm địa hình xa xa phía trước.
Phía trước mặt hai đứa rừng núi vẫn trải ra trùng trùng ngút ngàn, nhưng hơi chếch về phía Đông Bắc có một dải núi cao nhô hẳn lên khỏi đường chân trời. Xít thầm ước lượng khoảng cách, từ đây tới đó ít nhất cũng phải đi mất ba ngày đường nếu không có gì sảy ra. Và chắc chắn dải núi ấy không phải là một phần của dãy Kỳ Giông, vì nó có vẻ không kéo dài và cũng không chạy cùng hướng với dãy núi chỉ đường của chúng.
Phía trước bên phải nó là những ngọn đồi thấp san sát như bát úp nối nhau thành một vệt dài, đường khá dễ đi, cây cối lại có vẻ quang quẻ hơn. Chẳng cần nhìn phía còn lại nó biết mình sẽ chọn lối ấy để đi tiếp khi xuống khỏi sườn dốc này. Nhưng nó sớm nhận ra sự dễ dàng nhàn hạ ấy chẳng được bao lâu vì ngay sau dải đồi nối nhau kế tiếp ấy không xa, nó thấy địa hình rừng núi lại trở lên
- Cậu có thấy một vệt nhỏ lấp loáng phía xa xa kia không? - Xít chỉ tay về phía Bắc hỏi.
Đan chăm chú nhìn một hồi rồi nói:
- Tớ thấy rồi! Có vẻ là một con sông nhỏ chảy ngược lên hướng Bắc.
Dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc này tuy không cao lớn hiểm trở, nhưng có vẻ rất dài; hai đứa đã men theo nó đi liên tục bốn ngày trời mà dường như dãy núi vẫn cứ vươn ra hun hút chẳng hề có ý định dừng lại hay đứt quãng. Cũng may chỉ qua sớm ngày thứ hai thì dãy núi đã đổi hướng bẻ xuôi dần về phía Đông, trùng với hướng mà hai đứa đang chủ đích nhắm tới, nên trên đường đi chúng cũng không lấy gì làm lo lắng, sốt ruột cho lắm!
Qua ngày thứ năm, hai đứa quyết định tách ra khỏi dãy núi vẫn đang miệt mài trườn về phía Đông, để rẽ ngang đi chếch lên hướng Đông Bắc. Vì theo ước đoán của Xít, nếu cứ thẳng hướng Đông liên tục thế này, có đến được chân dãy Kỳ Giông, chúng cũng sẽ cách rất xa hẻm Mõm Ngựa, lúc đó chúng sẽ lại phải mất công lần ngược lên hướng Bắc.
Rời đường ven chân núi, tách khỏi con suối chảy ào ạt đã nghe quen tiếng mấy ngày nay, hai đứa rẽ qua bên trái bắt vào một vùng rừng thưa bạt ngàn toàn Trám trắng, Thành ngạnh, Sồi ghè... địa hình bằng phẳng khá dễ đi, lâu lâu chúng mới gặp một triền dốc nghiêng thoai thoải. Hai đứa giữ tốc độ đi khá nhanh. Nhưng có điều, chẳng xác định được mình đang ở đâu, nên hai đứa cũng chẳng biết quãng đường ấy có mang lại lợi ích gì không?
Trưa hôm sau, sau một chặng đường dài đi liền một mạch từ sáng cho đến tận lúc mặt trời lên giữa đỉnh đầu, trong bầu không khí nắng gắt khá oi ả, hai đứa mới dừng chân nghỉ ăn trưa. Đồ ăn chẳng còn nhiều. Chỉ còn vài miếng thịt rừng săn được từ hai, ba hôm trước với tép rau ven suối mà chúng đã tranh thủ thu hoạch nốt sáng hôm qua, trước khi rời bỏ dòng suối.
Như mọi khi, vừa dừng chân là Xít bỏ cái túi xuống chuẩn bị đi quanh một vòng nhặt ít củi khô về nhóm lửa, còn Đan lấy chiếc nồi đồng cùng chỗ thức ăn ra chuẩn bị nấu nướng. Vừa chuẩn bị hai đứa vừa câu qua câu lại trò chuyện.
Đang lúi húi cúi xuống, chợt Xít thấy Đan bỗng ngừng tay ngồi dựng thẳng lưng lên, nét mặt ngưng trọng, rồi nó đưa ngón tay lên miệng khẽ "suỵt!" ra hiệu cho Xít im lặng. Giật mình, chưa cần biết có chuyện gì, Xít cứ nhoài người túm lấy ngọn lao để bên cạnh mình thế thủ cái đã. Vừa lo ngại nhìn chằm chằm vào mắt Đan, Xít vừa cố phán đoán xem thằng bạn đã phát hiện ra điều gì. Nhưng Đan vẫn ngồi im phăng phắc, không nói năng gì, nó đang tập trung, dỏng đôi tai lên nghe ngóng.

Chờ lâu sốt ruột, Xít khẽ thì thào hỏi:
- Gì vậy?
- Cậu vừa có nghe thấy tiếng gì không? - Đan khẽ hỏi.
- Không, chẳng nghe thấy gì cả?
- Vừa rồi như có tiếng tù và ở đâu đó vọng tới, rất xa! - Đan nói nhỏ trong khi đôi tai nó vẫn dỏng lên nghe ngóng.
- Sao thế được? - Xít nói - Làm gì có ai sống giữa đại ngàn này chứ?
- Không rõ, tiếng nghe xa xôi và phải để ý lắm mới..! Đấy! Đấy! - Đan giật lên - Cậu nghe thấy không? Nó lại đang vang lên đấy!
Xít cũng đờ người ra, dỏng tai lên lắng nghe, và rồi quả thật nó cũng nghe thấy tiếng tù và "ù ù" trầm đục từ đâu đó đằng xa xa, giữa đại ngàn vọng lại. Tiếng tù và lúc nổi lên lúc lắng xuống như nương theo gió mà tới, phập phù không rõ hẳn. Nhưng giờ thì có thể đoán chắc đó là tiếng tù và.
Trong rừng có người!
Mừng rỡ quá đỗi, quên phắt tất cả, Đan và Xít cùng đứng bật dậy, bắc tay lên miệng hú thành những tràng dài như sói tru. "Hu.. hu.. hú...ú!" "Hu.. hu.. hú..ú!" Những tiếng hú tràn đầy sức lực của cái tuổi mới chớm đôi mươi, ép ra từ đôi lồng ngực căng tràn vạm vỡ, dồn đuổi nhau, vang vọng lan đi, thức tỉnh cánh rừng già đã ngủ vùi ngàn năm.
Hai đứa cứ dồn sức hú một chặp rồi lại tạm ngưng, để nếu có ai đó đang lắng nghe cũng dễ nhận ra. Và rồi chúng nhảy cẫng lên vì mừng, khi dường như kẻ thổi tù và đằng xa cũng đã nhận ra tiếng hú của chúng, cứ xen giữa mỗi hồi hú gần như đứt hơi chúng lại nghe tiếng tù và đáp lại, dường như ngày một gần hơn. Không chờ đợi được nữa, hai đứa quên cả nhặt đồ xách túi, chúng lao người chạy phăng phăng trên nền rừng thoai thoải phóng về phía tiếng tù và đang vóng lên. Rồi chẳng bao lâu, chẳng cần tiếng tù và, chẳng cần hú nữa chúng đã nhìn thấy thấp thoáng có những bóng người từ dưới cũng đang hăm hở chạy ngược lên. Thoáng chốc Đan đã tròn mắt kinh ngạc kêu lên, vừa mừng vừa thảnh thốt:
- Chú Vàng a Sử! Bác Thào Phía! Trời đất, người bản mình! Người bản mình Xít ơi!
- Ôi trời! Thằng Đan, thằng Xít! Thôi đúng rồi! Đúng là thằng Đan, thằng Xít đây mà! - Bác Thào Phía gần như cũng trợn tròn mắt ngạc nhiên hét lên.
Cả bốn người cùng lao tới ôm chầm lấy nhau. Vừa kêu lên kinh ngạc, sung sướng, họ vừa hít hà vỗ bồm bộp vào lưng nhau. Những câu hỏi cứ chen lấn tuôn ra như mưa, mà chẳng ai chịu nhường ai trả lời.
- Ôi trời! Quỉ thần ơi! Hai đứa mày còn sống thật sao? - Bác Thào Phía vừa kêu lên vừa túm lấy tay lấy vai hai đứa nắn nắn, bóp bóp như để chắc chắn một lần nữa chúng vẫn còn sống bằng xương bằng thịt thật - Tạ ơn trời đất! Thế mà cả bản đã tin chắc như dao chém cột rằng chúng mày chết rồi cơ đấy! Thành con ma rừng, ma núi rồi! Còn chẳng nghĩ sẽ tìm được xác nữa kia! Sao..? Sao..? Thế chúng mày có tìm thấy dấu tích gì của nó không? Con Sói Hai Đầu ấy? Mà sao đã đi cả tháng trời mà giờ chúng mày lại ở đây?
- Thôi nào, thôi nào! Cái lão Thào Phía lẩm cẩm, lắm mồm này! - Chú Vàng A Sử mắng bác Thào Phía - Để chúng nó còn thở đã chứ! Còn sống là tốt rồi! Cứ để từ từ chúng nó sẽ kể, mai đã giỗ lão đâu mà lão cứ hối như hối trâu đẩy gỗ vậy?
Đan và Xít cùng bật cười.
- Thôi được rồi! Hai đứa từ từ kể đi - Bác Thào Phía lại giục.
Không để chú Vàng A Sử sắp mắng chặn bác Thào Phía lần nữa, Đan nói luôn.
- Dạ, khỏi cần phải tìm dấu vết nó nữa đâu! Chúng cháu đã mang đầu nó về đây rồi!
- Sao? Cái gì cơ? - Hai người cùng sững sờ hỏi lại, như không tin vào tai mình - Hai.. hai.. Đứa đã hạ được con ác quỉ ấy? - Bác Thào Phía và chú Vàng A Sử cùng sững sờ tròn mắt lên hỏi.
- Vâng, chúng cháu đã chặt đầu nó mang về đây! - Xít nói thay bạn.
- Đâu? Đâu? Cái đầu sói ấy đâu? Chúng mày đã hạ được nó thật rồi sao? Quỉ thần ơi! Thật không? Sao chúng mày làm được điều đó? Giàng ơi! Quỉ thần ơi? Chúng mày không đùa đấy chứ? Tao tin được không? - Bác Thào Phía kêu lên, mắt trợn tròn thực sự kinh ngạc.
- Chúng cháu để nó trong chiếc túi trên kia. Vừa rồi vì nghe thấy tiếng tù và mừng quá mà vội chạy xuống, chẳng kịp mang theo! - Đan nói.
- Mau, hai đứa mau đi lấy về đây! - Giờ thì cả chú Vàng A Sử cũng giục rối lên.
- Còn hai người sao lại đơn độc lang thang giữa rừng thế này? - Đan hỏi lại.

- Úi dà! Chuyện dài lắm! Nhóm ta đi cả thảy chín người cơ! - Chú Vàng A Sử nói - Lúc gần trưa, thằng A Ní và thằng Kờ'mo được giao đi lấy nước ở con suối dưới chân thác đá dưới kia. Mà chúng đã đi khá lâu chưa thấy về, sợ đã sảy ra chuyện gì, nên chúng ta mới chia nhau ra đi tìm. May mà vì thế hai đứa mới nghe được tiếng tù và đấy! Nếu không biết chừng, chả chắc đã gặp được nhau. Nếu thế ôi chao, bọn ta còn lang thang, lần mò trong rừng này chưa biết đến bao giờ. Thôi hai đứa mau đi lấy túi về đây, để ta và lão Thào Phía tiếp tục đi tìm những người còn lại!
Xít và Đan lập tức quay trở lại chỗ cũ lấy đồ đạc túi tắm. Khi chúng quay lại thì chín người kia đã có mặt đông đủ.
Tất cả ào lại ôm chầm lấy chúng, ngợi ca khen ngợi không tiếc lời, nhìn chúng bằng con mắt ánh lên niềm thán phục. Từ nay hai đứa đã trở thành những vị anh hùng của bản làng Tơ Gúc rồi.
Ngay sau đó họ đòi được xem cái thứ mà tất cả đang nóng lòng mong đợi.
Cái đầu sói được giở ra đặt ngay trên một tảng đá. Tất cả đám thợ săn, dù toàn đàn ông đã quen lăn lộn rừng rú, chẳng gì mà chưa từng gặp, cũng không khỏi giật mình nhăn mày nhăn mặt, khi thấy cái đầu đỏ hon hỏn, trụi lông vẫn còn nhe nanh tua tủa được lột ra. Nó khác xa so với những gì họ hình dung: nhỏ bé hơn, nhưng hình thù quái đản, dị hợm thì thật không ai ngờ. Và quả là một bằng chứng không thể nào thuyết phục hơn.
- Úi dà! Chuyện dài lắm! Nhóm ta đi cả thảy chín người cơ! - Chú Vàng A Sử nói - Lúc gần trưa, thằng A Ní và thằng Kờ'mo được giao đi lấy nước ở con suối dưới chân thác đá dưới kia. Mà chúng đã đi khá lâu chưa thấy về, sợ đã sảy ra chuyện gì, nên chúng ta mới chia nhau ra đi tìm. May mà vì thế hai đứa mới nghe được tiếng tù và đấy! Nếu không biết chừng, chả chắc đã gặp được nhau. Nếu thế ôi chao, bọn ta còn lang thang, lần mò trong rừng này chưa biết đến bao giờ. Thôi hai đứa mau đi lấy túi về đây, để ta và lão Thào Phía tiếp tục đi tìm những người còn lại!
Xít và Đan lập tức quay trở lại chỗ cũ lấy đồ đạc túi tắm. Khi chúng quay lại thì chín người kia đã có mặt đông đủ.
Tất cả ào lại ôm chầm lấy chúng, ngợi ca khen ngợi không tiếc lời, nhìn chúng bằng con mắt ánh lên niềm thán phục. Từ nay hai đứa đã trở thành những vị anh hùng của bản làng Tơ Gúc rồi.
Ngay sau đó họ đòi được xem cái thứ mà tất cả đang nóng lòng mong đợi.
Cái đầu sói được giở ra đặt ngay trên một tảng đá. Tất cả đám thợ săn, dù toàn đàn ông đã quen lăn lộn rừng rú, chẳng gì mà chưa từng gặp, cũng không khỏi giật mình nhăn mày nhăn mặt, khi thấy cái đầu đỏ hon hỏn, trụi lông vẫn còn nhe nanh tua tủa được lột ra. Nó khác xa so với những gì họ hình dung: nhỏ bé hơn, nhưng hình thù quái đản, dị hợm thì thật không ai ngờ. Và quả là một bằng chứng không thể nào thuyết phục hơn. Sau một lúc hả hê nhìn ngắm, bàn tán về cái đầu sói kinh tởm ấy, mọi người gói ghém nó lại, để xa ra một góc rồi cùng dọn đồ ra ăn uống.
Cuộc đi săn tưởng chừng dài đằng đẵng giữa đại ngàn mênh mông, bất ngờ được rút ngắn, kết thúc trong niềm vui khôn tả. Thế nên chẳng có gì ngăn cản được họ lập tức bày ra tất cả chỗ đồ ăn mang theo, làm một bữa thật ê hề, thịnh soạn ngay giữa rừng, và tất nhiên buổi ăn mừng đầu tiên ấy không thể thiếu chất men cay của thứ rượu Giắng, cái mà cánh đàn ông ai cũng lén mang đi ít nhiều.
Vậy là họ sẽ sớm được về nhà! Sớm được gặp lại vợ con! Còn gì tuyệt bằng khi không còn phải chui luồn, tìm kiếm một cách gian nan từng gốc cây, ngọn cỏ giữa cánh rừng mộng mị, yêu ma, đầy dẫy những truyền thuyết rùng rợn này để được trở về nhà? Được trở về dưới mái nhà thân yêu, đầm ấm! Và từ đây, vĩnh viễn cái bóng ma hai đầu khốn kiếp ấy mãi mãi tan biến, chẳng bao giờ còn quay trở lại ám ảnh được họ nữa! Tất cả là nhờ hai đứa, Đan và Xít, những đứa con anh hùng của bản làng Tơ Gúc!
Những chiếc bát gỗ được xếp ra vang lên tiếng lách cách, hòa cùng tiếng cười nói rôm rả; tiếng rót rượu ồng ộc, quá vui nên lỡ tay đổ tràn lênh láng trên cả nền rừng. Mùi men theo gió thơm ngào ngạt lan tỏa, chưa trên đầu lưỡi mà đã nghe ngây ngất. Mọi người cùng vui vẻ ngửa cổ uống cạn. Bữa tiệc mừng chiến công sớm càng lúc càng sôi động náo nhiệt theo men rượu Giắng dâng cao. Đan và Xít được yêu cầu kể lại hành trình tìm diệt con quái thú. Câu chuyện quá dài, nên hai đứa thay nhau kể lại toàn bộ câu chuyện, nhưng chúng quyết định không kể về Con Chim Trắng và những gì liên quan tới nó, bởi chúng chưa biết có nên tiết lộ cho mọi người biết về bức tượng ngọc đang nằm trong cái túi ngay bên cạnh hay không?
Tất cả đều tròn mắt ra nghe như nuốt từng lời về những thứ kỳ lạ mà hai đứa đã gặp trên đường đi: cặp mãng xà khổng lồ, thung lũng đỏ, cánh Rừng Chết... Những thứ tưởng chỉ có trong truyền thuyết. Rồi cơn mưa bụi lấp lánh... Và nhất là trận quyết đấu sinh tử bên đầm lầy. Mọi người đều không giấu được sự thán phục sự thông minh mưu trí của hai đứa. Và họ nhìn Đan bằng con mắt thực sự ngưỡng mộ khi Xít kể lại cú tấn công ghê gớm bằng hàm răng xé rách họng con sói, đòn đánh quyết định thắng bại của cuộc chiến. Trong khi đó Đan chỉ ngồi cười bẽn lẽn.
Sau bữa ăn, họ nghỉ ngơi một lát rồi khẩn trương lên đường quay về. Vì họ cần phải báo gấp cho những nhóm thợ săn khác đang lang thang trong khắp cánh rừng bạt ngàn này biết về cái tin trọng đại đáng mừng kia, nếu không, e rằng những người khác sẽ đi quá xa mà chẳng kịp nhận tin.
Ông Chư K'rê trưởng nhóm, phân công A Chon và chú Vàng A Sử bỏ đồ đạc túi tắm lại cho nhẹ chân đi trước. Xít không hiểu, hỏi ông:
- Sao phải để họ người không đi trước?
Ông Chư K'rê bảo:
- Chuyện là, sau khi cả đoàn thợ săn của bản vượt qua đỉnh Mõm Ngựa, Trưởng bản Y Tý đã phân công chia ra thành nhiều nhóm, mỗi nhóm trên dưới mười người có đủ cả già lẫn trẻ để tương trợ nhau. Tất cả phân ra được chín nhóm, sau khi xuôi xuống phía Nam chừng ba ngày đường, dọc theo những khe núi hẹp hiểm trở, thì các nhóm bắt đầu tỏa vào rừng như những nhánh rễ cây và bắt đầu lùng sục, tìm kiếm dấu vết con sói Hai Đầu. Trước khi tách ra, Trưởng bản yêu cầu các nhóm chỉ tìm kiếm trong vòng khoảng tầm năm sáu dặm. Rồi ông chọn một mỏm núi đá trọc khá cao dựng lên ở chỗ thoáng đãng, từ mọi phía có thể nhìn thấy nó từ cách xa vài dặm và căn dặn, nếu nhóm nào tìm thấy vết chân sói đầu tiên thì cho người về, lên đỉnh núi đá ấy đốt lửa làm hiệu để các nhóm khác biết mà tập hợp về đó. Rồi sau đó cả đoàn sẽ tiếp tục họp bàn lên kế hoạch lần theo dấu vết con sói tỉ mỉ hơn. Vì vậy giờ ta mới cho A Chon và Vàng a Sử về trước đốt lửa báo tin.
- Quả là Trưởng bản hết sức cẩn trọng chu đáo! - Xít thốt lên.
Càng nghĩ nó càng thấy rõ vì sao mọi người lại lo lắng cho chuyến đi đầy nóng vội, bất cẩn, hấp tấp của chúng đến vậy.
- Vậy là từ đây chỉ còn dăm ba ngày nữa là về tới đỉnh Mõm Ngựa ư? - Đi bên cạnh cùng nghe chuyện ông K'rê kể, Đan mừng rỡ bật kêu lên.
- Không, không nhanh vậy đâu! - Ông K'rê nói - Vì kể từ chặng tách ra đầu tiên bọn ta đã đi được thêm hai chặng nữa, nên đường từ đây về đỉnh Mõm Ngựa chắc chắn không dưới chục ngày đường nữa. Mà hai đứa mày rời bản cũng được cả tháng rồi ấy nhỉ?
- Chúng cháu cũng chẳng tính ngày, nhưng cứ theo khuôn trăng thì cũng phải cỡ ấy! - Xít đáp - Mà sao mọi người đã đi lâu thế mà giờ mới cách đỉnh Mõm Ngựa hơn chục ngày đường? Mà mọi người có tìm thấy vết chân sói ở vùng này không? - Xít thắc mắc hỏi.
- Chúng ta đã phát hiện ra vết chân sói Hai Đầu ngay sau ngày thứ tư kể từ lần đầu tiên tách ra - ông K'rê nói - Nhưng sau khi tập hợp lại, lần theo dấu chân nó đi tít xuống phía Tây Nam được ba bốn ngày thì lại mất dấu, chẳng thấy dấu vết gì của nó nữa. Nên các nhóm lại phải chia ra tiếp tục lùng sục từ đó. Hơn nữa chuyến đi này còn bị chậm trễ bởi một chuyện khác! - ông K'rê bỗng hạ giọng trùng hẳn xuống.
- Là chuyện gì thế ạ? - Đan và Xít sốt sắng, đồng thanh hỏi.
Trong lúc ông K'rê còn đang suy nghĩ tìm câu mở lời thì một người khác đã chen vào trả lời thay ông. Đó là chú Khăn Ri người sống ở cuối bản, người có thân hình nhỏ nhắn, săn chắc nhưng cũng có tiếng là nhanh tay lẹ mắt nhất bản, được mọi người đặt cho cái biệt danh "sẻ đá". Chú Khăn Ri nói:
- Chuyện là thế này! Sau khi đi hết chặng thứ hai được vài ngày, tức cách đây hơn chục ngày, thì đột nhiên bọn ta thấy trên mỏm núi đá ước hẹn có ánh lửa bùng lên rất sáng, ánh lửa rất lớn chứng

tỏ có việc đang rất khẩn cấp. Tất cả mọi người đều cho rằng: với ánh lửa như thế không chỉ có nhóm nào đó đã phát hiện ra dấu vết sói Hai Đầu mà có thể đã đụng độ với nó cũng nên. Bọn ta đều vội vã kéo về tập trung nơi chân núi. Nhưng khi về tới nơi chúng ta mới biết ánh lửa kêu gọi không phải vì chuyện sói Hai Đầu, mà là vì chuyện A lủa bị nạn.
- Chú A lủa làm sao? - Cả Đan và Xít cùng bật lên, đồng thanh hỏi.
Chúng sốt sắng bởi chú A lủa là người rất hiền lành, tốt bụng, vốn dĩ thể chất không được khỏe mạnh cho lắm, chẳng phải là một thợ săn cừ, nhưng sống rất vui vẻ hòa nhã với mọi người, nên trong bản từ người già tới trẻ nhỏ ai cũng quí mến chú; với hai đứa cũng vậy. Lần này ngay cả chú cũng đòi đi và trưởng bản cũng chấp nhận, chứng tỏ người dân bản làng Tơ Gúc quyết tâm thế nào! Nên hai đứa cảm thấy thật đáng buồn nếu có mệnh hệ gì với chú. Dù chẳng phải ruột già thân thích, nhưng nếu có điều gì sảy ra với chú A lủa thì quả thật niềm vui chiến công này sẽ chẳng còn chọn vẹn.
- Không, A lủa chỉ bị thương nặng chứ không chết! - Thấy hai đứa thảnh thốt chú Chăn Ri vội nói, làm Đan và Xít thở phào.
- Vậy đã sảy ra chuyện gì với chú ấy? - Xít hỏi.
- Chuyện là thế này! - Chú Chăn Ri kể - A lủa đi cùng nhóm với trưởng bản Y Tí. Sau khi tụ tập về chân núi bọn ta được nghe kể rằng: trước đó ba ngày. Vào cuối buổi chiều hôm ấy, vì nôn nóng sốt ruột, cả nhóm cố rà soát nốt một khoảng rừng thưa, mong lần tìm ra chút dấu vết con sói trước khi ánh mặt trời tắt hẳn. Đang sục sạo dò xét tìm kiếm, thì chợt họ nghe đánh "roạt" có tiếng gì đó phóng đi. Rồi họ nghe tiếng A lủa hét lên thất thanh. Trong ánh chiều đã nhập nhoạng cùng sau những gốc cây cổ thụ dầy dịt che khuất, họ thấy thấp thoáng một thân hình màu xám tro to lớn lôi A lủa phóng đi vun vút. Thứ đó phóng đi rất nhanh. Trong rừng từ trước tới giờ chưa ai từng thấy thứ gì di chuyển nhanh như vậy. Tiếng kêu cứu của A lủa cũng mỗi lúc một xa dần. Cứ với tốc độ ấy mọi người tin rằng A Lủa đã bị con sói Hai Đầu tha đi và không còn hi vọng gì cướp lại người. Dù vậy mọi người vẫn hò nhau vung giáo mác ra sức đuổi theo. Chẳng ngờ chạy được một đoạn thì họ thấy con sói bỏ lại A lủa nằm chết ngất bên một bụi cây, mặc dù với tình thế như thế nó có thừa thời gian để mang A lủa đi. Trưởng bản lập tức ra lệnh cho mọi người quây tròn thành một vòng cầm chắc vũ khí sẵn sàng quyết chiến với Con Sói. Còn ở giữa ông cùng hai người nữa nâng A lủa dậy xem xét. Hóa ra A lủa chỉ bị ngất do bị đập đầu vào gốc cây, nhưng trên vai và sườn bị hai vết cắn khá nặng. Những vết thương lớn đỏ lòm và ròng ròng máu, chứng tỏ bị tấn công bởi một hàm răng rất lớn và sắc, tức ra lệnh cho mọi người quây thành một vòng tròn bảo vệ xung quanh, cầm chắc vũ khí sẵn sàng quyết chiến với Con Sói. Còn ở giữa ông cùng hai người nữa nâng A lủa dậy xem xét. Hóa ra A lủa chỉ bị ngất do bị đập đầu vào gốc cây, nhưng trên vai và sườn đều bị hai vết cắn khá nặng. Những vết thương lớn đỏ lòm và ròng ròng máu, chứng tỏ bị tấn công bởi một hàm răng rất lớn và sắc. Bởi vậy họ càng tin đó chỉ có thể là con sói Hai Đầu. Rất may những vết thương lớn ấy chỉ ở phần mền không đụng vào chỗ hiểm, chỉ duy có vết thương bên sườn do những chiếc nanh dài cắm vào đến tận xương, lộ ra trắng hếu. Ông Y Tí liền lấy những gói thuốc cụ Sóc đã chuẩn bị trước đưa cho trước khi lên đường đắp dịt cho A lủa, rồi mọi người nhanh chóng tìm một nơi kín đáo phòng bị, dựng trại tạm chăm sóc cho người bị thương. Đêm đó hầu như mọi người không ngủ, họ thức canh chừng tình hình vết thương của A lủa, và bàn tán thắc mắc mãi không thôi về chuyện sao con sói lại bỏ A lủa lại, khi nó có thừa thời gian để mang anh ta đi. Ngay sáng hôm sau trưởng bản cắt cử ba người băng rừng về núi đốt lửa kêu gọi các nhóm tụ về bàn bạc.
Nhưng đến trưa hôm sau, khi A lủa trở mình tỉnh lại, qua những lời kể thì thào vì vẫn còn rất yếu thì mọi người đều hoàn toàn bất ngờ và một nỗi lo lắng mới được nhân lên gấp đôi.
Chuyện là, như lời A lủa miêu tả lại thì con vật kỳ lạ đó hoàn toàn có nhiều cái không hề giống sói Hai Đầu. A Lủa đã kể lại rằng: khi đang dò dẫm tìm vết chân sói, đi ngang một bụi cây chắn lối, anh ta vừa đưa tay vạt ra thì bỗng nhìn thấy một đôi mắt lớn đã chằm chặp núp trong bụi nhìn anh ấy tự bao giờ. A lủa chưa kịp kêu lên thì nó đã phóng thẳng vào người anh đớp một miếng chí mạng vào sườn, rồi ngoạm vào vai anh lôi đi. Anh còn chẳng kịp trông thấy hình thù nó ra sao. Trong lúc nó phóng đi, anh ấy chỉ thấy gió rít ào ào bên tai, thân mình văng vật đập vào cây cối tưởng gãy vụn hết xương cốt. Nhưng có một điều, anh ấy nói, trong lúc bị lôi đi, tay anh ấy cố bám víu vào mọi thứ mong níu kéo lại đã vô tình quào vào sườn con vật.

Anh ấy thề rằng đó không phải là một lớp lông dày mà bàn tay anh đã chạm vào một lớp da kỳ lạ, nó có vảy sừng như vẩy rắn, to, dày và rất cứng. Và anh ấy còn nói, ngay sau khi bị con thú vứt lại nơi bụi cây, lúc ấy vẫn còn chưa lịm hẳn, anh ấy đã nghe mơ hồ như có tiếng vỗ của một đôi cánh rất lớn ào ào phóng vút lên.
- Nó có cánh sao? - Cả Xít và Đan cùng khẽ bật thốt lên đưa mắt nhìn nhau. Không nói nhưng trong đầu cả hai đứa đều bất chợt nghĩ tới con Chim Trắng. Nhưng cũng ngay lập tức trong đầu chúng bật lên những lời biện minh - Không thể là con Bạch Linh Điểu, thân hình nó đâu có vảy, và nó không bao giờ tấn công người vô tội như thế!
Lời kể của A lủa làm mọi người vô cùng sửng sốt - Chú Chăn Ri vẫn tiếp tục kể -Trên đời này làm gì có loài thú nào kì dị như vậy? Da sừng, có cánh, lại có hàm răng như rìu bổ củi như thế? Nhưng lời của một người thật thà lại vừa sượt qua cái chết như A lủa thì mọi người không thể không tin. Vì vậy trưởng bản Y Tí đã quyết định mang theo hai người nữa quay lại chỗ bụi cây A lủa đã bị bỏ lại xem xét. Ở đây ông đã tìm thấy những vết chân to như cái bát, giống hệt dấu chân loài sói khổng lồ. Nhưng ông tuyên bố vẫn tin vào lời của A lủa. Bởi dọc theo đường chạy của những vết chân, trên các cành lá đâm ngang, ông đã tìm kiếm rất kỹ, nhưng không hề tìm thấy bất cứ nhúm lông nào mắc lại. Một điều không thể không sảy ra nếu một con thú rậm lông như sói Hai Đầu xẻ đường băng qua đó. Hơn nữa quanh chỗ A lủa bị bỏ lại quả thật họ không tìm thấy bất cứ vết chân nào khác. Rõ ràng con vật bí ẩn ấy chỉ còn cách bay lên trời mới không để lại dấu vết nào như thế! Tiếng vỗ cánh mà A lủa nghe thấy không hề nhầm. Những lời kể của A lủa là hoàn toàn tin cậy, chỉ có điều khó tin là trên đời lại có loài thú kỳ dị như thế!
- Trong khu rừng này còn lắm loài thú kỳ dị lắm, mọi người không tưởng tượng được đâu! - Đan bật nói.
Xít ngầm liếc Đan, không hiểu trong câu nói đó có ý ngầm nhắc tới con Chim Trắng, ân nhân của hai đứa không.
- Chưa hết, trưởng bản Y Tí còn kể - Chú Chăn Ri tiếp - Khi đi quá thêm một đoạn, ba người họ còn thấy một khúc sông cạn, lòng máng tròn vành vạnh và hai bờ đều tăm tắp. Nhìn tựa như có bàn tay con người đào vét giữa rừng, trông rất kỳ lạ nữa!
- Vậy sao? Con sông cạn, đáy tròn vành vạnh đúng không? Thế thì chính là nó! Là nó đấy! Khúc sông cạn mà bọn cháu đã từng kể, nơi đụng đầu cặp mãng xà khổng lồ! Nó kéo dài tận tới đó sao? - Đan bật thốt lên.
- Ta không biết đó có phải khúc sông cạn hai đứa đã gặp hay không. Ta chỉ nghe trưởng bản kể vậy! Rằng nhìn nó rất kỳ lạ!
- Chính là nó! Trên đời này chẳng còn khúc sông cạn nào kỳ lạ như thế đâu! Chẳng ngờ nó kéo dài tận xuống phía Nam này! - Xít xác nhận lời Đan.
- Trước khi chúng ta về đến nơi trưởng bản đã cắt ra bảy người làm cáng đưa A lủa về bản cho cụ Sóc tiếp tục chữa trị. Theo ông ấy nói thì tình hình của A lủa không quá nguy kịch, hai vết thương sau khi lau lọt, băng bó hoàn toàn có thể cầm cự về đến bản. Một vài người đã tỏ ra lo lắng, nhụt chí sau khi nghe chuyện kể về loài quái thú bí ẩn mới, nhưng trưởng bản đã cương quyết không chịu từ bỏ cuộc săn lùng. Lần này ta thấy quyết tâm của ông ấy cao như đỉnh Tà Lèn vậy! Sau đó tất cả ở lại dưới chân núi tụ họp thêm hai ngày nữa, để bàn bạc cách đối phó với hiểm họa mới nảy sinh. Trưởng bản đã chia ra thêm cho mỗi nhóm ba người nữa, vì thế từ chín nhóm ban đầu nay chỉ còn bảy nhóm tiếp tục lùng tìm dấu vết con sói. Đó cũng là lý do vì sao chúng ta tiến chậm như vậy!
Chúng ta đã từng đau đáu, rối ruột vì sự chùng chình, chậm trễ từng ấy thời gian. Nhưng giờ thì tất cả chẳng còn ý nghĩa gì khi con sói đã thành cái xác không hồn và đầu nó đã ngoan ngoãn nằm trong túi hai đứa!
Lời cuối của chú Chăn Ri thể hiện đầy hàm ý khen ngợi làm mặt Đan và Xít không khỏi ửng đỏ.
Đi hai ngày rưỡi thì cả đoàn về tới chân núi hẹn. Từ trưa hôm sau cho đến nửa đêm sau nữa, sáu nhóm còn lại cũng theo ánh lửa kêu gọi hối hả, rầm rập kéo về.
Khỏi phải nói, cứ mỗi khi có nhóm mới trở về là không khí vui mừng, hả hê lại vỡ òa. Rượu Ráng lại sóng sánh rót tràn bát. Tiếng reo vui chúc mừng, tiếng trầm trồ kinh ngạc, tiếng ồ lên mừng rỡ gặp lại, tiếng bá vai bá cổ, vỗ người thùm thụm... rộn lên rổn rảng, khuấy động cả một khoảng rừng ngàn sâu âm u tĩnh lặng đã ngủ yên ngàn năm. Người người mặt ửng sắc hồng, men rượu lâng lâng, họ cho phép mình quên đi phân định giữa ngày và đêm, quên hai vầng nhật nguyệt, ánh tinh tú bươn bả trên đầu, trong tim họ chỉ còn niềm vui và dòng rượu Ráng sóng sánh sóng sánh thơm ngào ngạt tuôn chảy, tuôn ra nối ngày và đêm, trăng sao thành một. Và đương nhiên mỗi lần nhóm mới về như thế, Đan và Xít lại một lần nữa phải kể ại từ đầu câu chuyện dài gian nan truy lùng con sói từ đầu tới cuối.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Phung QA

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
26/1/19
Bài viết
21
Gạo
0,0
Chương 15: Trở Về

Nhóm trưởng bản Y Tí về thứ ba.
Ông tự tay rót hai bát rượu lớn chúc mừng thưởng cho hai đứa. Quả là một niềm vinh dự quá lớn đối với hai thằng trẻ choai như chúng, không thiếu những ánh mắt nhìn vừa cảm phục vừa ghen tị của đám thanh niên trẻ vây quanh. Nhưng phần quà lớn nhất là ông chỉ nghiêm mặt trách nhẹ duy nhất một lần cái tội bất tuân, liều lĩnh của hai đứa.
Lần đầu tiên và cũng là một lần hiếm hoi trong đời, mọi người thấy trưởng bản say sưa. Ông nâng bát rượu lớn ngửa cổ rót tọt vào họng, rồi giơ cái bát đã cạn, ông cất giọng khàn khàn, mộc mạc nhưng ấm áp, ngân nga. Ông ca một khúc trong đoạn trường ca bi hùng, ca ngợi về những chiến công anh dũng, can trường của năm người con trai thần Pa Rét huyền thoại, đã xuống trần gian diệt quái thú bờm lửa Nox Ko khát máu cứu giúp những người dân lành vô tội, một trường khúc trong trường ca Những Đứa Con Của Tia Chớp. Tất cả mau chóng cùng hòa nhịp theo trưởng bản, hợp thành một dàn đồng ca. Giữa rừng đại ngàn, những lời ca hào hùng hừng hực theo gió ngàn dâng lên chất ngất, rầm rập đè đầu, cuốn phăng hung tàn vang xa, bay xa...
Sau hai ngày chờ các nhóm chờ về đông đủ, không thiếu một ai, cả đoàn hào hứng sắp xếp đồ đạc lên đường trở về bản.
Một chuyến trở về lòng như đi hội. Hành trình vượt núi băng rừng kéo dài cả chục ngày mà ai cũng ngỡ như chỉ răm ba ngày. Lòng rộn niềm vui, nhẹ tênh vì từ nay trút được mối họa ngàn đời, nên đôi chân băng rừng lội suối mới nhẹ làm sao? Đoàn người đi không biết mỏi mệt, có ngày họ đi xuyên đêm. Giữa đại ngàn hàng trăm bó đuốc thắp lên như con trăn hoa lửa trườn đi giữa núi đồi mênh mông.
Chưa từng có chuyến đi rừng nào lại vui như thế: tiếng cười luôn luôn nổ ra rộn rã khắp từ đầu đến cuối đoàn người. Chúng được châm ngòi bởi những cái đầu hài hước, dí dỏm và những cái miệng khéo léo, hoạt bát nhất bản. Và với niềm hưng phấn trong lòng, tất cả đều hào phóng nụ cười cho mọi câu đùa, mọi sự hài hước. Và cứ thế những tràng cười nghiêng ngả lại tiếp sức, kích thích cho những màn đối đáp đầy thông minh khéo léo dâng cao. Chỉ có hai người không hẳn hoàn toàn chìm trong niềm vui hân hoan của những ngày này. Đó là Xít, đêm đêm khi tất cả mọi người say sưa trong tiếng cười đùa, và men nồng của những bát rượu Ráng. Thì Xít đôi khi lẳng lặng đi ra một góc, đôi mắt đăm đắm nhìn lên bầu trời tối xẫm cuối tháng mênh mang như mong ngóng một ánh mây trắng bạc từ đâu đó bất chợt hiện về. Lòng nó vẫn chưa yên về con Chim Trắng. Người thứ hai là ông Cà Tơn - Một người đàn ông trung tuổi, ít cười, ít nói. Ông là hậu duệ nhiều đời của vị thầy mo cuối cùng, đã theo dân bản lang bạt đi sâu vào sát chân dãy Kỳ Giông năm xưa.
Chẳng bao lâu cả đoàn thợ săn bản Tơ Gúc đã về đến chân đỉnh Mõm Ngựa.
Trước khi vượt qua đỉnh Mõm Ngựa về bản, trưởng bản Y Tí bày biện trên một tảng đá, làm một cái lễ khá trang trọng để tế bái, tạ lỗi, xin Thần rừng cai quản rừng Đại Ngàn xá tội cho người bản Tơ Gúc đã cả gan mạo phạm, khuấy động chốn rừng thiêng. Sau khi dâng lễ bằng một vài vật phẩm săn được ngay trong rừng, trưởng bản khấn những lời nghiêm cẩn tự đáy lòng.
Trưởng bản dứt lời một sự im lặng kính cẩn bao trùm lên tất cả, trước khi một giọng nói lạnh lẽo cất lên:
- Tất cả đã được nhắc nhở, cho dân bản Tơ Gúc biết một điều, một lời răn đe huyền bí rằng: Dù rừng U Linh là lãnh địa của hỗn thần hay tà ma, ác quỉ. Nó cũng đã được phân định rạch ròi bởi dãy Kỳ Giông! Bất cứ hành động nào bất tôn nghiêm, quấy phá những gì thuộc về rừng U Linh, dù chỉ là một viên đá hay nguồn nước, cũng sẽ phải trả giá bằng những hiểm họa tai ương khủng khiếp! Chúng ta được gia ân vào chốn linh thiêng này để săn lùng, tiêu diệt sói Hai Đầu, cũng chính bởi nó đã dám vượt qua ranh giới của Rừng Thiêng. Ngoài Nó ra, mọi thứ nơi đây chúng ta đều không xứng đáng để chạm tới. Sự đụng chạm hay lấy đi bất cứ vật gì nơi này, sẽ phá vỡ trật tự do một quyền năng linh thiêng đã sắp sếp ở chốn này! Hãy cung kính nép mình rời khỏi đây và xin được tha thứ đi! Đừng để sự ngu dại ngông cuồng mang lời nguyền độc ác và những tai ương thảm khốc đến với ngôi làng Tơ Gúc vốn đã bị thánh thần ruồng bỏ ghẻ lạnh!
Hãy trả lại tất cả những gì thuộc về Đại Ngàn!
Một cảm giác lạnh lẽo xuyên suốt sống lưng tất cả đám thợ săn ngồi đó. Họ đổ dồn mọi con mắt về phía người vừa cất lên tiếng nói.
Đó chính là Cà Tơn.
Khuôn mặt ông ta vẫn gầy gò lạnh lẽo, bất động như mặt con heo rừng mắc bẫy đã chết ba bốn ngày phơi trong sương muối. Đôi mắt nhìn tròng trọc vô hồn về phía trước.
Tất cả im lặng.
Xít bất giác khẽ giật mình nhìn sang chiếc túi đựng pho tượng ngọc cạnh mình. Khi ngửng lên như vô tình ánh mắt nó chạm vào tia nhìn lạnh lẽo, âm u của ông Cà Tơn như đang nhìn nó chằm chặp.
Xít bất giác rùng mình đưa ánh mắt trốn qua chỗ khác, không chủ ý mà ánh mắt nó và Đan bỗng lại gặp nhau.
Xít không có ác cảm gì với ông Cà Tơn, nhưng cũng không có thiện cảm lắm với người đàn ông lớn tuổi, lạnh lùng, ít giao tiếp này. Tuy cùng sống trong cái bản nhỏ xíu như Tơ Gúc, nhưng Xít với ông ấy chưa từng chào nhau đến quá chục lần; còn nói chuyện qua lại dăm ba câu thì Xít cũng chẳng nhớ đã từng hay chưa. Từ ông ấy luôn toát ra cái cảm giác khó gần, và có chút gì đó bí ẩn bởi sự thâm trầm, cô độc, nhưng mỗi khi mở miệng nói thì thường là những câu khiến người ta không khỏi lạnh lưng, thường là những câu nói kỳ lạ, gở miệng, ví như câu nói vừa rồi. Tuy rằng ai cũng biết, cái bụng ông chẳng hề có ý xấu, hay ghen ghét muốn hãm hại ai. Phần nữa, cách nhìn về ông Cà Tơn của Xít có phần ảnh hưởng từ cụ Sóc, mặc dù tuyệt nhiên cụ chưa bao giờ có nhận xét xấu hay khó chịu về ông ấy. Nhưng gần như cũng chưa bao giờ cụ nhắc đến Cà Tơn hay bình luận về ông ta. Nếu đúng như người ta vẫn nói thì giữa hai người có một cái hố vô hình, chứa đầy sự im lặng, mà về phía mình, ông Cà Tơn càng ngày càng khoét nó rộng ra hơn.
Sau cái lễ trang trọng nhưng đơn giản và nhanh gọn, cả đoàn người tiếp tục vượt đỉnh Mõm Ngựa. Chỉ còn non ngày đường, bản làng, người thân đang chờ mong bàn chân họ trở về.
Ban đầu Xít suy nghĩ khá nung về những câu nói đầy ẩn ý của ông Cà Tơn, quả thật những lời nói đó làm nó chờn chợn, rối bời trong ruột. Trong đầu nó đã bắt đầu chờn vờn ý nghĩ: "Hay tạm để lại pho tượng ngọc ngoài bìa rừng!"

Nhưng rồi sự phản đối từ sâu trong thâm tâm nó lập tức cất tiếng: "Hèn nhát, đó là sự hèn nhát! Đó là sự phản bội đáng xấu hổ! Không, mày không thể làm vậy được! Dù có thế nào cũng phải mang nó về! Rừng chết, Sói Hai Đầu mày còn chẳng sợ, sao lại đi sợ một lời dọa dẫm vu vơ như thế chứ!" thâm tâm nó xa xả mắng nhiếc. Và rồi càng bước đi tiến dần về bản, ý chí quyết tâm đó càng mãnh liệt dần lên, chẳng mấy chốc nó đã quật cho cái ý định để pho tượng lại trong rừng nằm xụi lơ, chẳng còn dám ngóc lên ý kiến ý cò gì nữa.
Trưa hôm sau đoàn người đã về tới bìa rừng đầu bản. Chưa ra khỏi bìa rừng, mấy gã trẻ trai trong đoàn đã chẳng thể cưỡng nổi sự hào hứng râm ran trong lòng cả chục ngày nay. Chúng đứng lại vươn cổ rúc những hồi tù và dài, rõ to về phía bản. Những hồi tù và vang vọng, không hồi nhịp đua nhau vóng lên náo nức như báo tin mừng chiến thắng, không lẫn đi đâu được. Vậy nên vừa ra khỏi bìa rừng, cả đoàn đã thấy thấp thoáng một hàng người lớn bé, già trẻ xôn xao bước như chạy xuống con dốc đầu bản.
Dẫn đầu là một đám nhóc con chân tay múa may, mồn hét nhặng xị đang chạy băng băng. Đứa dẫn đầu tay cầm một cây gậy, trên đầu gậy cắm một khúc rễ cây đen trũi, rễ đâm tua tủa. Thật vô tình nhìn nó giống cái đầu sói đến lạ.
Chẳng cần một lời thông báo, cả hai đoàn người cứ hớn hở ào về phía nhau, hòa thành một. Tiếng hò reo cười nói râm ran, cả đoàn kéo nhau về giữa bản.
Từ xa Xít đã nhìn thấy hình bóng nhỏ bé hai người nó yêu thương nhất đang đua ánh mắt lo lắng bồn chồn tìm giữa đám đông. Nó chợt nhớ tới ánh mắt của Dơ Lin trong giấc mơ buổi nào giữa Rừng Chết. Nó bứt ra chạy ào về phía hai người. Cả ba ôm chầm lấy nhau, ba đôi mắt trên những khuôn mặt nhem nhuốc gầy sạm chợt cùng hoen ướt long lanh.
- Cháu hứa sẽ không bao giờ để lại em và dì đơn độc thêm một lần nữa! - Xít thì thào ôm chặt lấy hai thân hình gầy yếu, mong manh.

Khi mọi người đã tề tựu đông đủ ở khoảng đất trống giữa bản, trưởng bản Y Tí dõng dạc tuyên bố cả bản sẽ tổ chức lễ hội hai ngày để ăn mừng cái chiến công kỳ tích này.
Đan và Xít bị quây tròn, trùm ngập trong những lời chúc tụng của dân bản. Chúng được công kênh đi vòng quanh bãi đất trên những cánh tay rắn chắc của đám thanh niên hào hứng, cuồng nhiệt không thể kiềm chế trong bản.
Chưa bao giờ bản Tơ Gúc có một lễ hội vui như thế! Ngay từ chiều, tất cả cồng chiêng lớn nhỏ đã được mang tới. Một đống lửa lớn được chất lên giữa khoảng đất. Những hũ rượu Ráng được người ta gò lưng, hể hả vác tới. Và những chiếc bát gỗ lại ăm ắp tràn lênh láng. Từ khắp nơi tỏa ra hương men cay nồng, rủ rê, dắt díu mùi thơm khen khét, ngầy ngậy của những tảng thịt lợn rừng bọc lá thé nướng xèo xèo, rí rách trên than hồng, như mời gọi, thúc giục những bước chân mau bước tới.
Màn đêm dần buông xuống, hàng trăm ngọn đuốc được thắp lên góp sức cùng đống lửa lớn giữa sân dọi sáng như ban ngày. Hơi nóng và màu hồng rực của đống lửa như kích thích bầu máu hân hoan vốn dĩ đã giậm giật, sôi sục bởi men rượu và tiếng cồng mỗi lúc một dồn dập, kích động, làm những đôi chân cứ muốn nhảy nhót cuốn theo. Người ta kéo Đan và Xít ra giữa sân, dưới ánh lửa hồng, vây quanh cây sào cắm chiếc đầu sói chôn ở giữa. Những vũ điệu Ka Ta bắt đầu bay lượn, rập rờn, những thế chuyển mình mền như rắn lượn, những miếng bá vai, luồn bụng quăng mạnh như cọp nhảy, báo vồ; những cánh tay trần, những tấm lưng bóng loáng, những khuôn mặt đỏ gay, những đôi mắt say sưa, ngây ngất xoay xoay bồng bềnh giữa dòng thác rộn rã âm vang của tiếng cồng, tiếng chiêng... tiếng chân trần chắc nịch cầm nhịp mỗi lúc một dồn dập, giục giã bay lên...
Xít ngửa cổ uống hết bát rượu mà ai đó đã đưa, và nó cũng chẳng còn nhớ đó là bát rượu thứ bao nhiêu nó đã uống từ chiều đến giờ. Hôm nay thứ rượu Ráng uống thật thích! Máu trong người nó cứ phừng phừng rạo rực, nó đã sàng người lắc múa những đòn thế Ka Ta ưng ý nhất một cách thích thú suốt từ đầu buổi tối đến giờ mà chẳng hề thấy mệt hay xuống sức chút nào. Và rồi trong ánh mắt mơ màng những hình ảnh xung quanh cứ nhập nhòa, quay tròn lướt qua mắt Xít: Kìa là trưởng bản Y Tí râu tóc lốm đốm, đang nâng bát mời rượu mấy cụ già trong bản; đây đó những khuôn mặt già trẻ thân quen đang ăn uống cười nói rộn rã; gương mặt hiền hậu với ánh mắt như đang nhìn nó mỉm cười của cụ Sóc; chiếc đầu sói dị hợm cắm lêu bêu trên cây sào; ánh mắt nghiêm nghị, đau đáu của cha, khuôn mặt nhăn nheo phúc hậu của bà Bơ Nót... ánh nhìn vợi vợi yêu thương của mẹ...

Mẹ! Có gì đó bỗng trỗi dậy như một tiếng gọi giữa sớm tinh mơ thanh vắng, trong tiềm thức đang mơ màng của Xít. Những tiếng gọi, âm thanh mơ hồ nửa thực nửa mơ, nửa như có nửa như không. Rồi hình ảnh cái thung lũng, căn nhà đen lừng lững, ông lão tóc vàng... Cứ vùn vụt hiện ra. Chúng chồng chéo lên nhau rồi dần bị nhấn chìm trong một màn sương trắng xóa của một cánh rừng xa xăm nào đó. Xít thiếp đi.

Xít khẽ hé mắt tỉnh dậy. Nó thấy mình đang nằm trên cái sàn thân thuộc trong căn nhà mình. Sau hơn một tháng lặn lội rừng sâu núi hiểm, ngủ chênh vênh trên sàn cứng gồ ghề, giờ nằm trên cái sàn gỗ phẳng lỳ thênh thang quen thuộc, cảm giác mới dễ chịu làm sao. Xít cứ nằm thế lim dim chẳng hề muốn dậy. Bên ngoài, nắng chiều chiếu xiên những vạt sáng vàng rực loang lổ dội xuống sát chỗ nó nằm. Ít nhất thì cũng đã xế chiều của một ngày khác, Xít lơ mơ nghĩ. Chẳng hiểu nó đã ngủ được bao lâu rồi? Chỉ biết đêm trước nó đã uống rất nhiều, chưa bao giờ nó uống nhiều rượu Ráng như thế! Nó thấy khát khô rang ở cổ. Vừa định đứng dậy ra sau nhà uống ngụm nước thì nó đã thấy Dơ Lin từ cửa bên đi vào tay bưng bát nước đầy. Không nói gì Xít cầm lấy tu một hơi hết sạch. Rồi nó quay ra hỏi em:
- Dì A Mui đâu?
- Dì ở sau vườn! - Dơ Lin đáp
- Em có nhớ anh không?
- Có! - Con bé khẽ trả lời, vòng tay ôm lấy cổ dụi đầu vào vai anh trai.
Xít âu yếm đưa tay vuốt vuốt tấm lưng gầy của đứa em bé nhỏ, hỏi:
- Sao tối qua anh về được đây?
- Anh say lắm! Chú A Sử và hai người nữa cố gắng mới đưa anh được lên nhà đấy!
Xít mỉm cười nghĩ cảnh mình rũ ra như tàu lá, lết đôi chân trên đường để mọi người dìu đi. Trước giờ nó có bao giờ uống nhiều và say thế bao giờ.
Đang ngồi, theo một phản xạ nào đấy Xít chợt đưa tay sờ bên sườn, rồi bỗng một cảm giác lạnh toát chạy dọc xương sống nó. Nó chợt giật nảy mình, hỏi:
- Anh về...! Thế... thế còn cái túi của anh đâu? Có ai mang giúp không?
- Không... Lúc đưa anh về, mọi người chỉ cố dìu anh, em không thấy mang theo gì cả! - Chưa hiểu chuyện gì, thấy vẻ mặt thảnh thốt, tái đi của Xít, con bé lo lắng nói.
Xít cố trấn tĩnh vuốt má con bé nói:
- Không, không có chuyện gì đâu! Em ở nhà anh qua nhà anh Đan một lát!
Nói rồi Xít đi ào ào ra cửa, chỉ ba bước nó đã xuống dưới sân.
Dì A mui đang đứng ngay trước cầu thang, hỏi:
- Cháu đi đâu vậy? Mọi người vẫn tụ tập ngoài bãi đấy!
- Cháu qua chú U ni có chút việc!
- Vậy đi nhanh rồi về ăn cơm, dì nấu sắp xong! - Dì A mui nhỏ nhẹ nói.
- Vâng! - Xít đáp vội trong lúc đôi chân bước nhanh, không giấu nổi nỗi lo thắt ruột trong bụng.
Vừa đi lòng nó vừa run lên sợ hãi, tự rủa thầm mình sao lại có thể lơ đễnh, quên phắt bức tượng ngọc như thế chứ!
- Xem nào! Xem nào! - Xít vừa bước mau như sắp chạy, vừa lầm bầm - Nếu có ai đó đã cầm cái túi thì hẳn họ đã thấy pho tượng ngọc. Nếu có thấy thì một pho tượng đá nhỏ bé như vậy thì cũng chưa có gì là kỳ lạ, chỉ mong sao nó đừng phát sáng như lúc ở trong rừng, nếu mà nó phát sáng như thế thì quả thực gay to, chuyện này sẽ vỡ lở và rắc rối lớn! Làm ao mà giải thích được cho ổn thỏa? Còn ngược lại... Trời ơi! Nếu không ai thấy, không ai cầm nó... thì! Xít sợ phát run lên khi nghĩ tới điều đó.
Vài tiếng trầm trồ, vài cánh tay vẫy vẫy của người trong bản khi Xít đi ngang qua, nhưng Xít chỉ khẽ cười vẫy tay đáp lại.
Bụng nó đang rối bời. Từ đầu bản tiếng cồng vẫn ùng ùng, vang vọng lại. Một dịp vui hiếm hoi thế này, mọi người không dễ gì lỡ mà tan sớm.
Rất nhanh, chân Xít đã tới trước cửa nhà Đan từ lúc nào.
Bước vào nhà, chỉ có thím U ni đang ngồi khâu khâu vá vá cái gì đó ngay bên mép cửa. Xít khẽ chào thím rồi bước tới chỗ Đan đang nằm. Chắc nó cũng vẫn còn đang bê bết chẳng kém gì Xít tối qua. Xít khẽ lay Đan gọi:
- Đan! Đan! Dậy, dậy đi!
Đan càu nhàu vật mình hai ba cái rồi mới uể oải ngồi dậy.
- Ôi cái sàn nhà thân thương, sao mà êm ái thế! Mà lâu lắm rồi tớ mới được giấc ngủ ngon, có cái quái gì mà cậu nhặng lên thế? Con sói sống lại à?
- Tớ để quên chiếc túi ở đâu đó rồi! - Xít khẽ cúi xuống sát tai Đan thì thào - Hôm qua say quá! Tớ chẳng còn biết mình đã để cái túi ở đâu nữa!
- Trời ơi! Thôi chết! - Đan giật người ngồi dựng dậy - Cậu không cầm nó về sao?
- Tất nhiên là tớ không cầm. Vậy mới qua đây hỏi cậu! Lúc đó vui quá! Tớ chẳng nhớ để nó đâu nữa... Vì nghĩ đã an toàn về tới bản rồi!
- Trời đất! Thật chẳng hiểu sao cậu lại có thể để quên một thứ quan trọng, mà ta phải liều mình, mất bao công sức mới mang được về đây như thế chứ!
- Tớ biết, tớ biết! Xin lỗi... Lẽ ra... Lẽ ra... Tớ không được làm thế!
- Biết! Biết! Bây giờ cậu biết thì cũng làm được gì kia chứ? Trời ơi, bao công bao sức lại còn đủ thứ nguy hiểm lo lắng ta mới đưa được an toàn nó về đây. Vậy mà cậu... Rồi ta sẽ biết ăn nói sao với con Chim Trắng đây...?Tại sao tớ lại để một đứa hậu đậu như cậu giữ nó kia chứ?
"Hậu Đậu?" Xít thần người ra nhìn Đan. Từ trước tới giờ có bao giờ Đan dám nói nó như thế, nếu không nói là ngược lại? Vì trong hai đứa thì Đan mới là đứa chúa hấp tấp và hậu đậu. Sao bữa nay nó có vẻ cao giọng và mắng Xít xa xả như thế chứ? Lại nữa nó mắng Xít toàn những câu rất quen, hình như chính Xít đã nhắc đi nhắc lại những câu đó để thuyết phục Nó mang pho tượng về... Tất cả hình như có gì đó là lạ. Xít nhìn chằm chằm vào mắt Đan cho đến khi thằng bạn không thể giả bộ được nữa cười phá lên. Xít túm cổ bạn mừng húm gầm gừ:
- Đồ khốn! Cậu đang giữ nó phải không? Làm tớ lo đến phát sốt phát rét lên đây này!
Đan cười hả hê vì đã lừa được Xít, nó quay ra sau móc pho tượng được gói bọc cẩn thận trong một miếng vải dưới cái gối đầu đưa ra, nói:
- Đây này! Chưa mất đâu mà mặt phải thộn ra như thế!
Xít mừng rỡ vồ lấy bức tượng. Nó thở phào như trút được cả tảng đá lớn trong bụng.
- Sao cậu có được nó vậy? - Xít hỏi giọng chưa hết hồi hộp, vui mừng.
- Tối qua cậu say khướt như một con vẹn ngâm trong hũ rượu, còn biết trăng sao giời đất gì nữa! Ngay khi mọi người công kênh tớ và cậu lên, may sao tớ đã chợt nhớ ra pho tượng và nhờ bố tớ nhặt hai cái túi lên đem về nhà cất cẩn thận giùm. Cả con dao của cậu nữa, tất cả treo trên kia kìa! - Đan hất hàm chỉ về phía cái túi treo lủng lẳng trên cột. - Ừ, tớ quên khuấy cả con dao đấy! - Xít nói, rồi nó chìa pho tượng ra hỏi - Liệu cha cậu đã thấy pho tượng này chưa?
- Ông chẳng để ý đâu, nó vẫn nằm nguyên trong đó!
- Vậy tốt rồi! Giờ tớ sẽ giữ nó nhé?
- Cậu giữ đi! Chứ tớ chẳng thể giấu được mọi người, và cũng sẽ chẳng biết giải thích thế nào về nó!
- Tớ cũng vậy! - Xít cầm pho tượng lầm bầm nói - Chẳng thể cứ luôn giữ nó trong người.
- Thôi chờ một vài hôm nữa cho mọi chuyện lắng xuống, ta sẽ mang qua gặp cụ Sóc. Cụ quyết thế nào ta sẽ làm như thế, bằng không ta cũng sẽ gửi lại chỗ cụ. Dù sao ở đấy cũng an toàn hơn cả!
- Ừ! - Xít gật đầu đồng tình.

Hai đứa ngồi im lặng, ngắm nhìn ánh hoàng hôn tím nhạt đang thẫm dần, như đôi mí mắt từ từ khép lại nuốt cả một dải núi rừng trùng điệp tối xẫm. Ngoài kia, qua khung cửa rộng mở lên bằng tấm phên tre đan toàn bằng cật tre già vàng óng, những mái nhà nhỏ bé với hai cây gỗ bắt chéo ở trái hồi quen thuộc của bản làng Tơ Gúc, nằm yên ả trong làn sương chiều đang thơ thẩn trôi về gác đầu lên nhau ngủ đêm dưới chân núi Zắc Ko.
Tiếng vượn đầu đàn hú lanh lảnh, vang vọng rừng xa, gọi bầy về thung sâu.
Sói Hai Đầu chẳng còn, từ nay cuộc sống này sẽ mãi thanh bình.

Ngồi thêm một lát, hai đứa hẹn nhau chiều mai qua thăm chú A lủa. Xít đứng dậy với chiếc túi trên cột cho pho tượng ngọc vào, ra về. Bước ngang qua chỗ thím U ni, Xít cười hềnh hệch khi nghe thím mắng: "Hai thằng chết bằm! Lần sau chúng mày còn ngậm miệng lẻn đi như thế thì chúng mày có thành mấy con ma rừng tao cũng chẳng cúng cho nửa miếng cơm!" Rồi thím bảo nó ở lại ăn cơm luôn, nhưng nó xin phép vì dì A mui đang chờ cơm ở nhà.

Hôm sau hai đứa qua nhà chú A lủa hỏi thăm. Nhìn vết thương khá lớn trên bả vai chú, chúng khẳng định nó không liên quan gì tới con Chim Trắng, mà cũng chẳng phải vết răng của con sói Hai Đầu. Đó rõ ràng là vết răng của một con thú nhỏ hơn dù sức mạnh cũng có vẻ không kém phần ghê gớm.
......

Dù Xít đã cố nén lòng, nhủ rằng: chờ vài bữa nữa cho cái không khí ăn mừng, hội hè trong bản lắng xuống, nó và Đan sẽ tới nhà cụ Sóc. Tuy đã định là vậy, nhưng dù đã ba bốn ngày trôi qua, cái không khí náo nức trong bản vẫn không hề thấy lắng xuống.
Cũng dễ hiểu thôi, đã lâu lắm rồi, thậm chí kể từ ngày đôi chân Xít còn ngắn cũn, biết tung tăng chạy khắp bản đến giờ, chưa khi nào bản Tơ Gúc có một lễ hội náo nhiệt, vui vẻ như thế này. Dân bản đã khát khao lâu lắm rồi! Chờ đợi lâu lắm rồi! Một dịp được ăn uống, được nhảy múa, hò reo, được vui hết mình như thế!
Ở một cái bản nghèo nàn, hẻo lánh, sâu hút thăm thẳm... quanh năm vất vả, cơ cực thế này, người ta đâu dễ chịu từ bỏ một cơ hội vui chơi hiếm hoi như thế!
Ở đâu cũng thấy người ta đem chuyến đi của Đan và Xít ra hào hứng bình luận, bàn tán, kể lại cho nhau nghe. Và kỳ lạ là, dường như mỗi người đều biết một chi tiết đặc biệt nào đó trong chuyến đi mà đến ngay cả Đan và Xít cũng chẳng hề hay biết. Và họ kể lại câu chuyện đó mới chi tiết, sống động làm sao. Tất nhiên là trong số khán thính giả đó không có mặt Đan và Xít rồi! Từ những câu chuyện phiếm quây quần bên bếp lửa hồng của mấy người già, đến đám tụm năm, túm ba tranh cãi om xòm của lũ trẻ con bên gềnh đá, ngoài bờ mom, đều xoay quanh chuyến đi săn Sói Hai Đầu.
Xít thực sự trở thành trung tâm của sự chú ý. Thế nên trong những ngày này, sự vắng mặt, thậm chí dù chỉ là một chốc, một lát nào đó của nó cũng gây lên sự để ý, tò mò của mọi người. Luôn có mấy thằng nhóc lấm lem, đen nhẻm, nhanh như sóc, lùng sục tìm nó ở khắp mọi nơi. Vì chúng coi điều đó như những chiến công để phổng mũi, vênh váo tự hào với lũ bạn lốc nhốc trong bản, nên chúng rất hăng hái trong việc lùng sục Xít.
"Anh Xít đang đẵn tre ở chân dốc chúng mày ơi!" "Úi chao! Tao theo dõi thấy anh Xít ngủ từ trưa đến giờ vẫn chưa dậy nhé!" "Ôi! Tao tìm thấy anh Xít rồi! Anh ấy đang làm cái này, đang làm cái nọ.."..v..v.. Cứ thế, Xít chẳng thể rời đâu một lúc mà không bị chúng nó thông báo miễn phí cho cả làng, cả bản biết.
Sốt ruột với cả trăm câu hỏi chưa có lời giải, rối bời trong bụng, cả chục câu chuyện muốn được trình bày, kể ra; và nhất là một nơi cất giữ an toàn cho pho tượng đang thường trực trong lòng... Xít chỉ mong được chạy ngay sang nhà cụ Sóc dốc hết tâm tư. Nhưng với sự "canh giữ" cẩn trọng, sát sao và hết sức cần mẫn của lũ nhóc, nó chịu chẳng biết làm cách nào dứt ra được khỏi chúng. Chúng thực chẳng khác gì đám quả ké đầy lông bám rịt lấy đầu tóc.
Thực ra nó và Đan cứ thế sang nhà cụ Sóc thì cũng được. Nhưng nó chẳng thích cái cảm giác khi trò chuyện với cụ mà có cả trăm cái tai và đôi mắt dõi theo, dỏng lên nghe ngóng...
Đang buồn bực, bứt dứt chưa nghĩ ra được cách nào thì buổi trưa qua nhà Đan, Xít thấy thím U ni đang ngồi kỳ cạch, vất vả tách từng hạt dẻ ra khỏi những cái quả đầy gai. Mùa này dẻ rụng nhiều, hạt già chắc rất to và bùi, chắc thím đang chuẩn bị nhân để làm món bánh khóm cho lễ Mừng Nước vào dịp trăng tròn tháng tới. Món bánh khóm mà làm nhân với hạt dẻ thì chao ôi thơm bùi ngon nức mũi, chỉ nghĩ đến thôi trong miệng đã thấy ướt nước miếng nhão nhoét.
Thấy thím U ni đang bặm môi lách lách, bậy bậy. Xít nảy ra một ý. Nó vào kể với Đan, rồi hai đứa ra lấy một túi quả dẻ đầy bảo dỗi dãi mang qua nhà Xít cậy giùm thím. Thím U ni mừng rỡ vì đỡ được một phần việc khá vất vả.
Về tới nhà Xít liền gọi gần chục đứa nhóc đang thập thò, rình mò quanh nhà tới, nói:
- Anh có việc này rất quan trọng, mấy đứa có muốn giúp không?
Mấy thằng nhóc mắt sáng lên hào hứng đáp:
- Được! Được ạ!
Đan và Xít liền quẳng ra sàn túi quả dẻ đầy nhóc, nói:
- Anh cần cạy chỗ hạt dẻ này, mấy đứa cạy giúp anh nhé! Nhưng nhớ là chỉ cạy bằng tay thôi đấy! Anh cần giữ các hạt dẻ còn nguyên lớp vỏ lụa bên ngoài cho đẹp mắt. Việc này rất quan trọng, chỉ cần cạy lấy lưng gùi này là xong.
Vừa thấy túi quả dẻ to thù lù, mặt mấy đứa nhóc đã ngơ ra, ngắn tũn lại. Cạy hạt dẻ ư? Quả dẻ tươi với cái vỏ dày, dai chắc thế kia mà cạy bằng tay thì oải lắm, biết đến bao giờ? Nhưng đã vào nhà chót lỡ nhận rồi chẳng thể chối từ, chúng đành miễn cưỡng ngồi xuống và bắt đầu kỳ cạch cạy.
Chả mấy lúc mặt đứa nào đứa ấy đỏ gay, mắm môi mắm lợi xoay xoay sở sở, hì hục, mắt nhăn mày nhó toát mồ hôi hột. Cái thứ quả dẻ vỏ dày cui lại lắm gai, đâu có dễ xơi. Thỉnh thoảng lại có đứa khẽ kêu lên "ui da!" vì trượt vào tay.
Đan và Xít bí mật nháy mắt nhìn nhau tủm tỉm cười.
Quả nhiên cái công việc khốn khổ và buồn chán ấy mau chóng làm nản lòng những đôi chân suốt ngày chỉ biết nhong nhong dạo chơi khắp đầu làng cuối bản, nên chỉ lúc sau đã có vài ba đứa đột nhiên nhà có việc xin về sớm. Mấy đứa kia gắng gượng ngồi lại kỳ cạch cạy thêm một lát, những tưởng sẽ được hai người hùng, thần tượng đầy ngưỡng mộ của chúng, sẽ chính miệng kể cho nghe một vài đoạn vô cùng hấp dẫn, ly kỳ trong chuyến đi săn Sói Hai Đầu, một phần thưởng thôi thì cũng bõ cho cái công nhẫn nhịn ngồi lại tách hạt. Nhưng chẳng ngờ hai người hùng sáng lòa trong mắt chúng chẳng hề biết đền đáp chút niềm vui an ủi nhỏ mọn ấy. Cả hai chỉ ngồi lan man, sôi nổi bàn bạc về một thứ chán ngắt: đó là Mùa màng.
Thôi thì, nào là vụ năm nay mưa nhiều chắc gieo đỗ, trổ lạc trên đồi cao hẳn ắt được lợi lắm đây! Lúa giống nên cất giữ thế nào...? Nghe hơi ẩm trong gió mà đoán khi nào gieo hạt cho chắc ..v..v.. Nghe mà buồn thảm, ngao ngán đến tận đáy lòng.
Túi quả dẻ chưa hết một phần ba, mà trò thử thách lòng kiên nhẫn quái quỉ của Xít và Đan đã vượt quá sự mong đợi. Nắng ngoài hiên chưa tắt, lũ nhóc con đã tìm đủ những cái cớ ngớ ngẩn mà Đan và Xít đã biết tỏng là bịa đặt, lẩn sạch. Chẳng còn đứa nào ở lại. Đan và Xít nhìn nhau cười khinh khích.
Sáng hôm sau để bồi thêm một cú nữa, dọa chúng cho tởn hẳn. Vừa bước xuống nhà Xít liền tiến thẳng về phía con đường, gần chỗ mấy bụi cây mà nó biết bọn nhóc đang núp sau rình rập. Cứ hễ thấy thấp thoáng bóng đứa nhóc nào thập thò từ xa là nó gọi toáng lên: "Mấy đứa vào hộ anh! Hộ anh với!" Rồi bước xộc tới như muốn đuổi bắt. Bọn nhóc đã phát khiếp với cái món khổ hình mang tên "tách hạt" hôm trước, nên chả cần bảo nhau, vừa thấy bóng dáng Xít bước tới là chúng đã co chân, co cẳng chạy chối chết, mất biệt.
Từ hôm đó có treo xôi, nhử mật mời thật lòng, cũng chẳng đứa nào dám bén bảng đến gần nhà Xít nữa. Xít bỗng nhiên trở thành một thứ Ba bị.

Ngay tối hôm đó, sau bữa cơm chiều, khi trời vừa nhá nhem xẩm tối, Xít và Đan giắt pho tượng ngọc vào bụng, lặng lẽ qua nhà cụ Sóc.
Tiết trời đầu thu mát dịu. Vòm trời thoáng đãng trong văn vắt, lấp lánh đôi ba vì sao sớm. Không gian tĩnh mịch, yên ả vô cùng.
Đi một nhoáng, hai đứa đã tới bờ hàng rào đá đen, thấp lè tè quen thuộc, bao quanh túp nhà mỏng mảnh, đơn sơ của cụ Sóc, thứ đá quen thuộc gần như chỉ có nơi này mới có, có màu đen kịt như để hong trên gác bếp lâu ngày, bọc trong lớp rêu phong mốc meo của thời gian.
Hai đứa đi thẳng qua cái cổng tre cũng không kiên cố hơn cái hàng rào là bao, vẫn đang hé mở. Cả bản chỉ có nhà cụ có cái cổng tre ấy bởi một lẽ đơn giản, chỉ có cụ cần rào giậu ngăn lũ chuột bọ, gà qué từ bên ngoài hay luổn vào cắn phá những cái nong thuốc rễ cây, cành lá hong phơi trên sân của cụ.
Bước lên nhà, cũng như mọi khi, gần như chẳng thể nào khác hơn, chúng thấy cụ Sóc ngồi im phắc bên bếp lửa. Cái tẩu thuốc bằng ống trúc mật uốn cong vút đã lên nước nâu đen bóng loáng quen thuộc trên tay, chiếc khăn chàm bạc màu vắt ngang vai, vẫn ánh mắt trầm tư bạc màu năm tháng dõi hướng nhìn đăm đắm vào màn tối đang kéo xuống ngoài hiên.
Đã quen với vẻ im lìm có thể ngồi hàng giờ chìm vào suy tư như thế của cụ Sóc. Những lúc như vậy hồn cụ như thả sâu, chìm ngập trong một miền ký ức xa xăm nào đó, có lẽ nó đang nhung nhớ và nuối tiếc lại những ngày còn rong ruổi trên những nẻo đường ngang dọc... Những con đường luôn vươn tới, hun hút gọi mời đến những chân trời mới lạ, kêu gọi giục giã cơ thể tràn trề sức lực của tuổi đôi mươi, kích thích trí tò mò, ham mở mang hiểu biết luôn luôn sôi sục trong ông, và khi đôi chân dẻo dai vượt suối băng rừng vẫn muốn bôn ba khắp nẻo... Nên hai đứa lặng lẽ, cứ tự nhiên như ở nhà, vào góc khoanh chân ngồi xuống đối diện với cụ qua chiếc bếp lửa cháy lom rom giữa nhà, không nói nửa lời.
Một khoảng im lặng, cả ba ông cháu không gây ra một tiếng động nhỏ. Lát sau cụ Sóc từ từ như dần thoát khỏi cơn mê, khẽ đưa chiếc tẩu lên rít thêm một hơi dài nữa rồi mới quay sang hai đứa.
- Chào những chàng trai anh hùng của bản Tơ Gúc! - khuôn mặt cụ chợt tươi tỉnh hẳn lại, ánh mắt dưới nếp da nhăn nheo lại lấp lánh, chuyển động lại nhanh nhẹn như mọi khi.
- Chà, mấy ngày nay chúng cháu đã phải hổ thẹn với lời khen to tát quá ấy rồi! Xin cụ đừng làm chúng cháu phải hổ thẹn thêm nữa - Xít nhẹ nhàng khiêm tốn nói - Việc chúng cháu làm có đáng là gì mà dám nhận tiếng anh hùng!
- Đáng chứ! Đáng chứ! Sao lại không những chàng trai của ta - cụ Sóc khẽ kêu lên vui vẻ - Với ta, nó thực sự là một chiến công... Không cần phải khiêm tốn như thế, hai đứa nhìn lại mình xem, giờ hai đứa đã là những chàng trai trưởng thành thực sự rồi. Các cháu xứng đáng với lời khen ngợi ấy!
Đan và Xít cảm thấy khá bẽn lẽn nhưng cũng vừa cảm thấy chút vui sướng lâng lâng khi nhận được lời khen từ chính miệng cụ Sóc.
- Thật tình thì tất tần tật đều nhờ vào thứ thuốc kỳ diệu của cụ cả đấy ạ - Giọng Xít chân thành - Nếu không nhờ có nó thì giờ này xương chúng cháu đã phơi trắng hếu trong cánh Rừng Chết ấy rồi!
- Đúng thật thế ạ! - Đan xen vào, giọng sôi nổi hào hứng - Đụng phải thứ thuốc kỳ diệu của cụ là nó lập tức tịt đòn, chẳng còn giở được trò mèo gì. Nói thật nếu không có thứ thuốc của cụ thì dù có đến cả sáu bảy đứa như chúng cháu cũng chẳng hạ nổi nó đâu ạ! Cháu ước gì cụ có thể nhìn thấy nó lúc ấy. Thật khoái trí làm sao khi nhìn khuôn mặt nó uất ức lồng lộn, mắt đỏ tiết vằn lên vì bất lực, nó bất ngờ hoảng loạn thấy rõ ạ! - Rồi Đan thêm - Mà nếu cháu không nhìn nhầm, thì hình như nó suýt phát khóc lên vì tức tưởi đấy, sau khi cố vươn cổ gào đến gần rách cả họng mà bọn cháu vẫn cứ đứng trơ ra như tượng gỗ - Vừa nói Đan vừa vươn cổ giả bộ con sói tru lên u ú.
Cả ba ông cháu cùng bật cười.
- Nghe hai đứa nói vậy ta cũng nhẹ bớt cái uẩn ức trong lòng bấy lâu nay.
- Có gì mà cụ phải uẩn ức chứ? Bao năm nay cụ đã giúp dân bản cứu bao mạng người... - Đan nói.
- Chỉ là ta đơn thân - Cụ Sóc trầm giọng nói - Từ lúc trai trẻ đã mang thân đến bản này xin ở nhờ. Cả bản đã giang tay ra chào đón, cưu mang bao bọc một đời... Cái tai ương ấy nó cứ cắn rứt trong tim ta như một món nợ chưa thể trả...
Rồi cụ chuyển sang giọng thân mật, gần gũi như thường ngày, hỏi:
- Này, ta đã thấy hai đứa trong lễ hội mừng chiến công nhảy múa ra trò đấy? Ôi cái bản làng Tơ Gúc nhỏ bé tội nghiệp này, chẳng biết bao lâu rồi mới có cuộc vui đến như thế! Nếu ta không nhầm thì người già cả chẳng ai còn nhớ nổi một dịp nào như thế, còn đám trẻ thì chắc chắn chưa từng được chứng kiến.
- Ôi lễ hội! Cái đấy mới thực sự là phần thưởng thích đáng làm sao? - Đan reo lên, chân tay phấn khích vung vẩy, như được gãi đúng chỗ ngứa - Thật là một cuộc vui tràn trề có đầu mà chẳng có cuối. Cháu sẽ còn nhớ mãi và nuối tiếc nó khôn nguôi!
- Còn cháu đã say khướt và mềm như một con rắn mùng cho đến mãi trưa hôm sau - Xít vui vẻ tự thú - Nhưng cháu cũng nghĩ nó thật tuyệt!
- Giá mà cứ mỗi mùa trăng bản ta lại có một cái lễ hội như thế...! - Đan ước ao.
- Ừm, giá mà thế! - Cụ Sóc nói - À mà ta vừa nghe hai đứa nhắc tới Rừng Chết. Khu rừng đáng sợ ấy ta cũng những tưởng chỉ tồn tại trong những lời đồn ghê sợ về rừng U Linh. Vậy là nó có thật sao? Ta cũng đã được nghe trưởng làng Y tí kể qua. Nhưng mà sao bằng được nghe từ chính miệng những người đã bước chân lên nó kể lại kia chứ!
- Thưa cụ, quả đúng là như thế. Khu rừng kỳ lạ ấy không chỉ có trong truyền thuyết đâu... - Xít vừa nói nửa chừng thì bỗng cụ Sóc cắt ngang.
- Khoan, từ từ đã... Chuyện này hẳn sẽ rất dài, mà đêm nay hẳn cũng chẳng vội qua, sao ông cháu ta không trước hết uống mừng sự trở về lành lặn, mạnh khỏe của hai đứa đã chứ?
Hai đứa lập tức đồng tình, rồi không chờ cụ Sóc nói thêm, Xít tự động đứng lên ra phía góc chái nhà bưng lại một cái hũ nhỏ khá khiêm tốn so với những cái hũ đựng rượu khác. Bởi cụ Sóc không phải người hay uống, thi thoảng lắm mới thấy cụ nhấm nháp nửa bát. Hũ rượu này đã ở đó từ lâu lắm rồi mà chưa châm thêm lần nào. Vì đã quá quen thuộc với mọi vật chi li trong căn nhà lá nhỏ bé này, nên chả cần bê cái hũ lên Xít cũng biết còn bao nhiêu rượu trong đó. Nó bưng hũ rượu rót ra ba cái bát đầy cho ba ông cháu.
Sau hai ba ngụm rượu Xít nhớ ra mục đích vì sao mình cần kíp đến đây, nó yên lặng một lát rồi khẽ nói:
- Thưa cụ, trong chuyến đi vừa rồi bọn cháu đã tìm thấy một vật kỳ lạ. Hôm nay muốn mang qua xin cụ xem và cho lời khuyên bảo, và nếu có thể xin cụ giữa nó lại giùm giúp cháu.
Vừa nói Xít vừa cho tay vào bụng lấy cái bọc nhỏ ra. Rồi nhẹ nhàng lật giở lớp vải bọc bên ngoài đưa pho tượng ngọc cho cụ Sóc.
Vừa nhìn thấy pho tượng xanh cao chưa đầy gang tay, bỗng người cụ Sóc như cứng đờ lại, không thốt ra lời. Cụ mở to mắt nhìn nó trừng trừng.
Xít chưa bao giờ thấy vẻ mặt ấy, và cũng không bao giờ nghĩ trên đời có thứ gì lại có thể làm một người bôn ba ngang dọc, phiêu du khắp các gầm trời, trên đời không gì không biết như cụ Sóc... lại có thể sững sờ đến thế.
Cả Đan và Xít bất giác bỗng thấy lạnh toát trong ruột khi chợt nghĩ tới những lời lẽ lạnh lẽo, đầy ám chỉ của lão Cà Tơn.
- Chúng... Chúng cháu.. đã mang về bản một thứ tai họa sao? - Sau một lúc Xít mới dám run run đánh bạo hỏi.
- Hai đứa tìm thấy thứ này ở đâu? - Không trả lời cụ Sóc hỏi lại, giọng cụ cũng biến đổi không kém.
- Chúng cháu... lấy nó từ một ngôi đền đá... nằm giữa một khoảng rừng trống!
Vừa nghe vậy, cụ Sóc bất giác ôm pho tượng vào lòng đứng lên bước vội về phía cửa. Từ đó ra cửa chẳng quá dăm bước chân, mà trông dáng cụ tất tả khác thường. Dừng lại bên sát mép cửa, đứng chân trước chân sau như sẵn sàng lùi lại, cụ đưa ánh mắt đầy nghi ngại, cảnh giác quét ngang dọc bầu trời đen thẫm bên ngoài.
Đan và Xít ngẩn ngơ, đưa mắt nhìn nhau thầm hỏi "Không biết cụ đang tìm cái gì?"
Sau khi quan sát màn đêm sâu thăm thẳm ngoài kia một hồi, cụ Sóc cẩn thận đưa tay hạ tấm phên nứa đóng kín cửa lại rồi quay vào chỗ hai đứa, hỏi:
- Sao hai đứa lại tìm thấy ngôi đền đá ấy? Trong lúc lạc rừng sao?
- Không, một con chim trắng rất lớn đã dẫn chúng cháu tới đó! - Xít nói.
Cụ Sóc bỗng thần ra một lúc rồi nói:
- Ừ... Là một con chim trắng, tất nhiên phải là thế rồi. Sao ta lại không nghĩ ra chứ?
- Cụ cũng biết về con chim trắng đó sao? Thứ này không mang lại tai họa cho bản mình chứ ạ? - Xít hỏi giọng vẫn chưa hết lo lắng.
- Không, không hề! - Hiểu ý hai đứa cụ Sóc đáp - Mà ngược lại... Nó là... Nó là biểu hiện của một sự đổi thay... Một đổi thay đã bắt đầu chuyển vần... Ánh sáng rồi sẽ hừng lên sớm thôi!
Những lời cuối cụ Sóc hạ thấp giọng, thì thầm như nói với chính mình.
Xít và Đan ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu cụ Sóc đang nói về cái gì.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Phung QA

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
26/1/19
Bài viết
21
Gạo
0,0
Chương 16: Thần A môn


Sau khi ngồi xuống xem xét kỹ lại pho tượng, cụ nắm chặt trong tay bảo hai đứa kể lại mọi việc.
Với sự thay đổi khác thường của cụ Sóc từ lúc nhìn thấy pho tượng, hai đứa hiểu rằng pho tượng này hẳn còn ẩn chứa nhiều điều bí mật quan trọng hơn những gì chúng tưởng nhiều. Thế nên Đan và Xít cùng kể lại đầu đuôi câu chuyện, cố gắng kể thật tỉ mỉ, không bỏ sót bất cứ một chi tiết nào kể từ khi con Chim Trắng dẫn chúng vào khoảng đất trống trong rừng có ngôi đền đá ra làm sao, cho đến khi thoát ra khỏi miệng vực thế nào.
Sau khi nghe xong toàn bộ câu chuyện, cụ Sóc ngồi im lìm, ánh mắt chằm chằm nhìn vào đống lửa như đang dọi chiếu nhìn ngược vào trong tâm. Một lúc sau cụ lại khẽ lẩm nhẩm gì đó một mình. Một điều hai đứa rất ít khi thấy ở cụ, nhưng chỉ riêng tối nay chúng đã thấy tới hai lần.
Rồi đột nhiên cụ Sóc quay sang hỏi:
- Ngoài hai đứa còn ai biết về chuyện này nữa?
- Không ạ, chúng cháu đã bọc kín cả pho tượng lẫn mồm miệng, chưa ai từng nghe đến pho tượng cả. Ban đầu chúng cháu còn sợ định chôn nó ngoài bìa rừng, không dám mang về bản.
Rồi Xít kể lại cho cụ Sóc nghe về những lời răn đe bóng gió, đáng ngại của lão Cà Tơn.
- Không, hai đứa đã quyết định khá sáng suốt! - Cụ Sóc khen ngợi - Nếu không, không ai lường được chuyện gì sẽ đến và tai họa sẽ lớn thế nào đâu.
- Thực sự thì pho tượng này là gì ạ? Nó và con Chim Trắng có liên quan gì tới nhau? Sao khi giành được, con Chim Trắng không giữ lấy pho tượng lại để chúng cháu mang theo? Nếu cụ biết, xin gỡ giùm cháu cái mớ lùm xùm đang rối như tơ vò trong đầu được không ạ?
Tính nôn nóng thẳng tuột của Đan làm nó sốt sắng xổ luôn ra cả tràng câu hỏi chẳng thể từ tốn câu một.
Sau một hồi vẻ suy nghĩ cụ Sóc nói:
Quả thật ta có biết về câu chuyện này, do khá vô tình, và ta cũng chưa từng nghe câu chuyện nào có nhiều điều kỳ lạ như vậy. Nhưng dù sao với chút hiểu biết của mình, ta cũng có thể giải đáp đôi điều. Ta mừng vì sự góp nhặt những điều vụn vặt tình cờ tưởng như vô nghĩa trước đây, không ngờ hôm nay lại có thể giúp ích cho hai đứa!
Đan và Xít khẽ thở phào như vừa vứt được tảng đá đè trên ngực xuống. Chúng hồi hộp, sửa lại thế ngồi ngay ngắn ngồi chờ nghe câu chuyện của cụ Sóc.
- Pho tượng ngọc này...!
Cụ Sóc giơ pho tượng ngọc xanh bóng lên trước mặt mân mê nhìn ngắm một lần nữa, vẻ mặt bồi hồi như đang suy tư về một ký ức xa xăm nào đó, rồi bắt đầu kể. Giọng cụ chậm rãi đều đều, xen lẫn cùng tiếng tí tách của những thanh củi đang cháy đượm.
- Là một phần hiện thân của một vị á thần bảo hộ cho người Gia lan - một bộ tộc nhỏ thưa người nhưng cứng cỏi và can đảm - nằm ở cuối dãy núi Khau Pạ về phía Đông Nam, một trong những bộ tộc hiếm hoi nằm bên mép những bờ biển giông tố.
Vị á thần này có tên là A môn hay còn được gọi là - thần Bụng, cái tên gọi gần gũi theo cái bụng quá cỡ của Ngài. Còn con Chim Trắng to lớn ấy chính là Bạch Hoa Linh Điểu, một loài thần thú hiếm có, do ngài thâu phục được. Theo truyền thuyết thì việc thu phục con linh điểu và chuyện ngài trở thành vị thần bảo hộ cho bộ tộc người Gia Lan, cả hai đều khá đặc biệt và ly kỳ.
Pho tượng ngọc này là pho tượng độc nhất, thế nên dù chưa từng nhìn thấy nó trước đây, ta vẫn khẳng định đó là tượng của thần A môn. Vì, theo như lời tộc trưởng người Gia La thì trên đời này chỉ có duy nhất người Gia La thờ vị thần này và hơn nữa, pho tượng này không phải do bàn tay con người tạo tác lên, mà nó được tạo ra từ một phép màu, do chính thần A mô trích một phần xương thịt của mình tạo lên. Đó cũng là lý do vì sao bức tượng ngọc này có thể phát ra thứ ánh sáng kỳ lạ như vậy vào những khoảng khắc đặc biệt.
Theo người Gia Lan kể lại thì pho tượng thờ này không thường xuyên được đặt ở chỗ trang trọng, thành kính như các pho tượng khác. Vì một lý do đặc biệt, nó thường được cất giấu ở một nơi bí mật vô cùng kín đáo, trong bộ tộc chỉ duy nhất hai ba người cao niên có uy tín, có trọng trách lớn mới được biết. Cứ mỗi năm vào tháng ba, người Gia Lan lại rước tượng ra làm lễ một lần duy nhất sau đó pho tượng lại bí mật rước vào núi cất giấu cẩn thận.
Vậy mà theo tương truyền khoảng hơn hai mươi năm về trước, vào một đêm mưa gió mù mịt, giông tố sấm chớp ầm ầm nổi lên khủng khiếp, đến gần sáng thì gió chợt yên, trời chợt tạnh ráo, quang đãng một cách kỳ lạ. Linh tính có điều chẳng lành, người Gia La liền tức tốc ra chỗ pho tượng kiểm tra. Thì hỡi ôi, họ tái mặt kinh hãi. Pho tượng đã biến mất từ lúc nào. Lo sợ, cả bộ tộc ra sức tìm kiếm, bới tung cả rừng núi lên để tìm, nhưng chẳng ích gì.
Bởi sự việc đó mà suốt bao năm qua cả bộ tộc Gia lan luôn sống cùng sự dằn vặt, sợ hãi và nỗi khổ đau đằng đẵng. Nhưng dù có đau khổ, dằn vặt nhường nào họ cũng chẳng thể mang pho tượng trở về.
Còn chuyện vì sao thần A môn trở thành vị thần bảo hộ người Gia Lan thì hãy chịu khó nghe ta kể tiếp.
Thực ra Thần A môn chưa bao giờ muốn rời khỏi Mường trời hay muốn xuống hạ giới để trở thành một vị hộ thần. Ông vốn dĩ là con trai của thần lũ Tu zác - người cai quản dòng chảy và sức mạnh tàn phá khủng khiếp của tất cả các con lũ trên rừng đầu nguồn, nơi những con lũ khởi phát và gom góp nước làm lên những trận càn quét kinh hoàng.
Ngược lại, mẹ của thần A mô lại là một vị nữ thần vô cùng đáng kính và nhân hậu, Bà là người được người người trần tục cầu xin ban phát sự che chở mỗi khi phải xa rời khỏi mái nhà bình yên của họ, đó là nữ thần Ka puy - Người bảo hộ cho những kẻ lữ hành trên khắp thế gian. Bất cứ một kẻ lữ hành nào gặp khó khăn, hiểm nguy trên đường đi, hoặc trong tình thế gian nan rơi vào tuyệt vọng, thì họ đều có thể trông cậy vào một thứ duy nhất và cũng là hi vọng cuối cùng - gọi tên và cầu khẩn nữ thần Ka puy để được cứu giúp. Đôi tai nữ thần có thể lắng nghe được những tiếng kêu cứu nhỏ nhất, xa nhất, và ánh mắt bà có thể nhìn thấy mọi con đường có những kẻ lữ hành cô độc đang dấn bước.
Chính ta là kẻ thường xuyên thầm gọi tên bà và cũng là kẻ chịu ơn nữ thần Ka puy nhiều hơn bất cứ ai trên thế gian này, nên ta hiểu sự hữu ích ấy như thế nào.
Và ông cũng là em trai của á thần Atk-ko, một á thần đứng trong nhóm đầu của mười hai chiến thần lừng lẫy.
Tuy vậy thần A môn, con trai của hai vị thần đầy sức mạnh và quyền năng ấy lại không hề giống cha mẹ mình. Ông không hề có sức mạnh quyền năng ghê gớm như cha hay anh trai, hoặc có thiên lực quán sát khắp thế gian như mẹ mình. Từ nhỏ, thần A môn đã thể hiện là một vị thần rất hiền hậu và khoan hòa, cũng như cái vẻ ngoài bé nhỏ, hiền lành và nhân hậu của ông vậy. Ông không đoái hoài tìm kiếm sức mạnh pháp lực, hay những thần vật để tăng thần uy cho mình như hầu hết các vị á thần khác, mà thường chỉ có hai thú vui cũng rất nhã nhặn là đọc sách và làm bạn với những cây khèn, cây sáo. Mỗi khi rảnh rỗi ông thường trốn ra những chỗ vắng vẻ, cô tịch, một mình say mê đọc những cuốn thư tịch cổ hoặc mê mải với những điệu khèn du dương trầm bổng do tự mình tạo ra. Nhưng ông dành niềm yêu thích đặc biệt cho những cuốn sách cổ xưa của Mường trời hơn, thứ mà chẳng có mấy vị á thần để ý tới và thường bị lãng quên vứt ở một xó xỉnh nào đó. Chúng cuốn hút ông bởi vô vàn những hiểu biết, những bí ẩn từ thời thượng cổ xa xưa nằm tàng ẩn sau dòng chữ bí hiểm chứa đầy hàm ý sâu xa, có những tuổi tác của thời gian được nhắc đến trong đó còn già hơn cả tuổi của Mường trời.
Thấy niềm yêu thích ấy của ông, nhân đang thiếu một người làm một công việc nhàm chán, Then- vua của Mường trời - đã giao cho ông một việc rất phù hợp với sở thích của mình, đó là cho ông làm chân Quản thư. Một công việc nhẹ nhàng, trông coi sắp xếp lại đống thư tịch của Mường trời lâu nay không được ai chăm nom, bỏ thành một mớ hỗn độn, phủ đầy bụi bặm, để lẫn cùng vô số các món đồ thần khí lặt vặt khác đã bị các vị thần bỏ rơi, hoặc có những món đã quá xưa cũ chẳng ai còn nhớ được phép chú để sử dụng, nhưng cũng chẳng thể vứt bỏ.
Từ đó ông trở thành chủ nhân của cả một tàng thư gồm ba căn phòng lớn nằm ở một góc xa, khuất nẻo, phía Tây của đỉnh Si Nai, một nơi tách biệt vô cùng yên tĩnh, nhưng hàng ngày vẫn được che mát bởi cái bóng kỳ vĩ của những tòa cung điện ngang dọc khảm ngọc trai, nơi Then ngự trị trên đỉnh núi đổ xuống, với hàng trăm chiếc mái cong dát vàng sáng chói như mặt sóng xô cùng vô số ngọn tháp ngọc men xanh vươn lên chót vót, lấp lánh nổi bật giữa từng mây.
Thần A môn rất thích công việc được giao, bởi với ông, nó thỏa mãn rất nhiều điều. Ông thỏa thích thời gian tự do, yên tĩnh để nghiền ngẫm những cuốn sách; và tha hồ thú vui thả hồn theo các điệu sáo mà chẳng hề bị ai quấy rầy, làm phiền. Nữ thần Ka puy chẳng hề bận tâm đến sự chọn lựa của con trai, chỉ có cha ông, thần Tu zác là không vui lắm với cái chức trách nhỏ bé, khiêm tốn ấy của con trai mình giữa các vị thần oai phong, mạnh mẽ khác của Mường trời.
Nhưng mọi chuyện sẽ chẳng có gì nếu đã không có một chuỗi các sự việc ngẫu nhiên sảy ra.
Số là cách đỉnh Si Nai vài dặm về phía Tây, cách nơi Tàng thư của thần A mô không xa, đối diện với chiếc cổng chào Ein-ka cao hơn mười bảy trượng, một trong bốn chiếc cổng chào vĩ đại làm lên vẻ đẹp kỳ vĩ của núi Si Nai. Nó gồm Pinka, Ta-kni, O-rok và Th'em-bron được Then sai các thợ nhà trời dựng lên để tôn vinh bốn vị thần cùng là anh em ruột trấn tứ phương: Đông, Tây, Nam và Bắc. Và Ein-ka cũng là cánh cổng, nơi thường đón hàng đoàn các vị á thần trở về, sau mỗi mùa săn náo nhiệt hàng năm.
Ôi thật là đẹp biết bao! Khi được tận mắt chiêm ngưỡng cảnh hàng mấy chục vị chiến thần cao lớn, đẹp đẽ với vũ khí chói ngời, lấp lánh trên tay; bên cạnh đàn thần thú bờm lửa, mắt vàng uy mãnh của họ hiên ngang, hùng dũng trở về trong ánh hoàng dương đỏ rực đang chìm xuống buổi chiều tà. Đầu đội mũ lông chim điêu đỏ tươi, ánh mắt như sao, mồ hôi còn bóng trên những cánh ngực đỏ au căng phồng, họ đi dưới chiếc cổng chào được tạc hình hai con chim Khổng tước cực lớn bằng ngọc phỉ thúy đậu duyên dáng trên hai cây Thường lạc tươi tốt chạm bằng đá mã não trắng thay cho cột trụ. Dưới ánh hoàng hôn phản chiếu của hàng ngàn viên ngọc khảm trên cổng dọi xuống, nhìn đoàn chiến thần như đang được một dòng sông ánh sáng chở về. Và phía cao trên đầu họ, mỗi nụ hoa của cây Thường lạc là một hạt ngọc dạ minh châu của Mường trời, chúng như được chiết ra từ ánh sao đêm hè; lấp lánh kết lại tạo thành một dải tinh tú nhỏ mọc sớm...
Ôi, cảnh đẹp ấy! Người trần thế sao mà thấy được?
Giọng cụ Sóc bỗng thốt lên đầy cảm khái rồi lặng đi.
- Ôi chao! Chỉ nghe cụ tả đã thấy nó tuyệt đẹp làm sao! - Đan xuýt xoa thốt lên - Mà sao cụ tả cứ như thể cụ đã từng thấy nó vậy?
- Ồ không đâu, làm sao ta thấy được những cảnh đó chứ? Đáng tiếc! Những kẻ phàm trần như chúng ta thì dù trong giấc mơ đẹp đẽ nhất cũng chẳng bao giờ thấy được những cảnh đẹp như thế của thần giới - Cụ Sóc nói.
- Nhưng sao cụ lại có thể tả tường tận nó như vậy? Dù nhắm mắt lại lúc này, cháu vẫn có thể hình dung ra cảnh tượng cánh cổng trong chiều tà ấy đẹp nhường nào!
Cụ Sóc ngẫm nghĩ một lát rồi cười hiền, nói:
- Đúng rồi, đó là nhờ sức mạnh phi thường của những con chữ đấy! Đó cũng là lý do vì sao ta muốn hai đứa cố gắng nắm bắt lấy chúng. Chỉ khi nào có thể đọc được các con chữ đó hai đứa mới hiểu hết được sức mạnh của nó, nó có thể còn mạnh hơn hàng trăm tay giáo và bay xa cả ngàn lần những mũi tên mạnh nhất!
Có một bản trường ca dài gần hai trăm khổ của người Ê đê đã miêu tả chi tiết về cõi trời trên đỉnh Si Nai. Một bản trường ca tuyệt hay, tựa như được viết bởi chính các vị á thần vậy! Nó vô cùng đẹp đẽ mà ta đã gần như thuộc lòng ngay lần đọc đầu tiên. Tất cả những gì tuyệt đẹp, khó thể diễn tả bằng lời nói về Mường trời đều nằm trong bản trường ca đó, và những gì ta miêu tả về vẻ đẹp của chiếc cổng Ein-ka kỳ vĩ cũng đều được rút ra từ đó. Và thêm nữa, dù đã hết sức cố gắng ta cũng mới chỉ làm nó đẹp bằng phân nửa trong trường ca ấy mà thôi.
- Ồ! mà ta đang dông dài về cái gì ấy nhỉ? Ta lú lẫn rồi, đó đâu phải điều hai đứa phải nghe? Ôi, tuổi tác đang đánh cắp trí óc ngày càng cạn kiệt của ta rồi!
- Ồ, không đâu, câu chuyện ấy cũng rất hay mà - Xít khẽ kêu lên - Chúng cháu rất muốn nghe!
- Nhưng đó không phải điều chính yếu hôm nay, hãy để một dịp khác. Ta đang kể đến đâu rồi nhỉ?
- Cụ đang nói về một thứ gì đó đối diện với chiếc cổng.
- À đúng! Ta đang muốn nói đến một khu rừng thiêng - Cụ Sóc tiếp tục kể - Đối diện với cổng chào Ein-ka hơn năm dặm về phía Tây có một khu rừng thiêng, tên là rừng Cồ Bàn. Đây là một cánh rừng rất đặc biệt. Trong rừng đầy kỳ hoa dị thảo, cây cối to lớn sum sê tươi tốt. không khí trong rừng luôn luôn mát mẻ và quanh năm rực rỡ ánh mặt trời. Cảnh rừng đẹp tựa một bức tranh. Trong rừng có những mạch suối óng ánh như hổ phách, chảy uốn quanh những bộ rễ nâu sẫm sần sùi khổng lồ, róc rách luồn dưới những tán lá Xu- yết để hứng và chở đi muôn vàn cánh hoa vàng tươi về phủ kín một mặt hồ giữa rừng, tạo thành tấm thảm ánh sáng sóng sánh. Sóng bên mép hồ ngày đêm rì rào vỗ nhè nhẹ lên bờ cỏ xanh mướt mát bằng phẳng, nơi mọc rải rác những cây Tu sê mảnh mai, xòe tán như bụm mây mỏng, buông những trùm hoa trắng tinh khiết có nhụy phớt tím tỏa hương dịu nhẹ. Vây quanh hồ là vách đá cao, phủ kín từ trên đỉnh thả dài xuống là tầng tầng, lớp lớp dây leo xanh rì điểm xuyến những chùm hoa đung đưa trong gió như những ngọn thác bằng lá và hoa đổ xuống, và ẩn sau tấm thảm xanh vĩ đại ấy là tiếng hót líu lo, rộn rã của muôn loài chim suốt ngày đêm. Giữa những ngọn thác xanh mướt ấy có một ngọn thác nước nhỏ thực sự, một ngọn thác mảnh mai, trắng sáng, lấp lánh như băng tuyết, dịu dàng đổ xuống như rắc cát lên mặt hồ.
Nhưng điều đặc biệt hơn cả là khu rừng này hội tụ dầy đặc thần khí, nên trong rừng sinh ra toàn các loài kỳ thú vô cùng khác thường. Mỗi con mỗi vẻ, hình hài màu sắc kỳ lạ. Không những thế, chúng đều có linh thể và sở hữu những phép thuật phi thường. Chúng, nào là những con khỉ có lông đen mịn như đêm tối, nhưng mắt lại có màu sáng bạc như ánh trăng non. Những con khỉ đó có khả năng đọc thấu suy nghĩ của bất cứ ai trước mặt nó; là loài voi trắng sáu ngà khổng lồ có thể giẫm đá thành nước; hay giống trăn hai đầu có lớp vảy xanh lè, hơi thở thở ra đen tựa khói có thể gây mù mắt, nhưng lưỡi của chúng liếm lại có thể chữa lành mọi vết thương; hoặc một loài báo hoa khi chạy vun vút toàn thân bốc lửa tạo thành vòng tròn vây lấy kẻ thù... Chúng tất cả đều kỳ dị, và có những phép mầu phi thường.
Tuy vậy, vốn dĩ vẫn chỉ là những loài thú hoang, nên cho dù là linh thú, bản tính chúng vẫn rất hung hăng, dữ tợn. Nó càng khốc liệt hơn khi tất cả cùng bị trói buộc trong một cánh rừng. Con nào cũng ỷ y mình có phép thuật và sức mạnh siêu phàm, không bao giờ chịu lùi bước, nhường nhịn, nên trong khu rừng luôn sảy ra những trận kịch chiến vô cùng ác liệt để khẳng định sức mạnh và quyền thống trị.
Không để những con mãnh thú có phép thuật này thoát ra ngoài làm loạn, Then và các vị á thần đã dùng pháp thuật dựng lên một bức tường rào vô hình cực kỳ kiên cố và vững chắc, vây quanh khu rừng Bồ Đàn. Bằng mắt thường khó có thể thấy bức tường bằng pháp lực này, nhưng cho dù là loài trâu rừng đen như hắc thạch cực khỏe, có bảy xoáy tròn trên lưng với đôi sừng rộng cả sải lắc lên có thể tạo ra giông tố lốc xoáy ầm ầm, hay những con thần ưng cánh vàng mắt có thể nhìn xa trăm dặm cũng không thể húc thủng hay bay cao vượt qua được bức tường ấy. Trước kia vài con đã dám táo tợn xông ra nhưng lập tức chúng bị hàng ngàn những tia sáng xanh buốt như lưỡi kiếm bất ngờ từ dưới đất phóng lên, chớp mắt tạo thành một hàng rào hào quang sáng rực, cắt đứt đôi người. Kể từ đó không con linh thú nào còn dám mon men, có ý định lại gần mép rừng nữa.
Theo thông tục ở Mường trời, tuy không phải bắt buộc với tất cả, nhưng mỗi vị á thần khi tới tuổi đôi mươi, để đánh dấu tuổi trưởng thành và khẳng định sức mạnh, cũng như sự khác biệt của mình, vị á thần đó sẽ phải vào rừng Cồ Bàn thực hiện một thử thách: thu phục một con linh thú trở thành thần thú của mình.
Việc thâu phục một con linh thú không bao giờ là dễ dàng với bất cứ vị á thần nào, dù là với những vị minh thần mạnh nhất. Trước hết, bởi lòng ham muốn có một con linh thú khôn ngoan, trí tuệ, đầy sức mạnh sẽ theo mình suốt đời của các vị thần là một mong muốn không bao giờ thấy thỏa mãn. Vì càng thông thái, hùng mạnh họ càng kỳ công muốn tìm kiếm cho mình bằng được một con thú thông minh, dữ tợn xứng đáng ở bên cạnh, bởi một con thần thú thường nói lên rất nhiều điều về chủ nó. Và điều đó cũng đồng nghĩa thử thách thu phục càng trở nên khó khăn hơn. Hơn nữa, dù là mong muốn bất cứ loài thần thú nào, các vị á thần cũng cần phải có đủ ba thứ để hoàn thành việc có tính danh dự này: sức mạnh thu phục, sự yêu thương tin tưởng và lòng kiên nhẫn. Luôn phải có đủ ba điều đó. Đầu tiên các vị á thần phải thể hiện được sức mạnh đủ khắc chế sự hung hăng, hoang dã của con linh thú, rồi sau đó họ phải ở lại hẳn trong rừng để kiên nhẫn đi theo dần dần tạo sự gần gũi kết thân và chăm sóc cho co linh thú, cho đến khi cả hai tìm được sự tin tưởng chân thành lẫn nhau. Đó thực sự là một kỳ công.
Nhưng điều quan trọng hơn cả là sau khi đã chính thức thu phục được con linh thú, những vị thần sẽ phải làm một điều thiêng liêng ngay trong rừng Cồ Bàn. Đó là trao đổi một phần linh thần của mình với con linh thú, nó giống như một lễ nghi linh thiêng, vừa thu nhận vừa gắn kết. Khi đó một phần linh hồn và bản thể của vị á thần sẽ chuyền sang con linh thú và ngược lại. Chính vì sự linh thiêng gắn bó như vậy, nên đôi khi người ta thường nghe thấy chuyện các vị á thần rất coi trọng linh thú của mình. Không những thế đằng sau sự trao đổi, giao hòa cả bản thể lẫn linh hồn đó còn có một tác dụng lớn khác: khi trao cho con linh thú vừa thâu phục một phần sự uyên nguyên, tĩnh tại của một á thần, điều đó giúp con linh thú trở nên điềm tĩnh, thuần hậu, vơi bớt sự hung hăng hoang dã, thì đồng thời cùng lúc vị á thần cũng nhận lại một phần thứ linh khí vẫn còn hoang dã từ con linh thú, thường nó sẽ tiếp thêm sức mạnh cho vị á thần càng trở lên mạnh mẽ hơn, và lòng can đảm cùng oai nghi của họ cũng tăng lên nhờ vào linh khí con mãnh thú đã hội tụ sau nhiều năm sống trong rừng .
Sau sự trao đổi thiêng liêng hơn đó, cả hai, thần và thú sẽ coi như gắn bó mãi mãi, vị á thần sẽ dùng phép đánh dấu riêng lên mình con thần thú và đưa nó qua hàng rào pháp lực. Người ta vẫn nói rằng: nếu một con linh thú không may chết đi, các á thần sẽ không bao giờ thu nạp một con khác làm thần thú nữa. Ngược lại, nếu một vị á thần mất đi, con linh thú của họ sẽ không sống tiếp, nó sẽ chết theo chủ.
Chuyện kể rằng vào một ngày nọ trong rừng Bồ Đàm bỗng xuất hiện một con linh thú lạ, chưa từng xuất hiện ở đây bao giờ. Nó là một con chim cực lớn, thân hình thanh nhã cao lớn lênh khênh, khi bước đi ba sợi lông vàng nhạt trên đỉnh đầu nó có thể chạm tới những cành cây Chê-keo thấp nhất. Toàn thân nó từ đầu tới cuối trắng muốt như một cụm mây. Nó thường bay vun vút, thoắt ẩn thoắt hiện giữa những tàng lá mênh mông xanh thẳm. Tiếng của nó cũng vô cùng thanh thoát, mỗi khi kêu lên những âm thanh trong vắt vang vọng truyền đi khắp các vách đá như tiếng lục lạc vàng reo. Nó cũng có những phép thuật kỳ lạ: khi cần, bộ lông mềm bồng bềnh như một khóm lau trắng của nó có thể rùng mình tỏa ra hàng vạn chấm sáng như tinh ngân, quấn lấy thiêu đốt, xuyên qua bất cứ làn da nào dày nhất, còn mạnh hơn cả lửa; không những thế nó có thể chớp mắt thu mình nhỏ lại chỉ còn bằng nắm tay, sáng rực và phóng đi tựa ánh chớp, không gì bắt kịp. Chưa kể đến cặp vuốt và cái mỏ ngà vô cùng sắc và cứng như thép của nó.
Con linh điểu mới xuất hiện này cũng cực kỳ ngang ngược và hung dữ. Chỉ mới xuất hiện nó đã ngang nhiên tỏ ý muốn độc chiếm cả cái mép quanh ven hồ rộng lớn, nơi là nguồn nước chung, duy nhất và thiết yếu của tất cả mọi loài thú trong rừng thiêng. Nó chẳng hề sợ hãi hay e ngại, lập tức gây hấn tạo ra cả chục trận đấu kịch liệt, dữ dội với tất cả những con mãnh thú lớn trong rừng. Từ con sư tử bờm vàng có tiếng gầm đẩy lui nước làm cả một góc hồ trơ ra tận đáy, đến con voi trắng to lớn gấp cả chục lần nó. Từ con trăn xanh hai đầu phun hơi độc đến loài báo hoa phát ra lửa... Nó không chịu thua hay lùi bước trước bất cứ kẻ con nào, dù không ít lần nó đã từng bị xẻ mắt rách đến tận sát đỉnh đầu, hay nửa cẳng chân giập gãy, lết đi từng bước khó nhọc do được nếm mùi hàm răng khủng khiếp to nhất rừng Bồ Đàm, hàm răng lớn tựa một gốc cây của con cá sấu đen sáu chân trong đầm lầy.
Nó cũng chính là con linh thú đã gan góc một chọi hai, móc mù mắt một con và đốt trụi lông lưng một con khác của cặp bò rừng sừng vàng nổi tiếng hung dữ và lì lợm - cặp thú sau này trở thành thần thú của thần Paron - trong một cuộc chiến long trời kéo dài hơn nửa ngày: quần nát, phá bầm giập cả một góc rừng.
Rất nhiều vị chiến thần kiêu hãnh, anh dũng muốn có con Bạch Linh Điểu làm thần thú của mình, để cái uy danh vốn đã vang dội của họ thêm phần hiển hách. Không dưới cả tá các vị thần oai phong lẫm liệt đã vào rừng Bồ Đàm ăn dầm nằm dề ở đó hàng tháng trời, kiên quyết thu phục bằng được con linh điểu, nhưng dù họ đã dùng thử mọi cách: ra thần lực, trổ thần uy; phủ dụ nó bằng tất cả lòng kiên nhẫn mà vốn dĩ ngay cả họ cũng chưa bao giờ nghĩ mình có thể đạt được giới hạn của sự nhẫn nại đến thế. Nhưng sau cùng con Bạch Linh Điểu vẫn là kẻ chiến thắng - Nó không chịu cúi đầu thuộc về Ai.
Và cứ như vậy nó trở thành con linh thú nhởn nhơ hưởng tự do, vô chủ lâu nhất trong rừng Cồ Đàm, trước những đôi mắt thèm muốn của các vị á thần, chẳng khác gì một sự trêu chòng con mắt. Thậm chí chuyện con Bạch Linh Điểu đã trở thành một câu chuyện được nhiều người bàn tán đến mức ngay cả Then cũng biết có một con linh thú vô cùng ngang ngạnh, cứng đầu cứng cổ trong rừng thiêng.
Cùng thời gian đó, trong lúc thích thú vùi đầu trong cả núi thư tịch cổ, tha hồ mầy mò tìm hiểu, tra cứu ra cả vạn sự kỳ bí của trời đất, một hôm vô tình thần A môn tìm thấy một cuộn sách mỏng nằm tận trong khe, dưới đáy cuối góc kệ. Cuộn sách bị bỏ xó ở đó, như thể chỉ để dùng chêm chèn chân cột. Cầm lên lau sạch, thần A môn thấy lạ vì đó là một cuộn sách được khắc trên những mảnh mai rùa vô cùng quí hiếm - rùa Sấm. Một loài rùa chỉ có ở dòng sông Dao-kti của Mường trời, dòng sông mang phù sa của những tầng mây bạc tỏa sáng nhờ nhờ như ánh trăng non chảy uốn lượn giữa trời rồi đổ xuống biển Đông, nằm rất xa về phía Bắc của đỉnh Si Nai vòi vọi. Mai loài rùa này có gai dài trên lưng như vây cá, bên trong màu vàng nhạt có vân trắng xám như vân đá. Nếu sau nửa ngày lấy mai đem khắc chữ mai vẫn mềm như đất sét có thể dùng mũi xương khắc lên dễ dàng, nhưng chỉ để sau ba ngày mai sẽ cứng và dẻo như đồng, sét đánh trúng cũng chẳng đổi mầu.
Giở ra đọc kỹ cuộn sách, thần A môn vô cùng ngạc nhiên, vì trong cuộn sách được làm từ những mảnh mai rùa quí hiếm mài mỏng như lá dâu, hai đầu đục lỗ để xâu chuỗi lại rất kỳ công ấy lại chỉ ghi chép cách thổi một làn điệu sáo, chẳng biết có tự bao giờ. Vừa tò mò vừa thích thú lại nhân lúc đêm tối yên tĩnh, trăng sáng treo cao, thần A môn liền đem sáo ra trước sân mò mẫm theo âm điệu trong cuộn thư tịch thử tấu thử. Sau một vài lần ngượng ngạo, dò dẫm rồi dần dần với thiên tính say mê thứ âm thanh ảo diệu đẹp đẽ của cây sáo, cây khèn từ nhỏ, nên không bao lâu thần A môn đã nhanh chóng nắm được âm điệu của khổ sáo kỳ lạ kia. Khi âm điệu đã lên trầm xuống bổng luyến láy mượt mà thì chính thaanfvA môn cũng không thể nào dứt ra nổi sợi tơ âm thanh đang rút ra từ chính ống sáo của mình vờn lượn giữa lưng trời. Nó vô cùng êm ái mà thiết tha, và âm điệu thanh cao một cách kỳ lạ, tai ông chưa từng được nghe thấy thứ âm thanh như thế bao giờ. Cứ thế cao hứng, say mê cuốn ông đi, làm ông không thể ngưng thổi. Rồi giữa khung cảnh đêm vắng im lìm, vầng trăng trên cao đang sáng rời rợi, chợt Thần A môn thấy lất phất những hạt mưa li ti xa xuống, rồi ông nhận thấy điệu sáo của mình càng nối nhau lên cao vút thì dường như những làn mưa cũng thêm nặng hạt đổ xuống. Mà kỳ lạ thay những làn mưa đó chỉ từ một hướng đưa tới. Tò mò, thần a môn liền vừa thổi vừa đi ra rìa sườn núi, nhìn khung cảnh xung quanh. Ông thấy từ xa có một vòi nước trắng xóa lơ lửng giữa không trung đang uốn lượn vươn về phía ông. Trong chốc lát thần a môn chợt hiểu ra: màn mưa kia không phải từ trên cao đổ xuống mà chính là dải thác nhỏ trong rừng cồ đàm, chẳng hiểu sao không đổ xuống hồ mà đang trút thành dòng, vươn dài về phía ông. Đằng xa, quanh rừng thiêng một màn hào quang xanh lẹt dựng lên cao vời vợi, nhưng kỳ lạ, chẳng hề cắt đứt được dòng thác, nó vẫn liền mạch chảy xuyên qua. Thần A môn hiểu, tất cả sự kỳ lạ này chính là do điệu sáo mình đang thổi tạo thành, rõ ràng khúc sáo có pháp lực bí ẩn ghê gớm. Nó không những có thể chuyển rời, sai khiến dòng chảy của ngọn thác, mà còn có thể khiến dải thác ấy vượt qua cả hàng rào pháp lực vô cùng hùng mạnh, yểm trấn quang rừng bồ đàm mà không bị đứt đoạn. Còn đang ngẩn ngơ với khả năng kỳ lạ của điệu sáo, Thần A môn chợt giật mình king hãi, khi nhìn theo ngọn thác vươn ra ngoài gianh giới rừng thiêng còn có hai ba con linh thú cũng vừa vượt lỗ hổng trên hàng rào phép thuật phóng vọt ra. Thần A môn cả kinh vội vã ngừng ngay tiếng sáo. Lập tức dải nước trắng ngang trời cũng thu lại trở về rừng Cồ Bàn như một con rắn bò về hang, lỗ hổng trên hàng rào lập tức được phong kín như cũ.
Nhìn mấy con linh thú đã thoát ra ngoài đang bay lượn giữa không trung, không chịu quay lại rừng Cồ Đàm, thần A môn biết mình vừa đã gây ra chuyện lớn. Linh thú là loài có phép thuật, bản tính lại hung dữ, khi thoát ra ngoài chúng thường tìm cách chạy xuống hạ giới để tránh bị các vị thần truy đuổi, bắt trở về rừng Cồ Đàm. Dưới hạ giới chúng thường phá phách, sinh lắm chuyện phiền phức, gây họa và rất khó bắt được chúng đưa trở lại rừng thiêng. Chính bởi thế Then mới phải dựng lên bức tường pháp lực để ngăn chặn. Nay chúng đã thoát ra, trước sau gì cũng gây chuyện, rồi mọi việc sẽ chẳng giấu mãi được, tất đến tai Then. Khi đó ông không những sẽ bị quở phạt mà nhất định sẽ phải tâu trình về bản sáo kỳ lạ này - điều ông chẳng hề muốn, vì ông chắc chắn nó còn ẩn chứa nhiều điều kỳ lạ mà ông chưa có thời gian tìm hiểu hết. Và điều ông lo ngại nhất, không chừng hình phạt đó còn bao gồm cả việc từ nay ông sẽ chẳng còn được coi sóc tàng thư nữa.
Lo lắng bối rối, sau cùng thần A môn quyết định đành phải nhờ cậy đến anh trai mình, thần Atk-ko.
Trái ngược với vị thần bé nhỏ em trai mình, Thần Atk-ko là một trong những chiến thần cao lớn, mạnh mẽ nhất và có nhiều chiến công lừng lẫy được nhiều bộ tộc ca ngợi, ghi chép lại trong thơ ca của họ. Tính tình ông khẳng khái, phóng khoáng, thích giúp đỡ, can thiệp vào những chuyện bất bình, cũng như ưa tiệc tùng và những cuộc vui. Vì không thích bó buộc ở một chỗ, nên ông thường một mình ngao du đi đây đi đó, chân trời góc biển chẳng đâu thiếu dấu chân ông.
Bởi vậy khi thần A môn tìm thấy anh trai mình đang ở một bàn rượu cùng ba vị á thần khác, vừa nghe em trai giãi bày kể lại, thần Atk-ko liền đứng dậy chào ba vị thần, rồi kéo em đi luôn.
Hai anh em thần A môn bay vút lên đỉnh trời đưa mắt tìm kiếm. May mà mọi việc xảy ra chưa lâu nên họ nhanh chóng tìm thấy ba linh thú vượt lỗ hổng vẫn đang nhởn nhơ không xa rừng Cồ Đàm lắm. Và cũng may chúng chỉ là mấy loài muông thú nhỏ hiền lành: một con nai, một con linh miêu và một con cú lông bạc. Cả hai anh em mau chóng đuổi theo vây lấy ba con linh thú. Với tài khéo léo của mình cùng sợi dây bện bằng vàng thần Atk-ko nhanh chóng vung tay tròng gọn ba con linh thú, rồi đưa chúng về trả lại rừng Cồ Đàm.

Mọi chuyện có lẽ đã chỉ dừng lại ở đó, có lẽ đã chẳng có điều gì đáng nói, nếu không lâu sau đó có một chuyện xảy ra.
Chuyện là, thuở đó dưới trần gian, xa tít tận cuối phương Nam, thuộc về xứ Khoang-Hoả hoang vu, trống trải, nơi toàn chỉ có đầm lầy trải ra mênh mông, rong rêu quanh năm ẩm ướt. Khắp cả vùng đầm lầy ấy chỉ có duy nhất những loài côn trùng, giun dế sinh sống lúc nhúc dưới lớp bùn đen nhão nhoét, sền sệt tồn tại; không một loài muông thú, chim muông nào sống ở đó, hay muốn bén bảng đến gần chứ đừng nói gì đến con người. Họ e ngại vùng đầm hoang âm u đó, né tránh, xa lánh nó; bộ tộc gần nhất sống cũng cách xa vùng đầm lầy cả vài chục dặm. Nằm giữa vùng đầm lầy hoang vu, phẳng lặng đó, có một dãy núi đá đen xì, gai góc lởn chởm nhô lên, ngọn núi đó có tên là núi Khau-Mã-Dèn, theo nghĩa cổ có nghĩa là dãy Nhện Đen. Dãy núi lởm chởm ấy chạy theo hướng Đông-Tây, đứng sừng sững, cô độc giữa màn sương xám mỏng dập dờn, hôi hám ngày đêm từ dưới lớp bùn mục ruỗng bốc lên. Nhìn nó im lìm như một con quái vật khổng lồ đen đang nằm bất động rình mồi giữa khung cảnh lờ mờ, chết chóc. Bên dưới chân dãy núi đá là hàng ngàn trụ đá cắm sâu xuống đầm lầy, tạo ra muôn vàn cái hang vòm nửa nổi nửa chìm lấp sấp trên mặt bùn. Một ngày nọ, vào lúc chiều muộn đã nhá nhem, không biết từ phương nào, có một con vật hình thù kỳ dị, thân hình to lớn, dài như một con trăn có cánh bay tới áp mình vào vách núi rồi luồn xuống ẩn mình dưới những hang đá. Sau đó cả năm chẳng có điều gì xảy ra. Rồi bỗng nhiên vào một đêm, đêm ấy trời đất đen kịt một cách kỳ lạ, bầu trời chưa bao giờ đen thẫm, sánh quánh đến thế, mây đen nặng trĩu như võng xuống xà sát mặt đầm, không gian đông đặc, ngột ngạt, các ánh sao khuya trốn biệt. Trong tiếng rả ríc của một cơn mưa nhẹ trút xuống đầm lầy, đột nhiên nổi lên những tiếng chí chít kỳ lạ. Ban đầu những tiếng kêu như chuột ấy còn lích ríc, lao xao, nhưng chẳng bao lâu sau nó đã đầy ngập, ran ran vang lên, tạo thành từng đợt nhức tai lan ra khắp các ngách hang dưới chân núi, nghe sởn cả gai ốc. Rồi từ trong các hang hốc nhớp nháp, tăm tối ấy bỗng lúc nhúc túa ra hàng ngàn, hàng vạn con vật. Những con vật có hình thù cổ quái: phần đầu và thân chúng nhìn tựa loài dơi, mỏ nhọn răng sắc, mắt tí hí đỏ rực lên nhìn rất hung hãn, trên lưng là cặp cánh đen bẩn thỉu xòe rộng lệt sệt, giãy giụa trườn trong bùn lầy, nhưng phần đuôi của chúng lại giống cá, có lớp da trơn láng, dài và có vây lưng chạy dọc đến tận chót. Con nào cũng to như cổ chân, dài loằng ngoằng bằng cả cánh tay. Ngay lúc đó từ dưới hang núi, bỗng một tiếng gào chói lói, ghê rợn rít lên vang dội khắp vùng đầm lầy. Như có một ma lực mang đầy sự hăm doạ, thúc ép, một mệnh lệnh phát ra trong tiếng thét ấy, bầy quái thú nhầy nhụa lập tức đồng loạt vỗ cánh bay lên tràn ra khắp khu đầm lầy. Chúng hung hãn sục xuống bùn, bới trong lớp rong rêu moi lên tất cả các loài côn trùng giun dế ẩn trốn dưới đó và ăn ngấu nghiến như loài quỉ đói. Kể từ đó loài thú quỉ đó trở thành bá chủ của cả vùng đầm lầy mênh mông. Nhưng với sự hung tợn và háu ăn của chúng chỉ chưa đầy vài tháng sau vùng đầm lầy đã cạn kiệt cả côn trùng lẫn giun dế và trở lên quá chật hẹp với bầy đàn đông nghìn nghịt như chúng. Chúng to lên trông thấy và bắt đầu kéo nhau thành từng bầy bay đi xa hơn ra khỏi đầm lầy, vươn về phía Tây-Bắc nơi chúng đánh hơi bằng những chiếc mũi nhọn đầy ria lởm chởm thấy mùi vị của những giống loài tươi ngon hơn. Và thế là một cuộc xâm lấn ghê sợ lan rộng về phía Tây-Bắc bắt đầu, nơi có những tộc người thưa thớt sinh sống. Bầy dơi quỉ này có một cách săn mồi rất đáng sợ. Trước hết chúng không ăn thịt người hay muông thú còn sống, chúng chỉ ăn những cái xác đã chết. Cách tấn công của chúng đầu tiên là kéo thành đàn, hàng ngàn con, ập đến vây quanh các làng bản thưa thớt, rồi chờ lúc từ nửa đêm về sáng, chúng tụ tập đậu đen kịt trên các cành cây quanh bản và bắt đầu cùng kêu thét lên lanh lảnh tạo thành một mớ âm thanh nghe vừa đáng sợ vừa ồn ĩ khiến người ta kinh hãi không thể chịu nổi, vì thế sáng sớm ra hầu như tất cả đều gói ghém tìm cách bỏ làng bỏ bản rời đi - vì vậy chúng còn được gọi là loài Quỉ Hét. Khi con người rời khỏi mái nhà yên ấm, che chở của mình, đó chính là lúc họ rơi vào cạm bẫy chết chóc của chúng, loài dơi quỉ này chỉ chực chờ vậy, chúng sẽ bay thành một đàn rợp trời bên trên và từ miệng chúng nhểu ra một dòng rớt dãi tanh lòm. Thứ rớt dãi của loài quỉ thú này vô cùng hôi thối và rất độc, bất cứ loài gì bị thứ nước rãi của chúng rơi lên mình, thì dù có là loài da dày như lợn rừng hay da voi, chỗ ấy cũng sẽ nhanh chóng chuyển màu xanh đen, mưng mủ hôi thối vô cùng rồi lan nhanh ra toàn thân, không quá hai ngày sau không thể lê lết nổi, thành cái xác bốc mùi tanh hôi giữa rừng già cho chúng bu tới sâu xé.

Cứ như thế, đàn dơi quỉ ngày càng sinh sôi nảy nở lúc nhúc, chúng to rất nhanh, sải cánh dài ra bay nhanh hơn, xa hơn, tràn lên phương Bắc như một vùng mây đen chết chóc. Chúng tới đâu con người hoảng sợ bỏ lại làng bản ruộng vườn tháo chạy tới đó, muông thú đến mạnh như cọp beo cũng phải rời hang bỏ núi mà đi. Mặt đất dưới đôi cánh lướt đi của chúng phủ một màu chết chóc, hoang tàn chẳng còn sự sống nào trở lại, như một vết thương nhiễm độc lở loét ngày một lan rộng. Thi thoảng người ta lại thấy con dơi chúa to lớn trông hình thù rất đáng sợ rời khỏi chân núi bay vút lên phương Bắc, nơi có những tộc người dũng cảm, không cam chịu chết sát cánh cùng nhau chống lại lũ con của nó. Nó bay nhanh như một cơn lốc cùng những tiếng gào quái dị. Chỉ ngày sau, nơi nó đến nhà cửa đã sập đổ tan tành, xác người, vật nuôi rải đầy đất chờ bầy con nó tới đánh chén.

Từ phương Nam ấm áp, dọc theo những dãy núi dài hiểm trở, ngày càng xuất hiện nhiều tộc người chạy loạn, lưu lạc lên phương Bắc xa xôi. Có tộc người đã tận mắt chứng kiến loài dơi quỉ, nhưng cũng có tộc mới chỉ được nghe kể qua miệng người chạy loạn đã kinh hãi sớm rời đi. Các làng bản cứ tan tác như lá khô trong cơn giông tố cuồng bạo, từng chiếc vội vã lìa cành. Nơi nơi núi rừng, đâu cũng thấy cảnh từng đoàn người nheo nhóc, bồng bế nhau hối hả trèo đèo vượt luồng chạy nạn: lưng cõng mẹ già tay dắt con thơ, bước sấp bước ngửa; ai cũng gày gò ốm yếu, mà ánh mắt nháo nhác lo sợ còn xanh hơn cả màu da đói khát. Họ vội vã trốn chạy, trên vai ai cũng chỉ một tay nải nhỏ, tay nải thì nhỏ, nhưng tiếng than khóc thì nặng trĩu cả núi rừng. Tiếng con khóc gọi cha, vợ khóc gọi chồng; kẻ khản giọng khóc vì phải bỏ lại mẹ già nơi khe sâu, người mất cha nuốt nước mắt hờn căm nơi dốc đứng… Ai oán tang thương lan rộng dưới gầm trời. Trước mặt là rừng sâu núi hiểm, sau lưng quỉ dữ truy lùng; đói rét, bệnh tật, mãnh thú bám riết từng bước chân; cả bản dắt ríu nhau đi trăm người, còn chưa biết đích đến là đâu, mà phần đông số người đã vơi đi quá nửa. Tiếng kêu than thảm thiết, quặn thắt rừng xanh.

Dù xót xa hết lòng muốn cứu giúp, nhưng bởi lũ Dơi Quỉ quá đông và con Dơi Chúa quá hung dữ, nên các vị hộ thần hiền lành của các tộc người thưa thớt phương Nam cũng chẳng có phương cách nào trợ giúp, bất lực họ đành hè nhau kéo lên Then Trời cầu cứu. Nhưng oái oăm thay trúng lúc đó, còn đang bận việc đốc thúc, trông coi xây cất thêm ba toà nhà lớn vô cùng nguy nga, đẹp đẽ phía Đông đỉnh Si Nai để có thể mỗi sáng tận hưởng ngắm cảnh mặt trời lên giữa biển mây bạc, nên mặc các vị hộ thần đã tấu trình hai, ba lần, Then vẫn chỉ chau mày khó chịu gạt đi, chẳng hề để vào tai. Then cho rằng, các tộc người phương Nam lâu nay vì quá được các vị hộ thần bao bọc, che chở, nên lâu ngày sinh ra yếu đuối, ỉ lại chẳng chịu tự lực làm quá lên, chứ loài dơi chuột nhỏ bé như thế sao ức hiếp nổi con người. Tình thế ngày càng tăm tối. Chỉ đến khi tự thân chính nữ thần P’rien dẫn theo hơn hai chục vị á thần khác kéo nhau tới tận cửa đại điện khấu đầu ra sức nài nỉ xin cho được xuống cứu giúp dân lành, Then mới miễn cưỡng phẩy tay đồng ý, với điều kiện chỉ được mang theo sáu vị á thần xuống hạ giới.

Được sự đồng ý của Then, nữ thần P’rien lập tức dẫn theo sáu vị chiến thần mạnh mẽ nhất rời đỉnh Si Nai tức tốc rẽ những tầng mây bạc phóng về phương Nam. Bảy vị thần chọn đỉnh Khủa Khau là đỉnh cao nhất của dãy núi Dih Kow đáp xuống. Vừa đáp xuống đỉnh núi họ đều tròn mắt kinh hãi. Dưới chân núi, trải rộng khắp bốn phía loang lổ những mảng đen khổng lồ đang chao lượn gào thét, tạo ra một thứ âm thanh hỗn loạn vô cùng khủng khiếp, chúng là những đàn dơi quỉ hàng vạn vạn con đang trên đường kéo lên phương Bắc. Các vị thần đều không ngờ loài dơi quỷ lại đông đến thế, nhìn đàn dơi gần như phủ kín mặt đất, thì họ hiểu nỗi thống khổ của dân lành dưới hạ giới lâu nay còn lớn hơn nhiều so với lời các vị thần tấu lên cầu cứu.

Nữ thần P’rien liền cùng bốn vị thần khác chọn một vùng đất rộng, bốn bề quang đãng, bằng phẳng đáp xuống. Rồi thoắt biến hình giả thành một nhóm dân lành, vờ như đang chạy loạn, bỏ trốn. Lũ dơi quỷ đói khát lập tức phát hiện ra nhóm người, chúng kêu lên những tiếng the thé váng cả trời đất gọi nhau, quay đầu bu lại. Từng đám đen đặc như những đám mây, hàng trăm lớp chồng chồng dày đặc lên nhau. Chờ cho chúng bâu kín lại, còn chưa kịp phân biệt con mồi ít nhiều ra sao, thần Cô Zác từ trên đỉnh núi Khủa Khau liền rút chiếc lồng vàng của mình phóng xuống. Dưới ánh mặt trời rực rỡ, chỉ thấy loé lên một vừng chói loà, chiếc lồng lơ lửng giữa không trung chợt lớn lên gấp bội chụp xuống, chín thanh nan cái như chín cây cột chống trời dựng lên sừng sững chạm mây trắng. Thần Kih Ron đứng bên cạnh cũng lập tức tung tấm lưới bằng thứ sắt đen kỳ dị của mình lên không trung, miệng lầm rầm niệm thần chú. Phút chốc tấm lưới bỗng đỏ rực như nung lửa phình rộng ra che kín cả một góc trời đáp xuống, phủ lên cái lồng vàng của thần Cô Zác, tạo thành một chiếc lồng kín mít khổng lồ vây hãm bầy dơi quỉ ở giữa. Lúc này nữ thần P’rien cùng bốn vị chiến thần kia mới hiện lại nguyên hình và triển oai thần lực từ bên ngoài tấm lưới đánh vào. Thần U Puông vung chiếc roi lửa dũng mãnh đáng sợ của mình đánh xuyên qua qua lớp lưới, ngọn lửa luồn vào trong lồng như một con mãnh xà nổi giận, chia ra làm ngàn cái đầu đỏ rực, phóng ra bốn phía uốn éo, truy đuổi quấn lấy lũ dơi quỉ mà thiêu đốt. Hai vị thần Tà Dưng và Don Rạ cũng vung mũi ba chia chọc thẳng lên trời, từ đầu ngọn ba chia phóng ra những lằn sấm chớp xanh lè. Giữa ban ngày mà tiếng nổ ầm ầm như rạch trời xé đất, chớp dựng sáng loà. Bị lửa thiêu sét đánh đùng đùng, lũ dơi quỉ kinh hãi kêu gào lớn đến nỗi ngoài mấy dặm cũng chỉ nghe thấy một thứ âm thanh the thé bao trùm cả trời đất. Bị nhốt kín chen chúc trong một cái lồng lửa không lối thoát, chúng trở thành mồi ngon cho lưỡi lửa và roi sét ra tay thỏa sức tàn sát. Trong cùng đường của sự sợ hãi và kinh hoàng chúng liều mình, hàng vạn con cắm đầu, chen chúc, cắn xé nhau lao vào lưới lửa, điên cuồng tìm lối thoát. Nhưng mắt lưới thì dầy lại cứng như thép, nên hết lượt này lao tới lại đến lượt kia chúng cháy xém mình lả tả rơi xuống như đậu rắc. Tiếng kêu the thé hãi hùng bay xa, mùi thịt cháy khét lẹt nồng nặc. Đúng lúc vũ điệu múa may chết chóc của lửa và sấm chớp đang cất tiếng hoan ca, thì bỗng từ phương Nam một cơn gió ào ạt nổi lên, rồi một cái bóng xám to lớn tràn tới. Một thân hình dài ngoẵng và kỳ dị. Đó chính là con dơi chúa, nghe tiếng kêu cầu cứu thảm thiết của bầy con rời động bay tới. Giờ đây nó đã to lớn hơn nhiều so với khi xưa, thân hình xù xì như gốc cây cổ thụ, dài cả chục sải, đôi cánh như tán lá rộng vỗ dạt đất đá, mặt mọc sừng, hai rìa mắt có gai chuyển màu xanh loang lổ như rêu. Cả mấy vị chiến thần lập tức nhận ra nó là con chúa đầu đàn, tức tốc toàn bộ uy lực của các thần khí nhắm vào nó dốc sức đánh tới. Ngọn roi lửa dài phụt bừng bừng vung lên quấn lấy đôi cánh nó trói lại, sấm sét nhoé đầu đỉnh như búa rìu nhằng nhịt giáng xuống. Nhưng kỳ lạ thay, không hiểu con dơi chúa này đã ra công tu luyện thế nào mà dù sống lưng bén lửa cháy phừng phừng, toàn thân bốc khói xám đặc quánh, đầu bị giáng năm sáu ngọn sét, tưởng như đá luyện ngàn năm cũng phải bị nổ tung chẻ làm đôi, nhưng nó vẫn trơ trơ và tỏ ra cực kỳ hung hãn. Nó gầm lên một tiếng rồi lao thẳng vào cái lồng sắt, dùng toàn bộ những chiếc móng và nanh sắc khổng lồ ra sức cào cắn tấm lưới thép. Và chỉ với ba cú giật như trời giáng, tấm lưới lửa đã không chịu nổi toác ra một mảng rộng như miệng hang, tạo thành lỗ hổng lớn cho lũ con nó tràn ra. Sau khi xé toạc tấm lưới, con dơi chúa giận dữ gào lên một tiếng chấn động, phóng mình quay lại tìm các vị thần lao thẳng tới. Lập tức sau nó không hiểu từ đâu ào ào nhào ra hàng vạn con dơi lớn khác thường đen trùi trũi, chúng kết lại thành một vệt đen kịt khổng lồ giữa không trung lao theo. Chưa kịp né tránh con Dơi Chúa, lại cùng lúc bị hàng vạn con dơi lớn bất ngờ từ trên lao xuống tới tấp như trấu ném vào mặt, chúng quá đông phủ kín cả bầu trời, các vị thần không còn kịp vung cả các thần khí ra ngăn cản đành phải nhất thời cùng nhau tụ lại thành một đám, giật lùi vào một khe núi chống đỡ. Trong khi các vị thần còn đang bị dồn ép, thì từ cái lỗ hổng trên lồng vừa rách, lũ dơi quỉ thi nhau ào ào tuôn ra, được giải thoát chúng giận dữ gào thét inh trời cùng nhau lao về phía khe núi, số lượng chúng càng lúc càng đông, không sao kể xiết. Dưới mệnh lệnh bằng những tiếng gào the thé ghê sợ của con Dơi Chúa, lúc này nó đang bấu vào những vách đá phía trên, dùng những chiếc móng sắc cào cấu cho đất đá trút xuống đầu các vị thần, lũ dơi con của nó nhất tề nhả xuống thứ rớt dãi hôi thối khủng khiếp. Vừa nhả rớt dãi chúng vừa điên cuồng lao vào tấn công không hề biết sợ hãi. Đúng lúc Các vị thần đã bị ép vào sát chân núi, còn chưa biết cách nào phá vòng vây dầy đặc những con dơi quỉ, mà dường như chúng mỗi lúc càng thêm đông ngịt, thì đột nhiên bầu trời rẽ ra, một luồng hào quang bừng sáng xuyên qua mây, rồi thần Atk-ko dũng mãnh rực sáng xuất hiện. Thần Atk-ko cao lớn sừng sững ngồi trên lưng con gấu đen thần thú của mình, vai một bên để trần khoác tấm áo thêu chỉ bạc lấp lánh, lưng đeo cung dài, từ tay ông phóng ra hai chiếc thanh la đồng vàng choé, chúng bay lượn giữa trời phát ra những tiếng choang choang vang động trời đất
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Phung QA

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
26/1/19
Bài viết
21
Gạo
0,0
Chương 17: Quỉ Thú




Mọi chuyện có lẽ đã chỉ dừng lại ở đó, có lẽ đã chẳng có điều gì đáng nói, nếu không lâu sau đó có một chuyện xảy ra.

Chuyện là, thuở đó dưới trần gian, xa tít tận cuối phương Nam, thuộc về xứ Khoang-Hoả hoang vu, trống trải, nơi toàn chỉ có đầm lầy trải ra mênh mông, rong rêu quanh năm ẩm ướt. Khắp cả vùng đầm lầy ấy chỉ có duy nhất những loài côn trùng, giun dế sinh sống lúc nhúc dưới lớp bùn đen nhão nhoét, sền sệt tồn tại; không một loài muông thú, chim muông nào sống ở đó, hay muốn bén bảng đến gần chứ đừng nói gì đến con người. Họ e ngại vùng đầm hoang âm u đó, né tránh, xa lánh nó; bộ tộc gần nhất sống cũng cách xa vùng đầm lầy cả vài chục dặm. Nằm giữa vùng đầm lầy hoang vu, phẳng lặng đó, có một dãy núi đá đen xì, gai góc lởn chởm nhô lên, ngọn núi đó có tên là núi Khau-Mã-Dèn, theo nghĩa cổ có nghĩa là dãy Nhện Đen. Dãy núi lởm chởm ấy chạy theo hướng Đông-Tây, đứng sừng sững, cô độc giữa màn sương xám mỏng dập dờn, hôi hám ngày đêm từ dưới lớp bùn mục ruỗng bốc lên. Nhìn nó im lìm như một con quái vật khổng lồ đen đang nằm bất động rình mồi giữa khung cảnh lờ mờ, chết chóc. Bên dưới chân dãy núi đá là hàng ngàn trụ đá cắm sâu xuống đầm lầy, tạo ra muôn vàn cái hang vòm nửa nổi nửa chìm lấp sấp trên mặt bùn. Một ngày nọ, vào lúc chiều muộn đã nhá nhem, không biết từ phương nào, có một con vật hình thù kỳ dị, thân hình to lớn, dài như một con trăn có cánh bay tới áp mình vào vách núi rồi luồn xuống ẩn mình dưới những hang đá. Sau đó cả năm chẳng có điều gì xảy ra. Rồi bỗng nhiên vào một đêm, đêm ấy trời đất đen kịt một cách kỳ lạ, bầu trời chưa bao giờ đen thẫm, sánh quánh đến thế, mây đen nặng trĩu như võng xuống xà sát mặt đầm, không gian đông đặc, ngột ngạt, các ánh sao khuya trốn biệt. Trong tiếng rả ríc của một cơn mưa nhẹ trút xuống đầm lầy, đột nhiên nổi lên những tiếng chí chít kỳ lạ. Ban đầu những tiếng kêu như chuột ấy còn lích ríc, lao xao, nhưng chẳng bao lâu sau nó đã đầy ngập, ran ran vang lên, tạo thành từng đợt nhức tai lan ra khắp các ngách hang dưới chân núi, nghe sởn cả gai ốc. Rồi từ trong các hang hốc nhớp nháp, tăm tối ấy bỗng lúc nhúc túa ra hàng ngàn, hàng vạn con vật. Những con vật có hình thù cổ quái: phần đầu và thân chúng nhìn tựa loài dơi, mỏ nhọn răng sắc, mắt tí hí đỏ rực lên nhìn rất hung hãn, trên lưng là cặp cánh đen bẩn thỉu xòe rộng lệt sệt, giãy giụa trườn trong bùn lầy, nhưng phần đuôi của chúng lại giống cá, có lớp da trơn láng, dài và có vây lưng chạy dọc đến tận chót. Con nào cũng to như cổ chân, dài loằng ngoằng bằng cả cánh tay. Ngay lúc đó từ dưới hang núi, bỗng một tiếng gào chói lói, ghê rợn rít lên vang dội khắp vùng đầm lầy. Như có một ma lực mang đầy sự hăm doạ, thúc ép, một mệnh lệnh phát ra trong tiếng thét ấy, bầy quái thú nhầy nhụa lập tức đồng loạt vỗ cánh bay lên tràn ra khắp khu đầm lầy. Chúng hung hãn sục xuống bùn, bới trong lớp rong rêu moi lên tất cả các loài côn trùng giun dế ẩn trốn dưới đó và ăn ngấu nghiến như loài quỉ đói. Kể từ đó loài thú quỉ đó trở thành bá chủ của cả vùng đầm lầy mênh mông. Nhưng với sự hung tợn và háu ăn của chúng chỉ chưa đầy vài tháng sau vùng đầm lầy đã cạn kiệt cả côn trùng lẫn giun dế và trở lên quá chật hẹp với bầy đàn đông nghìn nghịt như chúng. Chúng to lên trông thấy và bắt đầu kéo nhau thành từng bầy bay đi xa hơn ra khỏi đầm lầy, vươn về phía Tây-Bắc nơi chúng đánh hơi bằng những chiếc mũi nhọn đầy ria lởm chởm thấy mùi vị của những giống loài tươi ngon hơn. Và thế là một cuộc xâm lấn ghê sợ lan rộng về phía Tây-Bắc bắt đầu, nơi có những tộc người thưa thớt sinh sống. Bầy dơi quỉ này có một cách săn mồi rất đáng sợ. Trước hết chúng không ăn thịt người hay muông thú còn sống, chúng chỉ ăn những cái xác đã chết. Cách tấn công của chúng đầu tiên là kéo thành đàn, hàng ngàn con, ập đến vây quanh các làng bản thưa thớt, rồi chờ lúc từ nửa đêm về sáng, chúng tụ tập đậu đen kịt trên các cành cây quanh bản và bắt đầu cùng kêu thét lên lanh lảnh tạo thành một mớ âm thanh nghe vừa đáng sợ vừa ồn ĩ khiến người ta kinh hãi không thể chịu nổi, vì thế sáng sớm ra hầu như tất cả đều gói ghém tìm cách bỏ làng bỏ bản rời đi - vì vậy chúng còn được gọi là loài Quỉ Hét. Khi con người rời khỏi mái nhà yên ấm, che chở của mình, đó chính là lúc họ rơi vào cạm bẫy chết chóc của chúng, loài dơi quỉ này chỉ chực chờ vậy, chúng sẽ bay thành một đàn rợp trời bên trên và từ miệng chúng nhểu ra một dòng rớt dãi tanh lòm. Thứ rớt dãi của loài quỉ thú này vô cùng hôi thối và rất độc, bất cứ loài gì bị thứ nước rãi của chúng rơi lên mình, thì dù có là loài da dày như lợn rừng hay da voi, chỗ ấy cũng sẽ nhanh chóng chuyển màu xanh đen, mưng mủ hôi thối vô cùng rồi lan nhanh ra toàn thân, không quá hai ngày sau không thể lê lết nổi, thành cái xác bốc mùi tanh hôi giữa rừng già cho chúng bu tới sâu xé.

Cứ như thế, đàn dơi quỉ ngày càng sinh sôi nảy nở lúc nhúc, chúng to rất nhanh, sải cánh dài ra bay nhanh hơn, xa hơn, tràn lên phương Bắc như một vùng mây đen chết chóc. Chúng tới đâu con người hoảng sợ bỏ lại làng bản ruộng vườn tháo chạy tới đó, muông thú đến mạnh như cọp beo cũng phải rời hang bỏ núi mà đi. Mặt đất dưới đôi cánh lướt đi của chúng phủ một màu chết chóc, hoang tàn chẳng còn sự sống nào trở lại, như một vết thương nhiễm độc lở loét ngày một lan rộng. Thi thoảng người ta lại thấy con dơi chúa to lớn trông hình thù rất đáng sợ rời khỏi chân núi bay vút lên phương Bắc, nơi có những tộc người dũng cảm, không cam chịu chết sát cánh cùng nhau chống lại lũ con của nó. Nó bay nhanh như một cơn lốc cùng những tiếng gào quái dị. Chỉ ngày sau, nơi nó đến nhà cửa đã sập đổ tan tành, xác người, vật nuôi rải đầy đất chờ bầy con nó tới đánh chén.

Từ phương Nam ấm áp, dọc theo những dãy núi dài hiểm trở, ngày càng xuất hiện nhiều tộc người chạy loạn, lưu lạc lên phương Bắc xa xôi. Có tộc người đã tận mắt chứng kiến loài dơi quỉ, nhưng cũng có tộc mới chỉ được nghe kể qua miệng người chạy loạn đã kinh hãi sớm rời đi. Các làng bản cứ tan tác như lá khô trong cơn giông tố cuồng bạo, từng chiếc vội vã lìa cành. Nơi nơi núi rừng, đâu cũng thấy cảnh từng đoàn người nheo nhóc, bồng bế nhau hối hả trèo đèo vượt luồng chạy nạn: lưng cõng mẹ già tay dắt con thơ, bước sấp bước ngửa; ai cũng gày gò ốm yếu, mà ánh mắt nháo nhác lo sợ còn xanh hơn cả màu da đói khát. Họ vội vã trốn chạy, trên vai ai cũng chỉ một tay nải nhỏ, tay nải thì nhỏ, nhưng tiếng than khóc thì nặng trĩu cả núi rừng. Tiếng con khóc gọi cha, vợ khóc gọi chồng; kẻ khản giọng khóc vì phải bỏ lại mẹ già nơi khe sâu, người mất cha nuốt nước mắt hờn căm nơi dốc đứng… Ai oán tang thương lan rộng dưới gầm trời. Trước mặt là rừng sâu núi hiểm, sau lưng quỉ dữ truy lùng; đói rét, bệnh tật, mãnh thú bám riết từng bước chân; cả bản dắt ríu nhau đi trăm người, còn chưa biết đích đến là đâu, mà phần đông số người đã vơi đi quá nửa. Tiếng kêu than thảm thiết, quặn thắt rừng xanh.

Dù xót xa hết lòng muốn cứu giúp, nhưng bởi lũ dơi quỷ quá đông và con Dơi Chúa quá hung dữ, nên các vị hộ thần hiền lành của các tộc người thưa thớt phương Nam cũng chẳng có phương cách nào trợ giúp. Bất lực họ đành hè nhau kéo lên Then Trời cầu cứu. Nhưng oái oăm thay trúng lúc đó, còn đang bận việc đốc thúc, trông coi xây cất thêm ba toà tháp lớn vô cùng cầu kỳ, nguy nga phía Đông đỉnh Si Nai để có thể mỗi sáng tận hưởng ngắm cảnh mặt trời lên giữa biển mây bạc, nên mặc các vị hộ thần đã tấu trình hai, ba lần, Then vẫn chỉ chau mày tỏ ý khó chịu gạt đi, chẳng hề để vào tai. Then cho rằng, các tộc người phương Nam lâu nay vì được các vị hộ thần quá bao bọc, che chở, nên lâu ngày sinh ra yếu đuối, ỉ lại chẳng chịu tự lực, cứ kêu quá lên, chứ loài dơi chuột nhỏ bé như thế sao ức hiếp nổi con người.
Tình thế ngày càng tăm tối. Chỉ đến khi tự thân chính nữ thần P’rien dẫn theo hơn hai chục vị á thần khác kéo nhau tới tận cửa đại điện khấu đầu ra sức nài nỉ xin cho được xuống cứu giúp dân lành, Then mới miễn cưỡng phẩy tay đồng ý, với điều kiện chỉ được mang theo giới hạn sáu vị á thần xuống hạ giới, giải quyết nhanh rồi về lại Mường trời.

Được sự đồng ý của Then, nữ thần P’rien lập tức dẫn theo sáu vị chiến thần mạnh mẽ nhất rời đỉnh Si Nai tức tốc rẽ những tầng mây bạc phóng về phương Nam. Bảy vị thần chọn đỉnh Khủa Khau là đỉnh cao nhất của dãy núi Dih Kow đáp xuống. Vừa đáp xuống đỉnh núi họ đều tròn mắt kinh hãi. Bên dưới tầng mây thấp, trải rộng khắp bốn phía ra tận cuối chân trời là loang lổ những mảng đen khổng lồ đang chao lượn gào thét, tạo ra một thứ âm thanh hỗn loạn vô cùng khủng khiếp, chúng là những đàn dơi quỉ hàng vạn vạn con đang trên đường kéo lên phương Bắc. Các vị thần đều không ngờ loài dơi quỷ lại đông đến thế, nhìn đàn dơi gần như phủ kín mặt đất, thì họ hiểu nỗi thống khổ của dân lành dưới hạ giới lâu nay còn lớn hơn nhiều so với lời các vị thần tấu lên cầu cứu.

Nữ thần P’rien liền cùng bốn vị thần khác chọn một vùng đất rộng, bốn bề quang đãng, bằng phẳng đáp xuống. Rồi thoắt biến hình giả thành một nhóm dân lành, vờ như đang hoạn nạn trốn chạy. Lũ dơi quỷ đói khát lập tức phát hiện ra nhóm người, chúng kêu lên những tiếng the thé váng cả trời đất gọi nhau, quay đầu bu lại. Từng đám đen đặc như những đám mây, hàng trăm lớp chồng chồng dày đặc lên nhau. Chờ cho chúng quây kín tụ lại, còn chưa kịp phân biệt con mồi ít nhiều ra sao, thần Pô Zác từ trên đỉnh núi Khủa Khau liền rút chiếc lồng vàng của mình vung lên phóng xuống. Dưới ánh mặt trời rực rỡ, chỉ thấy loé lên một vừng chói loà, chiếc lồng lơ lửng giữa không trung chợt lớn lên gấp bội chụp xuống, chín thanh nan cái như chín cây cột chống trời dựng lên sừng sững chạm mây trắng. Thần Kih Ron đứng bên cạnh cũng lập tức tung tấm lưới bằng thứ sắt đen kỳ dị của mình lên không trung, miệng lầm rầm niệm thần chú. Phút chốc tấm lưới bỗng đỏ rực như nung lửa phình rộng ra che kín cả một góc trời xà xuống, phủ lên cái lồng vàng của thần Pô Zác, tạo thành một chiếc lồng kín mít khổng lồ vây hãm bầy dơi quỉ ở giữa. Lúc này nữ thần P’rien cùng bốn vị chiến thần kia mới hiện lại nguyên hình và triển oai thần lực từ bên ngoài tấm lưới đánh vào. Thần U Puông vung chiếc roi lửa dũng mãnh, đáng sợ của mình đánh xuyên qua lớp lưới, ngọn lửa luồn vào trong lồng như một con mãnh xà nổi giận, chia ra làm ngàn cái đầu đỏ rực, tràn ra bốn phía uốn éo, truy đuổi quấn lấy lũ dơi quỉ. Hai vị thần Tà Dưng và Don Rạ cũng vung mũi ba chia chọc thẳng lên trời, từ đầu ngọn ba chia phóng ra những lằn sấm chớp xanh lè. Giữa ban ngày mà tiếng nổ ầm ầm như rạch trời xé đất, chớp dựng sáng loà đánh xuống. Bị lửa thiêu sét đánh đùng đùng, lũ dơi quỉ kinh hãi kêu gào lớn đến nỗi ngoài trăm dặm cũng chỉ nghe thấy một thứ âm thanh rú ré bao trùm cả trời đất. Bị nhốt kín, chen chúc trong một cái lồng lửa không lối thoát, chúng trở thành mồi ngon cho thần lửa và roi sét ra tay thỏa sức tàn sát.
Trong cùng đường của sự sợ hãi và kinh hoàng chúng liều mình; hàng vạn con cắm đầu, chen chúc, cắn xé nhau lao vào lưới lửa, điên cuồng tìm lối thoát. Nhưng mắt lưới thì dầy lại cứng như thép, nên hết lượt này lao tới lại đến lượt kia, chúng bị đốt cháy xém da, khét thịt, lả tả rơi xuống như đậu vãi. Tiếng kêu the thé hãi hùng bay xa, mùi thịt cháy khét lẹt nồng nặc. Đúng lúc vũ điệu quay cuồng chết chóc của lửa và sấm chớp đang cất tiếng hoan ca, thì bỗng từ phương Nam một cơn gió ào ạt nổi lên, rồi một cái bóng xám cực kỳ to lớn phủ bóng kéo tới. Một thân hình dài ngoẵng và kỳ dị. Đó chính là con dơi chúa, nghe tiếng kêu cầu cứu thảm thiết của bầy con, dời động bay tới. Giờ đây nó đã to lớn hơn nhiều so với khi xưa, thân hình xù xì như gốc khổng thụ, dài cả mấy chục sải; đôi cánh như tán lá rộng vỗ dạt đất đá, mặt mọc sừng, hai rìa mắt có gai chuyển màu xanh loang lổ như rêu.
Các mấy vị chiến thần biết ngay là con chúa, tức tốc toàn bộ uy lực của các thần khí nhắm vào nó dốc sức đánh tới. Hàng chục móc sắt phóng ra; ngọn roi lửa dài chuyển màu xanh lè phụt bừng bừng vung lên quấn lấy đôi cánh nó trói lại, sấm sét nhoé đầu đỉnh như búa rìu nhằng nhịt giáng xuống. Nhưng không, kỳ lạ thay, không hiểu con dơi chúa này đã ra công tu luyện thế nào mà dù trúng roi lửa, sống lưng bén lửa cháy phừng phừng, toàn thân bốc khói xám đặc quánh mù mịt, đầu bị giáng năm sáu ngọn sét, tưởng như sắt luyện ngàn năm cũng phải nát bấy, chẻ làm đôi, nhưng nó vẫn trơ trơ ra chẳng hề hấn gì và tỏ ra cực kỳ hung hãn. Nó gầm lên một tiếng rồi lao thẳng vào cái lồng sắt, dùng toàn bộ những chiếc móng và nanh sắc khổng lồ của mình ra sức cào cắn tấm lưới thép. Và trời ơi, chỉ với ba cú giật như trời giáng, tấm lưới lửa đã không chịu nổi sức mạnh toác ra một mảng rộng như miệng hang, tạo thành một cái lỗ lớn cho lũ con nó tràn ra. Sau khi xé toạc tấm lưới, con dơi chúa giận dữ thét lên một tiếng chấn động trời đất, phóng mình quay lại tìm các vị thần lao thẳng tới. Ngay lập tức sau nó, không hiểu từ đâu, ào ào có hàng vạn con dơi lớn khác thường đen trùi trũi tách khỏi bầu trời chúi xuống lao theo. Chúng kết lại thành một vệt đen kịt khổng lồ giữa không trung. Chưa kịp né tránh con Dơi Chúa, lại cùng lúc bị hàng vạn con dơi lớn bất ngờ từ trên lao xuống tới tấp như trấu ném vào mặt, chúng quá đông, che kín cả ánh dương, khiến các vị thần không còn kịp vung cả các thần khí ra ngăn cản, đành phải nhất thời cùng nhau tụ lại thành một đám, chạy giật lùi vào một khe núi chống đỡ.
Trong khi các vị thần còn đang bị dồn ép, thì từ cái lỗ hổng vừa rách trên nóc lồng, lũ dơi quỉ thi nhau ào ào tuôn ra, được giải thoát chúng giận dữ gào thét inh trời cùng nhau lao về phía khe núi, số lượng chúng càng lúc càng đông, không sao kể xiết. Dưới mệnh lệnh bằng những tiếng gào the thé ghê sợ của con Dơi Chúa, lúc này nó đang bấu vào những vách đá phía trên đầu các vị thần, dùng những chiếc móng sắc cào cấu cho đất đá trút xuống đầu các vị thần. Lũ dơi con của nó nhất tề xông tới nhả xuống thứ rớt dãi hôi thối khủng khiếp. Vừa nhả rớt dãi chúng vừa điên cuồng lao vào tấn công như chẳng hề biết sợ hãi.
Trận chiến mau chóng thay đổi, những kẻ trừng phạt bây giờ đã quay ngược trở thành kẻ hứng chịu tấn công.

Đúng lúc các vị thần đã bị ép vào sát chân núi, còn chưa biết cách nào chống trả, phá vòng vây dầy đặc những con dơi quỉ đang ào ạt lao xuống, mà dường như chúng mỗi lúc càng thêm đông ngàn ngạt, thì đột nhiên bầu trời rẽ ra, một luồng hào quang bừng sáng xuyên qua làn mây xám, làm bầu trời âm u trong chớp mắt vàng rực. Rồi thần Atk-ko dũng mãnh rực sáng xuất hiện. Ông hùng dũng ngồi trên lưng con gấu đen thần thú của mình, mình khoác tấm áo trắng thêu chỉ bạc sáng lấp lánh, một bên vai để trần, lưng đeo cung dài, eo thắt sợi roi ngũ sắc. Từ tay ông phóng ra liên tiếp hai chiếc thanh la đồng vàng choé, chúng vút lên bay lượn giữa trời phát ra những tiếng oang oang vang động trời đất. Âm thanh của hai chiếc thanh la vô cùng trong trẻo, vang vọng ngân lên lanh lảnh, nhưng dường với lũ dơi quỉ nó như một thứ khắc tinh, rền vang xoáy vào tai chúng, làm chúng vô cùng đau đớn khó chịu. Lũ dơi quỉ lập tức kêu lên rin rít, kinh hãi tản ra, bỏ chạy tán loạn. Không chỉ có thế, đôi thanh la đồng rít lên xẹt ngang dọc bầu trời thành những vệt sáng loà, hai vệt sáng vạch tới đâu bầy dơi quỷ máu tanh tung toé, rơi lả tả như sung rụng tới đó. Chớp mắt lũ dơi đen kịt trước mặt các vị thần đã bị xua vãn hẳn đi.

Các vị thần cả mừng, nhưng họ còn mừng hơn khi thấy lấp loá từ sau lưng thần Atk-ko hiện ra một đàn thần thú, nhìn kỹ lại toàn những loài nhanh nhẹn, dũng mãnh bất trị có tiếng của rừng Cồ Đàn. Một đàn bảy con, nào là Báo lửa, Voi trắng, Tê giác đầu bạch ngọc ba sừng, chim Thần ưng mắt vàng, đôi Kim Tước hỏa linh… Và dẫn đầu đàn thần thú ấy chính là con Bạch Linh Điểu toàn thân tỏa bụi lấp lánh như một đám mây bạc, ào ào phóng xuống.

Đứng giữa không trung, thần Atk-ko gọi lớn: “Hỡi các vị thần của đỉnh Si-Nai! Hãy vung sấm sét lên cho loài quỷ bẩn thỉu này thấy sức mạnh của sự giận dữ!” Lập tức các món thần khí kinh động từ dưới đất vun vút bay lên. Các vị thần đỉnh Si-Nai phá vòng vây tỏa ra, ra sức trổ thần uy. Lửa, sét lại bừng lên ngập trời.

Trong khi con Tê giác ba sừng và con Báo lửa nhanh chóng lao xuống xông pha cùng các vị thần truy đuổi tiêu diệt đám dơi quỉ dưới gần mặt đất thì thần Atk-ko cùng thần Pủa-Khưa, thần Ha-Zát và con Voi Trắng lao tới, hướng thẳng về phía con Dơi Chúa, vây tròn quanh nó. Họ biết nó nguy hiểm và có sức mạnh ảnh hưởng tới lũ con đông ngàn ngạt kia thế nào.. Ba vị thần lập tức chia ra trấn ba góc, từ trên cao ra sức đánh rất rát không cho nó có đường bay lên thoát thân. Họ dồn ép con Dơi Chúa hung hãn đang bám vào vách đá bằng những chiếc vuốt sắc cong vút, vươn cổ ra giận dữ gào thét. Nhưng dù chống trả điên cuồng hết sức nó cũng vẫn đành phải tháo lui, bỏ lại lũ con, chạy tút vào một khe núi hẹp gần đó. Chờ đúng khi con Dơi Chúa bị kẹt vào giữa hai vách đá hẹp dựngđ ứng hai bên, đang cố vác theo đôi cánh lớn đen xì, cồng kềnh luồn qua những vách đá sắc nhọn để thoát thân sang mé bên kia, thì bất ngờ từ trên đỉnh, con Voi Trắng to lớn với sức mạnh ghê gớm xuất hiện. Nó ra sức chồm lên, dùng chân nện ầm ầm xuống đỉnh núi. Ngọn núi đá to lớn là thế mà cũng rùng rùng run rẩy rồi rạn nứt, vỡ toác trút xuống ầm ầm như thác đổ. Những mũi đá khổng lồ lớn như mái nhà, sắc mỏng như lưỡi rìu từ trên cao thi nhau phóng thẳng xuống. Chỉ trong chớp mắt thân hình dài ngoẵng như mãng xà của con Dơi Chúa đã bị chặt đứt làm ba đoạn, rồi vùi kín dưới tầng tầng, lớp lớp đá chồng chất. Riêng cái đầu của nó bị chặt đứt gọn, bật tung lên, máu tanh phun thành vòi văng xuống một khúc sông gần đó, lập tức bị nước cuốn đi. Sau này người ta kể rằng: ở phía cuối con sông ấy, nơi hạ lưu, trên một vùng đất rộng bằng phẳng, người ta thấy bỗng nhiên đùn lên một ngọn núi đá nhỏ có hình thù rất giống cái đầu con Dơi Chúa. Thấy vậy, người ta đặt cho nó cái tên: núi Đầu Quỉ. Người ta cũng đồn rằng: Dòng sông khi chảy qua khúc đó thì tự nhiên có mùi tanh tưởi rất đáng sợ, nên dù có chết khát và phải đi vòng xa đến mấy cũng chẳng ai dám qua lại, lội nước ở khúc sông đó.

Trở lại cuộc chiến, lại nói riêng về bốn con thần điểu, với tài bay lượn chúng được giao phó tiêu diệt và ngăn chặn phía trên bầu trời. Vừa nối đuôi nhau xuyên qua màn mây phóng xuống, chúng liền sải rộng cánh toả ra bốn phía. Như một đàn chó dữ bị giam hãm lâu ngày, nay được thả ra cho tha hồ thỏa sức cắn xé săn đuổi. Cả bốn cái mỏ, bốn cặp móng cùng giương lên; hết cào ngang xé dọc, hết mổ rồi đớp chúng tung hoành xông pha như một bầy thú dữ giữa tầng cao mênh mông. Lũ dơi quỉ dù đông gấp ngàn lần nhưng cũng chẳng phải là đối thủ của đám mãnh điểu này, nên chẳng mấy chốc chúng đã bị tiêu diệt lớp lớp rớt xuống, lả tả như lá rụng. Càng đánh giết lũ chim nhà trời càng thêm hăng máu, sung sức. Chúng bay tới đâu những mảng đen nhấp nhoá, dày đặc như bị chổi quẹt qua, vãn sạch từng vệt. Thế trận áp đảo đã lật ngược, bầu trời cứ quang dần quang dần, bởi lũ dơi quỉ kinh hãi bắt đầu bay tản ra khắp bốn phía trốn chạy.

Có đến hơn nửa đàn dơi kéo nhau thành một mảng đen kịt bay về phía Đông chạy ra biển, chúng liền bị hai thần dùng lồng sắt vung ra ngăn cản, phía sau các chiến thần hò nhau đuổi theo dùng sấm sét đánh chết quá nửa, nhưng cuối cùng chúng cũng còn một số khá lớn thoát ra được đến bờ biển. Ở đây các vị thần hoàn toàn bị bất ngờ, khi lũ dơi quỉ nhất loạt cùng chúc đầu lao ùm ùm xuống mặt nước ầm ầm sóng bạc đầu, rồi lặn sâu trốn biệt mất tăm khiến các vị thần đành chịu bó tay chẳng thể làm gì. Việc loài dơi quỉ này có thể lặn ngụp như cá trong nước là điều họ chưa bao giờ lường tới. Chính vì thế ngày đó họ đã để sổng một số lớn trốn thoát, để rồi nhiều năm sau đám dơi quỉ thoát chết ấy một lần nữa quay trở lại gây lên biết bao tai họa cho thế gian.

Phần đàn dơi quỉ còn lại trên trời tan tác, mạnh con nào con ấy, chia ra thành những bầy nhỏ bay dạt về phía Tây tìm đường trốn chạy. Bởi cả hai hướng về Bắc và phía Nam địa hình đều khá trống trải không nơi ẩn nấp, nên chúng thực sự chỉ còn cách bay chúi về phía Tây, nơi có núi hiểm chập trùng lớp lớp hòng dựa vào đó lẩn trốn, thoát thân.

Chưa hết cơn say máu xung sát, bốn con thần điểu liền chia nhau ra ra sức truy đuổi. Với đôi mắt tinh anh của giống thần điểu, con Bạch Linh Điểu thu người phóng vút theo một đàn khá lớn, dẫn đầu bởi một con dơi to lớn khác thường đang thoát về phía một hẻm núi hẹp hướng Tây Bắc, kéo thành một vệt dài đen kịt. Đôi mắt nó đầy sát khí quắc lên, sáng ngời như ánh dương bừng lên sau viền mây đen cuối ngày.

Với tốc độ của loài thần thú mạnh mẽ nhất rừng Cổ Bàn, chỉ phút chốc con Bạch Linh Điểu đã đuổi kịp đàn dơi quỉ. Bộ móng vuốt như cặp bàn cào sắc lẻm của nó lướt tới, khuấy động phần chót của cái dải đen kịt ấy bung lên bời bời; xác lũ dơi rơi rụng lả tả phủ đầy trên vách đá. Bầy dơi quỉ càng kinh hãi cắm đầu hối hả bay sâu vào trong hẻm núi. Con Bạch Linh Điểu cứ thế dượt hút theo, vừa truy đuổi vừa ra sức giết chóc không thương tiếc. Nhưng khốn nỗi đàn dơi quỉ quá đông, giết chẳng xuể, mà cái hẻm núi ấy thì cứ dài hun hút, lại vòng vèo liên tục gấp khúc, khiến con thần điểu không thể bay nhanh vượt lên. Cứ thế cho tới lúc mặt trời lên tới đỉnh đầu, đàn dơi quỉ đã dẫn con Bạch Linh Điểu bay xa non cả trăm dặm theo dọc hẻm núi, vào sâu tít một vùng rừng núi âm u, hoang lạnh, bốn bề núi dựng cheo leo.

Đang bay hối hả, con dơi lớn đầu đàn bỗng bay chúc xuống, dẫn theo cả đàn giờ chỉ còn hơn trăm con xà xuống chân một mỏm núi đá dựng đứng, dưới chân núi rậm rì, toàn dây leo cùng những tán cây lớn đan xen vào nhau phủ kín âm u, rồi mất hút trong đó. Hoá ra sát dưới chân núi đá đó có một cái cửa hang nằm nửa chìm nửa nổi ẩn sau những tàn cây. Mé ngoài, trước cửa hang là một khoảng trống bằng phẳng, cây cỏ mọc dầy che kín mặt đất. Không chút lưỡng lự con Linh Điểu dang cánh lao vút xuống theo vào hang đá. Nó quyết tâm diệt trừ cho bằng sạch hết loài quỉ dữ tanh tưởi hôi hám này. Nhưng chẳng ngờ vừa hạ mình sát xuống cửa hang nó đã đâm sầm xuống mặt một đầm lầy nhão nhoét. Giật mình nó nhận ra dưới lớp cỏ trước cửa hang hoàn toàn ko phải là đất phẳng, mà là cả một vũng đầm lầy bị cỏ cây che phủ để đánh lừa con mắt. Chưa kịp nhún chân bay lên cả nửa bụng dưới và đôi cánh nó đã ngập trong một lớp bùn lỏng nhầy nhụa giữ chặt lấy. Hiểu tình thế nguy hiểm, con Bạch Linh Điểu nằm im một hồi rồi thu hết sức mình vỗ cánh bay lên, nhưng vừa cất người lên chừng hai sải nó đã kêu oang oác đau đớn rơi xuống trở lại. Hoá ra giữa tàng cây rậm rì phía trên đều có hàng trăm khúc cây đầu nhọn hoắt treo lơ lửng đâm xuống, như một bàn chông ngược đã được giấu sẵn trong đó đầy chủ yếu, ngăn cản không cho thứ gì có thể bay lên. Con Linh Điểu rơi xuống lần này còn ngập sâu hơn, cặp cánh hầu như đã phủ kín trong bùn. Càng giãy thân hình trắng muốt của nó càng lún sâu dần vào trong thứ bùn đen hôi thối dẻo quánh trước cửa hang. Nó hiểu ra mình vừa rơi vào một cái bẫy đã giăng sẵn, một cái bẫy cực kỳ thâm hiểm, dù loài gì vào đây cũng đành chịu chết khó mà thoát ra được. Quả vậy, đây chính là chiếc hang con dơi chúa xưa kia đã từng sinh sống và tu luyện hàng trăm năm để thành tinh, trước khi rời bỏ đến chân núi Phạ-Khạu sinh sôi ra đàn đàn, lũ lũ bầy con gớm ghiếc. Đám con to lớn đều biết tới chỗ này, nên hôm nay chúng mới cố tìm bằng mọi cách chạy về đây ẩn trốn.

Sau nửa ngày mải miết chiến đấu con Bạch Linh Điểu đã rất mất sức thấm mệt, nay lại rơi vào cái bẫy thâm hiểm này, càng lúc càng nhanh chóng rút đi sức lực của nó. Đôi mắt nó dần dần đã mất đi vẻ quyết liệt dũng mãnh, bộ lông trắng toát lấp lánh cũng mỗi lúc một nhạt dần, trở lên trắng đục xam xám thể hiện sức mạnh đang dần mất đi trong nó. Thậm chí lúc này dù chỉ muốn biến hoá một chút, thu nhỏ lại thành một đốm sáng để thoát ra khỏi bùn lầy, điều hết sức đơn giản như thế nó cũng không đủ sức làm nổi nữa.

Đúng lúc đó con dơi lớn và lũ dơi con đen đúa quay trở lại. Chúng lúc nhúc bò ra khỏi miệng hang, trườn lạch xạch trên lớp bùn lầy với cái bụng trơn láng như loài lươn, tiến dần tới vây tròn lấy con Linh Điểu. Chẳng mất nhiều thời gian để chúng nhận ra sự thất thế và bất lực của kẻ thù mà vừa mới đây còn làm chúng kinh hoàng, khiếp sợ. Vậy là chúng đồng loạt rít lên the thé, nhe những hàm răng lởm chởm nhọn hoắt bạo dạn tiến thẳng tới. Con ngoạm vào đuôi con bám vào cánh. Riêng con dơi to lớn táo tợn bò sang bên sườn rồi nhảy phóc lên lưng con Linh Điểu, há cái miệng đỏ lòm ngoạm mạnh xuống một miếng. Con Linh Điểu đã bị bó chặt trong bùn chỉ còn biết vươn cái cổ ra mổ mổ, chống đỡ một cách yếu ớt. Lũ dơi trườn đến càng lúc càng đông, lúc nhúc phủ kín trên lưng và đuôi nó.

Con Linh Điểu vươn cao cổ cố kêu lên một tiếng lớn lần cuối như kêu gọi cầu cứu, nhưng làm sao ai có thể nghe thấy tiếng kêu tuyệt vọng của nó lúc này khi nó đang ở cách xa các vị thần và những con linh thú khác cả trăm dặm, giữa một nơi hoang vu thăm thẳm.

Vậy mà kỳ lạ may mắn thay, đúng lúc đó từ sau chân núi xuất hiện hai người đàn ông, một già một trẻ. Họ chạy ào tới bên bờ đầm, vừa bắn tên vừa la hét xua đuổi lũ dơi quỉ.

Số là họ là hai cha con thuộc tộc người Gia Lan ở gần đó đang đi săn thú vô tình qua nơi này. Từ sớm nghe tiếng lũ dơi quỉ kêu táo tác bay về họ đã đoán hẳn là có sự lạ. Khi lần tới đầm lầy thấy con Bạch Linh Điểu có hình dáng kỳ lạ thì họ đoán ngay là giống thần thú trên trời xuống diệt trừ giống quái thú, đang gặp hoạn nạn.

Vốn người Gia Lan xưa kia có một cuộc sống rất yên ổn trù phú ở tận phía cuối vùng Chang-Gsê, rất xa nơi đây, nhưng cũng bởi cái nạn dơi quỉ tràn đến mà họ đành phải cắn răng rời bỏ làng bản thân yêu lặn lội đến tận nơi hiểm trở, hoang vu này dựng lên làng bản mới. Đàn ông con trai người Gia Lan vốn dĩ đều rất mãnh mẽ và cứng cỏi. Khi lũ dơi quỉ tràn tới bản làng của họ, họ đã chiến đấu rất ngoan cường, không dễ dàng chịu từ bỏ để chúng xua đi. Gần tháng trời họ chiến đấu chống lại loài dơi quỉ, giành giật với chúng từng ngôi nhà, từng con trâu con nghé… Chính trong thời gian chống trả lại chúng, họ đã phát hiện ra một thứ loài dơi quỉ này rất sợ. Đó là trong một lần khi ở trên nương đốt lửa xua đuổi bầy dơi quỉ, họ vô tình phát hiện ra rằng: lũ dơi này rất sợ nếu trong lửa có những cành Cáu Tẩu cháy. bởi chúng rất sợ mùi nhựa cháy của thứ cây này, hơn nữa khi cháy thứ cây khô này tạo ra thứ bụi tro mịn bay rất xa, mà loài dơi quỉ này thì có đôi mắt lồi ra như mắt cóc, lồi đến mức chúng không thể nhắm lại dù là ngày hay đêm, nên khi bị thứ bụi tro ấy bay vào mắt làm chúng rất khó chịu đau đớn, phải dạt tránh xa. Chính vì thế mà họ đã cầm cự được với chúng trong thời gian dài, tuy vậy nó cũng chỉ là cách đối phó nhất thời, bởi dù không bị xua đuổi, nhưng họ cũng chẳng thể làm gì, chẳng thể đi lại săn bắt, trồng trọt hái lượm được gì. Chỉ có thể túm tụm ở trong nhà mà nhìn gùi khoai, gùi sắn vơi dần. Cuối cùng họ cũng phải dứt áo rời bản làng ra đi như tất cả các tộc người phía Nam khác. Vì thế người Gia Lan vẫn để bụng nuôi mối căm thù với lũ dơi quỷ này lắm. Vậy nên thấy cảnh con Chim trắng gặp nạn hai cha con quyết ra tay giải cứu. Sau khi gom một ít cỏ khô cùng vài cành Cáu Tẩu họ chọn phía đầu gió trên bờ đầm mồi lửa đốt lên xua khói về đám dơi quỷ. Quả nhiên, gặp phải thứ khói đáng ghét, lũ dơi quỷ đành bỏ kẻ cừu thù bay dạt lên cao kêu la inh ỏi, tức tối. Sau khi đốt lửa người cha ở lại, còn sai đứa con trai tức tốc chạy về bản kêu gọi mọi người tới trợ sức.

Vì đứng không xa, nên người cha chỉ dám khơi đống lửa nhỏ cho khói bay lên, sợ lửa lớn sẽ tạt khói và tàn lửa vào con linh điểu. Ông đâu có biết, con Chim Trắng này vốn là giống thần điểu, không sinh ra từ trứng, mà nó hoài thai từ một dòng khí trắng, kết đọng tích tụ qua hàng ngàn năm ở ngay bên trên miệng dải thác trong rừng thiêng. Dòng khí thiêng đó qua nhiều năm dần tự có linh tính di chuyển tụ về đỉnh một tảng đá vàng giữa rừng, nơi duy nhất trong rừng Cồ Bàn có thể nhận được ánh sáng và hơi nóng từ chín ngọn Cửu Hoả Thần trong Đại Thế Thiên soi dọi tới mà lên hình hài. Vì thế linh thân của con Thần Điểu vốn là Thiên Hoả Thần, không những có thể đi xuyên qua lửa không cháy, mà còn càng gần lửa, gần ánh sáng, tinh lực uyên nguyên của nó còn càng mau chóng hồi phục nhanh chóng. Chỉ một lát sau, nhờ chút hơi ấm con Chim Trắng đã hồi phục được chút sức lực, màu lông nó lại lấp lánh sáng trở lại. Nó vươn cổ đớp gọn mấy con dơi quỷ vẫn còn lăm le xung quanh chưa chịu từ bỏ, quật gãy cánh chúng ném văng ra xa. Tuy vậy nó vẫn chưa đủ lại sức để tự thoát ra khỏi bùn lầy đã ngập đến sát lưng

Chừng khá lâu sau người con trai mới đưa được người trong bản tới. Hơn trăm người, cả già lẫn trẻ. Ban đầu họ bảo nhau chặt nhiều cây cành vất xuống mặt đầm, cạnh con thần điểu để nó có thể gối đầu xếp cánh lên đó cho khỏi lún sâu thêm xuống bùn. Nhưng xong, họ cứ loay hoay chẳng biết làm cách nào để đưa nó lên. Bàn tính một hồi, rồi có một người già cả nảy ra ý, bảo cả bản mang dao mang thuổng ra đào lấy một cái rãnh, dẫn nước từ một khe suối gần đó cho chảy vào đầm. Quả nhiên sau khi đào, chừng ăn xong bữa cơm thì đã thấy có tác dụng. Nước tràn vào đầm, ngâm bùn lỏng ra, dần dần tự thân con linh điểu đã có thể day người leo lên đống cây cành họ ném xuống. Mọi người vui mừng hò reo.

Thoát khỏi bùn lầy con Linh Điểu lập tức mau chóng lấy lại sức mạnh. Nó vươn người đứng lên, bỗng chốc thân hình như vụt cao, rũ bùn trắng toát tựa một cây lau bạc khổng lồ trong gió. Xoè cánh nó vụt bay tới mỏm đá chỗ gần dân bản đáp xuống. Không kêu một tiếng, chỉ những chiếc lông vàng nhạt trên đỉnh đầu nó khẽ rung rinh, đôi mắt đen tuyền của nó chợt trở lên long lanh nhìn mọi người….

Đúng lúc đó, từ trên từng không, một vị thần mặt mũi uy nghi, da đỏ au như đồng hun, lưng giắt liềm vàng, cưỡi trên lưng một con trâu rừng lớn, có cặp sừng nhọn hoắt chĩa ra rộng cả sải, móng to như miệng bát, đáp xuống đỉnh núi. Thấy người nhà trời xuất hiện, lập tức tất cả người tộc Gia Lan đều cúi rạp mình xuống quì lạy. Vị thần cất giọng nói lớn, tiếng âm vang dội vào vách núi rộn rảng: “Bạch Linh Điểu, bầy dơi quỷ đã bị tiêu diệt! Mau theo ta về rừng Cồ Bàn!” Rồi hạ giọng, vị thần nói với mọi người: “Các người đã có công trợ giúp, sau này sẽ được đền đáp!”

Mọi người còn chưa kịp ngẩng đầu lên đã nghe con Bạch Linh Điểu kêu “Oác!” một tiếng lớn vẻ giận dữ vang vọng khắp rừng núi, đồng thời đôi cánh nó quất mạnh xuống khiến cát bụi bay mù mịt, gió nổi lên vù vù. Rồi dường như chẳng thèm mảy may để ý đến vị thần oai phong, dữ dằn kia, thân hình nó nhanh như một ánh chớp bạc phóng vụt lên, xẹt qua đỉnh núi, xé cắt ngang ngay trước mặt vị thần, khiến con trâu rừng to lớn lừng lững phải giật mình lùi lại.

Thế rồi như một chấm sáng nó cứ phóng vun vút lên trời cao, nhỏ dần nhỏ dần, mất hút sau những tầng mây.

Người dân Gia Lan mải ngẩn ngơ nhìn theo con Chim Trắng, đến khi quay lại thì vị thần kia cũng đã đi mất từ khi nào. Chẳng biết làm gì hơn, họ đành bảo nhau quay qua thu dọn đồ đạc trở về bản. Mải thu dọn đồ đạc, cho đến khi sắp rời đi, mọi người mới để ý đến tảng đá con Chim Trắng vừa đứng lên. Rõ ràng trên đó vừa xuất hiện ba cái lỗ tròn xoe cỡ đầu ngón tay cái, ngập sâu vào trong đá.

Dù biết đó chính là dấu ấn của con Linh Điểu để lại, nhưng cố đoán mãi họ cũng chẳng thể hiểu nó để lại ba cái lỗ sâu hoắm ấy là có ý gì. Cuối cùng chịu không đoán ra được, họ đành lục tục kéo nhau về bản.

Chuyện lại nói về thần A Mô. Bẵng đi một thời gian khá lâu, sau cuộc chiến khuấy động trời đất ấy, thì chẳng có chuyện gì đặc biệt xảy ra nữa. Nhưng rồi vào một đêm thanh vắng trên Mường Trời, đêm đó, sau một ngày dài cặm cụi sắp xếp lại đống thư tịch cổ trong Tàng Thư, thần A Mô dắt ống sáo ngang lưng thong thả ra ven sườn núi đi dạo. Làn sương ánh nguyệt đêm khuya bảng lảng, thanh cao vời vợi, bất giác làm ông thèm được thổi lại khúc sáo hôm nào. Đã lâu lắm kể từ lần suýt gây họa lần trước, ông chẳng còn dám đụng đến cây sáo nữa, nhưng sự tò mò về phép lực kỳ lạ và giai điệu mê mẩn còn dang dở của bản sáo ấy thì không lúc nào nguôi ngoai trong ông, nó luôn âm thầm day dứt, gợi nhớ. Sau một lúc đắn đo, chẳng cầm được lòng, thần A Mô đánh bạo khẽ rút cây sáo ra, đặt lên miệng thổi một điệu. Vừa vặn đúng lúc ấy, có một âm thanh u uất từ rừng Cồ Bàn vọng lại. Thần A Mô giật mình, tưởng đâu tiếng sáo của mình vừa cất lên lại bắt đầu gây tai họa. Ông vội bỏ cây sáo xuống, dỏng tai lắng nghe. Nhưng lần này thì không, dù đã đặt cây sáo xuống ông vẫn nghe thấy những âm thanh như một tiếng kêu đau khổ vọng tới, tiếng kêu vang và thanh dường như của một loài linh điểu. Dù ở xa âm thanh kia khá yếu ớt, nhưng với đôi tai trời sinh rất thính nhạy, thần A Mô vẫn cảm nhận được sự khổ sở, vẻ cầu cứu thống thiết trong tiếng kêu đó. Vốn sẵn lòng trắc ẩn, nhân hậu, trước tiếng kêu đầy vẻ thống khổ, dù chỉ là của một con vật, thần A Mô vẫn quyết định đi về phía rừng Cồ Bàn. Càng lại gần tiếng kêu thống thiết khổ sở kia càng rõ ràng hơn, đan xen dường như còn cả những tiếng kêu giận dữ, bất lực. Bước nhanh qua ranh giới thần pháp của rừng Cồ Bàn, thần A Mô vội hướng về phía tiếng kêu phát ra. Không khó để tìm, ngay sát mép bìa rừng, thần A Mô thấy một con chim trắng cực lớn với vẻ đầy nóng nảy đang nhảy chồm chồm lên: hết điên cuồng cào bộ móng sắc nhọn tới tấp về phía trước, nó lại mổ như điên dại, xen lẫn những tiếng kêu “Tu..oác! Tu..oác!” dài ai oán. Nhưng cứ mỗi lần nó nhảy bật lên cào, mổ muốn xông ra là lập tức bị một luồng sáng xanh buốt như ngàn vạn ánh sao từ dưới lòng đất phóng vụt lên chặn lại: Luồng sáng ấy tựa một vách đá cẩm thạch trong suốt; bật lên, hất ngược nó về phía sau. Con Linh Điểu mười đầu móng chân đã rỉ máu, đầu mỏ rách toạc, ánh mắt lạc thần, trông nó vừa hung dữ đáng sợ vừa thê thảm, chẳng còn đâu vẻ đẹp oai hùng mọi ngày. Nhưng càng lúc nó càng trở lên điên dại, cứ bị hất văng ra nó lại lập tức chồm lên lao vào như một con thiêu thân. Nhìn tình cảnh nó đáng sợ đến mức các loài linh thú khác, kể cả những con dữ dằn như Trăn Hai đầu, cặp Lợn Rừng Xám Chín Nanh… đều dạt lùi cả lại, tạo ra thành một vòng tròn lớn xung quanh, e ngại không dám tới gần.

Thần A Mô mím môi, khẽ tiến lại gần con Linh Điểu, ông đã từng nghe về sự hung hăng, dữ tợn của con chim lớn này. Nhưng hôm nay ông cảm nhận được rằng nó đang có khao khát dữ dội, muốn thoát ra khỏi khu rừng này để làm một điều gì đó, chứ không hề. Số ý đồ gây họa, nổi loạn như mọi khi. Cho dù chẳng biết lý do đó là gì nhưng đột nhiên ông cảm thấy hẳn đó là một việc nên làm. Nhìn vào đôi mắt nó,ông tin vào điều ấy. Dùng linh tâm của một vị thần, ông khẽ đưa tay ra về phía con Linh Điểu. Quả nhiên dường như con chim trắng có thể hiểu thấu, đang hung dữ nó bỗng nằm xẹp xuống để ông chạm vào đầu. Trước khi quyết định thần A Mô khẽ nhắm mắt, hít sâu một hơi, nhớ lại lần thổi sáo lần trước đã suýt gây ra họa lớn, rồi ông nhắm mắt đưa tay rút cây sáo đen cài bên hông đưa lên miệng. Điệu sáo vi vu từ ống sáo mỏng bay lên, tiết tấu nhanh mà không vội, khi réo rắt trầm bổng, khi lay láy vút cao. Cả khu rừng và bầy linh thú vây quanh dường như nhanh chóng bị ru vào giấc ngủ kỳ lạ ngay khi những đôi mắt vẫn mở sáng long lanh. Mọi âm thanh đều tắt lặng hết, tất cả nhường lại cho điệu sáo kỳ ảo kia. Rồi không biết từ đâu gió bắt đầu nổi lên, thổi tất cả lá trong khu rừng xào xạc bay xuôi cùng một hướng, rồi theo cái luồng hơi đó, thứ luồng hơi chẳng còn biết là gió hay do thứ âm thanh kỳ lạ kia đang tạo thành dòng chảy mà dòng thác bạc bên hồ đang rót xuống bỗng bị cuốn hút theo; cất mình vươn lên như chiếc đầu rắn, chơi vơi giữa không trung rồi dần bò vươn dài, bắc qua phía ngoài bìa rừng. Các luồng sáng xanh lét lập tức từ dưới đất phụt lên, dựng thành một bức tường ánh sáng chói ngời, nhưng ở những chỗ gặp dòng nước bạc thứ ánh sáng ấy bị chặn lại không thể xuyên qua hay cắt rời được nó, tạo ra một khoảng trống không ánh sáng phía trên dải thác. Chỉ trong chớp mắt, vừa thấy cơ hội lóe lên con Chim Trắng lập tức vỗ cánh như mũi tên rời khỏi dây bay vút qua chỗ khuyết ấy. Con Chim Trắng đã xuyên qua thoát ra ngoài. Thần A Mô buông sáo lặng đứng nhìn theo. Nhưng chẳng ngờ con Chim Trắng thoát ra xong chẳng bay đi mà kỳ lạ nó đáp xuống ngay bên ngoài bìa rừng, cái đầu ngoảnh lại phía thần A Mô như tỏ ý chờ đợi ông. Hơi ngạc nhiên và bất ngờ, thần A Mô liền rẽ màn pháp khí lấp lánh bước tới chỗ nó. Con chim bỗng khẽ quì gối nằm xuống trước mặt ông, như có ý muốn ông cưỡi lên lưng nó. Mất một lúc băn khoăn không hiểu con Chim Trắng muốn gì, nhưng rồi cuối cùng thần A Mô cũng tặc lưỡi nghĩ: “Đã đến giữa cầu thì quay lại ích gì?” Thế là ông quyết định đưa chân, trèo lên lưng con Linh Điểu để nó đưa đi đâu thì đi.

Thần A Mô vừa ngồi lên lưng, con Chim Trắng lập tức thu cánh phóng vọt lên, toàn thân nó như một vệt sáng chớp mắt đỉnh Si Nai đã bị rời xa thấp thoáng bỏ lại phía sau. Nó bay như một cơn bão tố.

Lần đầu tiên trong đời thần A Mô rời khỏi đỉnh Si Nai lại trên lưng một con Thần Điểu nên ông không khỏi có chút ngỡ ngàng, lo lắng. Ông vịn chặt lấy đám lông cổ dài, mềm mại của con Linh Điểu. Nó có vẻ vô cùng vội vàng, cấp bách. Nhao mình xuyên qua luôn bảy tầng mây lạnh giá, con Linh Điểu chúc đầu phóng thẳng về phương Nam giữa đêm tối mịt mùng. Thấp xuống một chút nó hướng tới một vùng đồi núi trùng điệp, rừng xanh bao phủ kín mít, mặc cho vị thần đang ngồi trên lưng nó hoang mang chẳng biết nó muốn làm gì. Chớp mắt nó bay xuyên vào một màn mưa xối xả. Cơn mưa cực lớn, bốn bề chỉ nghe tiếng nước ầm ầm đổ xuống như đang giận dữ trả thù một điều gì đó, dường như có bao nhiêu nước trên trời, tất cả đều dồn về đây mà trút xuống vậy. Thần A Mô còn đang mải miết đưa tay vuốt nước ào ạt trên mặt thì bỗng thấy con chim dang rộng cánh cản gió đỗ khựng lại trên một đỉnh đá, nó vươn cổ về phía trước kêu to lên một tiếng như thét vào đêm tối mông lung. Đến lúc này thần A Mô mới nheo mắt chăm chú nhìn cảnh nhập nhoạng bên dưới đỉnh đá. Ông giật mình khi thấy dưới đó là một cảnh vô cùng tang thương. Giữa hai dòng nước trắng chảy xiết đang ào ào, gầm thét trút xuống là một bản làng nhỏ bé xơ xác nhà cửa tan hoang dập vùi nổi lềnh bềnh trên dòng nước lũ, những căn nhà ọp ẹp dựng tạm xiêu b ạt đi ngay trước khi những cơ bắp cuồn cuộn của dòng nước kịp tràn tới vò nát. Trâu bò lóp ngóp giữa dòng nước trắng xoá. Chưa hết dòng nước lũ còn đang giận dữ kéo bạt đất đá từ trên cao, xô từng vạt cây lớn đổ sụp theo dòng nước cuốn xuống đe dọa trùm lên tất cả. Nhưng tang thương hơn, ở mé trái của ngôi làng, phía trên mép dòng lũ đang có hàng trăm con người, cả già lẫn trẻ ướt như chuột, đang ríu vào nhau nhốn nháo bò lên một gò đất cao chạy trốn cơn lũ ập xuống nửa đêm. Nhìn họ thật khổ sở, áo chưa kịp mặc, cởi trần lúc nhúc dưới làn mưa như thác đổ roi quất trên đầu. Đúng lúc ấy ông thấy hàng ngàn bóng đen bay nhấp nhoá dưới làn mưa bâu trên đầu họ. Chúng là những con dơi lớn đen đúa có chiếc đuôi dài thõng xuống. Chúng thi nhau từ trên cao bổ xuống nhe hàm răng dài nhọn hoắt cắn xé lên đầu lên vai những con người bé nhỏ tội nghiệp kia. Tiếng kêu khóc của đàn bà, trẻ nhỏ vang lên như ri đầy thương tâm. Con Linh Điểu kêu thêm lên mấy tiếng vẻ đầy giận dữ. Giờ thì thần A Mô đã hiểu nó nóng lòng tới đây làm gì; ông vội vã tụt xuống khỏi lưng con Linh Điểu. Con Linh Điểu lập tức lao vút xuống dưới, nhưng lạ là nó không bay tới chỗ đám người kia, mà hướng vê phía một vách núi dựng đứng trên đầu họ. Thần A Mô bất ngờ nhận ra trên vách núi ấy đang có một con dơi rất lớn, thân mình to như cánh phản, đang dang cánh bấu vuốt treo mình ở trên đó, đúng phía trên cái gò đất lớn mà đám người kia đang cố gắng leo lên để chạy trốn dòng nước lũ bám đuổi sau lưng. Dường như nó đã chọn sẵn và chực chờ ở đó. Và với đôi cánh dốc ngược, hai chân trước nó cào ầm ầm vào vách núi, làm đất đá rơi trút xuống như mưa , dội thẳng lên đầu đám người tội nghiệp đã cùng đường.

Con Chim Trắng phóng tới với tất cả sự giận dữ hung hãn nhất, mắt nó quắc lên long lanh, miệng ngoác rộng đỏ lòm và những chiếc móng cong vuốt quắp lại như móc câu, nhìn tưởng như có thể cắm ngập xuyên qua bất cứ vách đá già nào. Bởi nó đã nhận ra vết sẹo dài nằm dọc đỉnh đầu của con dơi lớn năm xưa tấn công nó bên ngoài cửa hang.
Phần thần A Mô,đứng trên cao nhìn cảnh đám người khốn khổ dưới kia bị dập vùi trong dòng lũ xiết, nhà cửa, vật nuôi bị cuốn trôi hết cả, ông phẫn uất tự hỏi liệu cha mìn

Nhận ra kẻ thù khắc tinh năm xưa, và đã quá muộn để bỏ chạy, con dơi quỷ run rẩy, hoảng sợ há cái miệng nhọn hoắt lởn chởm răng nanh lên dọa dẫm. Nhưng tất cả mọi sự chống trả yếu ớt bạc nhược ấy chẳng để làm gì. Con Linh Điểu quá dũng mãnh, hung tợn, phóng tới như một mũi tên. Sát tới nơi nó gương cặp vuốt quặp sắc như móc câu lên, hai cánh xếp nghiêng làm thân mình xoay tít như cơn lốc xoáy trắng xoá lao thẳng tới vách đá. Chỉ bằng một cú bập đầy sức mạnh và sắc ngọt, mình con dơi quỷ đã bị giật đứt khỏi vách như một miếng giẻ nhàu nát. Tiếp đó nó dùng mỏ giằng xé, chà miết con dơi quỷ to lớn tanh hôi có lẽ đã chỉ còn là cái xác vào những cạnh đá sắc như dao. Và đến khi nó chịu buông thả thì thân xác kẻ thù của nó chỉ còn là một khúc thịt dài nát bét đầy máu me rơi thẳng vào dòng nước lũ cuồn cuộn bên dưới. Diệt xong con đầu đàn, con Linh Điểu lập tức lao tới chao đi lượn lại xua đuổi bầy dơi quỷ nhỏ đông như mối vỡ tổ. Lướt tới đâu toàn thân nó tỏa ra thứ bụi mịn như sương lấp lánh tới đh có hay không? Sao ông có thể để những cơn lũ do ông cai quản gây tai họa, tang thương cho người dân dưới hạ giới nhường này? Rồi nhìn hai dòng lũ sôi sục, cuồn cuộn kéo đất đá đổ xuống như sắp vùi lấp trọn ngôi làng, ông mới sực nhớ ra cây sáo giắt bên mình, chưa biết nó còn những khả năng màu nhiệm nào khác, nhưng với nước chắc chắn nó có tác dụng thay đổi, sai khiến. Thật may nó chính là thứ giúp được lúc này!

Ông liền vội rút cây sáo ra đưa lên miệng thổi. Điệu sáo được tấu lên không bao lâu quả nhiên sự kỳ lạ xuất hiện: cơn mưa lớn vẫn trút như đổ nước xuống khắp núi rừng, nhưng gần như theo ý muốn âm thầm trong đầu ông, hai dòng nước lũ ngầu bọt trắng từ từ chuyển dòng. Ban đầu chúng tách ra hai phía như tránh xa ngôi làng, rồi dần dần như có một bàn tay thần kỳ vô hình nâng đỡ, dẫn dắt, hai dòng nước lũ không chảy xuôi xuống mà bám theo sườn núi tự tìm chỗ thấp nhất bò ngược lên cao, rồi chảy vắt sang sườn bên kia, tìm đường chảy theo lối khác. Tiếng hai dòng lũ xiết vẫn ầm ầm dội vang bên vách núi, mà chẳng mấy lúc nước trong bản đã dần rút sạch. Thần A Mô nhắm mắt tập trung tấu thêm một khúc sáo nữa. Đột nhiên tựa như có một chiếc vung trời vô hình vừa được giương lên che mưa cho cái bản làng bên dưới: trong một khoảng tròn chừng ba trăm bước tuyệt nhiên không có đến nửa hạt mưa rơi xuống. Con Bạch Linh Điểu bay tới đáp xuống sát bên cạnh thần A Mô, còn dưới kia không bảo nhau cả trăm con người lớn bé già trẻ tộc người Gia Lan đều xụp xuống quì lạy vị thần Có vóc người nhỏ bé và con Linh Điểu. Bỗng từ đám đông xơ xác ấy một người lớn tuổi, râu tóc đã bạc, đứng lên tách khỏi đám người phủ phục hối hả leo lên chỗ đỉnh đá nơi thần A Mô đang đứng. Chỉ leo được đoạn ngắn ông ta đã mệt phờ, đầu gối run rẩy. Tới nơi, ông ta quì rạp xuống dưới chân thần A Mô nói trong hơi thở phều phào, ngắt quãng, nhưng đầy vẻ tha thiết chân thành: “Cúi lạy minh thần đã hạ thế ra tay cứu giúp! Mang tộc người Gia Lan từ chỗ chết ra chỗ sống! Ơn này khi nào người Gia Lan còn nhìn thấy mặt trời thì đời đời khắc nhớ trong ngực này, chẳng bao giờ dám quên! - Ông đưa cánh tay khẳng khiu đấm mạnh lên ngực trái - Ơn cứu sống hôm nay lớn như ngọn Tà Rèn vươn qua đỉnh mây xanh… chẳng sao kể xiết, dù biết chẳng nên đò
đòi hỏi gì thêm nữa, nhưng bởi lâu nay đã bị các vị thần xa lánh, xua đuổi, chịu trăm ngàn cơ cực, không nơi nương tựa. Nay mong minh thần thương tình mà ban ơn, cho người Gia Lan được nhận người là Hộ Thần, để từ nay có được bóng lớn bảo hộ che chở, thoát cảnh bơ vơ tăm tối. Cúi xin minh thần ra ơn chấp nhận lời thỉnh cầu này!”

Bị bất ngờ thần A Mô bối rối chẳng biết làm sao. Ông vốn chỉ nhất thời theo con Linh Điểu xuống đây, cứu được người vô tội cũng là điều tốt, nhưng ngoài ra ông đâu có nghĩ đến việc gì khác, nhất là việc trở thành Hộ Thần cho một tộc người. Từ nhỏ ông đã chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện ấy, cho nên suốt bao năm ông chưa lần rời khỏi Si Nai nửa bước, cũng chưa từng tìm hiểu về người phàm giới ra sao. Hơn nữa việc trở thành Hộ Thần của một tộc người là chuyện trọng đại, chẳng phải việc giản đơn để có thể tuỳ tiện làm bừa. Việc được vị thần nào bảo hộ sẽ gđòi hỏi gắn liền mãi mãi, sẽ ảnh hưởng lớn đến tương lai của tộc người đó và cũng ảnh hưởng không nhỏ đến danh tiếng của vị thần sau này. Boiwr thế, thường thì điều này cần phải qua một thời gian dài thử thách, xem xét sự trung thành, tôn kính, hi sinh của tộc người với vị hộ thần thế nào rồi mới được quyết định, nó chưa bao giờ được phán xét, đáp ứng chỉ nhờ vào sự cầu xin mong muốn của người phàm trần. Đôi khi nó là quyết định của Then, do chính Then chỉ định. Hơn nữa, trong việc này, nếu đã nhận là một vị hộ thần
thần thì vị thần đó phải có trách nhiệm chăm lo đến bộ tộc mình bảo hộ, lo đến sự an nguy của bộ tộc đó, những điều đó thường chiếm rất nhiều thời gian của một vị thần; mà tất cả những cái đó vốn là những thứ thần A Mô chẳng bao giờ muốn từ bỏ.

Nhưng đúng lúc đó chợt tiếng cầu xin, kêu khóc từ đám người phủ phục trên đỉnh gò đất vang lên râm ran. Tất cả: nào là đàn bà, con trẻ, những người già cả; quần áo, mặt mũi ướt sũng, đầm đìa nước mưa, họ run run rạp xuống trong cái lạnh cầu xin thần A Mô ban cho ân đức ấy.

Nhìn đám đông người phàm khổ sở tội nghiệp trước mặt, thần A Mô biết mình khó có thể từ chối, quay lưng mà về trời. Hơn nữa thần A Mô vốn cũng đã nghĩ trong đầu, hôm nay ông phải làm gì đó cho tộc người này, để thay cha mình bù đắp phần nào cho những thống khổ mà họ phải gánh chịu bởi hai dòng lũ ác nghiệt do chính cha ông cai quản. Cùng lúc đó con Bạch Linh Điểu đứng bên cạnh ông cũng nằm rạp xuống, mắt ngước lên nhìn thần A Mô chăm chăm như cầu xin, năn nỉ, như muốn thể hiện sự tương đồng với đám người dưới kia.

Thấy vậy, thần A Mô thở dài: “Loài thú hoang trong rừng rú còn biết động lòng...” Thế là thần A Mô bước xuống nâng ông già quì trước mặt mình đứng dậy, nói: “Ta là thần A Mô của đỉnh Si Nai. Được từ nay ta nhận sẽ là vị thần bảo hộ cho bộ tộc này!”

Ông già mừng rỡ run rẩy quì xuống sụp lạy lia lịa. Con Linh Điểu mắt sáng rực long lanh khẽ vươn cổ kêu lên ba tiếng “Kóoc! Kóoc! Kóoc!”, trong tiếng hò reo vui mừng của đám người bên dưới gò đất.

“Nhưng ta chẳng có tài cán gì nhiều để giúp mọi người!” Thần A Mô nói tiếp “Ta vốn chỉ là một vị thần nhỏ coi sóc việc sắp sếp đồ trong một cái nhà kho mà thôi!”

“Cúi xin thần linh phù hộ! Dù người là vị thần nhỏ bé nào trên đỉnh Si Nai đi chăng nữa, người Gia lan cũng đã may mắn lắm rồi! Người Gia Lan vô cùng đội cái ơn này, đâu dám mong mỏi gì hơn!” Rồi ông tiếp: “Việc gặp được thần linh cứu giúp hôm nay là may mắn ngàn đời của người Gia lan, chỉ mạo muội xin thần linh, cho phép người Gia Lan được làm cái lễ Thọ Thần luôn ngày hôm nay, liệu có được chăng?”

Thần A Mô thong thả hỏi và sau khi được vị trưởng tộc kể lại cho nghe sự tình đầu đuôi chuyện cứu giúp con Linh Điểu thoát nạn năm xưa thế nào, và việc bị con dơi lớn quay trở lại báo thù, cùng việc cử người đến tảng đá khuyết ba lỗ trong rừng đốt trầm cầu khấn ra sao. Thần A Mô hiểu ra chuyện, ông liền vui vẻ chấp thuận nói: “Được ta đồng ý! Vậy từ nay các người cứ yên tâm, ta sẽ trở thành hộ thần của người Gia Lan”.

Mừng vui hết cỡ, thế là cả bản làng người Gia lan nháo nhào cả lên, như tổ kiến họ đổ túa ra đi dựng đàn, sắp lễ. Dưới sự chỉ đạo cấp tốc của vị trưởng tộc già, sau một hồi cái đàn và lễ vật cúng tế cũng được sắp xong, nhưng chỉ điều vốn đã nghèo, chưa lập lại làng bản được bao lâu, lại vừa bị cơn lũ quét cho sạch bách, nên lễ vật nhặt nhạnh vét voi từ những thứ ít ỏi sót lại nghèo nàn và đơn sơ đến nỗi có lẽ chỉ có lòng nhận hậu hết mức và tính tình vô cùng giản đơn của thần A Mô mới có thể chấp nhận được một cái lễ như thế.

Mấy trăm con người Gia lan run run quì sát bên nhau, lấm lét nhìn vị hộ thần vừa mới nhận của mình trên cao, cảm thấy hổ thẹn vì những thứ lễ mọn nghèo hèn dâng lên. Có lẽ biết những nỗi lòng ấy, thần A Mô liền cười hiền từ vui vẻ nói mấy lời khuyên nhủ, an ủi.

Sau buổi lễ giản dị nhưng trang trọng, tuy muốn lưu lại thêm chút ít với tộc người nghèo khổ, tốt bụng mà mình vừa nhận trách nhiệm bảo hộ, nhưng vì trong lòng vẫn lo ngại chuyện mình dùng tiếng sáo phá lớp hàng rào thần pháp quanh rừng Cồ Bàn vừa rồi có thể gây ra khinh xuất, khiến lũ thần thú trong rừng tràn ra theo, cùng việc ở lâu, có thể khiến việc giúp một con thần thú sổng xuống hạ giới bị phát giác, tất sẽ bị trách tội, phiền phức, nên thần A Mô chẳng dám lưu lại thêm vội vã cáo từ, leo lên lưng con Linh Điểu bay thẳng về Mường trời.

Kể từ đó thần A Mô trở thành vị hộ thần che chở cho người Gia Lan, và cùng với mối duyên kỳ ngộ ấy, con Bạch Linh Điểu từ đó cũng trở thành con thần thú bất khả phân ly của thần A Mô mà chẳng cần qua bất cứ một cuộc thử thách chinh phục hay lễ Thâu nạp thần thú nào. Từ đó dù ở bất cứ đâu người ta cũng thấy cả hai gắn như hình với bóng chẳng hề rời nhau.

Chỉ sau một thời gian không lâu trở thành vị thần bảo hộ cho người Gia Lan, với tiếng sáo có khả năng huyền diệu: chuyển nước tạo mưa, làm mát trời đất tuỳ ý, thần A Mô đã giúp người Gia Lan luôn có được những vụ mùa trồng trọt tươi tốt bội thu; cuộc sống của người Gia Lan dần trở lên no ấm, đầy đủ hơn hẳn; nương rẫy người Gia Lan cứ xanh tươi, tốt đất loang rộng ra mãi. Và cũng nhờ đó mà thần A Mô phát hiện ra những điệu sáo kỳ lạ chứa trong cuốn sách cổ kia còn tàng ẩn rất nhiều những khả năng màu nhiệm khôn lường.”


“Nhưng rồi bất ngờ, khoảng gần trăm năm sau!” Sau một hồi trầm tư im lặng một lúc khá lâu, cụ Soóc đột ngột kể tiếp.

“Đột nhiên cả thần A Mô và con Bạch Linh Điểu bỗng nhiên biến mất. Cả hai cùng biến mất, không để lại bất kỳ một chút dấu vết nào.

Sự biến mất ấy không chỉ làm ngỡ ngàng,
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Phung QA

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
26/1/19
Bài viết
21
Gạo
0,0
Chương 17: Quỉ Thú




Mọi chuyện có lẽ đã chỉ dừng lại ở đó, có lẽ đã chẳng có điều gì đáng nói, nếu không lâu sau đó có một chuyện xảy ra.

Chuyện là, thuở đó dưới trần gian, xa tít tận cuối phương Nam, thuộc về xứ Khoang-Hoả hoang vu, trống trải, nơi toàn chỉ có đầm lầy trải ra mênh mông, rong rêu quanh năm ẩm ướt. Khắp cả vùng đầm lầy ấy chỉ có duy nhất những loài côn trùng, giun dế sinh sống lúc nhúc dưới lớp bùn đen nhão nhoét, sền sệt tồn tại; không một loài muông thú, chim muông nào sống ở đó, hay muốn bén bảng đến gần chứ đừng nói gì đến con người. Họ e ngại vùng đầm hoang âm u đó, né tránh, xa lánh nó; bộ tộc gần nhất sống cũng cách xa vùng đầm lầy cả vài chục dặm. Nằm giữa vùng đầm lầy hoang vu, phẳng lặng đó, có một dãy núi đá đen xì, gai góc lởn chởm nhô lên, ngọn núi đó có tên là núi Khau-Mã-Dèn, theo nghĩa cổ có nghĩa là dãy Nhện Đen. Dãy núi lởm chởm ấy chạy theo hướng Đông-Tây, đứng sừng sững, cô độc giữa màn sương xám mỏng dập dờn, hôi hám ngày đêm từ dưới lớp bùn mục ruỗng bốc lên. Nhìn nó im lìm như một con quái vật khổng lồ đen đang nằm bất động rình mồi giữa khung cảnh lờ mờ, chết chóc. Bên dưới chân dãy núi đá là hàng ngàn trụ đá cắm sâu xuống đầm lầy, tạo ra muôn vàn cái hang vòm nửa nổi nửa chìm lấp sấp trên mặt bùn. Một ngày nọ, vào lúc chiều muộn đã nhá nhem, không biết từ phương nào, có một con vật hình thù kỳ dị, thân hình to lớn, dài như một con trăn có cánh bay tới áp mình vào vách núi rồi luồn xuống ẩn mình dưới những hang đá. Sau đó cả năm chẳng có điều gì xảy ra. Rồi bỗng nhiên vào một đêm, đêm ấy trời đất đen kịt một cách kỳ lạ, bầu trời chưa bao giờ đen thẫm, sánh quánh đến thế, mây đen nặng trĩu như võng xuống xà sát mặt đầm, không gian đông đặc, ngột ngạt, các ánh sao khuya trốn biệt. Trong tiếng rả ríc của một cơn mưa nhẹ trút xuống đầm lầy, đột nhiên nổi lên những tiếng chí chít kỳ lạ. Ban đầu những tiếng kêu như chuột ấy còn lích ríc, lao xao, nhưng chẳng bao lâu sau nó đã đầy ngập, ran ran vang lên, tạo thành từng đợt nhức tai lan ra khắp các ngách hang dưới chân núi, nghe sởn cả gai ốc. Rồi từ trong các hang hốc nhớp nháp, tăm tối ấy bỗng lúc nhúc túa ra hàng ngàn, hàng vạn con vật. Những con vật có hình thù cổ quái: phần đầu và thân chúng nhìn tựa loài dơi, mỏ nhọn răng sắc, mắt tí hí đỏ rực lên nhìn rất hung hãn, trên lưng là cặp cánh đen bẩn thỉu xòe rộng lệt sệt, giãy giụa trườn trong bùn lầy, nhưng phần đuôi của chúng lại giống cá, có lớp da trơn láng, dài và có vây lưng chạy dọc đến tận chót. Con nào cũng to như cổ chân, dài loằng ngoằng bằng cả cánh tay. Ngay lúc đó từ dưới hang núi, bỗng một tiếng gào chói lói, ghê rợn rít lên vang dội khắp vùng đầm lầy. Như có một ma lực mang đầy sự hăm doạ, thúc ép, một mệnh lệnh phát ra trong tiếng thét ấy, bầy quái thú nhầy nhụa lập tức đồng loạt vỗ cánh bay lên tràn ra khắp khu đầm lầy. Chúng hung hãn sục xuống bùn, bới trong lớp rong rêu moi lên tất cả các loài côn trùng giun dế ẩn trốn dưới đó và ăn ngấu nghiến như loài quỉ đói. Kể từ đó loài thú quỉ đó trở thành bá chủ của cả vùng đầm lầy mênh mông. Nhưng với sự hung tợn và háu ăn của chúng chỉ chưa đầy vài tháng sau vùng đầm lầy đã cạn kiệt cả côn trùng lẫn giun dế và trở lên quá chật hẹp với bầy đàn đông nghìn nghịt như chúng. Chúng to lên trông thấy và bắt đầu kéo nhau thành từng bầy bay đi xa hơn ra khỏi đầm lầy, vươn về phía Tây-Bắc nơi chúng đánh hơi bằng những chiếc mũi nhọn đầy ria lởm chởm thấy mùi vị của những giống loài tươi ngon hơn. Và thế là một cuộc xâm lấn ghê sợ lan rộng về phía Tây-Bắc bắt đầu, nơi có những tộc người thưa thớt sinh sống. Bầy dơi quỉ này có một cách săn mồi rất đáng sợ. Trước hết chúng không ăn thịt người hay muông thú còn sống, chúng chỉ ăn những cái xác đã chết. Cách tấn công của chúng đầu tiên là kéo thành đàn, hàng ngàn con, ập đến vây quanh các làng bản thưa thớt, rồi chờ lúc từ nửa đêm về sáng, chúng tụ tập đậu đen kịt trên các cành cây quanh bản và bắt đầu cùng kêu thét lên lanh lảnh tạo thành một mớ âm thanh nghe vừa đáng sợ vừa ồn ĩ khiến người ta kinh hãi không thể chịu nổi, vì thế sáng sớm ra hầu như tất cả đều gói ghém tìm cách bỏ làng bỏ bản rời đi - vì vậy chúng còn được gọi là loài Quỉ Hét. Khi con người rời khỏi mái nhà yên ấm, che chở của mình, đó chính là lúc họ rơi vào cạm bẫy chết chóc của chúng, loài dơi quỉ này chỉ chực chờ vậy, chúng sẽ bay thành một đàn rợp trời bên trên và từ miệng chúng nhểu ra một dòng rớt dãi tanh lòm. Thứ rớt dãi của loài quỉ thú này vô cùng hôi thối và rất độc, bất cứ loài gì bị thứ nước rãi của chúng rơi lên mình, thì dù có là loài da dày như lợn rừng hay da voi, chỗ ấy cũng sẽ nhanh chóng chuyển màu xanh đen, mưng mủ hôi thối vô cùng rồi lan nhanh ra toàn thân, không quá hai ngày sau không thể lê lết nổi, thành cái xác bốc mùi tanh hôi giữa rừng già cho chúng bu tới sâu xé.

Cứ như thế, đàn dơi quỉ ngày càng sinh sôi nảy nở lúc nhúc, chúng to rất nhanh, sải cánh dài ra bay nhanh hơn, xa hơn, tràn lên phương Bắc như một vùng mây đen chết chóc. Chúng tới đâu con người hoảng sợ bỏ lại làng bản ruộng vườn tháo chạy tới đó, muông thú đến mạnh như cọp beo cũng phải rời hang bỏ núi mà đi. Mặt đất dưới đôi cánh lướt đi của chúng phủ một màu chết chóc, hoang tàn chẳng còn sự sống nào trở lại, như một vết thương nhiễm độc lở loét ngày một lan rộng. Thi thoảng người ta lại thấy con dơi chúa to lớn trông hình thù rất đáng sợ rời khỏi chân núi bay vút lên phương Bắc, nơi có những tộc người dũng cảm, không cam chịu chết sát cánh cùng nhau chống lại lũ con của nó. Nó bay nhanh như một cơn lốc cùng những tiếng gào quái dị. Chỉ ngày sau, nơi nó đến nhà cửa đã sập đổ tan tành, xác người, vật nuôi rải đầy đất chờ bầy con nó tới đánh chén.

Từ phương Nam ấm áp, dọc theo những dãy núi dài hiểm trở, ngày càng xuất hiện nhiều tộc người chạy loạn, lưu lạc lên phương Bắc xa xôi. Có tộc người đã tận mắt chứng kiến loài dơi quỉ, nhưng cũng có tộc mới chỉ được nghe kể qua miệng người chạy loạn đã kinh hãi sớm rời đi. Các làng bản cứ tan tác như lá khô trong cơn giông tố cuồng bạo, từng chiếc vội vã lìa cành. Nơi nơi núi rừng, đâu cũng thấy cảnh từng đoàn người nheo nhóc, bồng bế nhau hối hả trèo đèo vượt luồng chạy nạn: lưng cõng mẹ già tay dắt con thơ, bước sấp bước ngửa; ai cũng gày gò ốm yếu, mà ánh mắt nháo nhác lo sợ còn xanh hơn cả màu da đói khát. Họ vội vã trốn chạy, trên vai ai cũng chỉ một tay nải nhỏ, tay nải thì nhỏ, nhưng tiếng than khóc thì nặng trĩu cả núi rừng. Tiếng con khóc gọi cha, vợ khóc gọi chồng; kẻ khản giọng khóc vì phải bỏ lại mẹ già nơi khe sâu, người mất cha nuốt nước mắt hờn căm nơi dốc đứng… Ai oán tang thương lan rộng dưới gầm trời. Trước mặt là rừng sâu núi hiểm, sau lưng quỉ dữ truy lùng; đói rét, bệnh tật, mãnh thú bám riết từng bước chân; cả bản dắt ríu nhau đi trăm người, còn chưa biết đích đến là đâu, mà phần đông số người đã vơi đi quá nửa. Tiếng kêu than thảm thiết, quặn thắt rừng xanh.

Dù xót xa hết lòng muốn cứu giúp, nhưng bởi lũ dơi quỷ quá đông và con Dơi Chúa quá hung dữ, nên các vị hộ thần hiền lành của các tộc người thưa thớt phương Nam cũng chẳng có phương cách nào trợ giúp. Bất lực họ đành hè nhau kéo lên Then Trời cầu cứu. Nhưng oái oăm thay trúng lúc đó, còn đang bận việc đốc thúc, trông coi xây cất thêm ba toà tháp lớn vô cùng cầu kỳ, nguy nga phía Đông đỉnh Si Nai để có thể mỗi sáng tận hưởng ngắm cảnh mặt trời lên giữa biển mây bạc, nên mặc các vị hộ thần đã tấu trình hai, ba lần, Then vẫn chỉ chau mày tỏ ý khó chịu gạt đi, chẳng hề để vào tai. Then cho rằng, các tộc người phương Nam lâu nay vì được các vị hộ thần quá bao bọc, che chở, nên lâu ngày sinh ra yếu đuối, ỉ lại chẳng chịu tự lực, cứ kêu quá lên, chứ loài dơi chuột nhỏ bé như thế sao ức hiếp nổi con người.
Tình thế ngày càng tăm tối. Chỉ đến khi tự thân chính nữ thần P’rien dẫn theo hơn hai chục vị á thần khác kéo nhau tới tận cửa đại điện khấu đầu ra sức nài nỉ xin cho được xuống cứu giúp dân lành, Then mới miễn cưỡng phẩy tay đồng ý, với điều kiện chỉ được mang theo giới hạn sáu vị á thần xuống hạ giới, giải quyết nhanh rồi về lại Mường trời.

Được sự đồng ý của Then, nữ thần P’rien lập tức dẫn theo sáu vị chiến thần mạnh mẽ nhất rời đỉnh Si Nai tức tốc rẽ những tầng mây bạc phóng về phương Nam. Bảy vị thần chọn đỉnh Khủa Khau là đỉnh cao nhất của dãy núi Dih Kow đáp xuống. Vừa đáp xuống đỉnh núi họ đều tròn mắt kinh hãi. Bên dưới tầng mây thấp, trải rộng khắp bốn phía ra tận cuối chân trời là loang lổ những mảng đen khổng lồ đang chao lượn gào thét, tạo ra một thứ âm thanh hỗn loạn vô cùng khủng khiếp, chúng là những đàn dơi quỉ hàng vạn vạn con đang trên đường kéo lên phương Bắc. Các vị thần đều không ngờ loài dơi quỷ lại đông đến thế, nhìn đàn dơi gần như phủ kín mặt đất, thì họ hiểu nỗi thống khổ của dân lành dưới hạ giới lâu nay còn lớn hơn nhiều so với lời các vị thần tấu lên cầu cứu.

Nữ thần P’rien liền cùng bốn vị thần khác chọn một vùng đất rộng, bốn bề quang đãng, bằng phẳng đáp xuống. Rồi thoắt biến hình giả thành một nhóm dân lành, vờ như đang hoạn nạn trốn chạy. Lũ dơi quỷ đói khát lập tức phát hiện ra nhóm người, chúng kêu lên những tiếng the thé váng cả trời đất gọi nhau, quay đầu bu lại. Từng đám đen đặc như những đám mây, hàng trăm lớp chồng chồng dày đặc lên nhau. Chờ cho chúng quây kín tụ lại, còn chưa kịp phân biệt con mồi ít nhiều ra sao, thần Pô Zác từ trên đỉnh núi Khủa Khau liền rút chiếc lồng vàng của mình vung lên phóng xuống. Dưới ánh mặt trời rực rỡ, chỉ thấy loé lên một vừng chói loà, chiếc lồng lơ lửng giữa không trung chợt lớn lên gấp bội chụp xuống, chín thanh nan cái như chín cây cột chống trời dựng lên sừng sững chạm mây trắng. Thần Kih Ron đứng bên cạnh cũng lập tức tung tấm lưới bằng thứ sắt đen kỳ dị của mình lên không trung, miệng lầm rầm niệm thần chú. Phút chốc tấm lưới bỗng đỏ rực như nung lửa phình rộng ra che kín cả một góc trời xà xuống, phủ lên cái lồng vàng của thần Pô Zác, tạo thành một chiếc lồng kín mít khổng lồ vây hãm bầy dơi quỉ ở giữa. Lúc này nữ thần P’rien cùng bốn vị chiến thần kia mới hiện lại nguyên hình và triển oai thần lực từ bên ngoài tấm lưới đánh vào. Thần U Puông vung chiếc roi lửa dũng mãnh, đáng sợ của mình đánh xuyên qua lớp lưới, ngọn lửa luồn vào trong lồng như một con mãnh xà nổi giận, chia ra làm ngàn cái đầu đỏ rực, tràn ra bốn phía uốn éo, truy đuổi quấn lấy lũ dơi quỉ. Hai vị thần Tà Dưng và Don Rạ cũng vung mũi ba chia chọc thẳng lên trời, từ đầu ngọn ba chia phóng ra những lằn sấm chớp xanh lè. Giữa ban ngày mà tiếng nổ ầm ầm như rạch trời xé đất, chớp dựng sáng loà đánh xuống. Bị lửa thiêu sét đánh đùng đùng, lũ dơi quỉ kinh hãi kêu gào lớn đến nỗi ngoài trăm dặm cũng chỉ nghe thấy một thứ âm thanh rú ré bao trùm cả trời đất. Bị nhốt kín, chen chúc trong một cái lồng lửa không lối thoát, chúng trở thành mồi ngon cho thần lửa và roi sét ra tay thỏa sức tàn sát.
Trong cùng đường của sự sợ hãi và kinh hoàng chúng liều mình; hàng vạn con cắm đầu, chen chúc, cắn xé nhau lao vào lưới lửa, điên cuồng tìm lối thoát. Nhưng mắt lưới thì dầy lại cứng như thép, nên hết lượt này lao tới lại đến lượt kia, chúng bị đốt cháy xém da, khét thịt, lả tả rơi xuống như đậu vãi. Tiếng kêu the thé hãi hùng bay xa, mùi thịt cháy khét lẹt nồng nặc. Đúng lúc vũ điệu quay cuồng chết chóc của lửa và sấm chớp đang cất tiếng hoan ca, thì bỗng từ phương Nam một cơn gió ào ạt nổi lên, rồi một cái bóng xám cực kỳ to lớn phủ bóng kéo tới. Một thân hình dài ngoẵng và kỳ dị. Đó chính là con dơi chúa, nghe tiếng kêu cầu cứu thảm thiết của bầy con, dời động bay tới. Giờ đây nó đã to lớn hơn nhiều so với khi xưa, thân hình xù xì như gốc khổng thụ, dài cả mấy chục sải; đôi cánh như tán lá rộng vỗ dạt đất đá, mặt mọc sừng, hai rìa mắt có gai chuyển màu xanh loang lổ như rêu.
Các mấy vị chiến thần biết ngay là con chúa, tức tốc toàn bộ uy lực của các thần khí nhắm vào nó dốc sức đánh tới. Hàng chục móc sắt phóng ra; ngọn roi lửa dài chuyển màu xanh lè phụt bừng bừng vung lên quấn lấy đôi cánh nó trói lại, sấm sét nhoé đầu đỉnh như búa rìu nhằng nhịt giáng xuống. Nhưng không, kỳ lạ thay, không hiểu con dơi chúa này đã ra công tu luyện thế nào mà dù trúng roi lửa, sống lưng bén lửa cháy phừng phừng, toàn thân bốc khói xám đặc quánh mù mịt, đầu bị giáng năm sáu ngọn sét, tưởng như sắt luyện ngàn năm cũng phải nát bấy, chẻ làm đôi, nhưng nó vẫn trơ trơ ra chẳng hề hấn gì và tỏ ra cực kỳ hung hãn. Nó gầm lên một tiếng rồi lao thẳng vào cái lồng sắt, dùng toàn bộ những chiếc móng và nanh sắc khổng lồ của mình ra sức cào cắn tấm lưới thép. Và trời ơi, chỉ với ba cú giật như trời giáng, tấm lưới lửa đã không chịu nổi sức mạnh toác ra một mảng rộng như miệng hang, tạo thành một cái lỗ lớn cho lũ con nó tràn ra. Sau khi xé toạc tấm lưới, con dơi chúa giận dữ thét lên một tiếng chấn động trời đất, phóng mình quay lại tìm các vị thần lao thẳng tới. Ngay lập tức sau nó, không hiểu từ đâu, ào ào có hàng vạn con dơi lớn khác thường đen trùi trũi tách khỏi bầu trời chúi xuống lao theo. Chúng kết lại thành một vệt đen kịt khổng lồ giữa không trung. Chưa kịp né tránh con Dơi Chúa, lại cùng lúc bị hàng vạn con dơi lớn bất ngờ từ trên lao xuống tới tấp như trấu ném vào mặt, chúng quá đông, che kín cả ánh dương, khiến các vị thần không còn kịp vung cả các thần khí ra ngăn cản, đành phải nhất thời cùng nhau tụ lại thành một đám, chạy giật lùi vào một khe núi chống đỡ.
Trong khi các vị thần còn đang bị dồn ép, thì từ cái lỗ hổng vừa rách trên nóc lồng, lũ dơi quỉ thi nhau ào ào tuôn ra, được giải thoát chúng giận dữ gào thét inh trời cùng nhau lao về phía khe núi, số lượng chúng càng lúc càng đông, không sao kể xiết. Dưới mệnh lệnh bằng những tiếng gào the thé ghê sợ của con Dơi Chúa, lúc này nó đang bấu vào những vách đá phía trên đầu các vị thần, dùng những chiếc móng sắc cào cấu cho đất đá trút xuống đầu các vị thần. Lũ dơi con của nó nhất tề xông tới nhả xuống thứ rớt dãi hôi thối khủng khiếp. Vừa nhả rớt dãi chúng vừa điên cuồng lao vào tấn công như chẳng hề biết sợ hãi.
Trận chiến mau chóng thay đổi, những kẻ trừng phạt bây giờ đã quay ngược trở thành kẻ hứng chịu tấn công.

Đúng lúc các vị thần đã bị ép vào sát chân núi, còn chưa biết cách nào chống trả, phá vòng vây dầy đặc những con dơi quỉ đang ào ạt lao xuống, mà dường như chúng mỗi lúc càng thêm đông ngàn ngạt, thì đột nhiên bầu trời rẽ ra, một luồng hào quang bừng sáng xuyên qua làn mây xám, làm bầu trời âm u trong chớp mắt vàng rực. Rồi thần Atk-ko dũng mãnh rực sáng xuất hiện. Ông hùng dũng ngồi trên lưng con gấu đen thần thú của mình, mình khoác tấm áo trắng thêu chỉ bạc sáng lấp lánh, một bên vai để trần, lưng đeo cung dài, eo thắt sợi roi ngũ sắc. Từ tay ông phóng ra liên tiếp hai chiếc thanh la đồng vàng choé, chúng vút lên bay lượn giữa trời phát ra những tiếng oang oang vang động trời đất. Âm thanh của hai chiếc thanh la vô cùng trong trẻo, vang vọng ngân lên lanh lảnh, nhưng dường với lũ dơi quỉ nó như một thứ khắc tinh, rền vang xoáy vào tai chúng, làm chúng vô cùng đau đớn khó chịu. Lũ dơi quỉ lập tức kêu lên rin rít, kinh hãi tản ra, bỏ chạy tán loạn. Không chỉ có thế, đôi thanh la đồng rít lên xẹt ngang dọc bầu trời thành những vệt sáng loà, hai vệt sáng vạch tới đâu bầy dơi quỷ máu tanh tung toé, rơi lả tả như sung rụng tới đó. Chớp mắt lũ dơi đen kịt trước mặt các vị thần đã bị xua vãn hẳn đi.

Các vị thần cả mừng, nhưng họ còn mừng hơn khi thấy lấp loá từ sau lưng thần Atk-ko hiện ra một đàn thần thú, nhìn kỹ lại toàn những loài nhanh nhẹn, dũng mãnh bất trị có tiếng của rừng Cồ Đàn. Một đàn bảy con, nào là Báo lửa, Voi trắng, Tê giác đầu bạch ngọc ba sừng, chim Thần ưng mắt vàng, đôi Kim Tước hỏa linh… Và dẫn đầu đàn thần thú ấy chính là con Bạch Linh Điểu toàn thân tỏa bụi lấp lánh như một đám mây bạc, ào ào phóng xuống.

Đứng giữa không trung, thần Atk-ko gọi lớn: “Hỡi các vị thần của đỉnh Si-Nai! Hãy vung sấm sét lên cho loài quỷ bẩn thỉu này thấy sức mạnh của sự giận dữ!” Lập tức các món thần khí kinh động từ dưới đất vun vút bay lên. Các vị thần đỉnh Si-Nai phá vòng vây tỏa ra, ra sức trổ thần uy. Lửa, sét lại bừng lên ngập trời.

Trong khi con Tê giác ba sừng và con Báo lửa nhanh chóng lao xuống xông pha cùng các vị thần truy đuổi tiêu diệt đám dơi quỉ dưới gần mặt đất thì thần Atk-ko cùng thần Pủa-Khưa, thần Ha-Zát và con Voi Trắng lao tới, hướng thẳng về phía con Dơi Chúa, vây tròn quanh nó. Họ biết nó nguy hiểm và có sức mạnh ảnh hưởng tới lũ con đông ngàn ngạt kia thế nào.. Ba vị thần lập tức chia ra trấn ba góc, từ trên cao ra sức đánh rất rát không cho nó có đường bay lên thoát thân. Họ dồn ép con Dơi Chúa hung hãn đang bám vào vách đá bằng những chiếc vuốt sắc cong vút, vươn cổ ra giận dữ gào thét. Nhưng dù chống trả điên cuồng hết sức nó cũng vẫn đành phải tháo lui, bỏ lại lũ con, chạy tút vào một khe núi hẹp gần đó. Chờ đúng khi con Dơi Chúa bị kẹt vào giữa hai vách đá hẹp dựngđ ứng hai bên, đang cố vác theo đôi cánh lớn đen xì, cồng kềnh luồn qua những vách đá sắc nhọn để thoát thân sang mé bên kia, thì bất ngờ từ trên đỉnh, con Voi Trắng to lớn với sức mạnh ghê gớm xuất hiện. Nó ra sức chồm lên, dùng chân nện ầm ầm xuống đỉnh núi. Ngọn núi đá to lớn là thế mà cũng rùng rùng run rẩy rồi rạn nứt, vỡ toác trút xuống ầm ầm như thác đổ. Những mũi đá khổng lồ lớn như mái nhà, sắc mỏng như lưỡi rìu từ trên cao thi nhau phóng thẳng xuống. Chỉ trong chớp mắt thân hình dài ngoẵng như mãng xà của con Dơi Chúa đã bị chặt đứt làm ba đoạn, rồi vùi kín dưới tầng tầng, lớp lớp đá chồng chất. Riêng cái đầu của nó bị chặt đứt gọn, bật tung lên, máu tanh phun thành vòi văng xuống một khúc sông gần đó, lập tức bị nước cuốn đi. Sau này người ta kể rằng: ở phía cuối con sông ấy, nơi hạ lưu, trên một vùng đất rộng bằng phẳng, người ta thấy bỗng nhiên đùn lên một ngọn núi đá nhỏ có hình thù rất giống cái đầu con Dơi Chúa. Thấy vậy, người ta đặt cho nó cái tên: núi Đầu Quỉ. Người ta cũng đồn rằng: Dòng sông khi chảy qua khúc đó thì tự nhiên có mùi tanh tưởi rất đáng sợ, nên dù có chết khát và phải đi vòng xa đến mấy cũng chẳng ai dám qua lại, lội nước ở khúc sông đó.

Trở lại cuộc chiến, lại nói riêng về bốn con thần điểu, với tài bay lượn chúng được giao phó tiêu diệt và ngăn chặn phía trên bầu trời. Vừa nối đuôi nhau xuyên qua màn mây phóng xuống, chúng liền sải rộng cánh toả ra bốn phía. Như một đàn chó dữ bị giam hãm lâu ngày, nay được thả ra cho tha hồ thỏa sức cắn xé săn đuổi. Cả bốn cái mỏ, bốn cặp móng cùng giương lên; hết cào ngang xé dọc, hết mổ rồi đớp chúng tung hoành xông pha như một bầy thú dữ giữa tầng cao mênh mông. Lũ dơi quỉ dù đông gấp ngàn lần nhưng cũng chẳng phải là đối thủ của đám mãnh điểu này, nên chẳng mấy chốc chúng đã bị tiêu diệt lớp lớp rớt xuống, lả tả như lá rụng. Càng đánh giết lũ chim nhà trời càng thêm hăng máu, sung sức. Chúng bay tới đâu những mảng đen nhấp nhoá, dày đặc như bị chổi quẹt qua, vãn sạch từng vệt. Thế trận áp đảo đã lật ngược, bầu trời cứ quang dần quang dần, bởi lũ dơi quỉ kinh hãi bắt đầu bay tản ra khắp bốn phía trốn chạy.

Có đến hơn nửa đàn dơi kéo nhau thành một mảng đen kịt bay về phía Đông chạy ra biển, chúng liền bị hai thần dùng lồng sắt vung ra ngăn cản, phía sau các chiến thần hò nhau đuổi theo dùng sấm sét đánh chết quá nửa, nhưng cuối cùng chúng cũng còn một số khá lớn thoát ra được đến bờ biển. Ở đây các vị thần hoàn toàn bị bất ngờ, khi lũ dơi quỉ nhất loạt cùng chúc đầu lao ùm ùm xuống mặt nước ầm ầm sóng bạc đầu, rồi lặn sâu trốn biệt mất tăm khiến các vị thần đành chịu bó tay chẳng thể làm gì. Việc loài dơi quỉ này có thể lặn ngụp như cá trong nước là điều họ chưa bao giờ lường tới. Chính vì thế ngày đó họ đã để sổng một số lớn trốn thoát, để rồi nhiều năm sau đám dơi quỉ thoát chết ấy một lần nữa quay trở lại gây lên biết bao tai họa cho thế gian.

Phần đàn dơi quỉ còn lại trên trời tan tác, mạnh con nào con ấy, chia ra thành những bầy nhỏ bay dạt về phía Tây tìm đường trốn chạy. Bởi cả hai hướng về Bắc và phía Nam địa hình đều khá trống trải không nơi ẩn nấp, nên chúng thực sự chỉ còn cách bay chúi về phía Tây, nơi có núi hiểm chập trùng lớp lớp hòng dựa vào đó lẩn trốn, thoát thân.

Chưa hết cơn say máu xung sát, bốn con thần điểu liền chia nhau ra ra sức truy đuổi. Với đôi mắt tinh anh của giống thần điểu, con Bạch Linh Điểu thu người phóng vút theo một đàn khá lớn, dẫn đầu bởi một con dơi to lớn khác thường đang thoát về phía một hẻm núi hẹp hướng Tây Bắc, kéo thành một vệt dài đen kịt. Đôi mắt nó đầy sát khí quắc lên, sáng ngời như ánh dương bừng lên sau viền mây đen cuối ngày.

Với tốc độ của loài thần thú mạnh mẽ nhất rừng Cổ Bàn, chỉ phút chốc con Bạch Linh Điểu đã đuổi kịp đàn dơi quỉ. Bộ móng vuốt như cặp bàn cào sắc lẻm của nó lướt tới, khuấy động phần chót của cái dải đen kịt ấy bung lên bời bời; xác lũ dơi rơi rụng lả tả phủ đầy trên vách đá. Bầy dơi quỉ càng kinh hãi cắm đầu hối hả bay sâu vào trong hẻm núi. Con Bạch Linh Điểu cứ thế dượt hút theo, vừa truy đuổi vừa ra sức giết chóc không thương tiếc. Nhưng khốn nỗi đàn dơi quỉ quá đông, giết chẳng xuể, mà cái hẻm núi ấy thì cứ dài hun hút, lại vòng vèo liên tục gấp khúc, khiến con thần điểu không thể bay nhanh vượt lên. Cứ thế cho tới lúc mặt trời lên tới đỉnh đầu, đàn dơi quỉ đã dẫn con Bạch Linh Điểu bay xa non cả trăm dặm theo dọc hẻm núi, vào sâu tít một vùng rừng núi âm u, hoang lạnh, bốn bề núi dựng cheo leo.

Đang bay hối hả, con dơi lớn đầu đàn bỗng bay chúc xuống, dẫn theo cả đàn giờ chỉ còn hơn trăm con xà xuống chân một mỏm núi đá dựng đứng, dưới chân núi rậm rì, toàn dây leo cùng những tán cây lớn đan xen vào nhau phủ kín âm u, rồi mất hút trong đó. Hoá ra sát dưới chân núi đá đó có một cái cửa hang nằm nửa chìm nửa nổi ẩn sau những tàn cây. Mé ngoài, trước cửa hang là một khoảng trống bằng phẳng, cây cỏ mọc dầy che kín mặt đất. Không chút lưỡng lự con Linh Điểu dang cánh lao vút xuống theo vào hang đá. Nó quyết tâm diệt trừ cho bằng sạch hết loài quỉ dữ tanh tưởi hôi hám này. Nhưng chẳng ngờ vừa hạ mình sát xuống cửa hang nó đã đâm sầm xuống mặt một đầm lầy nhão nhoét. Giật mình nó nhận ra dưới lớp cỏ trước cửa hang hoàn toàn ko phải là đất phẳng, mà là cả một vũng đầm lầy bị cỏ cây che phủ để đánh lừa con mắt. Chưa kịp nhún chân bay lên cả nửa bụng dưới và đôi cánh nó đã ngập trong một lớp bùn lỏng nhầy nhụa giữ chặt lấy. Hiểu tình thế nguy hiểm, con Bạch Linh Điểu nằm im một hồi rồi thu hết sức mình vỗ cánh bay lên, nhưng vừa cất người lên chừng hai sải nó đã kêu oang oác đau đớn rơi xuống trở lại. Hoá ra giữa tàng cây rậm rì phía trên đều có hàng trăm khúc cây đầu nhọn hoắt treo lơ lửng đâm xuống, như một bàn chông ngược đã được giấu sẵn trong đó đầy chủ yếu, ngăn cản không cho thứ gì có thể bay lên. Con Linh Điểu rơi xuống lần này còn ngập sâu hơn, cặp cánh hầu như đã phủ kín trong bùn. Càng giãy thân hình trắng muốt của nó càng lún sâu dần vào trong thứ bùn đen hôi thối dẻo quánh trước cửa hang. Nó hiểu ra mình vừa rơi vào một cái bẫy đã giăng sẵn, một cái bẫy cực kỳ thâm hiểm, dù loài gì vào đây cũng đành chịu chết khó mà thoát ra được. Quả vậy, đây chính là chiếc hang con dơi chúa xưa kia đã từng sinh sống và tu luyện hàng trăm năm để thành tinh, trước khi rời bỏ đến chân núi Phạ-Khạu sinh sôi ra đàn đàn, lũ lũ bầy con gớm ghiếc. Đám con to lớn đều biết tới chỗ này, nên hôm nay chúng mới cố tìm bằng mọi cách chạy về đây ẩn trốn.

Sau nửa ngày mải miết chiến đấu con Bạch Linh Điểu đã rất mất sức thấm mệt, nay lại rơi vào cái bẫy thâm hiểm này, càng lúc càng nhanh chóng rút đi sức lực của nó. Đôi mắt nó dần dần đã mất đi vẻ quyết liệt dũng mãnh, bộ lông trắng toát lấp lánh cũng mỗi lúc một nhạt dần, trở lên trắng đục xam xám thể hiện sức mạnh đang dần mất đi trong nó. Thậm chí lúc này dù chỉ muốn biến hoá một chút, thu nhỏ lại thành một đốm sáng để thoát ra khỏi bùn lầy, điều hết sức đơn giản như thế nó cũng không đủ sức làm nổi nữa.

Đúng lúc đó con dơi lớn và lũ dơi con đen đúa quay trở lại. Chúng lúc nhúc bò ra khỏi miệng hang, trườn lạch xạch trên lớp bùn lầy với cái bụng trơn láng như loài lươn, tiến dần tới vây tròn lấy con Linh Điểu. Chẳng mất nhiều thời gian để chúng nhận ra sự thất thế và bất lực của kẻ thù mà vừa mới đây còn làm chúng kinh hoàng, khiếp sợ. Vậy là chúng đồng loạt rít lên the thé, nhe những hàm răng lởm chởm nhọn hoắt bạo dạn tiến thẳng tới. Con ngoạm vào đuôi con bám vào cánh. Riêng con dơi to lớn táo tợn bò sang bên sườn rồi nhảy phóc lên lưng con Linh Điểu, há cái miệng đỏ lòm ngoạm mạnh xuống một miếng. Con Linh Điểu đã bị bó chặt trong bùn chỉ còn biết vươn cái cổ ra mổ mổ, chống đỡ một cách yếu ớt. Lũ dơi trườn đến càng lúc càng đông, lúc nhúc phủ kín trên lưng và đuôi nó.

Con Linh Điểu vươn cao cổ cố kêu lên một tiếng lớn lần cuối như kêu gọi cầu cứu, nhưng làm sao ai có thể nghe thấy tiếng kêu tuyệt vọng của nó lúc này khi nó đang ở cách xa các vị thần và những con linh thú khác cả trăm dặm, giữa một nơi hoang vu thăm thẳm.

Vậy mà kỳ lạ may mắn thay, đúng lúc đó từ sau chân núi xuất hiện hai người đàn ông, một già một trẻ. Họ chạy ào tới bên bờ đầm, vừa bắn tên vừa la hét xua đuổi lũ dơi quỉ.

Số là họ là hai cha con thuộc tộc người Gia Lan ở gần đó đang đi săn thú vô tình qua nơi này. Từ sớm nghe tiếng lũ dơi quỉ kêu táo tác bay về họ đã đoán hẳn là có sự lạ. Khi lần tới đầm lầy thấy con Bạch Linh Điểu có hình dáng kỳ lạ thì họ đoán ngay là giống thần thú trên trời xuống diệt trừ giống quái thú, đang gặp hoạn nạn.

Vốn người Gia Lan xưa kia có một cuộc sống rất yên ổn trù phú ở tận phía cuối vùng Chang-Gsê, rất xa nơi đây, nhưng cũng bởi cái nạn dơi quỉ tràn đến mà họ đành phải cắn răng rời bỏ làng bản thân yêu lặn lội đến tận nơi hiểm trở, hoang vu này dựng lên làng bản mới. Đàn ông con trai người Gia Lan vốn dĩ đều rất mãnh mẽ và cứng cỏi. Khi lũ dơi quỉ tràn tới bản làng của họ, họ đã chiến đấu rất ngoan cường, không dễ dàng chịu từ bỏ để chúng xua đi. Gần tháng trời họ chiến đấu chống lại loài dơi quỉ, giành giật với chúng từng ngôi nhà, từng con trâu con nghé… Chính trong thời gian chống trả lại chúng, họ đã phát hiện ra một thứ loài dơi quỉ này rất sợ. Đó là trong một lần khi ở trên nương đốt lửa xua đuổi bầy dơi quỉ, họ vô tình phát hiện ra rằng: lũ dơi này rất sợ nếu trong lửa có những cành Cáu Tẩu cháy. bởi chúng rất sợ mùi nhựa cháy của thứ cây này, hơn nữa khi cháy thứ cây khô này tạo ra thứ bụi tro mịn bay rất xa, mà loài dơi quỉ này thì có đôi mắt lồi ra như mắt cóc, lồi đến mức chúng không thể nhắm lại dù là ngày hay đêm, nên khi bị thứ bụi tro ấy bay vào mắt làm chúng rất khó chịu đau đớn, phải dạt tránh xa. Chính vì thế mà họ đã cầm cự được với chúng trong thời gian dài, tuy vậy nó cũng chỉ là cách đối phó nhất thời, bởi dù không bị xua đuổi, nhưng họ cũng chẳng thể làm gì, chẳng thể đi lại săn bắt, trồng trọt hái lượm được gì. Chỉ có thể túm tụm ở trong nhà mà nhìn gùi khoai, gùi sắn vơi dần. Cuối cùng họ cũng phải dứt áo rời bản làng ra đi như tất cả các tộc người phía Nam khác. Vì thế người Gia Lan vẫn để bụng nuôi mối căm thù với lũ dơi quỷ này lắm. Vậy nên thấy cảnh con Chim trắng gặp nạn hai cha con quyết ra tay giải cứu. Sau khi gom một ít cỏ khô cùng vài cành Cáu Tẩu họ chọn phía đầu gió trên bờ đầm mồi lửa đốt lên xua khói về đám dơi quỷ. Quả nhiên, gặp phải thứ khói đáng ghét, lũ dơi quỷ đành bỏ kẻ cừu thù bay dạt lên cao kêu la inh ỏi, tức tối. Sau khi đốt lửa người cha ở lại, còn sai đứa con trai tức tốc chạy về bản kêu gọi mọi người tới trợ sức.

Vì đứng không xa, nên người cha chỉ dám khơi đống lửa nhỏ cho khói bay lên, sợ lửa lớn sẽ tạt khói và tàn lửa vào con linh điểu. Ông đâu có biết, con Chim Trắng này vốn là giống thần điểu, không sinh ra từ trứng, mà nó hoài thai từ một dòng khí trắng, kết đọng tích tụ qua hàng ngàn năm ở ngay bên trên miệng dải thác trong rừng thiêng. Dòng khí thiêng đó qua nhiều năm dần tự có linh tính di chuyển tụ về đỉnh một tảng đá vàng giữa rừng, nơi duy nhất trong rừng Cồ Bàn có thể nhận được ánh sáng và hơi nóng từ chín ngọn Cửu Hoả Thần trong Đại Thế Thiên soi dọi tới mà lên hình hài. Vì thế linh thân của con Thần Điểu vốn là Thiên Hoả Thần, không những có thể đi xuyên qua lửa không cháy, mà còn càng gần lửa, gần ánh sáng, tinh lực uyên nguyên của nó còn càng mau chóng hồi phục nhanh chóng. Chỉ một lát sau, nhờ chút hơi ấm con Chim Trắng đã hồi phục được chút sức lực, màu lông nó lại lấp lánh sáng trở lại. Nó vươn cổ đớp gọn mấy con dơi quỷ vẫn còn lăm le xung quanh chưa chịu từ bỏ, quật gãy cánh chúng ném văng ra xa. Tuy vậy nó vẫn chưa đủ lại sức để tự thoát ra khỏi bùn lầy đã ngập đến sát lưng

Chừng khá lâu sau người con trai mới đưa được người trong bản tới. Hơn trăm người, cả già lẫn trẻ. Ban đầu họ bảo nhau chặt nhiều cây cành vất xuống mặt đầm, cạnh con thần điểu để nó có thể gối đầu xếp cánh lên đó cho khỏi lún sâu thêm xuống bùn. Nhưng xong, họ cứ loay hoay chẳng biết làm cách nào để đưa nó lên. Bàn tính một hồi, rồi có một người già cả nảy ra ý, bảo cả bản mang dao mang thuổng ra đào lấy một cái rãnh, dẫn nước từ một khe suối gần đó cho chảy vào đầm. Quả nhiên sau khi đào, chừng ăn xong bữa cơm thì đã thấy có tác dụng. Nước tràn vào đầm, ngâm bùn lỏng ra, dần dần tự thân con linh điểu đã có thể day người leo lên đống cây cành họ ném xuống. Mọi người vui mừng hò reo.

Thoát khỏi bùn lầy con Linh Điểu lập tức mau chóng lấy lại sức mạnh. Nó vươn người đứng lên, bỗng chốc thân hình như vụt cao, rũ bùn trắng toát tựa một cây lau bạc khổng lồ trong gió. Xoè cánh nó vụt bay tới mỏm đá chỗ gần dân bản đáp xuống. Không kêu một tiếng, chỉ những chiếc lông vàng nhạt trên đỉnh đầu nó khẽ rung rinh, đôi mắt đen tuyền của nó chợt trở lên long lanh nhìn mọi người….

Đúng lúc đó, từ trên từng không, một vị thần mặt mũi uy nghi, da đỏ au như đồng hun, lưng giắt liềm vàng, cưỡi trên lưng một con trâu rừng lớn, có cặp sừng nhọn hoắt chĩa ra rộng cả sải, móng to như miệng bát, đáp xuống đỉnh núi. Thấy người nhà trời xuất hiện, lập tức tất cả người tộc Gia Lan đều cúi rạp mình xuống quì lạy. Vị thần cất giọng nói lớn, tiếng âm vang dội vào vách núi rộn rảng: “Bạch Linh Điểu, bầy dơi quỷ đã bị tiêu diệt! Mau theo ta về rừng Cồ Bàn!” Rồi hạ giọng, vị thần nói với mọi người: “Các người đã có công trợ giúp, sau này sẽ được đền đáp!”

Mọi người còn chưa kịp ngẩng đầu lên đã nghe con Bạch Linh Điểu kêu “Oác!” một tiếng lớn vẻ giận dữ vang vọng khắp rừng núi, đồng thời đôi cánh nó quất mạnh xuống khiến cát bụi bay mù mịt, gió nổi lên vù vù. Rồi dường như chẳng thèm mảy may để ý đến vị thần oai phong, dữ dằn kia, thân hình nó nhanh như một ánh chớp bạc phóng vụt lên, xẹt qua đỉnh núi, xé cắt ngang ngay trước mặt vị thần, khiến con trâu rừng to lớn lừng lững phải giật mình lùi lại.

Thế rồi như một chấm sáng nó cứ phóng vun vút lên trời cao, nhỏ dần nhỏ dần, mất hút sau những tầng mây.

Người dân Gia Lan mải ngẩn ngơ nhìn theo con Chim Trắng, đến khi quay lại thì vị thần kia cũng đã đi mất từ khi nào. Chẳng biết làm gì hơn, họ đành bảo nhau quay qua thu dọn đồ đạc trở về bản. Mải thu dọn đồ đạc, cho đến khi sắp rời đi, mọi người mới để ý đến tảng đá con Chim Trắng vừa đứng lên. Rõ ràng trên đó vừa xuất hiện ba cái lỗ tròn xoe cỡ đầu ngón tay cái, ngập sâu vào trong đá.

Dù biết đó chính là dấu ấn của con Linh Điểu để lại, nhưng cố đoán mãi họ cũng chẳng thể hiểu nó để lại ba cái lỗ sâu hoắm ấy là có ý gì. Cuối cùng chịu không đoán ra được, họ đành lục tục kéo nhau về bản.

Chuyện lại nói về thần A Mô. Bẵng đi một thời gian khá lâu, sau cuộc chiến khuấy động trời đất ấy, thì chẳng có chuyện gì đặc biệt xảy ra nữa. Nhưng rồi vào một đêm thanh vắng trên Mường Trời, đêm đó, sau một ngày dài cặm cụi sắp xếp lại đống thư tịch cổ trong Tàng Thư, thần A Mô dắt ống sáo ngang lưng thong thả ra ven sườn núi đi dạo. Làn sương ánh nguyệt đêm khuya bảng lảng, thanh cao vời vợi, bất giác làm ông thèm được thổi lại khúc sáo hôm nào. Đã lâu lắm kể từ lần suýt gây họa lần trước, ông chẳng còn dám đụng đến cây sáo nữa, nhưng sự tò mò về phép lực kỳ lạ và giai điệu mê mẩn còn dang dở của bản sáo ấy thì không lúc nào nguôi ngoai trong ông, nó luôn âm thầm day dứt, gợi nhớ. Sau một lúc đắn đo, chẳng cầm được lòng, thần A Mô đánh bạo khẽ rút cây sáo ra, đặt lên miệng thổi một điệu. Vừa vặn đúng lúc ấy, có một âm thanh u uất từ rừng Cồ Bàn vọng lại. Thần A Mô giật mình, tưởng đâu tiếng sáo của mình vừa cất lên lại bắt đầu gây tai họa. Ông vội bỏ cây sáo xuống, dỏng tai lắng nghe. Nhưng lần này thì không, dù đã đặt cây sáo xuống ông vẫn nghe thấy những âm thanh như một tiếng kêu đau khổ vọng tới, tiếng kêu vang và thanh dường như của một loài linh điểu. Dù ở xa âm thanh kia khá yếu ớt, nhưng với đôi tai trời sinh rất thính nhạy, thần A Mô vẫn cảm nhận được sự khổ sở, vẻ cầu cứu thống thiết trong tiếng kêu đó. Vốn sẵn lòng trắc ẩn, nhân hậu, trước tiếng kêu đầy vẻ thống khổ, dù chỉ là của một con vật, thần A Mô vẫn quyết định đi về phía rừng Cồ Bàn. Càng lại gần tiếng kêu thống thiết khổ sở kia càng rõ ràng hơn, đan xen dường như còn cả những tiếng kêu giận dữ, bất lực. Bước nhanh qua ranh giới thần pháp của rừng Cồ Bàn, thần A Mô vội hướng về phía tiếng kêu phát ra. Không khó để tìm, ngay sát mép bìa rừng, thần A Mô thấy một con chim trắng cực lớn với vẻ đầy nóng nảy đang nhảy chồm chồm lên: hết điên cuồng cào bộ móng sắc nhọn tới tấp về phía trước, nó lại mổ như điên dại, xen lẫn những tiếng kêu “Tu..oác! Tu..oác!” dài ai oán. Nhưng cứ mỗi lần nó nhảy bật lên cào, mổ muốn xông ra là lập tức bị một luồng sáng xanh buốt như ngàn vạn ánh sao từ dưới lòng đất phóng vụt lên chặn lại: Luồng sáng ấy tựa một vách đá cẩm thạch trong suốt; bật lên, hất ngược nó về phía sau. Con Linh Điểu mười đầu móng chân đã rỉ máu, đầu mỏ rách toạc, ánh mắt lạc thần, trông nó vừa hung dữ đáng sợ vừa thê thảm, chẳng còn đâu vẻ đẹp oai hùng mọi ngày. Nhưng càng lúc nó càng trở lên điên dại, cứ bị hất văng ra nó lại lập tức chồm lên lao vào như một con thiêu thân. Nhìn tình cảnh nó đáng sợ đến mức các loài linh thú khác, kể cả những con dữ dằn như Trăn Hai đầu, cặp Lợn Rừng Xám Chín Nanh… đều dạt lùi cả lại, tạo ra thành một vòng tròn lớn xung quanh, e ngại không dám tới gần.

Thần A Mô mím môi, khẽ tiến lại gần con Linh Điểu, ông đã từng nghe về sự hung hăng, dữ tợn của con chim lớn này. Nhưng hôm nay ông cảm nhận được rằng nó đang có khao khát dữ dội, muốn thoát ra khỏi khu rừng này để làm một điều gì đó, chứ không hề. Số ý đồ gây họa, nổi loạn như mọi khi. Cho dù chẳng biết lý do đó là gì nhưng đột nhiên ông cảm thấy hẳn đó là một việc nên làm. Nhìn vào đôi mắt nó,ông tin vào điều ấy. Dùng linh tâm của một vị thần, ông khẽ đưa tay ra về phía con Linh Điểu. Quả nhiên dường như con chim trắng có thể hiểu thấu, đang hung dữ nó bỗng nằm xẹp xuống để ông chạm vào đầu. Trước khi quyết định thần A Mô khẽ nhắm mắt, hít sâu một hơi, nhớ lại lần thổi sáo lần trước đã suýt gây ra họa lớn, rồi ông nhắm mắt đưa tay rút cây sáo đen cài bên hông đưa lên miệng. Điệu sáo vi vu từ ống sáo mỏng bay lên, tiết tấu nhanh mà không vội, khi réo rắt trầm bổng, khi lay láy vút cao. Cả khu rừng và bầy linh thú vây quanh dường như nhanh chóng bị ru vào giấc ngủ kỳ lạ ngay khi những đôi mắt vẫn mở sáng long lanh. Mọi âm thanh đều tắt lặng hết, tất cả nhường lại cho điệu sáo kỳ ảo kia. Rồi không biết từ đâu gió bắt đầu nổi lên, thổi tất cả lá trong khu rừng xào xạc bay xuôi cùng một hướng, rồi theo cái luồng hơi đó, thứ luồng hơi chẳng còn biết là gió hay do thứ âm thanh kỳ lạ kia đang tạo thành dòng chảy mà dòng thác bạc bên hồ đang rót xuống bỗng bị cuốn hút theo; cất mình vươn lên như chiếc đầu rắn, chơi vơi giữa không trung rồi dần bò vươn dài, bắc qua phía ngoài bìa rừng. Các luồng sáng xanh lét lập tức từ dưới đất phụt lên, dựng thành một bức tường ánh sáng chói ngời, nhưng ở những chỗ gặp dòng nước bạc thứ ánh sáng ấy bị chặn lại không thể xuyên qua hay cắt rời được nó, tạo ra một khoảng trống không ánh sáng phía trên dải thác. Chỉ trong chớp mắt, vừa thấy cơ hội lóe lên con Chim Trắng lập tức vỗ cánh như mũi tên rời khỏi dây bay vút qua chỗ khuyết ấy. Con Chim Trắng đã xuyên qua thoát ra ngoài. Thần A Mô buông sáo lặng đứng nhìn theo. Nhưng chẳng ngờ con Chim Trắng thoát ra xong chẳng bay đi mà kỳ lạ nó đáp xuống ngay bên ngoài bìa rừng, cái đầu ngoảnh lại phía thần A Mô như tỏ ý chờ đợi ông. Hơi ngạc nhiên và bất ngờ, thần A Mô liền rẽ màn pháp khí lấp lánh bước tới chỗ nó. Con chim bỗng khẽ quì gối nằm xuống trước mặt ông, như có ý muốn ông cưỡi lên lưng nó. Mất một lúc băn khoăn không hiểu con Chim Trắng muốn gì, nhưng rồi cuối cùng thần A Mô cũng tặc lưỡi nghĩ: “Đã đến giữa cầu thì quay lại ích gì?” Thế là ông quyết định đưa chân, trèo lên lưng con Linh Điểu để nó đưa đi đâu thì đi.

Thần A Mô vừa ngồi lên lưng, con Chim Trắng lập tức thu cánh phóng vọt lên, toàn thân nó như một vệt sáng chớp mắt đỉnh Si Nai đã bị rời xa thấp thoáng bỏ lại phía sau. Nó bay như một cơn bão tố.

Lần đầu tiên trong đời thần A Mô rời khỏi đỉnh Si Nai lại trên lưng một con Thần Điểu nên ông không khỏi có chút ngỡ ngàng, lo lắng. Ông vịn chặt lấy đám lông cổ dài, mềm mại của con Linh Điểu. Nó có vẻ vô cùng vội vàng, cấp bách. Nhao mình xuyên qua luôn bảy tầng mây lạnh giá, con Linh Điểu chúc đầu phóng thẳng về phương Nam giữa đêm tối mịt mùng. Thấp xuống một chút nó hướng tới một vùng đồi núi trùng điệp, rừng xanh bao phủ kín mít, mặc cho vị thần đang ngồi trên lưng nó hoang mang chẳng biết nó muốn làm gì. Chớp mắt nó bay xuyên vào một màn mưa xối xả. Cơn mưa cực lớn, bốn bề chỉ nghe tiếng nước ầm ầm đổ xuống như đang giận dữ trả thù một điều gì đó, dường như có bao nhiêu nước trên trời, tất cả đều dồn về đây mà trút xuống vậy. Thần A Mô còn đang mải miết đưa tay vuốt nước ào ạt trên mặt thì bỗng thấy con chim dang rộng cánh cản gió đỗ khựng lại trên một đỉnh đá, nó vươn cổ về phía trước kêu to lên một tiếng như thét vào đêm tối mông lung. Đến lúc này thần A Mô mới nheo mắt chăm chú nhìn cảnh nhập nhoạng bên dưới đỉnh đá. Ông giật mình khi thấy dưới đó là một cảnh vô cùng tang thương. Giữa hai dòng nước trắng chảy xiết đang ào ào, gầm thét trút xuống là một bản làng nhỏ bé xơ xác nhà cửa tan hoang dập vùi nổi lềnh bềnh trên dòng nước lũ, những căn nhà ọp ẹp dựng tạm xiêu b ạt đi ngay trước khi những cơ bắp cuồn cuộn của dòng nước kịp tràn tới vò nát. Trâu bò lóp ngóp giữa dòng nước trắng xoá. Chưa hết dòng nước lũ còn đang giận dữ kéo bạt đất đá từ trên cao, xô từng vạt cây lớn đổ sụp theo dòng nước cuốn xuống đe dọa trùm lên tất cả. Nhưng tang thương hơn, ở mé trái của ngôi làng, phía trên mép dòng lũ đang có hàng trăm con người, cả già lẫn trẻ ướt như chuột, đang ríu vào nhau nhốn nháo bò lên một gò đất cao chạy trốn cơn lũ ập xuống nửa đêm. Nhìn họ thật khổ sở, áo chưa kịp mặc, cởi trần lúc nhúc dưới làn mưa như thác đổ roi quất trên đầu. Đúng lúc ấy ông thấy hàng ngàn bóng đen bay nhấp nhoá dưới làn mưa bâu trên đầu họ. Chúng là những con dơi lớn đen đúa có chiếc đuôi dài thõng xuống. Chúng thi nhau từ trên cao bổ xuống nhe hàm răng dài nhọn hoắt cắn xé lên đầu lên vai những con người bé nhỏ tội nghiệp kia. Tiếng kêu khóc của đàn bà, trẻ nhỏ vang lên như ri đầy thương tâm. Con Linh Điểu kêu thêm lên mấy tiếng vẻ đầy giận dữ. Giờ thì thần A Mô đã hiểu nó nóng lòng tới đây làm gì; ông vội vã tụt xuống khỏi lưng con Linh Điểu. Con Linh Điểu lập tức lao vút xuống dưới, nhưng lạ là nó không bay tới chỗ đám người kia, mà hướng vê phía một vách núi dựng đứng trên đầu họ. Thần A Mô bất ngờ nhận ra trên vách núi ấy đang có một con dơi rất lớn, thân mình to như cánh phản, đang dang cánh bấu vuốt treo mình ở trên đó, đúng phía trên cái gò đất lớn mà đám người kia đang cố gắng leo lên để chạy trốn dòng nước lũ bám đuổi sau lưng. Dường như nó đã chọn sẵn và chực chờ ở đó. Và với đôi cánh dốc ngược, hai chân trước nó cào ầm ầm vào vách núi, làm đất đá rơi trút xuống như mưa , dội thẳng lên đầu đám người tội nghiệp đã cùng đường.

Con Chim Trắng phóng tới với tất cả sự giận dữ hung hãn nhất, mắt nó quắc lên long lanh, miệng ngoác rộng đỏ lòm và những chiếc móng cong vuốt quắp lại như móc câu, nhìn tưởng như có thể cắm ngập xuyên qua bất cứ vách đá già nào. Bởi nó đã nhận ra vết sẹo dài nằm dọc đỉnh đầu của con dơi lớn năm xưa tấn công nó bên ngoài cửa hang.
Phần thần A Mô,đứng trên cao nhìn cảnh đám người khốn khổ dưới kia bị dập vùi trong dòng lũ xiết, nhà cửa, vật nuôi bị cuốn trôi hết cả, ông phẫn uất tự hỏi liệu cha mìn

Nhận ra kẻ thù khắc tinh năm xưa, và đã quá muộn để bỏ chạy, con dơi quỷ run rẩy, hoảng sợ há cái miệng nhọn hoắt lởn chởm răng nanh lên dọa dẫm. Nhưng tất cả mọi sự chống trả yếu ớt bạc nhược ấy chẳng để làm gì. Con Linh Điểu quá dũng mãnh, hung tợn, phóng tới như một mũi tên. Sát tới nơi nó gương cặp vuốt quặp sắc như móc câu lên, hai cánh xếp nghiêng làm thân mình xoay tít như cơn lốc xoáy trắng xoá lao thẳng tới vách đá. Chỉ bằng một cú bập đầy sức mạnh và sắc ngọt, mình con dơi quỷ đã bị giật đứt khỏi vách như một miếng giẻ nhàu nát. Tiếp đó nó dùng mỏ giằng xé, chà miết con dơi quỷ to lớn tanh hôi có lẽ đã chỉ còn là cái xác vào những cạnh đá sắc như dao. Và đến khi nó chịu buông thả thì thân xác kẻ thù của nó chỉ còn là một khúc thịt dài nát bét đầy máu me rơi thẳng vào dòng nước lũ cuồn cuộn bên dưới. Diệt xong con đầu đàn, con Linh Điểu lập tức lao tới chao đi lượn lại xua đuổi bầy dơi quỷ nhỏ đông như mối vỡ tổ. Lướt tới đâu toàn thân nó tỏa ra thứ bụi mịn như sương lấp lánh tới đh có hay không? Sao ông có thể để những cơn lũ do ông cai quản gây tai họa, tang thương cho người dân dưới hạ giới nhường này? Rồi nhìn hai dòng lũ sôi sục, cuồn cuộn kéo đất đá đổ xuống như sắp vùi lấp trọn ngôi làng, ông mới sực nhớ ra cây sáo giắt bên mình, chưa biết nó còn những khả năng màu nhiệm nào khác, nhưng với nước chắc chắn nó có tác dụng thay đổi, sai khiến. Thật may nó chính là thứ giúp được lúc này!

Ông liền vội rút cây sáo ra đưa lên miệng thổi. Điệu sáo được tấu lên không bao lâu quả nhiên sự kỳ lạ xuất hiện: cơn mưa lớn vẫn trút như đổ nước xuống khắp núi rừng, nhưng gần như theo ý muốn âm thầm trong đầu ông, hai dòng nước lũ ngầu bọt trắng từ từ chuyển dòng. Ban đầu chúng tách ra hai phía như tránh xa ngôi làng, rồi dần dần như có một bàn tay thần kỳ vô hình nâng đỡ, dẫn dắt, hai dòng nước lũ không chảy xuôi xuống mà bám theo sườn núi tự tìm chỗ thấp nhất bò ngược lên cao, rồi chảy vắt sang sườn bên kia, tìm đường chảy theo lối khác. Tiếng hai dòng lũ xiết vẫn ầm ầm dội vang bên vách núi, mà chẳng mấy lúc nước trong bản đã dần rút sạch. Thần A Mô nhắm mắt tập trung tấu thêm một khúc sáo nữa. Đột nhiên tựa như có một chiếc vung trời vô hình vừa được giương lên che mưa cho cái bản làng bên dưới: trong một khoảng tròn chừng ba trăm bước tuyệt nhiên không có đến nửa hạt mưa rơi xuống. Con Bạch Linh Điểu bay tới đáp xuống sát bên cạnh thần A Mô, còn dưới kia không bảo nhau cả trăm con người lớn bé già trẻ tộc người Gia Lan đều xụp xuống quì lạy vị thần Có vóc người nhỏ bé và con Linh Điểu. Bỗng từ đám đông xơ xác ấy một người lớn tuổi, râu tóc đã bạc, đứng lên tách khỏi đám người phủ phục hối hả leo lên chỗ đỉnh đá nơi thần A Mô đang đứng. Chỉ leo được đoạn ngắn ông ta đã mệt phờ, đầu gối run rẩy. Tới nơi, ông ta quì rạp xuống dưới chân thần A Mô nói trong hơi thở phều phào, ngắt quãng, nhưng đầy vẻ tha thiết chân thành: “Cúi lạy minh thần đã hạ thế ra tay cứu giúp! Mang tộc người Gia Lan từ chỗ chết ra chỗ sống! Ơn này khi nào người Gia Lan còn nhìn thấy mặt trời thì đời đời khắc nhớ trong ngực này, chẳng bao giờ dám quên! - Ông đưa cánh tay khẳng khiu đấm mạnh lên ngực trái - Ơn cứu sống hôm nay lớn như ngọn Tà Rèn vươn qua đỉnh mây xanh… chẳng sao kể xiết, dù biết chẳng nên đò
đòi hỏi gì thêm nữa, nhưng bởi lâu nay đã bị các vị thần xa lánh, xua đuổi, chịu trăm ngàn cơ cực, không nơi nương tựa. Nay mong minh thần thương tình mà ban ơn, cho người Gia Lan được nhận người là Hộ Thần, để từ nay có được bóng lớn bảo hộ che chở, thoát cảnh bơ vơ tăm tối. Cúi xin minh thần ra ơn chấp nhận lời thỉnh cầu này!”

Bị bất ngờ thần A Mô bối rối chẳng biết làm sao. Ông vốn chỉ nhất thời theo con Linh Điểu xuống đây, cứu được người vô tội cũng là điều tốt, nhưng ngoài ra ông đâu có nghĩ đến việc gì khác, nhất là việc trở thành Hộ Thần cho một tộc người. Từ nhỏ ông đã chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện ấy, cho nên suốt bao năm ông chưa lần rời khỏi Si Nai nửa bước, cũng chưa từng tìm hiểu về người phàm giới ra sao. Hơn nữa việc trở thành Hộ Thần của một tộc người là chuyện trọng đại, chẳng phải việc giản đơn để có thể tuỳ tiện làm bừa. Việc được vị thần nào bảo hộ sẽ gđòi hỏi gắn liền mãi mãi, sẽ ảnh hưởng lớn đến tương lai của tộc người đó và cũng ảnh hưởng không nhỏ đến danh tiếng của vị thần sau này. Boiwr thế, thường thì điều này cần phải qua một thời gian dài thử thách, xem xét sự trung thành, tôn kính, hi sinh của tộc người với vị hộ thần thế nào rồi mới được quyết định, nó chưa bao giờ được phán xét, đáp ứng chỉ nhờ vào sự cầu xin mong muốn của người phàm trần. Đôi khi nó là quyết định của Then, do chính Then chỉ định. Hơn nữa, trong việc này, nếu đã nhận là một vị hộ thần
thần thì vị thần đó phải có trách nhiệm chăm lo đến bộ tộc mình bảo hộ, lo đến sự an nguy của bộ tộc đó, những điều đó thường chiếm rất nhiều thời gian của một vị thần; mà tất cả những cái đó vốn là những thứ thần A Mô chẳng bao giờ muốn từ bỏ.

Nhưng đúng lúc đó chợt tiếng cầu xin, kêu khóc từ đám người phủ phục trên đỉnh gò đất vang lên râm ran. Tất cả: nào là đàn bà, con trẻ, những người già cả; quần áo, mặt mũi ướt sũng, đầm đìa nước mưa, họ run run rạp xuống trong cái lạnh cầu xin thần A Mô ban cho ân đức ấy.

Nhìn đám đông người phàm khổ sở tội nghiệp trước mặt, thần A Mô biết mình khó có thể từ chối, quay lưng mà về trời. Hơn nữa thần A Mô vốn cũng đã nghĩ trong đầu, hôm nay ông phải làm gì đó cho tộc người này, để thay cha mình bù đắp phần nào cho những thống khổ mà họ phải gánh chịu bởi hai dòng lũ ác nghiệt do chính cha ông cai quản. Cùng lúc đó con Bạch Linh Điểu đứng bên cạnh ông cũng nằm rạp xuống, mắt ngước lên nhìn thần A Mô chăm chăm như cầu xin, năn nỉ, như muốn thể hiện sự tương đồng với đám người dưới kia.

Thấy vậy, thần A Mô thở dài: “Loài thú hoang trong rừng rú còn biết động lòng...” Thế là thần A Mô bước xuống nâng ông già quì trước mặt mình đứng dậy, nói: “Ta là thần A Mô của đỉnh Si Nai. Được từ nay ta nhận sẽ là vị thần bảo hộ cho bộ tộc này!”

Ông già mừng rỡ run rẩy quì xuống sụp lạy lia lịa. Con Linh Điểu mắt sáng rực long lanh khẽ vươn cổ kêu lên ba tiếng “Kóoc! Kóoc! Kóoc!”, trong tiếng hò reo vui mừng của đám người bên dưới gò đất.

“Nhưng ta chẳng có tài cán gì nhiều để giúp mọi người!” Thần A Mô nói tiếp “Ta vốn chỉ là một vị thần nhỏ coi sóc việc sắp sếp đồ trong một cái nhà kho mà thôi!”

“Cúi xin thần linh phù hộ! Dù người là vị thần nhỏ bé nào trên đỉnh Si Nai đi chăng nữa, người Gia lan cũng đã may mắn lắm rồi! Người Gia Lan vô cùng đội cái ơn này, đâu dám mong mỏi gì hơn!” Rồi ông tiếp: “Việc gặp được thần linh cứu giúp hôm nay là may mắn ngàn đời của người Gia lan, chỉ mạo muội xin thần linh, cho phép người Gia Lan được làm cái lễ Thọ Thần luôn ngày hôm nay, liệu có được chăng?”

Thần A Mô thong thả hỏi và sau khi được vị trưởng tộc kể lại cho nghe sự tình đầu đuôi chuyện cứu giúp con Linh Điểu thoát nạn năm xưa thế nào, và việc bị con dơi lớn quay trở lại báo thù, cùng việc cử người đến tảng đá khuyết ba lỗ trong rừng đốt trầm cầu khấn ra sao. Thần A Mô hiểu ra chuyện, ông liền vui vẻ chấp thuận nói: “Được ta đồng ý! Vậy từ nay các người cứ yên tâm, ta sẽ trở thành hộ thần của người Gia Lan”.

Mừng vui hết cỡ, thế là cả bản làng người Gia lan nháo nhào cả lên, như tổ kiến họ đổ túa ra đi dựng đàn, sắp lễ. Dưới sự chỉ đạo cấp tốc của vị trưởng tộc già, sau một hồi cái đàn và lễ vật cúng tế cũng được sắp xong, nhưng chỉ điều vốn đã nghèo, chưa lập lại làng bản được bao lâu, lại vừa bị cơn lũ quét cho sạch bách, nên lễ vật nhặt nhạnh vét voi từ những thứ ít ỏi sót lại nghèo nàn và đơn sơ đến nỗi có lẽ chỉ có lòng nhận hậu hết mức và tính tình vô cùng giản đơn của thần A Mô mới có thể chấp nhận được một cái lễ như thế.

Mấy trăm con người Gia lan run run quì sát bên nhau, lấm lét nhìn vị hộ thần vừa mới nhận của mình trên cao, cảm thấy hổ thẹn vì những thứ lễ mọn nghèo hèn dâng lên. Có lẽ biết những nỗi lòng ấy, thần A Mô liền cười hiền từ vui vẻ nói mấy lời khuyên nhủ, an ủi.

Sau buổi lễ giản dị nhưng trang trọng, tuy muốn lưu lại thêm chút ít với tộc người nghèo khổ, tốt bụng mà mình vừa nhận trách nhiệm bảo hộ, nhưng vì trong lòng vẫn lo ngại chuyện mình dùng tiếng sáo phá lớp hàng rào thần pháp quanh rừng Cồ Bàn vừa rồi có thể gây ra khinh xuất, khiến lũ thần thú trong rừng tràn ra theo, cùng việc ở lâu, có thể khiến việc giúp một con thần thú sổng xuống hạ giới bị phát giác, tất sẽ bị trách tội, phiền phức, nên thần A Mô chẳng dám lưu lại thêm vội vã cáo từ, leo lên lưng con Linh Điểu bay thẳng về Mường trời.

Kể từ đó thần A Mô trở thành vị hộ thần che chở cho người Gia Lan, và cùng với mối duyên kỳ ngộ ấy, con Bạch Linh Điểu từ đó cũng trở thành con thần thú bất khả phân ly của thần A Mô mà chẳng cần qua bất cứ một cuộc thử thách chinh phục hay lễ Thâu nạp thần thú nào. Từ đó dù ở bất cứ đâu người ta cũng thấy cả hai gắn như hình với bóng chẳng hề rời nhau.

Chỉ sau một thời gian không lâu trở thành vị thần bảo hộ cho người Gia Lan, với tiếng sáo có khả năng huyền diệu: chuyển nước tạo mưa, làm mát trời đất tuỳ ý, thần A Mô đã giúp người Gia Lan luôn có được những vụ mùa trồng trọt tươi tốt bội thu; cuộc sống của người Gia Lan dần trở lên no ấm, đầy đủ hơn hẳn; nương rẫy người Gia Lan cứ xanh tươi, tốt đất loang rộng ra mãi. Và cũng nhờ đó mà thần A Mô phát hiện ra những điệu sáo kỳ lạ chứa trong cuốn sách cổ kia còn tàng ẩn rất nhiều những khả năng màu nhiệm khôn lường.”


“Nhưng rồi bất ngờ, khoảng gần trăm năm sau!” Sau một hồi trầm tư im lặng một lúc khá lâu, cụ Soóc đột ngột kể tiếp.

“Đột nhiên cả thần A Mô và con Bạch Linh Điểu bỗng nhiên biến mất. Cả hai cùng biến mất, không để lại bất kỳ một chút dấu vết nào.

Sự biến mất ấy không chỉ làm ngỡ ngàng,
 

Phung QA

Gà con
Nhóm Tác giả
Tham gia
26/1/19
Bài viết
21
Gạo
0,0
Tên truyện: XÍT
Tên tác giả: Phung QA
Tình trạng sáng tác: Cập nhật
Lịch đăng: 1 chương/tuần
Thể loại: Giả tưởng, phiêu lưu, kỳ ảo
Độ dài: 80 chương
Giới hạn tuổi đọc: không / Cảnh báo nội dung: không.
Giới thiệu:
Chuyện kể về hành trình đi tìm mẹ của Xít, một thiếu niên mồ côi sinh ra và lớn lên trong một bộ tộc nhỏ ở tận cuối xứ Màn Khai, một nơi rừng sâu núi hiểm, và là một bộ tộc đã bị các đấng thần linh ruồng rẫy, trừng phạt... Trong hành trình đầy bất ngờ, gian nan và kỳ lạ đó, Xít dần hé mở ra những bí mật, những sự thật... Những bí mật ghê gớm, thứ sẽ không chỉ thay đổi cuộc đời Xít, thay đổi số phận cái bản làng Tơ-Gúc nhỏ bé thân yêu của cậu mãi mãi, mà còn thay đổi những thứ vô cùng lớn lao, vĩ đại khác... Những sự thật, những lời giải đáp mà chưa dặt chân tới cuối hành trình cậu vẫn không thể hình dung ra nổi về tầm vóc của nó.
Mục Lục:
Chương 1 --- Chương 2 --- Chương 3 --- Chương 4 --- Chương 5 --- Chương 6
 
Bên trên