Giao Lộ Sinh Tử - Chương 45 - 46 - 47

CHƯƠNG 45

Khi tôi dừng
xe trước căn hộ của Stormy, chiếc xe cảnh sát cải trang không còn đậu bên kia
đường.

Rõ ràng,
nhóm cảnh sát ấy không nhận nhiệm vụ bảo vệ Stormy. Đúng như tôi nghi ngờ, họ
được cử đi theo dõi với hi vọng Roberston sẽ đến tìm tôi. Khi tôi xuất hiện tại
nhà cảnh sát trưởng Porter sau vụ nổ súng, nhóm cảnh sát nhận thấy tôi không
còn ở chỗ Stormy nên hiển nhiên họ rút lui.

Robertson đã
yên giấc ngàn thu, được hồn ma của cô gái mại dâm trẻ tuổi canh chừng, nhưng
tên sát nhân trước đây là bạn của gã vẫn còn tự do tự tại. Kẻ tâm thần thứ hai
đó không lí gì lại đặc biệt nhằm vào Stormy; vả lại, nàng có khẩu súng 9 li và
quyết sử dụng nó.

Thế nhưng ập
vào tâm trí tôi là hình ảnh vết thương trên ngực Robertson, và tôi không thể
quay đi hay nhắm mắt lại trước nó như đã làm trong phòng tắm.

Tệ hơn nữa,
trí tưởng tượng của tôi chuyển lỗ thủng chí mạng từ thân thể tím bầm của gã đàn
ông đã chết sang Stormy. Tôi còn nghĩ đến cô gái trẻ đã cứu tôi khỏi bầy chó
sói, đôi cánh tay rụt rè che bộ ngực và những vết thương.

Trên lối
vào, tôi bắt đầu chạy. Phóng lên các bậc thang. Ào qua hành lang. Mở tung cánh
cửa có tấm kính pha chì.

Tôi lóng
ngóng cầm chìa khóa, đánh rơi nó, nghiêng người chộp lại khi nó nảy bật khỏi
sàn gỗ cứng, lơ lửng trong không trung rồi tôi lao vào căn hộ của nàng.

Từ phòng
khách, nhìn thấy Stormy đang ở trong bếp, tôi đi đến bên nàng.

Nàng đứng
cạnh tấm thớt gần bồn rửa, dùng con dao nhỏ gọt bưởi để tách thứ trái cây tuyệt
hảo vùng Florida. Một đống nhỏ các hạt đã được lấy ra nằm trên mặt gỗ.

“Anh dùng
thuốc gì mà cuống cuồng vậy?” nàng lên tiếng hỏi khi làm xong việc và đặt con
dao sang bên.

“Anh tưởng
em chết.”

“Vì em chưa
chết, anh muốn ăn sáng không?”

Suýt chút
nữa tôi đã kể nàng nghe chuyện có kẻ bắn cảnh sát trưởng.

Thay vì kể
chuyện đó tôi nói. “Nếu đã nghiện thuốc thật thì anh muốn có món trứng đánh
chứa chất kích thích và ba bình cà phê đen. Anh không ngủ được nhiều. Anh cần
tỉnh táo làm sáng tỏ suy nghĩ của mình.”

“Em có bánh
rán bọc sôcôla.”

“Ăn thôi.”

Chúng tôi ngồi
ở bàn ăn trong bếp, nàng ăn bưởi, tôi dùng bánh rán và pepsi, toàn đường toàn,
caffeine.

“Sao anh
nghĩ em đã chết?” nàng hỏi.

Nàng đã lo
lắng về tôi. Tôi không muốn nâng mối âu lo của nàng lên mức nguy kịch.

Nếu kể nàng
nghe vụ cảnh sát trưởng, tôi sẽ khai luôn chuyện Bob Robertson trong bồn tắm
nhà tôi, chuyện gã đã thành người thiên cổ khi tôi thấy gã trong khu đất nhà
thờ, những sự việc tại Nhà thờ Sao chổi Thì thầm và chuyện về tấm thẻ suy tưởng
kì quái.

Nàng sẽ muốn
bên cạnh tôi suốt. Dùng súng yểm trợ tôi.

Tôi không
thể cho phép nàng chuốc lấy nguy hiểm như thế.

Tôi thở dài
và lắc đầu. “Anh không biết. Anh thấy bọn ông kẹ khắp nơi. Cả bầy cả lũ chúng
nó. Bất kể chuyện gì sắp xảy ra đến nó, cũng rất dữ dội. Anh lo sợ.”

Cảnh giác,
nàng chĩa cây muỗng về phía tôi. “Đừng bảo em hôm nay ở nhà đấy nhé.”

“Anh muốn em
hôm nay ở nhà.”

“Em mới nói
gì?”

“Điều anh
vừa nói.”

Im lặng nhai
bưởi và bánh rán sôcôla, chúng tôi nhìn nhau không rời mắt.

“Hôm nay em
sẽ ở nhà,” nàng nói, “với điều kiện anh ở đây với em cả ngày.”

“Chúng mình
thống nhất chuyện này rồi mà. Anh không thể để người ta chết nếu có cách cứu
được họ.”

“Và em sẽ
không sống dù chỉ một ngày trong lồng chỉ vì có con hổ sổng chuồng đi đâu đó
ngoài kia.”

Tôi tu
Pepsi. Tôi ao ước có vài viên caffeine. Tôi ao ước được ngửi thuốc muối để làm
tỉnh đầu óc mỗi khi tình trạng lơ mơ buồn ngủ bắt đầu len lỏi. Tôi ao ước có
thể giống như những người khác, không có năng lực siêu nhiên, không phải đeo
gánh nặng nào ngoại trừ trọng lượng tăng thêm mà bánh rán sôcôla có thể sẽ gán
cho tôi.

“Gã ghê gớm
hơn hổ,” tôi nói với nàng.

“Em không
quan tâm xem gã có ghê gớm hơn một con khủng long ăn thịt Tyrannosaurus rex
không. Em có một cuộc đời để sống, và không có thời gian để lãng phí nếu muốn
lập nên tiệm kem của riêng mình trong vòng bốn năm.”

“Thực tế đi
em. Một ngày nghỉ làm sẽ không hủy hoại cơ hội thực hiện giấc mơ đâu.”

“Mỗi ngày em
làm việc hướng đến điều đó đều là giấc mơ. Giấc mơ là cả quá trình, không phải
chỉ là thành quả cuối cùng.”

“Sao anh lại
đi tranh luận với em nhỉ? Anh luôn thua mà.”

“Anh là con
người tuyệt vời của hành động, cưng à. Anh không cần trở thành người luôn tranh
luận giỏi đâu.”

“Anh là con
người tuyệt vời của hành động kiêm đầu bếp chế biến thức ăn nhanh xuất sắc.”

“Người chồng
lí tưởng.”

“Anh ăn thêm
cái bánh nữa.”

Biết rõ mình
đang đề nghị sự nhượng bộ mà tôi không thể chấp nhận, nàng mỉm cười cất giọng.
“Em nói anh nghe thế này nhé, em sẽ nghỉ một ngày và đi với anh, ở ngay sát bên
anh, đến bất cứ đâu cùng anh.”

Nơi tôi hi vọng
đặt chân tới bằng sự chiếu cố của sức hút siêu linh, là chỗ kẻ lạ mặt đã giết
Robertson và có thể hiện giờ đang chuẩn bị thực hiện hành động tàn ác mà chúng
đã cùng nhau vạch ra. Stormy
sẽ không an toàn khi ở bên cạnh tôi.

“Thôi,” tôi nói. “Em xúc tiến giấc mơ
của em đi. Xếp bánh quế, trộn kem và làm người bán kem giỏi nhất. Ngay cả những
giấc mơ nhỏ nhoi cũng không thể thành hiện thực nếu em không kiên nhẫn.”

“Anh tự nghĩ ra điều đó hả cưng, hay anh
đang trích dẫn lời người khác.”

“Em không
nhận ra à? Anh đang trích dẫn lời em đó.”

Nàng cười
trìu mến. “Anh thông minh hơn vẻ ngoài.”

“Phải vậy
thôi. Em sẽ đi đâu vào giờ nghỉ trưa?”

“Anh biết em
mà, em đem theo bữa trưa. Đỡ tốn tiền và trên hết em có thể ở lại làm việc.”

“Đừng đổi ý
nhé. Đừmg đến gần sân bowling, rạp chiếu phim hay bất kì chỗ nào.”

“Em đến gần
sân gôn được không?”

“Không.”

“Sân gôn thu
nhỏ?”

“Anh nói
nghiêm túc đấy.”

“Em đến gần
chỗ chơi điện tử được không?”

“Nhớ bộ phim
Kẻ thù chung hồi xưa không?” tôi hỏi.

“Em đến gần
công viên giải trí được không?”

“James
Cagney thủ vai một tên cướp đang ăn sáng với nhân tình…”

“Em không
phải nhân tình của ai hết.”

“... và khi
cô nàng chọc tức hắn, hắn ném nửa trái bưởi vào mặt cô nàng.”

“Và cô nàng
làm gì? Thiến hắn? Đó chính là điều em sẽ làm bằng con dao gọt bưởi của em.”

“Phim Kẻ thù chung thực hiện năm 1931.
Hồi đó em không thể phô bày cảnh thiến ấy lên màn ảnh.”

“Đúng là hình thức nghệ thuật thời đó
thật non kém. Giờ tiến bộ rồi. Anh có muốn nửa trái bưởi của em còn em đi lấy
dao không?”

“Anh chỉ đang muốn nói rằng anh yêu em
và anh lo cho em.”

“Em cũng yêu anh, cưng à. Cho nên em hứa
không ăn trưa ở sân gôn thu nhỏ. Em sẽ ăn ngay tại tiệm Burke & Bailey. Nếu
em làm đổ muối, em sẽ lập tức quăng một nhúm qua vai[46]. Ôi trời, em sẽ quăng
nguyên cái bình.”

“Cám ơn em. Nhưng anh vẫn còn nghĩ đến
cú đập trái bưởi vào mặt.”

[46]
Người nước ngoài cho rằng làm đổ muối sẽ gặp phải điều xui rủi và cách hóa giải
là ném một nhúm muối qua vai.

CHƯƠNG
46

Nhà của gia đình Takuda trên đường
Hampton không còn bóng dáng ông kẹ. Đêm trước, chúng bu kín nơi đây.

Khi tôi ngừng xe phía trước, cửa ga-ra
cuộn lên. Ông Ken Takuda lùi chiếc Lincoln Navigator ra.

Lúc tôi bước đi trên lối vào, ông ấy
ngừng lại và hạ cửa sổ xe xuống, “Chào anh Thomas.”

Ông là người duy nhất tôi quen vẫn gọi
tôi một cách trịnh trọng như thế.

“Chào thầy. Một buổi sáng đẹp trời đấy
nhỉ?”

“Một buổi sáng rực rỡ,” ông thốt lên.
“Một ngày trọng đại như mọi ngày, đầy ắp triển vọng.”

Tiến sĩ Takuda giảng dạy tại đại học
bang California ở thị trấn Pico Mundo.

Ông phụ trách môn văn học Mỹ thế kỷ hai
mươi.

Xét đến việc nền văn học hiện đại đương
thời được truyền thụ tại hầu hết các trường đại học chủ yếu mang tính chất ảm
đạm, hoài nghi, thiếu lành mạnh, bi quan, thù hằn; chúng thường được viết bởi
những người muốn tự tử, sớm muộn cũng tự giết chết bản thân bằng rượu bia, ma
túy hoặc súng ống thì giáo sư Takuda là một người vui vẻ khác thường.

“Em cần lời khuyên cho tương lai,” tôi
xạo sự. “Em đang nghĩ đến việc vào đại học sau đó lấy bằng tiến sĩ, tạo dựng sự
nghiệp giảng dạy như thầy.”

Khi làn da châu Á bóng láng của ông tái
nhợt, nó chuyển thành một sắc thái của màu nâu sẫm. “Này, anh Thomas, trong lúc
ủng hộ ngành giáo dục, tôi không thể thật lòng khuyên rằng sự nghiệp giảng dạy
tại trường đại học chứa đựng mọi thứ ngoại trừ các ngành khoa học rõ ràng. Với
tư cách môi trường làm việc, giới học viện là sự kết hợp của điều phi lí, tính
ghét mặc cả, hay ghen tỵ và tư lợi. Tôi đang chờ giây phút lấy được toàn bộ
khoản trợ cấp cho hai mươi lăm năm đi dạy, và sau đó tôi sẽ viết tiểu thuyết
như Ozzie Boone.”

“Nhưng, thưa thầy, thầy bao giờ cũng có
vẻ hạnh phúc mà.”

“Trong bụng quái vật biển Leviathan, anh
Thomas à, người ta có thể tuyệt vọng và bỏ mạng, hoặc vui vẻ và kiên nhẫn.” Ông
cười rạng rỡ.

Đây không phải câu trả lời tôi mong đợi
nhưng tôi vội tiếp tục cái kế hoạch non nớt để tìm hiểu lịch trình của ông ấy
trong ngày hôm nay và nhờ đó có thể xác định địa điểm tên sát nhân đồng bọn của
Robertson sẽ ra tay. “Em vẫn thích trò chuyện với thầy về việc đó.”

“Thế giới có quá ít những đầu bếp chiên
nướng thức ăn tính tình khiêm tốn và quá nhiều các giáo sư tự cao tự đại nhưng
chúng ta sẽ nói về việc đó nếu anh thích. Cứ gọi điện đến trường đại học và nhờ
chuyển máy sang văn phòng của tôi. Trợ giảng của tôi sẽ sắp xếp cuộc hẹn.”

“Em đang mong chúng ta có thể nói chuyện
vào sáng nay, thưa thầy.”

“Bây giờ ư? Điều gì tạo nên khao khát
cấp bách đột ngột theo đuổi việc học này?”

“Em cần suy nghĩ nghiêm túc hơn về tương
lai. Em sẽ kết hôn vào thứ Bảy.”

“Với cô Bronwen Llewellin phải không?”

“Dạ phải.”

“Anh Thomas, anh có cơ hội hiếm hoi để
đạt được niềm hạnh phúc trọn vẹn, và anh sẽ trở thành kẻ khờ dại khi đầu độc
cuộc đời mình bằng việc giảng dạy hay dùng ma túy. Tôi có giờ giảng sáng nay,
tiếp theo hai cuộc thảo luận với sinh viên. Sau đó tôi đi ăn trưa và xem phim
cùng gia đình, thế nên tôi e rằng sớm nhất phải đến ngày mai chúng ta mới có
thể bàn bạc về cơn bốc đồng tự hại mình của anh.”

“Thầy ăn trưa ở đâu? Tại Quán Vỉ nướng
phải không ạ?”

“Chúng tôi cho bọn trẻ lựa chọn. Ngày
của chúng mà.”

“Thầy sẽ xem phim gì?”

“Phim về chú chó và người ngoài hành
tinh.”

“Đừng,” tôi nói mặc dù tôi chưa hề xem
bộ phim đó. “Nó dở lắm.”

“Nó là phim bom tấn mà.”

“Chán phèo.”

“Các nhà phê bình thích phim đó,” ông
nói.

“Randall Jarrell bảo nghệ thuật là dài
lâu, còn những nhà phê bình là sâu bọ của thời đại.”

“Gọi đến văn phòng tôi nhé, anh Thomas.
Chúng ta sẽ nói chuyện vào ngày mai.”

Ông kéo cửa sổ lên, lùi xe ra khỏi lối
đi và lái đến trường đại học, sau đó là đến cuộc hẹn với Tử thần.

CHƯƠNG
47

Nicolina Peabody, năm tuổi, mang giày
hồng, mặc quần lửng hồng và áo thun hồng. Đồng hồ đeo tay của cô bé có dây nhựa
màu hồng và trên mặt số có hình một gương mặt chú heo màu hồng.

“Khi nào con đủ lớn để tự mua quần áo
cho mình,” con bé nói với tôi, “con sẽ không mặc gì khác ngoài màu hồng, hồng
và hồng, mọi ngày, quanh năm suốt tháng, mãi mãi.”

Levanna Peabody, cô bé chẳng mấy chốc sẽ
tròn bảy tuổi, đảo mắt và nói. “Ai cũng nghĩ em là một ả đứng đường cho coi.”

Bước vào phòng khách với ổ bánh kem mừng
sinh nhật đặt trên đĩa, bên dưới một nắp vung thủy tinh trong suốt, chị Viola
kêu lên, “Levanna! Nói vậy thật xấu miệng. Chỉ chút xíu nữa thôi là con mắc tội
ăn nói láo lếu và hai tuần cúp tiền quà vặt đấy.”

“Ả đứng
đường là gì?” Nicolina hỏi.

“Một đứa mặc
toàn đồ màu hồng và hôn đàn ông vì tiền,” Levanna đáp bằng giọng từng trải sành
đời.

Khi tôi đỡ
cánh tay từ tay chị Viola, chị nói, “Chị lấy thùng sách là đi được rồi.”

Tôi rảo
nhanh khắp ngôi nhà. Không ông kẹ nào ẩn núp trong xó xỉnh.

Nicolina
nói, “Nếu em hôn đàn ông miễn phí thì em có thể mặc đồ toàn màu hồng và không
phải là một ả đứng đường.”

“Nếu em hôn
miễn phí cả khối đàn ông, em sẽ là một con nhỏ hư đốn,” Levanna nói.

“Levanna đủ
rồi!” Chị Viola la rầy.

“Nhưng mẹ
ơi,” Levanna kêu lên, “sớm muộn gì em nó cũng phải biết thế giới này thế nào
chứ.”

Để ý thấy sự
thích thú của tôi và lí giải nó bằng khả năng vượt trội. Nicolina đáp trả lại
cô chị, “Chị thậm chí còn không biết ả đứng đường là gì, chị chỉ tưởng mình
biết thôi.”

“Chị biết
chứ, không tin thì thôi,” Levanna quả quyết một cách chảnh chọe.

Bọn trẻ đi
trước tôi xuống lối nhỏ dẫn đến chỗ chiếc xe của bà Sanchez đậu ở lề đường.

Khóa cửa xong, chị Viola bước theo sau.
Chị đặt thùng sách vào ghế sau chỗ bọn trẻ ngồi rồi lên ngồi phía trước. Tôi
đưa ổ bánh cho chị và đóng cửa xe.

Buổi sáng sa mạc trong trẻo, rực sáng và
đứng gió. Bầu trời như một cái vạc gốm sứ xanh biếc úp ngược đổ xuống những
luồng hơi khô nóng.

Mặt trời vẫn nằm đằng đông, mọi cái bóng
đổ dài về hướng tây, như thể khao khát muốn có đường chân trời mà màn đêm còn
che kín. Và dọc theo con phố lặng gió, chỉ mình bóng tôi di chuyển.

Nếu có các thực thể siêu nhiên thì lúc
này chúng không hiện lên.

Khi tôi vào xe và nổ máy, Nicolina nói,
“Con không bao giờ hôn bất kì người đàn ông nào, dù thế nào đi nữa, con hôn mẹ,
chị Levanna và dì Sharlene thôi.”

“Lớn lên em sẽ muốn hôn đàn ông,”
Levanna dự đoán.

“Không đâu.”

“Có đấy.”

“Không mà,” Nicolina tuyên bố chắc nịch.
“Chỉ có chị, mẹ, dì Sharlene và Cheevers nữa.”

“Cheevers là con trai,” Levanna nói
trong lúc tôi cho xe ra khỏi lề và bắt đầu tiến đến nhà Sharlene.

Nicolina
cười khúc khích. “Cheevers là con gấu.”

“Thằng đó là
con gấu đực.”

“Bạn ấy là
gấu bông.”

“Nhưng nó
vẫn là con trai,” Levanna quả quyết. “Thấy chưa, chuyện này đã bắt đầu rồi đấy,
em muốn hôn bọn đàn ông con trai.”

“Em không
phải đứa hư đốn,” Nicolina khăng khăng. “Em sẽ thành bác sĩ chăm sóc chó.”

“Đó gọi là
bác sĩ thú y, và người ta không mặc toàn màu hồng, hồng và hồng, mọi ngày,
quanh năm suốt tháng mãi mãi.”

“Em sẽ là
người đầu tiên làm vậy.”

“Vậy thì,”
Levanna nói, “nếu chị có chú chó bị ốm và em là bác sĩ thú y mặc đồ toàn màu
hồng thì chị nghĩ mình vẫn sẽ đưa chó đến chỗ em vì chị biết em sẽ giúp nó khỏe
lên.”

Theo lộ
trình vòng vèo, kiểm tra kính chiếu hậu, tôi lái qua sáu khu nhà để đến hai khu
cách xa trên đường Maricopa Lane.

Dọc đường
đi, chị Viola dùng điện thoại của tôi gọi cho cô em để bảo rằng chị đang đưa
bọn trẻ qua chơi.

Ngôi nhà ván
ghép màu trắng sạch sẽ nằm trên Maricopa có cửa chớp màu xanh dừa cạn và những
cây cột xanh dương ở mái hiên. Ngoài hiên nơi tụ họp hàng xóm là bốn xích đu và
một ghế đánh đu.

Sharlene
đang ngồi xích đu khi chúng tôi ngừng xe ở lối vào.

Chị là một
phụ nữ to lớn với nụ cười tươi rói và giọng nói du dương lí tưởng cho một ca sĩ
dàn đồng ca, đó vốn là công việc của chị.

Posey, chú
chó lông vàng, nhổm dậy khỏi sàn nhà dưới mái hiên, đứng cạnh chị, vẫy lia lịa
cái đuôi đẹp đẽ của nó, háo hức khi trông thấy bọn trẻ, ở yên tại chỗ không
phải nhờ dây buộc mà do mệnh lệnh nhẹ nhàng của chủ nhân.

Tôi mang
bánh kem vào bếp, tại đó tôi lịch sự từ chối khi chị Sharlene mời dùng đá
chanh, bánh táo, ba loại bánh quy khác nhau và đậu phộng giòn.

Nằm trên sàn
chống bốn chân lên trời, móng vuốt cụp xuống, Posey nằn nì muốn được xoa bụng
và bọn trẻ nhanh chóng làm điều đó.

Tôi quỳ một
chân và gây gián đoạn lúc đầu để nói lời chúc mừng sinh nhật Levanna. Tôi trao
cho mỗi đứa trẻ một cái ôm siết.

Bọn trẻ có
vẻ nhỏ nhắn và mong manh quá đỗi. Thế nên chỉ cần chút sức lực cũng đủ bóp nát
chúng, bóc toạc chúng ra khỏi thế giới này. Tình trạng dễ bị xâm hại của chúng
khiến tôi lo sợ.

Chị Viola
theo tôi ra đến tận hiên trước, tới đó chị lên tiếng. “Em đưa cho chị tấm hình
cái gã mà chị phải coi chừng nhé.”

“Chị không
cần nữa đâu. Gã... hết hình rồi.”

Đôi mắt to
tròn của chị chứa đầy sự tin cậy mà tôi không đáng nhận. “Odd, nói thật cho chị
biết đi, em có còn thấy sự chết chóc nơi chị không?”

Tôi không
biết chuyện gì sẽ đến nhưng dù buổi ban ngày ở sa mạc tạo cảm giác sáng chói
mắt tôi những giác quan thứ sáu của tôi lại thấy nó có vẻ đen tối dữ dội, với
tiếng sấm vang rền sắp xảy tới. Thay đổi kế hoạch của họ, hoãn buổi xem phim và
ăn tối tại Quán Vỉ nướng, như vậy chắc chắn đã đủ để thay đổi số phận của họ.
Chắc chắn.

“Chị ổn rồi.
Bọn trẻ cũng vậy.”

Ánh mắt chị
nhìn vào mắt tôi dò xét và tôi không dám quay đi. “Thế còn em thì
sao, Odd? Bất kể chuyện gì xảy đến... có lối nào cho em đi qua để đến nơi an
toàn không?”

Tôi gượng cười, “Em biết tất cả mọi thứ
về Thế giới bên kia và Kiếp sau mà chị nhớ không?”

Chị dán chặt mắt vào tôi thật lâu, sau
đó vòng tay qua người tôi. Chúng tôi ôm nhau thật chặt.

Tôi không hỏi chị Viola rằng chị có thấy
sự chết chóc nơi tôi không. Chị chưa bao giờ tuyên bố có khả năng đoán trước...
vậy mà tôi sợ chị sẽ trả lời là thấy.

Báo cáo nội dung xấu