Gió lẻ và 9 câu chuyện khác - Chương 10 phần 2

Câu hỏi đầu tiên mà Dự chuẩn bị sẵn, rất đơn giản, “nhà cửa ở
đâu mà đi bụi, hả em cưng?” nhưng cô gái không trả lời. Cô vẫn không có
vẻ gì muốn nói. Giống như tiếng thét ở Mỹ Đức chỉ là một giấc mơ.


nghe trong cái im lìm của cô là sự nhẹ nhỏm của chính mình. Gã không
bao giờ hỏi ai một câu tương tự, bởi người ta sau khi trả lời luôn muốn
hỏi lại, “còn anh?”. Gã chưa bao giờ trả lời, kể cả với những người đàn
bà gã ôm trong lòng. Đó là câu trả lời mặn sẵn, làm rộp bỏng môi, như
nước biển.

*

*     *

Từ Thổ Sầu qua thành phố, tránh
kẹt xe, nên ông Buồn (là em tự gọi vậy) đã lái chiếc Landu đi tắt qua
những con đường ven đô. Em sực nhớ em vừa ngang qua nhà. Cổng cao và
nhiều hoa giấy đỏ. Nó đã tinh tươm trước khi em trở về. Và sau đó thì
vương vãi những bãi nôn.

Nhiều người mang quà tới chúc mừng cha và
em, họ nói một cuộc sum họp được truyền hình trực tiếp trên ti vi làm
họ khóc muốn chết. Họ không ngờ cuộc đời của chủ tịch lại nhiều bi kịch
vậy, vợ đầu chết, con gái thất lạc gần mười năm trời. Phải có ý chí cao
lắm, nghị lực khủng khiếp lắm mới vượt qua những nỗi đau riêng mà lo cho
chuyện chung. Em nghe những điều đó với một chút ngẩn ngơ, rồi nôn,
muốn chạy tới phòng vệ sinh nhưng chẳng nhớ nó nằm đâu, nên thức ăn lộn
ngược ra thảm. Ngày khách nhiều em nôn nhiều lần. Chị Băng nói vậy thì
cứ nằm trong phòng.

Thật ra khách cũng không cần gặp em, khách chỉ
muốn chị Băng nhớ là họ đã đến, và con chó xù nhồi bông ngoại nhập kia,
chiếc vòng bạch kim kia, cái túi xách đắt tiền kia… là của họ tặng cho
em. Chị Băng nhớ thì chị sẽ nói lại, khi cha về. Công việc của chị Băng,
là làm cha em nhớ tới họ.

Chị còn chuyện quan trọng mỗi buổi
sáng, là đi mua thức ăn cho bầy cá sấu trong chuồng. Chị chạy xe máy
đằng sau máng hai cái giỏ lặc lè. Người ở chợ quen với cảnh tượng này,
ai cũng khen vợ lãnh đạo mà chịu cực giỏi, chớ vợ mấy ông kia, giờ này
còn ngoài sân quần vợt. Chị Băng cười, ngồi không trông vào đồng lương
của ổng, thì chịu không nổi.

Chuyện chị Băng nuôi cá sấu xây biệt thự ai cũng biết. Ai cũng nuôi cá sấu mà rồi không ai xây biệt thự.

*

*     *

Dự
sốt cao, nằm lại một chỗ quen ở Lạc Mai, chuyến hàng đi Đập Đá chiếc
Landu trống chỗ. Gã không thấy chênh chao mảy may nào. Gã quen với sự
tạm bợ và vô định, ngày mai thức dậy, có thể Dự đã vĩnh viễn về nhà, vì
đã tìm được bà nội dù còn sống hay chỉ nắm xương tàn rã. Cô gái đang
ngồi đây cũng vậy, cô lên xe bằng cái ý nghĩ bất chợt nào rồi một ngày,
vì ý nghĩ bất chợt, cô sẽ lặng lẽ xuống xe. Chỉ còn gã và những con
đường. Gã không muốn từ bỏ cái cuộc sống này, khước từ mọi cơ hội trở
lại như người bình thường, cạo râu cắt tóc, ăn mặc thẳng thớm chỉnh tề,
sáng sớm thức dậy uống cà phê, ăn phở rồi chạy xe tới sở làm, yêu một
người và lấy làm vợ.

Xe đi một qua một cánh rừng cao su đang thay lá thì mưa nhỏ. Mắt ngó qua cửa kính nhòe nước, cô gái thốt nhiên nói “Biết nước khóc chừng nào rồi?

Giọng
cô đầy ngượng nghịu. Gã buồn cười, chắc đã lâu lắm ngôn ngữ rời bỏ cô
gái này, và khi chúng ùa trở lại trong một cơn lốc, cô phải xóc xổ khối
hổn độn đó, nhặt lấy từng từ chắp nối thành câu.

- Để đào cho.

Buổi
cơm tối, sau khi chuyển hàng xuống xe xong, cô giành bới cơm. Gã suýt
mắc xương vì chữ “đào”. Gió thổi ngoài kia cồn cào, vẫn là cái thứ gió
xé nhỏ đau đớn buốt lạnh. Gã lái xe chậm rãi tìm nhà trọ, cái thị trấn
nhỏ bắt đầu đóng cửa tắt đèn.

*

*     *

Nằm nhìn trăng trôi trong rẫy bắp, em từng nghĩ, khi mình nói trở lại, câu đầu tiên là gì?

- Mày đừng liếm chân tao, nhột lắm!

Câu
đó em sẽ nói với con Cò. Nó hay làm em tỉnh giấc bởi sự hí hửng vô
chừng, chỉ là bóng trăng, lá rơi hay mùi một con chó cái xa xa… Cái lưỡi
ướt lạnh của nó bắt đầu lượn lờ lên gót chân rồi lên đến bắp chân, đầu
gối em. Những cơn rùng mình từ đó chạy lên đỉnh đầu, làm nên một vòng
sóng ran cả người.

Em ghét cảm giác đó, nên em định nói với con chó. Nhưng rồi em lại nói câu khác:

- Đi.

Đó
là buổi sáng em bỏ lại rẫy bắp sau lưng, đi dọc theo con đường chập
chờn lau lách, xập xòe bướm bay. Em tới một ngã ba, gặp một cái quán
nước thưa người. Con Cò lẽo đẽo đi theo, thật ra cái từ “đi” nó chẳng
hiểu, vì em chưa từng nói, nhưng nó biết có cơn đau nào đó đang xảy ra,
bằng những tia máu vằn trong mắt, bằng chuyển động của ngón tay, của cái
hất mặt, nhíu mày, của bước chân oằn trĩu…

*

*     *

Ba
ngày nằm bệnh với Dự như bằng ba năm. Nằm trong chăn, cậu hình dung
chiếc xe tải sáng nay đi ngang qua một ngôi miếu nhỏ, bà nội Dự đang nằm
ngủ trong đó, nón lá rách úp mặt, đầu gối trên chiếc bị bàng cũng rách.
Bảy năm lưu lạc rách nát thân già. Mình đã bỏ qua cơ hội tìm thấy bà, ý
nghĩ đó làm Dự không yên. Ngày mai, cũng qua cung đường đó, cái miếu
đó, nhưng bà nội không còn ở đó nữa. Những con đường đã cuốn bà trôi
cùng chúng.

Dự cầm tấm hình của bà nội, nó đã quăn queo, nhàu nát.
Hàng trăm bàn tay đã cầm nó lên, khi trả lại kèm theo những cái lắc
đầu. Ngày Dự đi khỏi nhà với cái đầu cạo trọc bóng, như một lời thề,
“không tìm được bà nội con không về…”. Mẹ Dự sụt sùi, “thiên hạ mênh
mông, biết đâu mà kiếm hả con?”

Dự không tin thiên hạ lại rộng hơn
cái thành phố này. Lòng cậu bị một cái dằm thép cháy đỏ trong đó, cháy
từ buổi trưa Dự bỏ cuộc bi-a với bạn để chạy về nhà coi chừng bà.

- Bà nội báo hại con quá. Phải bà chết sớm con khỏe.

Dự
ngờ rằng, vì câu nói trong lúc dằn dỗi này mà bà nội bỏ đi. Dự phải tìm
bà, quỳ dưới chân xin lỗi… Bây giờ thì cũng chẳng nhớ sẽ nói với bà
những gì, khi gặp lại. Tất cả đã mỏi mê, Dự tìm bà chỉ vì muốn tìm, vậy
thôi.

Nằm quẩn quanh hết giường tới võng, không lái xe, không
khuân vác, không lau dọn, trêu ghẹo cô giúp việc của chủ nhà rồi cũng
chán, Dự thấy rã rời, ừa thì mai đây tìm được bà nội, rồi sau đó? “Sau
đó” là một cái một khoảng trong veo vô tận.

Buổi chiều chiếc Landu
quay lại, Dự nhảy ào ra cửa, mừng húm, cảm giác xa lâu lắm rồi. Một
phần là do cô gái, khi trở lại, cô đã biết ngọng nghịu nói vài câu ngớ
ngẩn, “có mắc rảnh không?” hay “nút áo rời kìa”. Dự mắc cười quên cơn ớn lạnh, lúc lau dọn chỗ sàn xe thủng, cô gái ngậm ngùi “chỗ đây rách rồi…”.

*

*     *

Em
chẳng nhớ là mình đã nói câu gì khiến ông Buồn mỉm cười, hôm đó. Bắt
đầu từ miệng, nụ cười bùng ra, gương mặt ông rạng rỡ, như có một hòn
than sẽ sàng cháy, làm rựng hồng lên những tro lạnh chung quanh.

Lúc
lời bật ra khỏi môi, thì em đang nghĩ tới tổ chim sâu trên nóc căn chòi
cuối rẫy. Chẳng biết chuyện ở đâu mà chúng nói ríu ran cả ngày. Em hình
dung vầy, con chim chồng nói:

- Anh vừa gặp một con voi chết trong rừng.

Vợ
nó hỏi ngay, trời sao con voi đó chết? Vậy là giả thuyết được đặt ra,
và câu chuyện trở nên bất tận, hết con voi thì tới đàn kiến đang bò đi,
chắc là bò tới chỗ con voi, rồi nước suối chảy vòng qua xác con voi, rồi
cái tán cây phía trên con voi. Hôm sau thì tới chuyện một cành hoa
rụng. Câu chuyện trong trẻo và vui nhộn không bao giờ chấm dứt, bất chấp
mưa, nắng, bất chấp gió lẻ gió bầy. Em luôn nghĩ, không biết trên thế
gian này có con chim nào tìm tới cái chết vì tiếng hót của con chim
khác? Có con chó nào bỗng dưng đâm đầu vào đá vì tiếng sủa của con chó
khác? Có con bò nào nhảy xuống sông tự chìm chỉ vì tiếng kêu của con bò
khác?

Tiếng nói của con vật không dùng để làm tổn thương nhau, em
nghĩ. Cho đến bây giờ em cũng nghĩ vậy. Nên khi em nói theo kiểu – của –
chim, đã làm hai người họ phì cười. Có lần em đã học nói giống con
người, chỉ vài từ ngắn ngủi thôi, nhưng em mướt mồ hôi, kiệt sức:

- Sao ông buồn vậy?

Và người được hỏi cau mặt, phun một bãi nước bọt. Có vẻ ông không thích tiếng người.

*

*     *

Những
lúc cạo râu, gã mới nhìn lại mình. Trong gương là khuôn mặt của cha gã,
đôi mắt sâu của mẹ và đôi mày rậm ngang tàng của anh trai. Tất cả họ đã
chìm, hoặc trong biển sâu hoặc trong lòng nước Mỹ.

Gã còn lại
những con đường. Gã đi làm lơ xe khi chỉ mới mười ba tuổi. Với vài ba bộ
đồ, gã đi khắp, đi theo kiểu con vắt trong vườn chuối mùa mưa, chỉ cần
một điểm tựa, con vắt búng mình đến một nơi và từ nơi đó, nó lại vươn ra
đi tiếp. Chỉ khác là vắt cần máu để sống, gã chỉ cần được đi.

Dự
gặp gã lần đầu thì gọi đại ca, bởi “em nhìn là biết dân giang hồ liền…”.
Với vẻ lì lợm cố hữu, vong gia thất thổ, lấy xe làm nhà, lấy những con
đường làm bầu bạn, lâu lâu ghé qua ngấu nghiến đàn bà, lơ đảng những món
tiền kiếm được… gã giang hồ hơn mọi giang hồ.

Giờ dù quanh quẩn
đi lại ở mấy chợ quen, nhưng gã vẫn không lấy làm buồn. Những con đường
đó vẫn biến đổi mỗi ngày: cô chủ quán đã cắt tóc cao, cây me tây thay
lá, thêm cái tủ thuốc lá được đặt bên vỉa hè, những thùng rác được thay
mới, một bảng hiệu đã sơn lại, vài cái đèn đường tắt, panô giăng ngang
đầu “Giải quần vợt mở rộng” hôm nay đã bị mưa làm rơi mất chữ t…

Chẳng bao giờ những con đường lại biến mất sau giấc ngủ quên trên gác xép, như cả nhà biến mất, khi gã lên tám tuổi.

*

*     *

Đôi
lúc em quên là em-có-buồn. Đó là hồi em ở Mai Lâm. Công việc của em là
không cho đàn bò bên xóm ghé qua rẫy ông Tám Nhơn Đạo. Vừa ngó chừng,
vừa làm cỏ rẫy, bón phân. Tới mùa thì đánh lá mía, hay thu hái bắp, đặt
hom khoai mì. Khi nào đói thì vô nhà sau ông Tám, lục cơm ăn, có khi gặp
ông đang chẻ củi, làm thơ, có khi nhìn thấy bà ngồi trên xe lăn, coi
phim Hồng Kông. Sau đó thì thấy buồn ngủ, lăn ra chiêm bao thấy mình nói
chuyện với con Cò, nghe con Cò than, con Vện lúc này chắc thay lòng,
không thương nó nữa, nên lãng tránh nó. Việc nói chuyện với con này con
kia làm giấc ngủ trở nên hấp dẫn và dễ chịu.

Em ngủ bất cứ lúc nào
và dậy bất cứ lúc nào, không ngày không đêm, không một nỗi nhớ nào rõ
ràng, và đủ sâu để cho em ngồi nhìn vào. Gió bầy đi rồi gió lẻ tới, mỗi
mùa gió có một tiếng nói riêng, nên âm thanh chung quanh em lúc nào cũng
thanh thao và trong trẻo.

Lâu ngày, không còn giật mình vì tiếng
người nữa. Nên cái bữa ông Tám ra chòi, em không hay. Bỗng dưng thấy
mình bị ép chặt xuống tấm ván mối ăn lấm tấm, và một bàn tay lần vào áo
em, thì em giật mình. Em gào lên, nhưng giọng tắt trong bàn tay khẳm mùi
rượu, thịt và nước tiểu. Cũng không chắc cái âm thanh bỏng rát trong cổ
họng em là tiếng người, và nếu cố hết sức, thì từ chòi rẫy choi loi
này, chỉ người đàn bà đang ngồi xe lăn nghe thấy. Có thể bà cũng không
biết đó là tiếng kêu của em, vì nghe như tiếng chó tru, tiếng chim đêm
thảng thốt, tiếng mèo gào trong bụi cỏ…

Em lặng lẽ làm đám tang
cho ông Tám Nhơn Đạo. Những gì em giữ cho ông đều biến mất, vụt tắt, nắm
xôi ông trao cho em ở góc chợ Mai Lâm, tấm vải ông xé áo mình để bó tay
em hôm bị dao cắt, cái góc thức ăn mặn sẵn ông để dành cho em trong tủ
chén, giọng ngâm Vân Tiên sảng khoái vẳng từ trong nhà những sớm mai,
dáng ông ngồi nhẫn nại gội tóc cho vợ những ngày nắng ấm…

Giờ một
người đàn ông xa lạ đang lúi húi trên em, như con Cò thường lè lưỡi liếm
để gọi em than thở chuyện đời nó. Lạ lùng, em không còn cái cảm giác
ran khắp người. Giống như cảm giác đó đã chết. Từ khi nghe lại tiếng
người, mùi người.

Đó là lần đầu tiên em phát hiện ra, vài thứ ở
đây tên gọi đều không đúng với bản chất, thí dụ như con Cò thật ra là
con chó, con Beo chỉ là một ả mèo mập ú và lười, rẫy bắp nhưng mùa này
tàn bắp, chỉ cỏ và gió tơi bời…

*

*     *

Không ngờ bà
nội Dự lại ở trên con đường mà phải trên mười lần, chiếc Landu chở hàng
xuôi ngược qua đó. Một con đường chạy giữa bờ biển và những ngọn núi đá
vôi, nhiều chùa trên núi và nhiều sương khói trong chùa. Dự luôn lặng
lẽ khi đi trên con đường này, mà trước đây, cậu ta nghĩ, “chỉ vì thấy nó
đẹp, mà buồn…”.

Cho đến trưa nay thì Dự cũng nghĩ do con đường ít
người, hiu hắt nên đi qua đây cậu ta thấy bồn chồn. Khi dừng lại, vào
quán nhỏ uống thứ cafe pha bột bắp lạt nhách, nội Dự sai một người đàn
bà bưng con hải sâm ngang qua, Dự thấy lạ quá gọi vào nhìn cái con vật
lơ đãng vật vờ trong nước như một tảng rêu sẫm màu. Nội Dự kêu chị này
nói một câu cũng bâng quơ:

- Thấy mặt cậu giống một bà già hồi trước lang thang khúc này.

Dự
nhìn chị trân trân, đồng tử như sắp lăn ra ngoài, cậu ta rút tấm hình
từ trong áo ra, ngập ngừng, chị ơi có phải người này. Nội Dự đã dặn
trước, nên chị bán hải sâm gật đầu liền, thì bà này nè.

Chị dẫn
mọi người đến chỗ bà nội Dự. Một ụ đất bên đường, được đắp bằng tấm áo
cỏ chen lẫn hoa mười giờ đỏ. Hoa là do chị trồng. Rồi người trong xóm
kéo ra, họ gật gù nói đúng rồi.

Dự phục xuống mồ, hoa nát trên
tóc, khóc rống lên. Gã lặng lẽ ngồi nhổ cỏ. Cô gái chạy về xe và lấy một
chiếc khăn tay cũ, đã phai màu, dúi vào tay Dự, “cái đây để khô…”

*

*     *


thứ âm thanh của con người vẫn còn đẹp, đó là tiếng khóc. Có bữa em vào
nhà ông Tám Nhơn Đạo kiếm cơm, em nghe bà Tám khóc. Ông đi đám giỗ.

Tiếng
khóc của bà óng suốt, đen nhức nỗi buồn, nó không lẫn màu chua xót, màu
tức giận, màu tủi hờn… Thăm thẳm. Như một cái biển sâu và tối mà bà
ngụp lặn chỉ với đôi tay. Em lặng lẽ bưng tô cơm ngồi ngoài hè, chỗ gộc
cây ông Tám kê bữa củi đã bị băm nát, uống tiếng khóc ròng ròng.

Rồi một bữa, lặng lẽ tìm phần cơm của mình, em lại nghe tiếng khóc, đã đục ngầu nhàu nát, sau khi bà nghiến răng:

- Con đĩ! Sao mày còn lãng vảng ở đây?

Em
vỗ đầu con Cò. Đi. Và nó theo em tới cái quán ở ngã ba. Vài người biết
em là con nhỏ câm đang giữ rẫy cho ông Tám. Họ ngạc nhiên thấy em định
đi đâu đó mà không có tiền. Một người có giọng nói rất dịu dàng cầm tay
em nắn mãi, trời đất ơi, thiệt là tội, lạc cha lạc mẹ, về với chị đi,
không làm gì nhiều, mà chị lại trả công.

Em bỗng thấy nghẹt thở,
bởi đọc được điều gì đó không thật. Em cảm thấy mùi mồ hôi, hơi thở trơn
láng, nhịp tim trôi tuột, những thớ thịt rùng rùng nhảy nhót trên gương
mặt bén lẹm của chị, bụng em quặn lên, cổ họng cong oằn, em nôn. Cơn
nôn đầu tiên bắt đầu ở đó, quán nhỏ ngã ba đường, nhiều bụi và ruồi. Lúc
đó em không biết nó sẽ lặp lại dai dẳng sau này, ở những nơi có người,
đông người, nơi người ta vẫn hay nói dối.

Con Cò quỳ dưới chân em,
từ tốn liếm láp đống nôn, cơm khô và cá khô. Cái lưỡi dài và mềm của nó
như thấu vào lòng em đang khô rốc. Em thấy mát rượi từng vệt. Vài chiếc
xe dừng lại mời gọi, cánh cửa mở ra lố nhố những người. Cái cảm giác
trào ngược lảng vảng làm em đứng yên, tuyệt vọng.

Em quay lại căn
chòi, với con Cò. Đốt củi nướng khoai cho qua cơn đói, đêm nằm nghe
những sợi nước ngầm chảy re rắt trong lòng đất, tiếng đuôi thằn lằn rụng
từ vách xuống, tiếng con chuột ngứa răng cắn nỉ non vào gốc cây, tiếng
lá khô lay lắt rơi đậu trên một chiếc lá khô khác… Em đã đi quá xa trong
việc lắng nghe những âm thanh sâu thẳm của bóng đêm, đến nỗi giờ em
cũng cảm giác được máu chảy trong con người. Em không biết phải làm gì
với khả năng kỳ dị của mình.

Ba ngày sau một người tìm đến, anh nói anh người của chương trình truyền hình “Giã từ lưu lạc”, “cha em nhờ tôi tìm em…”

*

*     *

Về
nhà. Dự đã rời khỏi chiếc Landu trong một sáng nhiều mây ở chân trời,
có vẻ cả ngày sẽ mưa. Không phải tiễn xa, chỉ cần mở cửa xe tải và đu
qua, chui vào chiếc xe khách, vậy là thành một cuộc đi. Nhẹ nhỏm. Bình
thường. Gã hầu như không vẫy tay. Cô gái ngó Dự, vẻ mặt vẫn lãnh đạm và
có chút ngơ ngác. Xe đi rồi cô nhắm mắt ngay, có vẻ cô mệt mỏi vì phải
mở mắt nhìn lâu như vậy.

Mưa nhanh chóng phủ lên chiếc xe tải một
cái bạt trắng xóa. Gã hút thuốc chậm rãi, thoáng nghĩ về thằng nhỏ phụ
xế cũng đang chung một cơn mưa, thoáng nghĩ từ điển cuộc đời mình quá
giản dị, nó không có chữ “về nhà”. Cũng như “gửi thư”, “mua quà”, “nhà
bếp”, “sinh nhật”…

Dường như từ trang đầu tới cuối, chỉ vài cụm từ như “ra đi”, “lên đường”, và “trôi”.

*

*     *

Xe
dừng trước một cái cổng cao, kín bưng, cha nói, vô đi con, đây là nhà
mình. Em có chút không tin. Bức vách, mái nhà, cái hàng ba, những viên
gạch… tất cả đã thay đổi. Cái hộp giấy đựng sáp đèn cầy em đã giữ lại từ
quan tài của mẹ cũng không còn ở trong góc phòng, giữa hai tủ áo. Sáp
đèn cầy nham nhở đỏ như máu đông lại, hơ trên lửa, nó sẽ chảy thành
dòng. Hồi nhỏ, em đã từng hình dung, nếu đem mẹ ra làm cho ấm, máu mẹ sẽ
lại chảy trong người.

Không tìm được hộp sáp, em đã tin thật sự
đây không phải là nhà của em. Nơi này thuộc về hai đứa trẻ con của cha
và chị Băng, vì chúng biết giữ cho thảm sạch sẽ, biết xoay vòi về phía
nào để nước ấm áp, bật nút nào thì ti vi sẽ có những người đàn ông mình
trần đánh nhau trong một cái chuồng bằng dây.

Thật may em thấy
thích chỗ của những con cá sấu. Ngồi nghe xương của những con cá nhỏ,
rạn nhừ trong những cái hàm đầy răng nhọn, và nhìn từng giọt nước mắt
chảy ra. Cá sấu không khóc cho những con mồi, dù chúng vẫn chảy nước
mắt. Thật kỳ lạ, em không nôn vì điều đó, có lẽ do cá không nhiều máu và
không có tim, không mồ hôi không nước bọt, nên em không bị khối hổn độn
đó giày vò. Như hôm ở trường quay, khi người ta mời ông Tám Nhơn Đạo
vào, và ông nói ông tìm thấy em ngồi đói rách trong chợ như thế nào, ông
đã nuôi nấng, yêu thương và che chở em ra sao:

- Vợ chồng tui đơn chiếc, nên tui cưng con nhỏ như con đẻ của mình vậy.

Ông nói. Và một cái vòi đắng nghét từ miệng em phụt ra. Cả trường quay nhốn nháo.

Rốt
cuộc, nếu như có gặp những con chim hót dối rằng mùa xuân đã về, những
con chó nhìn bóng trăng sủa dối rằng kẻ trộm tới… thì em sẽ không sao.

*

*     *

Báo cáo nội dung xấu