Đời ảo - Chương 50 - 51 - 52
50
Chìa khóa vào văn phòng Camilletti mãi vẫn không tìm thấy ở đâu.
Tôi
đã kiểm tra tất cả những nơi thông thường - mọi ngăn kéo bàn của nhân
viên hành chính, trong chậu cây và hộp đựng ghim giấy, thậm chí cả tủ hồ
sơ. Bàn của cô ta để mở ra hành lang, hoàn toàn lộ liễu, và tôi bắt đầu
thấy căng thẳng khi cứ lục lọi quanh đó, rõ ràng tôi không thuộc về nơi
này. Tôi tìm sau điện thoại, dưới bàn phím, dưới máy tính của cô ta. Có
phải nó được giấu ở mặt dưới của ngăn bàn kéo bàn không? Không. Dưới
bàn vậy? Cũng không. Có một khu vực phòng đợi nhỏ gần bàn của cô ta -
chỉ là một chiếc ghế bành, bàn cà phê và vài cái ghế đẩu. Tôi tìm quanh
đó, nhưng không thấy gì cả. Không có chìa khóa.
Vậy hẳn cũng không
phải quá vô lý khi giám đốc tài chính của công ty có thể thực sự áp
dụng một hai biện pháp an ninh đề phòng gì đó, khiến người ta khó đột
nhập vào được văn phòng của mình. Phải khâm phục điều đó, đúng không?
Sau
mười phút căng thẳng đến nghẹt thở tìm đủ mọi nơi, tôi quyết định không
nhất định phải như thế, khi đột nhiên tôi nhớ ra một chi tiết nhỏ kỳ
quặc về văn phòng mới của mình. Giống như tất cả các văn phòng khác trên
tầng điều hành, nó được trang bị máy phát hiện chuyển động, không an
ninh cao như tên nó gợi đến. Nó thực ra là một thiết bị an toàn thông
thường trong những văn phòng cấp cao - một cách để chắc chắn là không
bao giờ có ai bị khóa lại trong văn phòng của chính mình. Chỉ cần còn có
chuyển động trong phòng, cửa sẽ không khóa lại. (Thêm bằng chứng là các
văn phòng trên tầng bảy thực sự hơi nhiều bình đẳng hơn bình thường một
chút.)
Nếu tôi nhanh tay, tôi có thể lợi dụng điều này...
Cửa
vào văn phòng của Camilletti làm bằng gỗ gụ cứng, bóng loáng, nặng nề.
Không có khoảng trống giữa cửa và tấm thảm tuyết dày; tôi thậm chí không
thể đẩy một mẩu giấy trượt vào dưới nó. Điều này khiến chuyện trở nên
hơi phức tạp một tí - nhưng không phải là bất khả thi.
Tôi cần một
cái ghế để đứng lên, không phải ghế của nhân viên hành chính, nó có thể
trượt trên bánh xe nhỏ và không vững chắc. Tôi tìm thấy một cái ghế có
lưng ở khu vực phòng đợi và mang nó tới sát tường kính của văn phòng
Camilletti. Rồi tôi quay lại khu vực phòng đợi. Trải ra trên bàn cà phê
là đủ loại báo và tạp chí thông thường - tờ Thời báo Tài chính, tờ Tổ chức Đầu tư, CFO, Forbes, Fortune, Kinh doanh 2.0, Barron...
Barron. Phải.
Nó được đấy. Nó mang kích cỡ, hình dáng và trọng lượng của một tờ báo
khổ nhỏ. Tôi cầm lấy nó, rồi - nhìn quanh một lần nữa để chắc chắn rằng
mình không bị bắt gặp làm điều mà mình thậm chí không thể bắt đầu giải thích nổi - tôi trèo lên ghế và đẩy một tấm trần cách âm vuông lên.
Tôi
với vào khoảng trống phía trên trần, vào cái chỗ tối tăm bụi bặm đầy
kẹt những dây, cáp và đủ thứ hổ lốn, tìm tấm trần tiếp theo, tấm nằm
thẳng phía trên văn phòng của Camilletti, và nâng cả nó lên, đặt nó lên
khung lưới sắt.
Cầm lấy tờ Barron, tôi với ra, chầm chậm
hạ nó xuống, huơ huơ. Tôi hạ nó thấp nhất có thể, vẫy mạnh thêm một chút
- nhưng không có gì xảy ra. Có lẽ máy phát hiện chuyển động không với
lên được cao đến thế. Cuối cùng, tôi đứng trên đầu ngón chân, gấp khuỷu
tay lại càng chặt càng tốt, và xoay xở hạ được tờ báo thêm độ một gang,
vẫy loạn xạ cho tới khi tôi thực sự bắt đầu bị căng vài cơ bắp.
Và tôi nghe thấy một tiếng cách.
Một tiếng cách nhẹ, không nhầm lẫn vào đâu được.
Kéo tờ Barron về, tôi đặt lại tấm trần cách âm khít khao vào đúng chỗ. Rồi tôi leo xuống, đặt ghế về chỗ cũ.
Và thử vặn núm cửa phòng Camilletti.
Cửa mở ra.
Trong
túi đi làm, tôi mang theo vài dụng cụ, bao gồm cả một đèn flash hiệu
Mag-Lite. Tôi lập tức kéo mành cửa Venetian, đóng cửa lại, rồi bật luồng
ánh sáng mạnh lên.
Văn phòng của Camilletti cũng thiếu tính cá
nhân như văn phòng của bất cứ ai khác - cũng những tấm ảnh gia đình
trong khung như phổ biến, thẻ đồng và giải thưởng, cũng hàng sách kinh
doanh cổ điển mà tất cả bọn họ đều giả vờ mình có đọc. Thực ra văn phòng
này khá là đáng thất vọng. Đây không phải là một phòng ở góc, không có
cửa sổ từ trần tới sàn như ở hãng Truyền thông Wyatt. Không có quang
cảnh gì cả. Tôi tự hỏi liệu Camilletti có ghét phải tiếp khách quan
trọng ở trong một văn phòng khiêm tốn như thế này không. Đây có thể là
phong cách của Goddard, nhưng nó chắc chắn không phải là của Camilletti.
Dù bủn xỉn hay không, hắn vẫn có vẻ phô trương. Tôi nghe nói là có một
khu tiếp khách xa hoa trên tầng mái của tòa nhà điều hành, Cánh A, nhưng
tôi không biết người nào đã từng được thấy nó. Có lẽ đó là nơi
Camilletti tiếp các ông to.
Máy tính của hắn vẫn để mở, nhưng khi
tôi gõ phím cách trên bàn phím màu đen hiện đại, và màn hình sáng lên,
tôi thấy dòng chữ NHẬP MẬT KHẨU, con trỏ nhấp nháy. Không có mật khẩu,
dĩ nhiên, tôi không thể vào các tập tin trong máy tính hắn được.
Nếu
hắn có viết mật khẩu xuống đâu đó, tôi rõ rành rành không tìm nổi nó -
trong ngăn kéo, dưới bàn phím, dán vào đằng sau cái màn hình phẳng to
đùng. Không nơi nào cả. Chỉ để cho có, tôi gõ tên tài khoản của hắn
(PCamilletti@trionsystems.com) và rồi cũng mật khẩu đó, PCamilletti.
Không được. Hắn thận trọng hơn thế, và sau vài nỗ lực, tôi bỏ cuộc.
Tôi
phải lấy mật khẩu của hắn theo cách cũ: lén lút thôi. Tôi đoán là hắn
có lẽ sẽ không để ý nếu tôi đổi dây cáp nối giữa bàn phím và đầu CPU với
một con KeyGhost. Và tôi làm vậy.
Phải thừa nhận rằng ở trong văn
phòng của Camilletti, tôi thậm chí còn căng thẳng hơn ở trong văn phòng
của Nora. Bạn sẽ nghĩ đến giờ tôi hẳn phải là dân chuyên về đột nhập
văn phòng, nhưng không phải như vậy, và văn phòng của Camilletti có một
rung cảm khiến tôi sợ vãi tè ra quần. Bản thân con người này đã đáng sợ,
và hậu quả nếu như bị bắt quả tang thật không dám nghĩ tới. Hơn nữa tôi
phải dự đoán rằng các biện pháp an ninh phòng ngừa trong các văn phòng ở
mức điều hành tinh vi hơn phần còn lại của Trion. Họ phải làm
như vậy. Dĩ nhiên tôi đã được đào tạo để đánh bại phần lớn các phương
thức an ninh thông thường. Nhưng luôn có những hệ thống phát hiện vô
hình mà không đổ chuông hay chớp đèn báo động. Khả năng đó khiến tôi sợ
hãi nhất.
Tôi nhìn quanh, mò mẫm tìm cảm hứng. Vì lý do nào đó văn
phòng trông có vẻ ngăn nắp và rộng rãi hơn các văn phòng tôi từng vào ở
Trion. Rồi tôi nhận ra vì sao: không có các tủ hồ sơ trong này. Vì thế mà nó trông thoáng đãng như vậy. Chà, vậy thì các hồ sơ của hắn ở đâu.
Khi
cuối cùng cũng đoán ra nơi chúng phải để, tôi cảm thấy như một thằng
ngốc. Dĩ nhiên. Chúng không có ở đây, bởi vì không có chỗ, và chúng
không có ở chỗ nhân viên hành chính của hắn, bởi nó quá lộ liễu với mọi
người, không đủ bảo mật.
Chúng phải ở trong phòng đằng sau. Giống
như Goddard, mỗi điều hành viên cấp cao nhất ở Trion đều có văn phòng
đôi, một phòng họp đằng sau cùng cỡ với đằng trước. Đó là cách Trion
lách qua vấn đề bình-đẳng-về-không-gian-văn-phòng. Đó, văn phòng của ai
cũng cùng cỡ, chỉ có điều những gã trên đỉnh có hai cái mà thôi.
Cửa
vào phòng họp bị khóa. Tôi chiếu đèn Mag-Lite quanh phòng, thấy một cái
máy sao chép nhỏ, để ý rằng mỗi mặt tường đều xếp những tủ hồ sơ gỗ gụ.
Ở giữa là một chiếc bàn tròn, như của Goddard nhưng nhỏ hơn. Từng ngăn
kéo được dán nhãn tỉ mỉ như dưới bàn tay của một kiến trúc sư. Hầu hết
đều đựng các bản ghi về tài chính và kế toán, có lẽ sẽ có thông tin hay
miễn là tôi biết phải tìm ở đâu.
Nhưng khi tôi thấy ngăn kéo dán
nhãn sự PHÁT TRIỂN CỦA TẬP ĐOÀN TRION, tôi mất hết hứng thú với những
thứ khác. Sự phát triển của tập đoàn chỉ là một từ chuyên ngành trong
kinh doanh chỉ về sát nhập và mua lại. Trion khét tiếng vì việc nuốt
trọn những công ty mới, hoặc cỡ nhỏ và trung. Trong những năm tăng
trưởng mạnh cuối thập niên chín mươi của thế kỷ hai mươi thì nhiều hơn
bây giờ, nhưng họ vẫn mua lại vài công ty một năm. Tôi đoán những hồ sơ
này ở đây vì Camilletti giám sát các vụ mua lại, tập trung chủ yếu vào
vấn đề chi phí, tiềm năng đầu tư, những chuyện như thế.
Và nếu
Wyatt đoán đúng rằng Dự án AURORA là tập hợp của một loạt công ty Trion
đã bí mật mua lại thì câu trả lời cho điều kỳ bí AURORA hẳn phải ở đây.
Tủ
cũng không khóa, lại một may mắn nữa. Tôi đoán đó là vì nếu bạn không
thể vào được văn phòng sau của Camilletti, bạn thậm chí sẽ không đến gần
được các tủ hồ sơ, vì vậy khóa chúng chỉ thêm phiền phức không cần
thiết.
Có cả đống hồ sơ ở đây, về những công ty mà Trion hoặc mua
lại cả gói, mua một phần, hoặc tìm hiểu kỹ và quyết định không dính líu
vào. Tôi nhận ra một số tên công ty, nhưng phần lớn thì không. Tôi xem
lướt qua một tập hồ sơ về mỗi công ty để cố đoán ra chúng là về cái gì.
Đây là một công việc khá chậm chạp, và tôi thậm chí không biết mình đang
tìm gì, thật đấy. Làm thế quái nào mà tôi biết được liệu một công ty
nhỏ mới thành lập nào đó có phải là một phần của AURORA không, khi tôi
thậm chí còn không biết AURORA là cái gì? Có vẻ thật bất khả thi.
Nhưng rồi rắc rối của tôi được giải quyết.
Một trong những ngăn kéo về sự phát triển của tập đoàn dán nhãn DỰ ÁN AURORA.
Và nó đấy. Đơn giản như vậy thôi.
51
Thở
gấp, tôi mở ngăn kéo ra. Tôi đã phần nào nghĩ ngăn kéo sẽ trống trơn,
như những hồ sơ AURORA trong bộ phận nhân sự. Nhưng nó không trống. Nó
xếp chật các tập hồ sơ, được đánh mã màu theo một cách nào đó tôi không
hiểu, từng tập được đóng dấu TRION TUYỆT MẬT. Đây rõ ràng là thông tin
tốt.
Theo những gì tôi thấy, những hồ sơ này là về vài công ty mới
thành lập - hai cái ở Thung lũng Silicon, California và một vài công ty
khác ở Cambridge, Massachusetts - được Trion gần đây mua lại với những
điều khoản về bảo mật tuyệt đối. “Hoạt động kín,” hồ sơ ghi vậy.
Tôi biết đây là chuyện lớn, chuyện gì đó quan trọng, và mạch tôi thực sự đập loạn lên. Từng trang được
đóng dấu BÍ MẬT hoặc THÔNG TIN MẬT. Thậm chí ngay trong những hồ sơ
tuyệt mật, được giữ ở văn phòng khóa kín của Giám đốc Tài chính như thế
này, ngôn ngữ sử dụng vẫn khó hiểu, cứ úp úp mở mở. Có những câu, những
đoạn như “Đề xuất mua lại sớm nhất” và “Phải giữ dưới tầm ra đa”.
Vậy là bí mật của AURORA nằm ở đây.
Tôi
thật sự không hiểu được dù có miệt mài với những hồ sơ như thế nào. Một
công ty dường như đã phát triển được giải pháp để kết nối các thành
phần điện tử với quang học trong một mạch tích hợp. Tôi không biết thế
có nghĩa là gì. Có ghi chú nói rằng công ty đó đã giải quyết được vấn đề
“hiệu suất thấp của vật liệu bán dẫn”.
Một công ty nữa đã tìm ra cách để sản xuất hàng loạt mạch lượng tử. Được rồi, nhưng thế nghĩa là gì chứ? Một vài công ty khác hoạt động trong ngành phần mềm, nhưng tôi chẳng có khái niệm họ làm gì.
Một
công ty gọi là Liên hợp Delphos. - công ty này thực sự lại tỏ ra thú vị
- đã xây dựng được quá trình chế luyện và sản xuất một hợp chất hóa học
nào đó gọi là inđi phốt phua, tạo thành bởi “tinh thể nhị phân từ
nguyên tố kim loại và phi kim loại”, dù nó nghĩa là gì đi nữa. Thứ này
có “thuộc tính hấp thụ và truyền dẫn quang học độc nhất vô nhị”, theo
bản tường trình chi tiết của nó. Hình như nó được sử dụng để chế tạo một
loại laser nào đó. Theo những gì tôi thấy, Liên hợp Delphos đã thao
túng thị trường inđi phốt phua. Tôi chắc chắn rằng những đầu óc khá khẩm
hơn tôi sẽ đoán ra được một lượng lớn inđi phốt phua thì làm nên được
chuyện gì. Ý là, một người thì cần đến bao nhiêu laser cơ chứ?
Nhưng
đây mới đến phần thú vị: Hồ sơ về Delphos được đóng dấu CHỜ MUA LẠI.
Như vậy Trion đang thương thuyết để mua công ty này. Hồ sơ đầy thông tin
về tài chính, chỉ là một đám mờ ảo trước mắt tôi. Có một tài liệu mười
hay mười hai trang, một bản điều khoản chuẩn bị cho việc Trion mua lại
Delphos. Dòng cuối hình như là Trion ra giá năm trăm triệu đô để
mua công ty. Có vẻ như các viên chức của công ty, một đám nhà khoa học
nghiên cứu từ Palo Alto, cũng như một hãng đầu tư vốn mạo hiểm đặt tại
London sở hữu phần lớn công ty này, đã đồng ý với các điều khoản. Phải
rồi, nửa tỷ đô hẳn có thể bôi trơn mọi chuyện. Họ chỉ còn mỗi việc tô
thêm dấu chấm trên chữ i mà thôi. Người ta đã tạm lên kế hoạch cho ra một thông báo trong vòng một tuần tới tính từ bây giờ.
Nhưng
tôi phải làm thế nào để sao chép những hồ sơ này? Sẽ lâu vô cùng - hàng
tiếng đứng trước máy sao chép. Lúc này đã là sáu giờ sáng, và nếu Jock
Goddard tới làm vào bảy giờ ba mươi, bạn nên tin rằng Paul Camilletti
đến trước lúc đó. Vì vậy tôi thật sự phải cuốn xéo khỏi đây. Tôi không
có thời gian để sao chép.
Tôi không thể nghĩ ra cách nào khác ngoài lấy chúng. Có lẽ chuyển vài hồ sơ từ đâu đó vào lấp đầy khoảng trống, và rồi...
Và rồi làm phát sinh đủ loại báo động ngay khi Camilletti hay trợ lý của hắn cố tìm hồ sơ AURORA.
Không. Ý tồi.
Thay
vì thế, tôi lấy ra từ tám hồ sơ công ty, mỗi tập một hai trang quan
trọng, bật máy phô tô lên và sao chép lại chúng. Trong chưa đầy năm
phút, tôi đặt lại các trang giấy vào cặp hồ sơ và cho bản sao vào túi
mình.
Tôi đã xong việc, và đến lúc cuốn gói khỏi đây rồi. Nâng một
thanh trên tấm mành che cửa sổ của văn phòng phía trước lên, tôi ghé
mắt nhìn ra để chắc chắn không có người đến.
Vào sáu giờ mười lăm
phút sáng, tôi đã trở lại văn phòng của mình. Suốt cả ngày hôm đó tôi sẽ
phải mang theo mình những hồ sơ AURORA tuyệt mật này, nhưng như thế còn
tốt hơn bỏ chúng lại ngăn kéo tủ với nguy cơ bị Jocelyn phát hiện ra.
Tôi biết nghe có vẻ hoang tưởng, nhưng tôi phải dự trù rằng Jocelyn có
thể sẽ lục lọi ngăn kéo tủ của tôi. Có thể chị ta là trợ lý hành chính
“của tôi”, nhưng chi phiếu lương của chị ta là do Hệ thống Trion trả,
không phải tôi.
Vào đúng bảy giờ, Jocelyn đến. Chị ngó đầu vào văn
phòng tôi, nhướn mày và nói, “Chào buổi sáng,” với giọng điệu ngạc
nhiên và đầy hàm ý.
“Chào buổi sáng, Jocelyn.”
“Anh đến sớm thật.”
“Ờ,” tôi lẩm bẩm.
Rồi chị nheo mắt. “Anh... anh tới đây một lúc rồi cơ à?”
Tôi thở hắt ra. “Chị không biết thì tốt hơn,” tôi nói.
52
Bài
thuyết trình lớn của tôi cho Goddard cứ bị hoãn lên hoãn xuống. Nó đáng
lẽ ra phải vào tám giờ ba mươi, nhưng mười phút trước đó, tôi nhận được
tin nhắn của Flo trên InstaMail bảo rằng buổi họp giữa đội ngũ điều
hành của Jock được ưu tiên trước nên phải lùi lại chín giờ. Rồi lại một
thông báo tức thời nữa từ Flo: cuộc họp vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc,
lùi lại tới chín giờ ba mươi.
Tôi đoán tất cả các quản lý cấp cao
đều đang đấu đá nhau xem ai sẽ phải chịu gánh nặng của cuộc cắt giảm. Có
lẽ tất cả bọn họ đều ủng hộ cắt giảm nhân sự, theo một cảm nhận chung
nào đó, nhưng không phải ở bộ phận của mình. Trion cũng không khác gì
hơn so với các tập đoàn khác: càng nhiều người dưới bạn trên sơ đồ tổ
chức, bạn càng có nhiều quyền lực. Không ai muốn mất nhân số.
Tôi
đói lả, vì vậy tôi nhấm từng khúc một thanh protein. Tôi cũng thấy kiệt
sức, nhưng tôi quá căng thẳng nên không thể làm gì khác ngoài việc tiếp
tục hoàn thiện bài thuyết trình PowerPoint của mình, làm nó càng mượt mà
hơn nữa. Tôi chèn vào giữa các slide hiệu ứng mờ dần. Tôi nhét vào hình
người que đang gãi đầu với một dấu hỏi trên đầu, chỉ để đem lại tiếng
cười thư giãn. Tôi cứ tỉa dần từ ngữ: tôi đã đọc ở đâu đó về Quy tắc
“con số Bảy” - không có nhiều hơn bảy từ trên một dòng và bảy dòng hay
gạch đầu dòng trên một trang. Hay đó là Quy tắc “con số Năm” nhỉ? Chắc
bạn cũng đã nghe thấy rồi[19].
Tôi đoán Jock có thể sẽ hơi ít tính kiên nhẫn và sự tập trung, xét
trong hoàn cảnh ông ta đang phải trải qua, vì vậy tôi cứ tiếp tục làm nó
ngắn hơn, súc tích hơn.
[19] Adam nhớ nhầm, đúng ra phải là Quy tắc “con số Sáu”.
Càng
đợi, tôi càng căng thẳng, và bài trình chiếu PowerPoint của tôi càng
trở nên tối giản. Nhưng hiệu quả đặc biệt càng lúc càng đáng nể hơn. Tôi
còn mò ra làm thế nào để biểu đồ thanh co vào và mở ra trước mắt.
Goddard sẽ ấn tượng đây.
Cuối cùng, vào mười một giờ ba mươi, tôi
nhận được thông báo từ Flo bảo rằng giờ tôi có thể đến Trung tâm Chỉ thị
Điều hành, vì buổi họp đang đi đến hồi kết.
Mọi người đang đi ra
khi tôi tới đó. Tôi nhận ra được vài người - Jim Colvin, Giám đốc Điều
hành; Tom Lundgren; Jim Sperling, đứng đầu bộ phận Nhân sự; một vài phụ
nữ dáng vẻ quyền thế. Không ai có vẻ vui mừng gì cho cam. Goddard bị một
đám người huyên náo vây quanh, tất cả đều cao hơn ông ta. Trước tôi
không thực sự nhận ra ông nhỏ con như thế nào. ông trông cũng thật tệ -
mắt đỏ ngầu, viền đỏ, quầng dưới mắt thậm chí còn to hơn mọi khi.
Camilletti đứng cạnh ông, và họ dường như đang tranh cãi. Tôi chỉ nghe
được vài đoạn.
“... Cần nâng sự chuyển hóa của nơi này lên,” Camilletti nói.
“... Đủ loại phản đối, đúng là mất khí thế,” Goddard lẩm bẩm.
“Cách tốt nhất để xử lý phản đối là một cái rìu đẫm máu,” Camilletti nói.
“Thường
thì tôi thích thuyết phục đơn thuần kiểu cổ điển hơn,” Goddard mệt mỏi.
Những người khác đứng thành vòng quanh hai người, xem họ tranh cãi.
“Giống
như Al Capone đã nói, ông làm được nhiều việc bằng lời tử tế và một
khẩu súng, hơn là chỉ bằng lời tử tế suông,” Camilletti nói. Hắn cười.
“Tôi chắc tiếp theo anh sẽ bảo tôi anh phải đập trứng để làm trứng ốp lết.”
“Lúc nào ông cũng đi trước tôi một bước,” Camilletti nói, vỗ vào lưng Goddard khi hắn bước đi.
Trong lúc đó, tôi bận rộn cắm máy tính xách tay vào máy chiếu gắn với bàn họp. Tôi bấm nút để hạ mành bằng điện.
Giờ chỉ còn Goddard và tôi trong phòng tối. “Chúng ta có gì đây - nhạc kịch à?”
“Xin lỗi, chỉ là một bài thuyết trình thôi,” tôi nói.
“Tôi
không chắc tắt đèn là ý hay đâu. Tôi rất có thể sẽ ngủ gục ngay mất,”
Goddard nói. “Tôi đã thức gần như cả đêm, khổ sở vì tất cả chuyện vớ vẩn
này. Tôi coi vụ cắt giảm này là một thất bại cá nhân.”
“Không
phải đâu,” tôi nói, rồi thầm rúm người lại. Tôi là ai mà cố an ủi Tổng
Giám đốc Điều hành chứ? “Dù sao,” tôi nhanh chóng bổ sung, “tôi sẽ nói
ngắn gọn thôi.”
Tôi bắt đầu với một hình ảnh động rất hay về Trion
Maestro, tất cả các mẩu ảnh bay vào từ ngoài màn hình rồi khớp hoàn hảo
với nhau. Sau đó là hình người gãi đầu với dấu hỏi chấm trên đầu.
Tôi
nói, “Điều duy nhất nguy hiểm hơn việc ở trong thị trường điện tử tiêu
dùng thời nay là hoàn toàn không ở trong thị trường này.” Giờ chúng tôi
đang ở trong một chiếc xe đua Công thức Một lao với tốc độ nhanh hơn ánh
sáng. “Bởi nếu anh không lái chiếc xe thì anh có thể sẽ bị chẹt qua.”
Rồi một slide trôi lên, có ghi ĐIỆN TỬ TIÊU DÙNG TRION - THIỆN, ÁC, TÀ.
“Adam.”
Tôi quay lại. “Vâng?”
“Chuyện quái quỷ gì thế này?”
Mồ hôi túa ra sau gáy tôi. “Đó chỉ là phần mở đầu,” tôi nói. Rõ ràng là quá đà. “Giờ chúng ta sẽ vào phần chính.”
“Anh có nói cho Flo biết điều anh định làm không, thứ này gọi là cái quỷ gì thế, Power - PowerPoint?”
“Không...”
Ông đứng dậy, đi tới chỗ công tắc đèn và bật đèn lên. “Chị ta lẽ ra phải cho anh biết - tôi ghét thứ tào lao đó.”
Mặt tôi nóng bừng. “Tôi xin lỗi, không ai nói gì cả.”
“Chúa
ạ, Adam, anh là một thanh niên thông minh, sáng tạo, suy nghĩ độc đáo.
Anh nghĩ tôi muốn anh lãng phí thời gian cố quyết định xem nên dùng kiểu
chữ Arial cỡ mười tám hay Times Roman cỡ hai mươi tư à, vì Chúa? Thế
anh nói luôn cho tôi biết anh nghĩ gì thì sao nhỉ? Tôi không phải thằng
nhóc. Tôi không cần được bón cho món bột lúa mì chết tiệt này.”
“Tôi xin lỗi...” tôi lại lặp lại.
“Không, tôi xin lỗi. Lẽ ra tôi không nên gắt với anh. Hạ đường huyết, có lẽ vậy. Đến giờ ăn trưa rồi, và tôi chết đói mất.”
“Tôi có thể xuống lấy cho chúng ta ít bánh sandwich.”
“Tôi có ý hay hơn,” Goddard nói.