Bí Mật Hồ Cá Thần - Chương 05 - 06

Chương V

Trời đã vào giữa
thu. Buổi sáng thức dậy thấy se se lạnh. Sương non đọng mờ mờ dưới chân đê khuất
gió. Đó cũng là lúc vào mùa câu cá rô đầm Vực

 Bọn trẻ chúng tôi bắt
đầu chuẩn bị mồi câu. Chúng tôi luộc khoai sọ, bóc vỏ. Sau đó chúng tôi cho
khoai sọ vào cối giã cua, giã cùng thính và mẻ chua. Khoai sọ được giã, quánh lại
với mẻ chua, thính rang tỏa mùi thơm phức, béo ngậy.

 Chúng tôi bọc mồi
câu vào một chiếc lá khoai nước, mang cần câu ra đầm Vực. Sang thu, đầm Vực vắng
lặng. Nước đầm Vực có rút đi và sẫm lại. Mỗi đứa trẻ xóm trại đến chọn cho mình
một chỗ ngồi câu kín đáo. Anh em tôi vẫn đến địa điểm câu năm ngoái ở cạnh một
gốc si già, xung quanh được che kín bằng đủ các loại cây như cây vú bò, cây cứt
lợn, cây tóc tiên và những đám dây đậu dại. Hai anh em tôi chui vào giữa những
bụi cây. Mặt nước đầm Vực chỗ chúng tôi ngồi sẩm tối bởi bóng tán lá si đổ xuống.
Tôi vê một mẩu mồi câu bằng hạt đỗ tương móc vào lưỡi câu buông xuống mặt nước
yên tĩnh.

 Mấy năm gần đây, cứ
sang giữa thu là anh em tôi đi câu cá rô. Vào những mùa câu cá rô, cái vại sành
nhà tôi lúc nào cũng có hơn chục con cá rô lớn để ăn dần. Đó cũng là mùa trồng
rau cải dọc bãi sông. Bà tôi thường hay nấu món canh cải cá rô. Mỗi lần nấu, bà
tôi chỉ bắt hai con cá rô. Bà tôi luộc cá rô, rồi sau đó gỡ thịt để riêng. Phần
xương và phần đầu cá được giã kỹ, sau đó lọc lấy nước như lọc cua nấu canh. Chẳng
bao giờ bà quên đập một lát gừng cho vào nồi canh. Khi nào chúng tôi câu được
nhiều cá thì bà làm món cá rô nướng. Cá rô nướng chấm với tương gừng là món ăn
chúng tôi rất thích. Bữa nào có cá rô nướng bố tôi lại lôi hũ rượu trong gầm
giường ra.

 Cá rô đầm Vực nổi tiếng
cả một vùng. Vì đầm Vực không thể nào tát cạn được nên lũ cá rô sống được rất
lâu năm. Cá rô đầm Vực con nào cũng mốc thếch, ngạnh cứng như đinh, đầu bạc trắng.
Có lúc đang mổ cá thấy dao cùn, bà tôi liếc lưỡi dao vào đầu một con cá rô cứng
hơn cả miếng đá mài. Chỉ sau đó một lúc, lưỡi dao đã sáng loáng sắc lẻm.

Hai anh em tôi ngồi
câu và ngắm nhìn những con gọng vó chạy loăng quăng. Thằng Mên sốt ruột:

 

- Sao lâu thế mà cá
không cắn

 Tôi bảo:

 - Cá rô chứ không phải
lũ tép mại, mày hiểu chưa.

 

Thằng Mên lại hỏi:

 

- Thế con cá thần có
cắn câu không?

 

Tôi bĩu môi:

 

- Mày dốt lắm. Mồi
câu này cá thần chỉ hắt hơi một cái là bay.

 

Lúc đó, chiếc phao
câu khẽ nháy. Tôi ra hiệu cho thằng Mên im lặng. Chiếc phao nháy chậm và đều, rồi
từ từ chìm xuống.

 

- Giật đi, anh! - Thằng
Mên kêu lên.

 

Tôi giật mạnh. Đầu cần
câu trĩu xuống, cước căng xiết. Chỉ một loáng, một chú cá rô đực dài hơn gang
tay đã được kéo lên. Hai anh em tôi vất vả mãi mới gỡ được con cá và tống vào
giỏ.

 

Khi hai anh em tôi
đang ngồi câu thì nghe tiếng sột soạt ở gần đó và tiếng người nói chuyện. Tôi
nhận ra đó là tiếng lão Bương và một người đàn ông khác.

 

- Ông quyết dùng cái
thứ ấy à?

 

- Hết cách rồi - Lão
Bương nói - Bây giờ là mùa nước đầm cạn, dễ tính lắm.

 

- Bao giờ thì thực
hiện

 

- Tối nay thôi. Có vậy
tôi mới tìm ông. Khoảng quá nửa đêm tôi sẽ cho nổ. Gần sáng, ông và mấy thằng
con nhà tôi ra đầm vớt cá.

 

- Đã chuẩn bị xong
chưa?

 

- Chiều nay tôi gói
thuốc nổ.

 

- Cẩn thận đấy nhé.

 

- Sợ đếch gì. - Giọng
lão Bương hùng hổ. - Tôi làm trò này mãi rồi. Nhớ là không lộ cho ai biết đấy.

 

Khi lão Bương đi rồi,
thằng Mên hỏi:

 

- Ông Bương định làm
gì thế anh?

 

- Lão ấy đánh mìn. -
Tôi nói - Lão Bương muốn bắt con cá thần.

 

- Cá thần có sợ mìn
không?

 

- Tao không biết,
nhưng…

 

Tôi không biết nói với
thằng em tôi thế nào. Trong đầu tôi đã có một kế hoạch. Tôi giục thằng Mên về.

 

Buổi chiều tôi đi
qua sân nhà lão Bương, giả vờ vào xin nước uống. Tôi ngậm chiếc gáo dừa, nhưng
không uống nước. Tôi quan sát xung quanh và nhận thấy lão Bương đang gói một bọc
gì đó ở trong bếp. Tôi nghĩ ngay là lão đ gói thuốc nổ.

 

Sau khi rời nhà lão
Bương, tôi đi tìm mấy đứa bạn trong xóm nói cho chúng nghe chuyện lão Bương sẽ
dùng mìn để giết con cá. Bàn bạc với nhau mãi, chúng tôi quyết định sẽ lẻn vào
bếp nhà lão để đánh cắp quả mìn.

 

Buổi tối ăn cơm
xong, tôi nói dối mẹ là vào làng thăm bà ngoại. Mấy đứa chúng tôi tập trung
trên đê. Từ trên đê nhìn xuống, chúng tôi thấy hiên nhà lão Bương sáng đèn và
tiếng anh con cả lão: “Bố thôi đi, say rồi đấy”. Sau đó là tiếng lão Bương:
“Hôm nay tao phải uống cho sướng để tối còn làm việc lớn”. Một lúc sau, anh con
cả lão Bương đi ra ngõ, lão Bương gọi với theo: “Đi đâu thì nhớ về nhà, khuya
có việc đấy”.

 

Anh con cả đi rồi,
lão Bương cầm đèn đi ra chuồng bò lúi húi xem cái gì đó. Rồi lão cầm đèn đi vào
nhà. Tôi nói với mấy đứa bạn:

 

- Hành động thôi
chúng mày ạ.

 

- Chắc ăn chưa?

 

- Chỉ còn mình lão ở
nhà thôi, mà lại say rượu nữa.

 

- Thế mày biết lão để
quả mìn ở đâu không?

 

- Tao thấy lão gói
mìn ở trong bếp. - Tôi nói. - Nhưng bây giờ chắc lão để ở chuồng bò. Lúc nãy thấy
lão cầm đèn ra đấy.

 

- Thôi, cứ vào chuồng
bò trước.

 

Bọn trẻ chúng tôi lặng
lẽ đi xuống chân đê. Chúng tôi men theo bờ rào cây dứa dại ở vườn nhà lão
Bương. Đêm nhờ nhờ trăng. Chúng tôi quá quen thuộc đường ngang ngõ tắt của khu
xóm trại. Mùa hạ, lũ trẻ con xóm trại thường tập trung trên mặt đê, sau đó chia
nhau ra từng nhóm đi lấy trộm hoa quả ở các nhà trong xóm trại. Đôi khẫn lũ bạn
lẻn vào vườn cắt cả buồng chuối, phủ lá xoan cho chóng chín. Sau này phát hiện
ra, chúng tôi vẫn chứng nào, tật ấy. Bởi ở xóm trại heo hút này, chúng tôi chẳng
biết chơi trò gì vào buổi tối của kỳ nghỉ hè ba tháng dài vô tận.

 

Tôi dẫn đầu lũ trẻ
tìm lối chui vào vườn nhà lão Bương. Chúng tôi cúi người đi đến sát chuồng bò.
Mùi nước đái bò nồng nặc bốc lên cùng với muỗi bay như trấu.

 

- Vào đi. - Một đứa
thì thầm.

 

Chúng tôi tìm cửa
chuồng bò chui vào. Thấy người, con bò phì mạnh một cái làm chúng tôi giật mình
túm vào nhau.

 

- Không có gì đâu! -
Tôi nói run run - Có mỗi con bò thôi.

 

- Nhưng quả mìn nó
như thế nào?

 

- Cứ tìm đi rồi thì
biết -Tôi thì thầm - Mỗi đứa tìm một góc.

 

Lũ trẻ chúng tôi bắt
đầu rờ rẫm. Chuồng bò lỉnh kỉnh đủ thứ, nào cuốc, xẻng, cày, rổ rách…

 

- Ối giời! - Tiếng một
đứa kêu lên.

 

- Làm sao thế?

 

- Tao thọc tay vào đống
phân bò rồi.

 

Có tiếng một đứa cười
hinh híc.

 

- Cười cái gì mà cười.

 

- A, lại đây, lại
đây.

 

- Thấy rồi à? - Tôi
vội hỏi nhỏ.

 

- Không phải. Ở đây
có sọt cỏ, lại mà lau tay.

 

Đứa bị dính phân bò
mò mẫm bước lại. Nó vừa lấy cỏ lau phân bò vừa làu bàu trong miệng. Chợt nó kêu
lên khe khẽ:

 

- A, cái gì đây này,
Mon, lại đây mà xem.

 

Tôi vội bước lại bên
sọt cỏ. Lúc này chúng tôi đã quen với bóng tối trong chuồng bò. Vì vậy mọi vật
như rõ hơn.

 

Tôi cầm lấy cái vật
thằng bạn đưa cho và khẽ reo lên:

 

- Đúng rồi. Đúng là
quả mìn chúng mày ạ.

 

- Cẩn thận, nó nổ
thì tan xác đấy.

 

- Thôi chuồn đi.

 

Ngay lúc đó, có tiếng
người ngoài sân. Chúng tôi hoảng hốt nhìn ra, nhận thấy lão Bương đang cầm đèn
đi về phía chuồng bò.

 

- Chạy đi. - Một đứa
giục.

 

- Không được. - Tôi
nói - Chạy bây giờ là lão ấy biết ngay. Cứ nằm

 

Mấy đứa chúng tôi
nép vào nhau. Chúng tôi nhìn rõ lão Bương nên cứ tưởng lão cũng nhìn rõ chúng
tôi. Lão Bương vẫn mỗi lúc một gần chuồng bò. Ánh đèn từ tay lão đã hắt vào cửa
chuồng bò. Chúng tôi nép người sau đít con bò. Khi đến trước cửa chuồng bò, lão
Bương dừng lại vạch quần đái. Vừa đái, miệng lão vừa tóp tép. Sau đó, lão bước
vào cửa chuồng bò. Mặt tôi nóng rát. Lão Bương giơ ngọn đèn lên nhìn con bò và
cười:

 

- Ngoan nhé, ăn uống
no say rồi chứ, bò?

 

Nói xong, lão Bương
cầm đèn quay vào nhà. Chúng tôi vội vã ôm quả bộc phá (mà chúng tôi quen gọi là
mìn) chui ra khỏi vườn lão Bương, chạy thục mạng lên mặt đê.

 

Cả bọn nằm vật ra mặt
đê, thở dốc. Một lát sau, chúng tôi ngồi dậy bàn cách giấu quả mìn.

 

- Vứt xuống sông cho
nó trôi đi. - Một đứa nói.

 

Đứa khác cãi.

 

- Không được đâu.
Nguy hiểm lắm.

 

- Hay là giấu vào gò
cây dứa ấy.

 

- Càng chết, đến lúc
rét bọn nó hay đốt cây dứa khô lắm.

 

- Tớ bảo thế này
nhé. - Tôi đề nghị. - Chúng mình đào một cái hố sâu, chôn quả mìn xuống là yên
tâm.

 

- Phải rồi. Phải rồi.
- Cả bọn nhao nhao đồng ý.

 

Chúng tôi n công một
đứa về lấy xẻng. Sau đó cả bọn kéo nhau đến gò đất mọc đầy những cây dứa dại.
Chúng tôi chọn một nơi kín đáo, thay nhau đào hố, khá sâu.

 

Khi chúng tôi chôn
xong quả mìn thì sương đêm đã ươn ướt trên cỏ. Trước khi chia tay, lũ trẻ ngoắc
tay nhau thề không được nói cho ai biết. Nếu đứa nào để lộ thì cả bọn sẽ không
cho chơi cùng nữa.

 

Về đến nhà tôi bị bố
tôi mắng cho một trận vì tội nói dối. Vì thấy tôi về muộn, mẹ tôi vào làng tìm
tôi. Bà ngoại nói với mẹ tôi là không thấy tôi vào làng.

 

Khi lên giường đi ngủ,
thằng Mên hỏi:

 

- Anh đi đâu về đấy?

 

- Mày hỏi làm gì?

 

- Anh đi chơi mà
không cho em đi nhé.

 

- Việc đêm nay mày
không thể đi được.

 

- Các anh làm gì thế.
- Thằng Mên năn nỉ. - Nói cho em nghe với nào.

 

- Không thể nói cho
ai nghe được.

 

- Vì sao?

 

- Chúng tao đã thề rồi,
mày đừng hỏi nữa.

 

Tôi đã thiu thiu ngủ,
chợt nghe tiếng ầm ĩ từ phía nhà lão Bương. Tôi dỏng tai nhưng không nghe rõ.
Khi bà tôi lên giường đi ngủ, tôi hỏi:

 

- Người ta cãi nhau
gì thế, bà?

 

- Bố con nhà ông
Bương cãi nhau vì mất cái gì đấy.

 

Nghe bà nói, tôi cười
khúc khích. Bà tôi hỏi:

 

- Tối nay cháu đi
đâu?

 

Tôi im lặng. Bà bảo:

 

- Lần sau không được
nói dối mẹ nhé.

 

- Vâng ạ! - Tôi đáp
- Nhưng cháu không đi chơi đâu.

 

- Thế thì đi đâu?
Sao bố cháu hỏi không trả lời.

 

- Vì cháu hứa với bạn
cháu rồi.

 

- Không được làm việc
xấu cháu ạ.

 

- Cháu không làm việc
xấu đâu. Lẽ ra cháu nói với bà. Nhưng chúng cháu đã thề với nhau không được nói
với ai.

 

- Ừ, đã thề thì… phải
giữ lời thề.

 

- Vâng.

 

Tôi đáp nhỏ và chìm
dần vào giấc

 

Tôi mơ thấy lão
Bương tìm được quả mìn mà chúng tôi đã chôn sâu dưới đất. Lão Bương khoái chí
cười sằng sặc. Lão ôm quả mìn đi ra bờ đầm. Lão đứng bên bờ đầm, ngực phanh áo,
tay cầm quả mìn có dây cháy chậm đang phì phì phun khói. Lão giơ cao quả mìn và
gọi to: “Hỡi con cá ma quỷ, tao sẽ cho mày ăn quả mìn này, rồi tao sẽ mổ bụng
mày ra, lấy bộ lòng nhắm rượu”.

 

Nói xong, lão Bương
ném quả mìn xuống lòng hồ. Quả mìn nổ. Một lúc sau con cá từ từ nổi lên. Hai
cái vây của nó rách bươm. Cùng với con cá là những bức tượng gỗ của ngôi chùa đồng
loạt đội nước đứng lên. Những bức tượng phủ đầy rêu từ từ lội vào bờ. Đi sau những
bức tượng kia là một nhà sư già. Và sau nhà sư già là bà tôi và ông Bộc. Chợt
tôi nghe tiếng bà tôi lay gọi:

 

- Gì đấy Mon? Ngủ mê
hả cháu? Thôi ngủ đi, chạy đuổi suốt ngày rồi đêm lại ngủ mê.

 

- Bà ơi…

 

Tôi định kể cho bà về
việc chúng tôi ăn cắp quả mìn của lão Bương. Nhưng tôi vội thôi khi nhớ đến lời
thề của lũ trẻ chúng tôi.

 

- Ngủ đi cháu.

 

Giọng bà tôi ấm áp.
Tôi kéo chiếc chăn chiên lên tận cổ, nằm im lặng.

 

Đêm mùa thu se lạnh
và vắng lặng lạ thường. Đã mấy tháng nay, không ai nghe thấy tiếng con cá thần
quẫy trong đêm. Những đêm như thế, tôi thường dỏng tai trong đêm để nghe tiếng
“i i” từ đâu đó ngoài đầm Vực vọng về. Nhưng tôi không nghe thấy gì ngoài tiếng
côn trùng quanh nhà và tiếng lá vườn trong những đêm có gió. Tôi tin rằng con
cá thần đã theo sông Đáy ra biển. Có lẽ mùa hạ năm sau nó mới trở về.

 

 Chương VI.

 Một mùa đông khắc
nghiệt lại đến. Buổi chiều nào chúng tôi cũng ra chân đê lấy những cây dứa dại
khô chất thành đống đốt lửa. Và đây cũng là một mùa đông khủng khiếp đối với
tôi. Năm ấy tôi bước vào tuổi mười ba và trải qua một trận ốm ghê gớm. Sau này
tôi cũng không biết mình bị bệnh gì. Tôi nằm co quắp trên giường ở góc nhà. Bà
tôi suốt ngày đốt một đống lửa cạnh giường cho tôi sưởi. Lạnh quá, tôi bò ra
mép giường để gần lửa hơn. Hầu như tôi không đứng lên được lâu. Cho nên suốt
ngày tôi chỉ nằm hoặc bò. Tôi chẳng thích ăn gì, chỉ thích ngửi mùi áo bà tôi.
Ông Bộc đôi ngày lại sang thăm tôi. Ông cho tôi đủ thứ quà. Nhưng tôi chẳng
thích gì ngoài những ông tướng ngày xưa bằng bột nếp. Mỗi khi nhìn thấy ông tướng
bằng bột nếp trong tay ông Bộc thì tôi như khỏe hẳn. Tôi ngồi dậy đón quà từ
tay ông và ngắm nghía. Ngồi được một lúc tôi lại phải nằm xuống. Lúc nào tôi
cũng đặt ông tướng bột kia nằm bên cạnh.

 

Hơn một tháng nằm liệt
giường bệnh tôi cũng không hề giảm. Tóc tôi dài ra và xanh mướt, lưỡi xanh lè
như váng đồng. Bà tôi quyết định đưa tôi đến nhà một ông thầy lang cách nhà tôi
hơn mười cây số. Bà lấy chiếc thúng cái, lót một ít rơm và đặt tôi nằm vào
trong đó. Lúc đó tôi bé và nhẹ như một con mèo. Bà tôi lấy chiếc nón đậy tôi và
đội cái thúng có tôi nằm trong đó, đưa đến nhà ông lang.

 

Lên đến đê, tôi nghe
có người hỏi: “Bà đi bán gì đấy?”. Tôi nghe bà tôi mắng: “Nhổ vào mồm cái nhà
ông này”.

 

Hôm ấy, bà tôi đã đội
cái thúng đựng tôi đi bộ suốt hai chục cây số. Nhưng ông lang kia cũng không chữa
được cho tôi. Những ngày sau đó tôi chỉ nằm chờ chết. Tôi không còn ngồi dậy được
để đón những ông tướng thời xưa bằng bột mà ông Bộc mua cho tôi nữa. Ông Bộc ngồi
bên mép giường nhìn tôi im lặng.

 

Một buổi tối, tôi
nghe bà tôi khóc với bố tôi: “Gọi người đóng cho nó bộ áo đi”. Tối hôm đó, tôi
nghe tiếng đục đẽo ở đầu nhà. Tối đó là tối đầu tihằng Mên không rời tôi. Thi
thoảng nó lại cầm tay tôi gọi: “Anh ơi, anh đừng đi đâu nhé”. Tôi không trả lời
nó được, tôi nằm thở thoi thóp.

 

Bà tôi thắp thêm
đèn. Tôi mơ hồ thấy có nhiều người đến nhà tôi. Tôi có ngờ rằng, ở ngoài góc
sân, bố tôi và mấy người trong họ đang đóng cho tôi chiếc áo quan nhỏ bằng gỗ
mít.

 

Mấy ngày sau đó, ông
Bộc không thấy sang nhà tôi và thực ra, cũng không ai trong gia đình tôi để ý đến
sự vắng mặt của ông. Chỉ từ khi tôi ốm, ông Bộc mới đến nhà tôi. Còn trước đó,
bần cùng lắm ông mới đến.

 

Đến gần nửa đêm thì
chiếc áo quan nhỏ đóng xong. Khi bố tôi và mấy chú trong họ khiêng chiếc áo
quan để lên hiên nhà thì bà và mẹ tôi òa khóc. Hàng xóm nghe tiếng khóc tưởng
tôi mất tất tả chạy sang. Cùng lúc đó, ông Bộc từ đâu xuất hiện. Mặt mũi ông bơ
phờ, ông bỏ chiếc bao tải khoác trên vai xuống và nói:

 

- Tôi mua được mấy
thang thuốc lá của một bà mế Hòa Bình, sắc cho cháu uống xem sao.

 

Bố tôi thở dài:

 

- Chẳng ăn thua gì
đâu, ông ạ. Chắc nó bỏ chúng tôi nội nhật nay mai thôi.

 

Ông Bộc im lặng mở
bao tải đưa cho bà tôi ba thang thuốc lá. Bà tôi lặng lẽ đun thuốc. Đến gần
sáng, bố tôi cậy miệng đổ hết bát thuốc cho tôi.

 

Thật kỳ lạ, uống hết
ba thang thuốc thì tôi ngồi dậy được. Thấy vậy, ông Bộc lại khoác bao tải rời
xóm trại lặng lẽ ra đi. Mấy ngày sau ông trở về. Vừa thở, vừa ho, ông vừa mở
bao tải đưa cho bà tôi chục thang thuốc nữa. Uống xong chục thang thuốc ấy tôi
đã theo thằng Mên lên đê chơi được rồi.

 

Một buổi chiều, thằng
Mên n

 

- Em dẫn anh đi xem
cái này.

 

Nói xong nó dẫn tôi
ra chuồng trâu sau nhà và chỉ cho tôi xem chiếc áo quan nhỏ còn thoang thoảng
mùi gỗ mít già.

 

- Bố đóng cái này
cho anh đấy.

 

Tôi im lặng mở mắt
thao láo nhìn chiếc áo quan.

 

- Anh có sợ không? -
Thằng Mên hỏi.

 

Tôi không nói lời
nào.

 

- Anh mà chết là bố
đặt anh vào cái này. Anh đừng đi đâu, anh nhé.

 

Tôi gật đầu. Vừa lúc
ấy, bà tôi cũng đến. Bà đuổi chúng tôi đi. Đến chiều, tôi thấy bố tôi đập chiếc
áo quan và châm lửa đốt. Bà tôi lấy một ít tro thả xuống đầm Vực và sông Đáy.

 

Đêm ấy, bà ôm tôi ngủ.
Từ ngày tôi ốm, đêm nào ngủ bà cũng ôm tôi. Tôi nằm co trong vòng tay của bà và
mùi trầu quế. Tiếng bà tôi thở đều đều.

 

- Cháu nhớ là suốt đời
phải sống tết, chết giỗ ông Bộc nhé. Nếu không có ông ấy thì cháu chẳng còn được
sống đến bây giờ đâu.

 

Tôi nằm nghe bà nói.
Từ khi ốm dậy, tôi thường ít ngủ hơn. Đêm xóm trại mang cảm giác xa xăm vô
cùng. Một cái gì đó vừa hoang vắng, vừa thổn thức thường xâm chiếm lòng tôi
trong đêm. Có phải là tôi hoảng sợ hay tôi đã lớn lên trong tâm hồn đa cảm của
mình?

 

á thần lại về rồi đấy.
- Bà tôi khẽ nói.

 

- Sao bà biết? - Tôi
hỏi.

 

- Bà lại nghe thấy
tiếng nó kêu. Chắc lại có chuyện buồn.

 

- Ông Bộc có còn muốn
bắt con cá nữa không hở bà?

 

- Đêm nào ông ấy
cũng ra bờ đầm. - Bà tôi thở dài. - Tội nghiệp quá, cháu ạ.

 

- Cháu sẽ bắt con cá
ấy cho ông Bộc.

 

- Cháu làm sao mà bắt
được? - Bà tôi chép miệng - Ông ấy đã săn nó cả đời mà cũng không bắt được. Tất
cả đàn ông xóm trại này cũng thế.

 

- Nhưng cháu sẽ bắt
được.

 

- Đừng nói dại, cháu
ạ.

 

- Vì sao hở bà? -
Tôi xoay người về phía bà và hỏi.

 

- Vì đó là cá thần.

 

- Cá thần sao lại
không giúp ông Bộc? Ông Bộc là người tốt nhất xóm trại, bà ạ. Đấy không phải là
cá thần, vì thế cháu sẽ bắt được.

 

- Ngủ đi. Từ nay
cháu không được nói thế nữa.

 

Và trong giấc mơ,
tôi vụt lớn lên, cường tráng và đầy lòng dũng cảm. Tôi đi ra bờ đầm Vực và lao
xuống nước. Tôi truy tì

 

Những cây rong đuôi
chó dưới đáy đầm dựng lên thành một khu rừng rậm, bí ẩn và đầy đe dọa. Tôi cầm
một thanh gươm đi vào khu rừng. Tôi vừa vung gươm phạt đứng những bụi rong đuôi
chó vừa gọi vang:

 

- Con cá một mắt
đâu. Ta muốn giết mày. Có giỏi thì ra đây!

 

Sau tiếng gọi của
tôi, có tiếng gầm ghê gớm thoát ra từ khu rừng rong đuôi chó. Và con cá hiện
ra. Hai chiếc vây của nó lớn như hai cánh cửa, quạt nước sôi sùng sục. Con cá
chỉ có một mắt. Nó há miệng phơi ra những chiếc răng sắc lởm chởm như những chiếc
răng bừa. Nhìn tôi nó cười khùng khục và cất tiếng:

 

- Thằng nhãi kia láo
thật, sao mày dám xâm phạm vào khu rừng của tao?

 

- Tao đến đây để giết
mày! - Tôi gầm lên.

 

- Giết ta ư? Ta có tội
gì mà ngươi đòi giết ta? Ngươi có biết ta là cá thần không?

 

Tôi khua gươm nói:

 

- Mi không phải là
cá thần. Nếu là cá thần, sao mi lại không giúp ông Bộc.

 

Nói xong, tôi nhảy tới
chém con cá. Con cá quẫy đuôi tránh lưỡi gươm. Nước đầm sôi lên, ngầu đục.
Tránh được lưỡi gươm của tôi, con cá bơi lùi ra xa. Tôi chỉ gươm vào con cá:

 

- Muốn sống mi hãy
trả lại bí mật cho ông Bộc.

 

C

 

- Bây giờ ta mới nhớ
ra lão Bộc là ai. Nhưng đó không phải là lỗi của ta.

 

Tôi quát:

 

- Không lỗi của mi
thì của ai?

 

Con cá nói:

 

- Lỗi đó là bạn bè của
lão Bộc. Bà nội ngươi cũng có lỗi.

 

Tôi kêu lên:

 

- Bà ta ư? Không! Bà
ta không bao giờ có lỗi. Mi đúng là một tên nói láo.

 

Nói xong tôi lại
vung gươm lao vào. Con cá giương vây ra đỡ những nhát gươm của tôi. Tiếng gươm
va vào xương vây cá xoang xoảng. Cả đầm Vực cuộn sóng. Các loại cá ở đầm Vực nhảy
tứ tung. Vừa chống đỡ lại đường gươm của tôi, con cá vừa kêu: “Không phải lỗi tại
ta. Không phải lỗi tại ta”. Tôi thét to: “Chính là mi”. Và đâm mũi gươm vào ngực
con cá. Máu con cá phun ầm ầm vào tôi. Tôi ngạt thở và kêu lên.

 

Tôi tỉnh khỏi cơn
mê, thở hổn hển. Bà xoa ngực tôi, nói:

 

- Mê gì mà hò hét ầm
cả lên thế, cháu?

 

Tôi nằm im, tự hỏi
bà tôi cũng có lỗi với ông Bộc ư?

 

Những gì tôi nghe thấy
chỉ là giấc mơ, chứ con cá làm sao nói được tiếng người và tôi làm sao đánh
nhau được ở dưới nước. Nhưng tôi vẫn cứ muốn hỏi về những lời của con cá.

 

 

 

 

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3