Giao Lộ Sinh Tử - Chương 42 - 43 - 44
CHƯƠNG
42
Tôi mới ngủ được một tiếng thì y tá đã
đánh thức tôi dậy. Cảnh sát trưởng Porter đang được chuyển từ phòng mổ ra khoa
hồi sức tích cực.
Cửa sổ bày ra cảnh trí những ngọn đồi
tối sẫm nhô lên bầu trời đen đầy các dấu chấm chữ Braille hóa màu bạc. Mặt trời
vẫn còn nằm bên dưới đường chân trời phía đông thêm một giờ nữa.
Cầm cái túi đựng quần áo bẩn, tôi quay
ra hành lang ngoài khoa hồi sức tích cực.
Jake Hulquist và em gái cảnh sát trưởng
đang đợi ở đó. Cả hai chưa từng thấy vật gì giống tấm thẻ nhựa màu đen.
Khoảng một phút sau, y tá và hộ lí từ
góc khuất chỗ thang máy bước vào hành lang dài, mỗi người đi ở một đầu cái băng
ca cảnh sát trưởng đang nằm. Bà Karla Porter đi bên hông chồng, đặt một tay
trên cánh tay ông.
Khi băng ca đi ngang qua, tôi thấy cảnh
sát trưởng mê man, mũi gắn ống thở, màu da rám nắng chuyển sang tái nhợt; môi
ông xám đi.
Y tá kéo còn hộ lí đẩy băng ca qua cánh
cửa đôi của khoa hồi sức tích cực. Bà Karla đi theo họ sau khi báo cho chúng
tôi biết không thể mong cảnh sát trưởng tỉnh lại trong vòng nhiều giờ.
Kẻ giết Robertson đã làm cảnh sát trưởng
trọng thương. Tôi không thể chứng minh nhưng khi bạn không tin vào sự trùng hợp
ngẫu nhiên thì hai vụ nổ súng nhằm mục đích thủ tiêu, cách nhau vài giờ, tại
một thị trấn đã ngủ say nhỏ bé như thị trấn Pico Mundo này ắt phải có liên quan
tới nhau rành rành như hai anh em sinh đôi.
Tôi tự hỏi có lẽ nào kẻ gọi đến số điện
thoại riêng của cảnh sát trưởng cố gắng nhái giọng tôi, muốn bị tưởng lầm là
tôi, mong được gặp mặt nói chuyện và hẹn gặp ngay trước cửa nhà không. Biết đâu
hắn trông mong cảnh sát trưởng không chỉ mắc lừa mà còn đề cập tên tôi với vợ
ông trước khi rời phòng ngủ.
Nếu đã nỗ lực dàn xếp đẩy tôi vào một vụ
giết người, lí nào không gài luôn hai vụ?
Tuy cầu nguyện cho cảnh sát trưởng mau
hồi phục nhưng tôi lo sợ điều ông sẽ nói khi tỉnh lại.
Chứng cớ ngoại phạm của tôi trong lúc
ông bị bắn chẳng có gì ngoài chuyện tôi đang giấu một cái xác trong căn nhà tôn
tại Nhà thờ Sao chổi Thì thầm. Lời thanh minh đó, cùng tử thi được thẩm tra sẽ
chẳng ích gì cho luật sư biện hộ.
Ở khu vực dành cho y tá trên tầng bốn,
không ai trong số các y tá đang trực nhận ra món đồ tôi tìm thấy trong ví
Robertson.
Dưới tầng ba tôi gặp may hơn. Tại đó,
một y tá da nhợt nhạt và đầy tàn nhang, tính tình hay đùa cợt đứng ở bàn trực,
đang kiểm tra thuốc trong li theo danh sách tên bệnh nhân. Cô cầm lấy miếng
nhựa hình chữ nhật bí ẩn, xem xét cả hai mặt rồi nói, “Một tấm thẻ suy tưởng.”
“Là gì?”
“Thường chúng không đục lỗ mà có những
biểu tượng nhỏ in bên trên. Chẳng hạn như một dãy thánh giá hay hình Đức Mẹ
Đồng Trinh.”
“Cái này không có.”
“Em phải đọc bài kinh lặp đi lặp lại,
như kinh Lạy Cha hay kinh Kính Mừng, đồng thời di chuyển ngón tay từ biểu tượng
này đến biểu tượng khác.”
“Vậy nó giống kiểu tràng hạt tiện lợi có
thể mang theo trong ví ư?”
“Đúng rồi. Tràng hạt.” Miết tay tới lui
trên những cái chấm nổi, cô nói, “Nhưng không chỉ người theo Đạo Cơ đốc mới sử
dụng chúng. Thực ra, khởi nguồn chúng là đồ vật của trào lưu Thời đại mới.”
“Những thứ ấy ra sao?”
“Chị thấy những tấm thẻ có hình tràng
hoa, Đức Phật, dấu hiệu hòa bình, chó mèo nếu em muốn hướng thẳng năng lượng
suy tưởng đến việc giành được thắng lợi cho động vật, hay hình dãy hành tinh
Trái Đất để em có thể suy tưởng về một môi trường trong lành hơn.”
“Cái này có phải dành cho người mù
không?” tôi hỏi.
“Không, không hề.”
Cô giơ tấm thẻ ra trước trán giây lát
như nhà thần học đọc nội dung bức thư qua bì thư dán kín mít.
Tôi không biết tại sao cô ấy làm vậy
nhưng quyết định không đặt câu hỏi.
Dò theo các dấu chấm lần nữa, cô cất
giọng, “Khoảng một phần tư các tấm thẻ là dạng chữ nổi giống vậy. Điều cần làm
là ấn ngón tay lên các dấu chấm và suy tưởng về từng chữ cái.”
“Nhưng nó viết gì?”
Trong lúc tiếp tục sờ tấm thẻ, vẻ nhăn
nhó khó chịu lan ra khuôn mặt cô từ từ như hình ảnh nổi lên khỏi màu đen của
tấm phim chụp. “Chị không cho đây là chữ nổi. Chúng viết những thứ khác, chữ
này chữ kia, vài từ gợi cảm hứng. Một câu thần chú để tập trung năng lượng. Câu
đó in trên bao đựng tấm thẻ.”
“Em không có bao đựng.”
“Hoặc em cũng có thể đặt in thứ em muốn,
một câu thần chú riêng, bất cứ cái gì. Đây là cái màu đen đầu tiên chị từng
thấy.”
“Vậy chúng thường có màu gì?” Tôi thắc
mắc.
“Trắng, vàng, bạc, xanh da trời, nhiều
khi là xanh lá cây dành cho câu thần chú về môi trường.”
Vẻ nhăn nhó của cô lộ hẳn ra khắp khuôn
mặt.
Cô trả tấm thẻ lại cho tôi.
Với sự ghét bỏ ra mặt, cô nhìn chằm chằm
những ngón tay đã lần theo các dấu chấm.
“Em nói tìm thấy nó ở đâu?” cô hỏi.
“Tầng dưới trong hành lang, trên sàn
nhà,” tôi bịa.
Cô cầm chai Purell từ sau quầy lên, đổ
một đống dầu đặc quánh trong suốt vào lòng bàn tay trái, đặt chai xuống và chà
xát dữ dội hai bàn tay với nhau, khử trùng chúng.
“Nếu là em, chị sẽ tống khứ nó đi,” cô
vừa nói vừa xát xát hai bàn tay. “Và sớm chừng nào tốt chừng đó.”
Cô dùng quá nhiều Purell đến mức tôi
ngửi thấy mùi cồn etylic bay hơi.
“Tống khứ nó đi, tại sao?” tôi hỏi.
“Nó có năng lượng tiêu cực. Câu thần chú
xấu xa. Nó sẽ mang sự nguy hại đến đổ ập lên em.”
Tôi tự hỏi không biết cô đã học ở trường
điều dưỡng nào.
“Em sẽ ném vào thùng rác,” tôi hứa.
Tàn nhang trên mặt cô dường như rực lên,
bừng bừng như cơn mưa hạt tiêu nhỏ. “Đừng ném ở đây.”
“Được thôi, không ném ở đây.”
“Không được ném vào chỗ nào trong bệnh
viện hết,” cô nói. “Lái xe ra ngoài sa mạc, chỗ không có ai, lái thật nhanh,
ném ra ngoài cửa sổ, để gió cuốn bay đi.”
“Kế hoạch nghe có vẻ được đấy.”
Tay cô khô và sạch bong. Vẻ khó chịu tan
biến cùng mùi cồn. Cô mỉm cười, “Hi vọng giúp được em chút ít.”
“Chị giúp em nhiều lắm.”
Tôi cầm tấm thẻ suy tưởng đi ra khỏi
bệnh viện, bước vào màn đêm sắp tàn, nhưng không làm một chuyến xe đi sa mạc.
CHƯƠNG
43
Phòng thu của đài KPMC, tiếng nói của
thung lũng Maravilla, nằm trên đường Main, ngay trung tâm thị trấn Pico Mundo,
trong một ngôi nhà gạch hiện đại ba tầng kiểu thời vua George, nằm giữa hai
dinh thự thời Victoria đặt văn phòng luật Knacker & Hisscus và tiệm bánh
Good Day.
Còn một tiếng nữa là trời sáng, đèn
trong bếp của tiệm bánh đã được bật lên.
Khi tôi ra khỏi xe, con đường tràn ngập
mùi bánh mì mới ra lò, bánh sữa vàng ươm và bánh ngọt hương chanh.
Không hề thấy bóng dáng ông kẹ.
Hai tầng dưới của đài KPMC là văn phòng
kinh doanh. Phòng thu nằm trên tầng ba.
Stan “Spanky” Lufmunder là nhân viên
trực. Harry Beamis, người xoay xở để trụ vững trong ngành thu thanh mà không có
biệt danh, chính là nhà sản xuất chương trình “Cả đêm với Shamus Cocobolo”.
Tôi nhăn mặt đùa với họ qua khung cửa
kính ba lớp ngăn cách giữa hành lang tầng ba và phòng kỹ thuật.
Tôi dùng tay làm điệu bộ cử chỉ, họ ra
dấu đồng ý và tôi tiếp tục đi dọc hành lang, tiến đến cửa phòng phát thanh.
Loa trong hành lang bật khe khẽ bài
“String of Pearls” của ca sĩ Glenn Miller huyền thoại, đĩa nhạc Shamus hiện
đang phát trong chương trình.
Nhạc thật ra lấy từ đĩa CD, nhưng trong
chương trình, Shamus dùng tiếng lóng thập niên 30 và 40.
Harry Beamis đã báo trước nên khi tôi
vào phòng, Shamus bỏ tai nghe ra, chỉnh âm thanh vừa đủ để theo dõi chương
trình rồi lên tiếng, “Ê, Phù thủy, chào mừng đến thị trấn Pico Mundo của bác.”
Đối với Shamus, tôi là Phù thủy Kì quặc,
hay nói ngắn gọn là Phù thủy.
Bác cất giọng, “Sao con không có mùi dầu
gội hương đào.”
“Xà phòng duy nhất con có là Neutrogena
không mùi.”
Bác nhăn nhó, “Không phải chuyện giữa
con và nữ thần kết thúc đó chứ?”
“Chuyện chỉ mới bắt đầu,” tôi quả quyết.
“Thật mừng khi nghe vậy.”
Tường bê tông nhẹ bọt xốp[41] khiến
giọng chúng tôi dịu đi, nghe êm ái. Tròng kính râm của bác ấy có màu xanh dương
như màu của mấy chai thuốc nhuận tràng Milk of Magnesia.
[41]
Đây là một loại bê tông nhẹ kỹ thuật, có khả năng cách âm, cách nhiệt và chống
ẩm tốt, tỷ trọng chỉ bằng 1/10 so với bê tông thường.
Da bác cũng đen đến mức ánh lên sắc xanh
dương.
Tôi đến trước mặt bác và để tấm thẻ suy
tưởng xuống, đập mạnh lên mặt bàn để gây tò mò cho bác.
Bác điềm đạm, không cầm nó lên ngay.
“Hết chương trình, bác định ghé Quán Vỉ nướng, làm một chầu thịt đùi cạo sạch
lông nướng chín, hành tây xắt sợi và bánh quy chấm nước sốt.”
Trong lúc vòng qua chỗ để micro, ngồi
xuống ghế đối diện và đẩy một cái micro khác xoay sang bên, tôi nói, “Sáng nay
con không đứng bếp. Nghỉ một ngày.”
“Con làm gì trong ngày nghỉ, đi chơi và
thơ thẩn quanh cửa hàng lốp xe à?”
“Con nghĩ có thể sẽ đi chơi bowling.”
“Con đúng là đứa sôi nổi, Phù thủy ạ.
Bác không biết làm sao người yêu của con theo kịp con.”
Giai điệu nhạc Miller bao trùm. Shamus
nghiêng sang micro và tuôn ra một tràng ứng khẩu, kết hợp song song giữa bài
“One O’clock Jump” của Benny Goodman và bài “Take the A Train” của Duke
Ellington.
Tôi thích nghe Shamus trên đài và ngoài
đời. Bác ấy sở hữu một chất giọng khiến Barry White[42] và James Earl Jones[43]
nghe như người rao hàng viêm họng. Đối với thính giả của đài, bác là Velvet
Tongue.
[42]
Ca sĩ nhạc R&B.
[43]
Diễn viên lồng tiếng nổi tiếng
Từ một giờ đến sáu giờ sáng mỗi ngày trừ
Chủ nhật, Shamus xoay vòng cái mà bác gọi là “âm thanh lôi kéo cuộc chiến to
lớn” và thuật lại chi tiết các câu chuyện thú vui về đêm vào thời kì xa xưa.
Mười chín tiếng còn lại trong ngày, đài
KPMC không bật nhạc mà ưu tiên cho các chương trình thảo luận. Ban giám đốc
muốn ngừng phát thanh trong năm tiếng đồng hồ hiếm hoi nhưng giấy phép yêu cầu
họ phải phục vụ cộng đồng hai mươi tư trên bảy.
Tình thế đó cho Shamus quyền tự do làm
bất cứ điều gì bác ấy muốn, và điều bác ấy muốn là đưa chính mình và các thính
giả mất ngủ đắm chìm vào thời hoàng kim của Big Band[44]. Thời đó, bác nói rằng
âm nhạc là chân chính, và cuộc sống gắn chặt hơn với sự thật, lẽ phải và thiện
ý.
[44]
Thời kì xuất hiện các nhóm nhạc jazz, cuối thập niên 30 đến cuối thập niên 40.
Lần đầu tiên nghe đoạn rap này, tôi tỏ
vẻ ngạc nhiên sao bác lại đồng cảm với thời kì có sự phân biệt rõ rệt ấy. Câu
trả lời của bác ấy như sau, “Bác là người da đen, mắt không nhìn được, cực kì
khôn ngoan và nhạy cảm. Không thời kì nào là dễ dàng đối với bác. Ít nhất nền
văn minh phải văn minh thì khi đó mới có phong cách được.”
Hiện thời bác đang nói với thính giả:
“Hãy nhắm mắt lại, hình dung ca sĩ Duke trong chiếc áo vest trắng đặc trưng, và
nhập bọn cùng tôi, Shamus Cocobolo, lái chuyến tàu A đến Harlem.”
Mẹ đặt tên cho bác là Shamus vì muốn con
trai trở thành thám tử. Khi bác hóa mù vào năm lên ba, sự nghiệp thi hành luật
không còn là lựa chọn. Tên “Cocobolo” nảy ra từ bố của bác ấy, nghe đúng là
người Jamaica.
Cầm tấm thẻ nhựa đen lên, đặt ngón tay
cái và ngón trỏ của bàn tay phải ở hai cạnh trên dưới tấm thẻ, bác nói, “Một
ngân hàng ngớ ngẩn nào đó trao cho con thẻ tín dụng à?”
“Con đang hi vọng bác có thể cho con
biết nó ghi gì trên đó.”
Bác lướt một ngón tay qua tấm thẻ, không
hẳn để đọc mà chỉ để xác định món đồ. “Ồ, Phù thủy, chắc con đâu nghĩ bác cần
thẻ suy tưởng khi bác đã có Count Basie, Satchmo và Artie Shaw[45].”
[45]
Các ca sĩ nổi tiếng.
“Vậy ra bác biết nó là cái gì.”
“Vài năm trước, người ta đưa cho bác cả
tá những thứ này, đủ kiểu tư tưởng truyền cảm, cứ như thể người mù không thể
nhảy múa nên họ phải trầm ngâm suy tư. Đừng phật ý nhé, Phù thủy, nhưng người
hết sức điềm tĩnh như con mà lại đưa cho bác một tấm thẻ nhựa tâm linh kì cục
như vậy, bác hơi ngượng thay con đó.”
“Không có gì. Nhưng con không đưa nó cho
bác. Con chỉ tò mò dòng chữ Braille trên đó viết gì thôi.”
“Nghe vậy nhẹ cả người. Nhưng tại sao
con tò mò?”
“Bản tính trời sinh đã vậy rồi.”
“Bác hiểu rồi. Không xía vào.” Bác ấy sờ
ngón tay đọc tấm thẻ rồi nói, “Cha đẻ của Dối trá.”
“‘Cha đẻ của bói cá’?”
“Dối trá. Những điều không thật.”
Cụm từ quen thuộc với tôi, nhưng vì lí
do nào đó, tôi không hiểu, có lẽ vì tôi không muốn hiểu, có lẽ vì tôi không muốn
hiểu.
“Bọn xấu xa,” Shamus nói. “Cha đẻ của
dối trá, cha đẻ của quỷ dữ, Chúa quỷ Sa Tăng. Chuyện gì đây, Phù thủy? Chẳng lẽ
nền tôn giáo lâu đời của nhà thờ St. Bart giờ đây quá nhàm chán, con cần luồng
khí mới để tâm hồn rung động sao?”
“Tấm thẻ không phải của con.”
“Vậy của ai?”
“Một y tá trong Bệnh viện đa khoa của
hạt bảo con phóng thật nhanh ra sa mạc, ném nó qua cửa sổ, để gió cuốn bay đi.”
“Một chàng trai tốt bụng, kiếm sống
lương thiện bằng cái xẻng chế biến thức ăn nhanh, chắc con đang đánh bạn với
người cực kì quái gở.”
Bác ấy đẩy tấm thẻ về phía tôi, ngang
qua chỗ để micro.
Tôi nhổm dậy khỏi ghế.
“Đừng để dòng chữ Braille đó lại đây
nhé,” bác nói.
“Nó chỉ là một tấm thẻ nhựa tâm linh kì
cục mà bác.”
Hai bóng phản chiếu của chính tôi nhìn
tôi từ tròng kính xanh dương sẫm của bác.
Shamus nói, “Hồi đó bác biết nghi thức
thờ cúng Quỷ Sa Tăng. Một gã tuyên bố căm ghét mẹ, nhưng chắc hắn thương bà ấy.
Cảnh sát tìm thấy cái đầu đứt lìa của bà mẹ ở tủ lạnh nhà hắn, đựng trong túi
nhựa đậy kín cùng với cánh hoa hồng để giữ nó không thối rữa.”
Tôi cầm lấy tấm thẻ suy tưởng. Nó lạnh
ngắt.
“Cảm ơn bác đã giúp, bác Shamus.”
“Cẩn thận đấy, Phù thủy. Những người bạn
lập dị thú vị thật không dễ tìm. Con mà chết bất ngờ, bác sẽ nhớ con lắm đó.”
CHƯƠNG
44
Bình minh đỏ rực ló dạng, mặt trời như
lưỡi dao của đao phủ nhô lên từ chân trời mờ mịt.
Tại một nơi khác trong thị trấn Pico
Mundo, kẻ sắp trở thành tên giết người hàng loạt chắc đang vừa ngắm cảnh bình
minh này vừa nạp đạn vào khẩu súng trường.
Tôi đậu xe tại lối vào nhà và tắt máy.
Tôi không thể tiếp tục chờ đợi để biết xem tay súng khử Bob Robertson có hại
luôn bà Rosalia Sanchez hay không. Thế nhưng hai ba phút trôi qua, tôi mới có
đủ dũng khí để ra khỏi xe.
Bầy chim ăn đêm đáp xuống lặng lẽ. Đàn
quạ thường kiếm ăn vào đầu ngày chưa xuất hiện.
Trèo lên bậc tam cấp ở hiên sau nhà, tôi
thấy cửa lưới đóng nhưng cửa nhà mở. Đèn trong bếp đã tắt.
Tôi nhìn qua tấm lưới. Bà Rosalia ngồi ở
bàn, hai bàn tay ôm lấy cái cốc. Bà xem ra còn tươi tỉnh.
Vẻ ngoài có thể đánh lừa. Biết đâu xác
của bà đang chờ được phát hiện tại một căn phòng khác còn đây là linh hồn dưới
trần với đôi tay cầm cốc mà bà đã bỏ lại khi mở cửa cho tên sát nhân lúc tối
qua.
Tôi không ngửi thấy được mùi cà phê mới
pha.
Trước giờ, trong lúc đợi tôi đến để nói
rằng bà vẫn hiện hữu, đèn luôn bật sáng. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy bà ngồi
trong bóng tối như vậy.
Bà Rosalia ngước lên mỉm cười khi tôi
bước vào bếp.
Tôi nhìn bà chằm chằm, không dám lên
tiếng, lo sợ bà đã trở thành linh hồn vất vưởng và không thể trả lời.
“Chào Odd Thomas.”
Nỗi sợ hãi bay biến ra khỏi người tôi
cùng cái thở phào. “Bà còn tươi tỉnh.”
“Dĩ nhiên bà tươi tỉnh. Bà biết thời
thiếu nữ của bà đã qua lâu rồi nhưng bà hi vọng trông mình không như chết rồi.”
“Ý con là
hiện hữu. Bà hiện hữu.”
“Ừ, bà biết.
Hai cảnh sát đã nói với bà, thế nên sáng nay bà không phải đợi con.”
“Cảnh sát
ư?”
“Biết sớm
thật tốt. Bà tắt hết đèn đóm và tận hưởng việc ngồi đây, ngắm bình minh.” Bà
cầm cốc lên. “Con uống nước táo không, Odd Thomas?”
“Dạ không,
cảm ơn bà. Bà nói hai cảnh sát à?”
“Hai thanh niên dễ mến.”
“Lúc nào vậy bà?”
“Cách đây chưa đầy bốn mươi phút. Họ lo
cho con.”
“Lo ư, tại sao?”
“Họ nói có người báo nghe thấy tiếng
súng từ căn hộ của con. Chẳng phải nực cười sao. Odd Thomas? Bà nói với họ bà
chẳng nghe gì cả.”
Tôi chắc chắn cú điện thoại gọi đến
trình báo về vụ nổ súng là của một người giấu tên, vì người gọi có khả năng
chính là kẻ đã giết Robertson.
Bà Sanchez nói, “Bà hỏi họ làm gì mà con
phải nổ súng trong căn hộ của con. Bà cho họ biết nhà con không có chuột.” Bà
nâng cốc lên nhấp ngụm nước táo rồi chợt hỏi, “Nhà con đâu có chuột phải
không?”
“Dạ không có, thưa bà.”
“Dù vậy họ vẫn muốn xem xét. Họ lo cho
con. Những anh chàng tử tế. Thận trọng lau sạch dấu giầy. Không chạm vào một
vật nào cả.”
“Ý bà nói bà đã dẫn họ đi xem căn hộ của
con à?”
Sau khi nuốt ngụm nước táo, bà đáp, “À,
họ là cảnh sát mà, và họ rất lo cho con, họ cảm thấy tốt hơn khi được biết con
không bắn vào chân con hay thứ gì đó.”
Tôi mừng là đã chuyển thi thể Robertson
đi ngay khi phát hiện ra nó trong phòng tắm nhà mình.
“Odd Thomas, tối qua con không hề đến
lấy bánh quy bà nướng cho con. Bánh sôcôla với quả óc chó. Món yêu thích của
con.”
Một cái đĩa chất đầy bánh được bọc kín
trong lớp giấy bóng kính nằm trên bàn.
“Cảm ơn bà. Bánh quy của bà là số một.”
Tôi cần đĩa bánh. “Con tự hỏi… bà nghĩ con có thể mượn xe bà một chút xíu được
không?”
“Nhưng chẳng phải con vừa lái xe à?”
Mặt tôi đỏ hơn cả bình minh đang lan
rộng ngoài cửa sổ. “Dạ phải, thưa bà.”
“À, vậy thì con đã mượn rồi,” giọng bà
không hề ẩn chứa chút mỉa mai nào. “Không cần phải mượn hai lần.”
Tôi lấy chìa khóa từ tấm ván treo gần tủ
lạnh. “Cảm ơn bà Sanchez. Bà tốt với con quá.”
“Con là cậu
bé ngoan, Odd Thomas. Con khiến bà nhớ nhiều đến thằng cháu Marco. Đến tháng
Chín là tròn ba năm thằng bé trở nên vô hình.”
Marco cùng
gia đình cậu ta đi trên chiếc máy bay đâm vào Trung tâm Thương mại Thế giới.
Bà tiếp lời,
“Bà cứ nghĩ thằng bé sẽ hiện hữu trở lại vào một ngày nào đó, nhưng lâu quá
rồi… Con đừng bao giờ trở nên vô hình nhé, Odd Thomas.”
Đôi lúc bà
làm tôi nhói lòng. “Dạ, con sẽ không vô hình đâu,” tôi cam đoan với bà.
Khi tôi cúi
xuống hôn lên trán bà, bà đặt tay lên đầu tôi, giữ khuôn mặt tôi gần khuôn mặt
bà, “Hứa với bà con sẽ không như thế.”
“Con hứa,
thưa bà. Con thề có Chúa.”

