Hạt giống tâm hồn (Tập 9) - Phần 4
Tình yêu của một người anh
Khi lắng nghe bằng cả
trái tim, ta sẽ thấy, sâu thẳm bên trong những con người tưởng chừng mạnh mẽ
lại là rất nhiều xung đột và mâu thuẫn gay gắt. Nhưng thay vì để bản thân bị
chôn vùi bởi những điều thấp hèn, họ biết hướng cuộc sống của mình tới những
giá trị quan trọng rồi tập trung và nỗ lực hết mình vì chúng.
- Harry Emerson Fosdick
Antonio Seay ngồi cạnh
giường, thẫn thờ lật tới lật lui bức ảnh trong tay. Bức chân dung này được chụp
một vài năm trước khi cậu tới phía bắc để học đại học. Cậu khẽ chạm lên bề mặt
bức ảnh rồi đưa tay lau đi lớp bụi mỏng bám trên đó.
“Quên quá khứ đi” - cậu
tự bảo mình, rồi buông tay cho bức ảnh rơi xuống tấm ra trải giường màu xanh.
Cậu quay sang bức thư trong ngày, một khối lượng lớn hóa đơn và giấy tờ mà các
viên chức yêu cầu cậu phải hoàn tất trước khi họ cân nhác việc có nên trì hoán
thanh toán số tiền nợ lên tới 20.000 đô la trong thời gian học đại học của cậu
hay không. Cậu nhìn và ném mấy phong thư xuống phía cuối giường rồi thả mình
xuống gối, mắt ngước nhìn lên trần nhà.
Hai người bạn thân ở đại
học vừa gọi điện cho cậu. Họ đã có việc làm ổn định và khoản thu nhập béo bở.
Một người vừa kết hôn. Antonio cũng mong muốn những thứ đó. Cậu từng dự định sẽ
học trường luật hoặc trở thành một cảnh sát. Nhưng tất cả chỉ là dự định. Giờ đây,
đã 25 tuổi nhưng cậu đang mắc kẹt trong một dự án thuộc khu dân cư xiêu vẹo ở
Miami. Gián chạy khắp bếp còn đồ đạc thì có số tuổi nhiều hơn tuổi của cậu. Sàn
nhà, và thậm chí cả sàn phòng tắm đều lót bằng loại gạch cũ kỹ như một minh
chứng cho cuộc sống khốn khó trong nhiều thập kỷ.
Antonio liếc nhìn hình
ảnh người thanh niên tràn trẻ hy vọng trong tấm chân dung. Sau đó cậu xoay chân
xuống giường rồi bước ra khỏi ngôi nhà chẳng khác gì cái nhà kho đổ nát rồi mất
hút vào bóng đêm.
Tiếng nhạc rap
“thump-thump-thump” vang lên từ đâu đó trong bóng tối. Trên đại lộ, ai đó đang
cất tiếng chửi, xen lẫn là tiếng lốp rin rít xiết xuống mặt đường. Antonio đi
xuống con đường mòn ngập rác rồi hướng về nhà mình - nơi cậu vẫn đang cầu
nguyện từng giây từng phút đề thoát khỏi đó. Cậu nhắm mắt lại và từ vô thức,
cậu nghe thấy tiếng mẹ. Bà muốn cậu chở bà tới một cửa tiệm. Đó là điểm khởi
đầu cho chuyến hành trình của cậu - chuyến đi tới cửa tiệm vào bốn năm trước.
Đó là một buổi chiều
tháng 8 nóng nực năm 2002, Antonio kéo chiếc cửa xe ô tô xuống rồi đánh xe khỏi
lề đường. Cậu khó mà nhận ra khu láng giềng hoang vắng mà cậu cùng bốn người em
trai em gái đã sống cùng mẹ Dorothea. Tâm trí cậu còn mải miết với những dự
định cho tương lai.
Antonio là người đầu
tiên trong gia đình được tới trường đại học và trong mười tháng, cậu đã tốt
nghiệp hai chứng chỉ ở trường Thánh Peter tại New Jersey: quản trị kinh doanh
và tội phạm học.
Cậu thoáng nhìn mẹ, bà
đang ngồi lặng lẽ ở chiếc ghế phía trước, mắt hướng ra cửa sổ. Trong một gia
đình thiếu váng vai trò trụ cột của người cha, bà là động lực, là sức mạnh của
cậu. Bà không bao giờ than phiền. Tất cả mong muốn của bà là con cái đủ thông
minh để tránh xa vết xe đổ của bà.
- Con yêu, mẹ có chuyện
muốn nói với con.
- Bà cất giọng dịu dàng.
Antonio tỏ ra chăm chú.
Khi mẹ cậu có dáng điệu như thế nghĩa là có chuyện gì đó rất nghiêm trọng.
- Mẹ biết, lẻ ra mẹ nên
nói với con từ trước, nhưng mẹ thực sự không biết phải nói với con thế nào. -
Nói rồi, bà dừng lại giây lát như cố gạn lọc từ ngữ. - Mẹ muốn nói với con, như
một người mẹ nói với con trai, rằng mẹ đã nhiễm HIV.
Antonio chết lặng. Hai
bàn tay cậu nắm chặt vô lăng.
- Con yêu, mẹ chẳng còn
sống được bao lâu nữa...
Cậu trở lại trường đại
học, những tuần sau đó, cậu và mẹ đều trò chuyện điện thoại với nhau. Antonio
được biết, người đàn ông mà mẹ hết lòng tin tưởng lại chính là người đã truyền
cho mẹ căn bệnh quái ác này. Mãi đến khi bà bị ốm, các xét nghiệm cho thấy vi
rút đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Dù vậy, bà vẫn sống khi con trai học hết
khóa học và trở về nhà vào tháng 5. Hai tháng sau đó, bà đồng ý nhập viện và ngay
ngày hôm sau, người ta phải chuyển bà đến phòng dành cho những bệnh nhân hấp
hối.
Cái chết của bà làm đảo
lộn cuộc sống cả gia đình. Antonio có thể trốn tránh nếu cậu bỏ lại sau lưng em
gái Shronda 15 tuổi, Keyera 13 tuổi và hai đứa em trai song sinh 14 tuổi tên là
Torrian và Corrian.
Cô dì chú bác sống ở gần
đó, một số người thân khác thì sống ở bang khác. Dù vậy, chẳng mấy ai quan tâm
tới anh em cậu. Các em cậu được chính quyền bảo trợ và gửi tới nhà nuôi dưỡng
đặt dưới sự giám sát của Phòng Gia đình và Trẻ em Florida.
Antonio nảy ra một ý
tưởng điên rồ rằng điều gì sẽ xảy ra nếu cậu giành quyền giám hộ các em? Cậu
chưa từng nghe về điều này nhưng tại sao nó lại không thể xảy ra chứ? Cậu kể
cho bạn bè nghe về dự định của mình. Một số người tỏ ra thán phục trước sự can
đảm của cậu, số khác lại khuyên cậu nên suy nghĩ kỹ về quyết định của mình vì
khi đã quyết định thì sẽ không thể rút lại được nữa. Cậu hiểu các em thực sự là
một gánh nặng. Cậu sẽ phải từ bỏ ước mơ về một tương lai tươi sáng trong tám
năm trước khi đứa em nhỏ nhất bước sang tuổi 21. Một ngôi nhà trong khu phố
xinh đẹp ư? Quên chuyện ấy đi. Trường luật sao? Không thể. Cậu biết, cậu có thể
nhận được sự giúp đỡ của chính phủ nhưng lúc đó, cậu vẫn chưa có việc làm và
cũng không có cách nào để nuôi bốn đứa em, thậm chí là nuôi chính bản thân
mình.
Có lẽ sẽ tốt hơn cho
từng thành viên nếu tạm thời sống tách nhau ra. Các em cậu có thể có một khởi
đầu mới mẻ. Lựa chọn đã quá rõ ràng - từ bỏ chúng hay từ bỏ ước mơ của chính
mình. Cậu cầu nguyện rằng mình đã làm đúng.
Một vị luật sư tư vấn
pháp lý đã giúp cậu chuẩn bị hầu tòa. Bà đặt các câu hỏi rồi hoàn tất thủ tục
giấy tờ. Antonio đến văn phòng vị luật sư ấy vào tháng 8 năm 2003, đúng cái
ngày mà trước đó tròn một năm, cậu nhận được tin dữ từ mẹ.
Vài giờ sau đó, Antonio
tập hợp các em lại trong phòng khách và nói rõ ràng về tương lai. “Chúng ta cần
mạnh mẽ lên”. Cậu nói trong nước mắt. “Mẹ mất không có nghĩa là tất cả đều chấm
dứt. Chúng ta vẫn là một gia đình, vẫn phải sống và yêu thương nhau dù bất cứ
chuyện gì xảy ra. Chúng ta cần ở bên nhau”.
Một tuần sau tang lễ,
khi những người tới dự tang không còn mang tới những bữa ăn cho gia đình,
Antonio phải tự lực cánh sinh. Cậu mong chờ tới ngày ra tòa và hy vọng rằng
thẩm phán sẽ không cho cậu là một thằng ngốc mà là một người đàn ông trưởng
thành, đủ năng lực gánh vác việc gia đình và đem lại những điều tốt đẹp nhất
cho các em.
Tại phiên tòa, Antonio
và các em đang đứng trước mặt vị thẩm phán. Ông nói:
- Cậu còn trẻ quá! Cậu
bao nhiêu tuổi rồi?
- Hai mươi ba tuổi. -
Antonio đáp.
- Đây là một trách nhiệm
nặng nề, cậu hiểu chứ? Không phải người đàn ông nào cũng có thể chăm sóc chu
đáo cho con cái mình, huống chi là chăm sóc đến bốn đứa em như cậu.
Vị thám phán xem xét kỹ
lưỡng giấy tờ do vị tư vấn pháp lý cung cấp.
- Tôi rất cảm phục cậu.
- Vị thẩm phán nói trước khi quay sang các em của cậu. - Các cháu có muốn sống
cùng anh trai mình hay không?
- Có ạ! - Bốn đứa trẻ
đồng thanh.
Năm phút sau, phiên tòa
kết thúc. Antonio ký những giấy tờ cần thiết rồi chở các em về nhà. Một khởi
đầu mới đang chờ đón họ.
- Em làm bài tập chưa
đấy? - Antonio hỏi.
- Không có. - Keyera nói.
Antonio trợn mắt nhìn. “ý em là, hôm nay em không có bài tập về nhà. ” - Cô bé
nhanh nhảu bào chữa.
Antonio tìm Corrian để
hỏi em trai về tình hình học tập ở trường.
- Chiều nay em phải đi
bộ về! - Cậu bé làu bàu. - Em không có tiền đi xe buýt vì em phải trả 15 đô la
cho chiếc cặp sách mà em bị mất. Em vẫn còn thiếu tiền. Làm sao bây giờ?
Antonio chỉ tay, nghiêm
giọng. “Đó là trách nhiệm của em. Em làm mất, vậy thì tại sao anh phải mua đền
cho em. Nếu không có tiền đi xe buýt thì em hãy đi bộ đi. Mỗi bước đi sẽ dạy em
phải cẩn thận hơn
Antonio quay lưng bước
đi để chắc chắn rằng hai đứa em không thấy cậu đang mỉm cười. Cậu vẫn còn nhớ
mình đã ngây ngô thế nào khi lần đầu tiên đứng ra lo cho gia đinh. Cậu muốn các
em yêu quý mình và không đưa ra nhiều yêu cầu đến thế. Nhưng cuộc sống ngày
càng khó khăn. Thành tích học tập trượt dốc thảm hại, bài tập không hoàn thành
và không ai giúp việc nhà. Vì thế, một buổi tối, cậu đóng cửa phòng rồi ngồi
suy nghĩ về các em, cứ như thể cậu là một ông chủ máu lạnh được gửi đến để giúp
đỡ một công ty đang trên bờ vực phá sản.
Điểm số của Shronda rất
tệ vì không có ai thúc ép con bé học hành. Corrían là một đứa trẻ chỉ biết phục
tùng vì bạn bè thường xuyên chèn ép nó. Trong khi đó, đứa em sinh đôi của nó,
Torrian, lại thường có thái độ lén lén lút lút. Keyera thì suốt ngày lo lắng và
thiếu niềm tin vào bản thân.
Một buổi tối, Antonio
tập hợp các em lại. Mỗi đứa trẻ tìm một chỗ ngồi trên chiếc ghế xô-pha hư nát
mà những người họ hàng đã cho. Cậu đứng trước các em, đi tới đi lui để đảm bảo
cả bốn đứa đều hiểu điều cậu muốn nói. “Chúng ta đang sống trong cuộc đời này
và chúng ta sẽ thành công. Điều đó sẽ khiến mẹ hạnh phúc. ” - Giọng Antonio vừa
ân cần vừa nghiêm nghị.
Kể từ đó, mỗi ngày cậu
đều viết bốn mảnh giấy, đính chúng lên tủ lạnh trong nhà bếp. “Các việc vặt
trong nhà, ” - Antonio giải thích. “Đó là những việc các em phải làm”. Bọn trẻ
than vãn rồi cũng phải cùng nhau vào bếp. Rửa bát, đổ rác, dọn phòng tám, nhà
bếp, phòng khách. Ai nấy đều có nhiệm vụ riêng và ngày thứ Bảy là ngày tất cả
cùng dọn dẹp.
Chúng kêu gào và chỉ
trích anh trai quá nghiêm khắc, nhưng Antonio chỉ muốn hâm nóng bầu không khí
gia đình. Cậu đặt ra “lệnh giới nghiêm”. Bài tập phải hoàn thành đúng giờ. Cậu
đọc thêm sách báo và tìm ra cách giải những bài toán mà mẹ cậu cũng không thể
làm. Và nếu mấy đứa em nghĩ rằng giáo viên của chúng quá khắt khe thì hãy đợi
đến khi gặp Antonio. Cậu lên kế hoạch đem trường học tại gia tới Miami.
Ngoài ra, cậu còn yêu
cầu mỗi đứa em phải tìm cho mình một niềm đam mê, rèn luyện một thói quen, một
môn thể thao hay bất cứ điều gì giúp chúng hiểu ra rằng thế giới rộng lớn hơn
rất nhiều so với khu dân cư này. Tương lai của chúng không nằm trên đường phố
hay la cà với mấy tay bán thuốc phiện đứng đầy rẫy khắp các góc phố. Chúng phải
đi học đại học, cũng như cậu trước kia.
Lúc đó, điểm số của
Shronda đã được cải thiện từ điểm C và D thành điểm A rồi lọt vào tốp danh dự
trong lớp. Kết quả tương tự đối với hai đứa em sinh đôi. Corrían chơi trong đội
bóng đá. Torrian nhận ra sở thích hát hò nên gia nhập đội hợp xướng ở trường.
Còn Keyera và người chị gái tham gia đội khiêu vũ tại nhà thờ.
Một ngày, hai đứa em gái
mang về nhà hai chiếc nhãn dính có hình viết rằng “Tôi là người cha tự hào có
đứa con là một sinh viên danh dự”. Hai chiếc nhãn được dán lên cửa trước để tất
cả mọi người trong xóm biết thành tích của những đứa trẻ đang sống trong ngôi
nhà ấy.
Tháng 12 năm 2003,
Antonio kiếm được việc làm. Cậu trở thành tư vấn tâm lý thiếu nhi cho một tổ
chức phi lợi nhuận và kiếm được khoản tiền lương 31.000 đô la một năm. Vì giờ
giấc làm việc đều đặn nên mỗi ngày Antonio đều có thể về nhà ăn cơm tối với các
em. Cậu còn thu xếp tới xem các trận bóng đá, buổi biểu diễn tại nhà thờ và
tham gia các cuộc họp phụ huynh của các em. Mỗi tháng, cậu đều gửi một khoản
tiền nho nhỏ vào tài khoản tiết kiệm của chúng.
Tối hôm nay, một buổi
tối nóng nực như bao tối khác ở Miami, tấm ảnh cũ và những hóa đơn vẫn nằm la
liệt trên giường, Antonio dừng lại giây lát trên vỉa hè ngập rác bên ngoài căn
nhà. Dưới đường, cậu trông thấy Corrían đang trò chuyện cùng mấy đứa bạn trai.
Quanh đó - trong một khu phố của riêng các bà mẹ - Antonio được biết đến là
người đàn ông khắt khe, không dung thứ cho bất cứ kẻ nào lảng vảng ra vào nhà
cậu mà không có lý do.
Khẽ liếc nhìn, cậu bắt
gặp chiếc xe Hummer màu đồng trị giá 50.000 đô la đang chầm chậm lướt xuống con
đường. “Ai thế nhỉ, sao mình không biết?” - Antonio thầm nói với mình. “Này,
kết thúc rồi vào nhà đi!” - Cậu gọi Corrían và mấy đứa bạn của nó.
Bắt chéo tay, Antonio
nhìn thảng về phía trước khi chiếc Hummer dừng lại. Mười lăm giây trôi qua
trước khi chiếc xe quay đầu về phía khu phố tại chỗ mấy tay môi giới thuốc
phiện. “Tất cả các em phải ở trong nhà.” Antonio nói.
- “Các em nghe không?”.
Tự hài lòng trong giây
lát, Antonio bước vào nhà và dừng lại trước phòng trưng bày. Tro cốt của mẹ
được đựng trong chiếc hộp màu trắng để trong phòng. “Mẹ, chúng con luôn yêu mẹ.
”
- Một đứa đã viết như
vậy bên ngoài chiếc hộp. Bức ảnh nhỏ của Dorothea Seay được dán phía trên đó
khiến bà như thể đang nhìn xuống dõi theo cả nhà.
Người đàn ông trụ cột
ngáp dài rồi lấy tay xoa mặt. Cậu cần phải dậy lúc 5 giờ rưỡi để đánh thức bọn
trẻ và cho chúng ăn sáng trước khi đưa chúng tới trường. Sau đó, cậu sẽ đến
phòng tư vấn. Trong giờ nghỉ trưa, cậu tạt ngang mấy cửa hàng thực phẩm để mua
đồ chuẩn bị cho bữa tối. Khó khăn nhưng tất cả rồi sẽ qua. Cậu ngồi ở mép
giường. Các hóa đơn vẫn còn đó bên cạnh bức ảnh về người thanh niên trẻ tuổi
tràn đầy ước mơ.
Cậu nghe thấy tiếng cười
trên bậc thang. “Mọi thứ vẫn ổn chứ?” - Antonio cất tiếng hỏi. “Không có vấn đề
gì đâu ạ. ” - Giọng đứa em trai đáp.
Mọi thứ đều ổn.
- Tom Hallman, Jr.
Niềm mong ước
Xin cho con thành cầu
nối an bình
Trong nơi hận thù con
gieo tình thương
Trong nơi dối gian con
gieo tha thứ
Trong nơi oan ức con đem
công bằng
Trong nơi nghi vấn con
đem niềm tin,
Trong nơi khó khăn con
mang hy vọng,
Trong nơi tăm tối con
gieo ánh sáng
Trong nơi buồn sầu con
gieo niềm vui
Lạy Chúa, thay vì an
nhàn phúc ban, xin cho con tự tay tìm kiếm
Không đợi an ủi, nhưng
đem ủi an
Không đợi yêu thương,
nhưng gieo nhân từ
Sẻ chia là đón nhận
Quên mình là được đền
đáp
Tha thứ là được thứ tha
Chết đi là được lên cõi
vĩnh hàng.
- Thánh Francis thành
Assisi
Cậu bé không thể đọc
Nếu bạn muốn người khác
hạnh phúc, hãy mở rộng tình thương. Nếu bạn muốn hạnh phúc, hãy chia sẻ lòng
trắc ẩn.
- Đạt Lai Lạt Ma
Tôi nhận ra Rommel không
biết đọc ngay từ buổi học đầu tiên tại trường tiểu học Mildred Green. Khi đó,
tôi đã ra một bài tập có tên “Viết về em”. Với trẻ nhỏ, đó là những câu hỏi vui
nhộn. (Chẳng hạn: “Nếu em có thể trở thành một hương vị kem bất kỳ thì em sẽ
chọn hương vị nào? Tại sao?”). Còn với tôi, đó là cơ hội để tôi hòa nhập với
các học sinh mới.
Sau khi dẫn cả lớp (gồm
27 học sinh lớp 4) tới một quán ăn tự phục vụ đề dùng bữa trưa, tôi trở lại
phòng và đọc chồng phiếu khảo sát. Tôi nhận ra lớp mình phụ trách có thật nhiều
“cầu thủ bóng đá”, “ca sĩ” và các “hộp đựng kem sô-cô-la vị bạc hà”. Nhưng bất
chợt tôi tìm thấy trong số đó một tờ khảo sát còn bỏ trống. Không ngày sinh,
không màu yêu thích, và dường như cậu bé Rommel Sales không muốn trở thành một
“que kem ” đủ hương vị như các bạn. Trang giấy bỏ trống của Rommel khiến tôi vô
cùng ngạc nhiên vì thông thường bọn trẻ đều tỏ ra thật dễ thương vào ngày đầu
tới trường.
Tôi đi xuống quán ăn tìm
Rommel. Nhưng cậu bé là ai trong số những đứa trẻ này? Và rồi, tôi cũng tìm ra.
Đó là một đứa trẻ mười tuổi không mặc đồng phục học sinh. Cậu bé trông khá gầy
nhưng khỏe mạnh, chiều cao vừa phải và có mái tóc cụt ngủn.
- Thầy có thể nói chuyện
với em một chút được không? - Tôi hỏi cậu bé.
- Vâng, thưa thầy. -
Rommel đáp.
Cậu bé theo tôi xuống
sảnh, vừa đi cậu bé vừa nhún nhảy.
- Mùa hè của em thế nào?
- Tôi hỏi.
- Dạ cũng tốt ạ.
- Em đã làm gì?
- Dạ, em cũng không nhớ
rõ nữa ạ!
Cậu bé tỏ ra hơi hoảng
sợ.
- Đừng lo lắng, không có
gì đâu em. - Tôi vội trấn an. - Thầy muốn biết môn tập đọc của em thế nào?
- Dạ, không tốt lắm. Em
đang cố gắng ạ. - Rommel e dè.
Tôi rút ra một cuốn sách
mà trẻ học hết lớp một đã có thể đọc vanh vách. “Để thầy xem nào!” - Nói rồi,
tôi mở trang đầu tiên.
Rommel nhăn nhó với từ
đầu tiên: “con”. Nhưng sau đó, tất cả chữ viết trong trang sách cứ như thể được
viết bằng tiếng nước ngoài và Rommel không thể đọc nổi một từ nào khác. Cố biện
hộ, cậu bé nói rằng cậu biết từ m-è-o vì mẹ đã dạy cậu.
- Tốt lắm! - Tôi nói.
- Còn từ này thì sao? -
Tôi chỉ vào chữ cái “r”. Cậu bé biết chữ này vì đó là chữ cái đầu tiên trong
tên của cậu được phát âm là Ro-mel.
Cuộc trò chuyện giữa
chúng tôi diễn ra rất ngắn ngủi. “Em đang tham gia lớp giáo dục đặc biệt, thưa
thầy!” - Rommel bảo tôi. Lời nói của cậu bé chứa đầy mặc cảm như thể cậu tự
thừa nhận mình thuộc đảng cấp thấp kém trong xã hội vậy. Cậu bé nói là cậu
không thích thể thao, cũng không yêu âm nhạc. Cậu thích vê tranh. Rồi cậu bé
cho tôi xem một tập vẻ theo phong cách truyện tranh Nhật Bản. Những nhân vật
được phác họa như Ninja rất cao lớn, cường tráng và có mái tóc lập dị, trông
thật dũng mãnh khi dùng tay ném ra những quả cầu lửa. Tôi rất thán phục những
bức vẽ của Rommel nhưng tôi không biết rồi mình sẽ phải làm gì với cậu bé này.
Đứa trẻ này không thể nào theo kịp lớp 4 được.
Đó là ngày mồng 5 tháng
9 năm 2000, cũng là năm thứ hai tôi giảng dạy tại Mildred Green - một ngôi
trường đơn sơ xây bằng gạch ở phía Nam Washington, trung tâm của khu phố cổ.
Sau khi giành được tấm bằng tiếng Anh của Đại học Michigan, tôi đăng ký gia
nhập Teach for America - tổ chức này sẽ chỉ định các sinh viên mới tốt nghiệp
đại học về giảng dạy tại các lớp học ở vùng ngoại ô dành cho những người thu
nhập thấp trên khắp đất nước.
Hầu hết bọn trẻ ở đây
đều đọc và viết tương đối tốt. Một bé gái đã có thể đọc tác phẩm Dấu hiệu đò
của lòng dũng cảm của tác giả Stephen Crane, trong khi đó, Rommel thậm chí
không bằng một học sinh yếu kém. Giáo viên lớp giáo dục đặc biệt lấy làm tiếc
khi phải báo cho tôi biết rằng “Rommel sẽ không bao giờ đọc được”.
Trong một thời gian dài,
tôi không đả động gì đến khả năng nhận âm quá kém của cậu bé. Tôi luôn bận rộn
với việc giữ cho lớp trật tự và dạy các em còn lại trong lớp. Vì thế, tôi đã vô
tình gạt Rommel sang một bên. Trong tiết học ngôn ngữ, khi cả lớp đọc tác phẩm
văn học thì Rommel ngồi ở cuối lớp để nghe những câu chuyện được ghi âm sẵn.
Chẳng lẽ tôi phải bắt cậu bé dùng tranh vẽ để hoàn thành bài tập, vì cậu không
thể viết?
Thực sự, Rommel không
tối dạ. Trong các tiết học toán của tôi, cậu bé không gặp phải bất cứ trở ngại
gì so với bạn bè. Thế thì tại sao Rommel lại không thể học đọc? Tôi thường
xuyên đặt ra câu hỏi này bởi vì trong ngày có đến hai tiết học Rommel tỏ ra rất
xuất sắc, đó là giờ toán và kể chuyện. Vào đầu giờ các buổi sáng và sau giờ
giải lao, tôi thường đọc cho cả lớp nghe những cuốn sách mà hầu hết tất cả các
em không thể tự xoay xở một mình, đặc biệt với Rommel.
Tuy nhiên, Rommel lại tỏ
ra đặc biệt hứng thú với cốt chuyện. Cậu bé cười thầm mỗi khi các bạn khác quên
hoặc thốt lên “không công bằng” trước sự bội tín của nhân vật. Cậu trả lời các
câu hỏi, bảo vệ ý kiến riêng và thách thức những lời diễn giải của các bạn
trong lớp. Khi tôi đọc truyện Người lùn Hobbit của tác giả Tolkien, Rommel
không ngừng đi vòng quanh và luôn miệng xuýt xoa như nhân vật Gollum. Nhưng khi
giờ kể chuyện kết thúc, Rommel thay đổi nhanh chóng. Như một phù thủy mất hết
pháp thuật, Rommel mất hẳn sự tự tin, sôi động. Một lần nữa, cậu lại trở về là
một đứa trẻ không thể đọc.
Khi kỳ nghỉ Giáng sinh
kết thúc, tôi lập ra một kế hoạch đề giúp đỡ Rommel. Tôi đặt tên cho kế hoạch
này là “Phương pháp Pinching Words”. Rommel và tôi dành ra mười phút mỗi ngày
để đọc truyện Harry Potter và Phòng chứa bí mật. Chỉ hai Chúng tôi mà thôi. Tôi
đảm nhận việc đọc truyện còn nhiệm vụ của Rommel là điền vào một hoặc hai từ đã
được chỉ định trước.
“Rommel, hôm nay chúng
ta học cách dùng từ “off””. Tôi viết ra: o-f-f. Sau đó, tôi bắt đầu đọc truyện.
Khi tôi đọc đến câu “Và cụ già ôm chặt Dursley rồi đi... ”, Rommel phải đoán từ
tiếp theo là từ gì. Nếu cậu bé nói “off”, để trọn nghĩa cho câu tôi đang đọc
“Và cụ già ôm chặt Dursley rồi đi ra ngoài”, thì tôi sẽ tiếp tục đọc; ngược
lại, tôi sẽ phát một cái vào cánh tay cậu.
Dần dần, những từ Rommel
không biết ngày càng thu hẹp lại. Phương pháp của tôi chưa được kiểm chứng,
cũng không phải phương pháp chính thống, nhưng lại hiệu quả, Rommel đặc biệt
hứng thú với câu chuyện và cả sự quan tâm của tôi. Thêm vào đó, tôi chỉ “phát
nhẹ” để nhác cậu bé nhớ lại.
Nhưng nhiều tuần qua đi
mà Rommel vẫn không đọc được. Tôi đã căn dặn trước với cậu bé rằng chúng tôi
phải thật nghiêm túc nhưng cậu bé tỏ ra chống đối và nghỉ học. Đây không phải
là lần đầu.
Sau một tuần, cậu bé đến
trường trở lại với mẹ - bà Zalonda Sales. Florine Bruton - người trợ lý đầy
nhiệt huyết của hiệu trưởng, và tôi lần lượt cho Rommel những lời khuyên quen
thuộc như phải tập kiềm chế, tranh cãi chẳng thể giải quyết được vấn đề; hoặc
hãy nhờ giáo viên giúp đỡ, v. v.
Tôi không khỏi xúc động
khi bắt gặp ánh mắt của bà Sales dõi theo cậu con trai. Rommel cúi đầu xuống.
Mẹ cậu bé suýt khóc, bà nài nỉ: “Rommel, nếu con chịu khó lắng nghe lời thầy
giáo, con sẽ đọc được mà. Hãy chú ý những lời chi bảo của thầy Currie. Thầy sẽ
dạy cho con”.
Tôi không muốn nói với
bà Sales rằng vấn đầ không nằm ở con trai bà mà là nằm ở chúng tôi - những giáo
viên lẽ ra phải dạy cho Rommel cách đọc, và lỗi ở người quản lý nhà trường đã
cho Rommel lên tới lớp 4 khi cậu bé vẫn chưa biết đọc. Tất cả Chúng tôi đã làm
hại cậu bé gầy yếu này, để rồi bây giờ, những gì cậu nhận được chỉ là sự tự ti.
Năm học gần kết thúc,
tôi cũng đã đọc xong cuốn Harry Potter và Phòng chứa bí mật cho Rommel nghe.
Cậu bé hỏi mượn trang 341. Yêu cầu đó khiến tôi rất ngạc nhiên. “Không đâu, Rommel,
thậm chí em còn không thể... May thay, tôi đã kịp ngừng lại trước khi khía vào
nỗi đau vốn ăn sâu trong cậu bé. “Rommel, đó chỉ là bản photo thôi. Cuối cùng,
sau khi nài nỉ mà vẫn không được, Rommel trở về chỗ ngồi rồi lấy ra một tờ giấy
vẽ.
Cuối ngày, tôi về nhà,
cởi bỏ giày, xoa bóp đôi chân mỏi nhừ và nhìn quanh cản hộ nhỏ bé của mình.
Sách được xếp chồng chất trên giá. Với tôi, sách luôn là một đam mê lớn lao.
Tôi xỏ lại đôi giày, đi
bộ ra cửa tiệm sách và mua cuốn băng cát sét Harry Potter và Phòng chứa bí mật.
Ngày hôm sau, khi tôi đưa cho Rommel cuộn băng, đôi mắt cậu bé lộ rõ vẻ ngạc nhiên.
- Hãy giữ lấy chúng,
Rommel. Chúng là của em đấy!
- Ôi, em cảm ơn thầy,
thầy Currie.
Cậu bé khoác chiếc ba lô
lên vai, vô tình chiếc ba lô bị móc vào bàn. Hàng chục bức họa trên giấy viết
bung ra ngoài. Cậu bé ôm chúng bỏ vào thùng rác. Thật lãng phí. Không phải lãng
phí giấy mà là lãng phí một năm.
Đêm đó, tôi quyết định:
Mình sẽ dạy Rommel đọc sách.
Tôi ôm hôn cô Bruton. Cô
chúc tôi may mắn với quyết tâm giúp đỡ Rommel khắc phục việc đọc, thậm chí cô
còn cho tôi mượn một lớp học nhỏ, phòng của nhóm nhạc trước kia. Mỗi tuần, tôi
và Rommel sẽ dành ra 9 giờ. Trong thời gian này, tôi không dạy bất cứ học sinh
nào khác và tôi chấp nhận không lương. Điều này chẳng thành vấn đề gì bởi công
việc bồi bàn của tôi vào các buổi tối có thể mang lại số tiền còn cao hơn cả
tiền lương cũ.
Ngày mồng 4 tháng 9 năm
2001, lần đầu tiên Rommel và tôi ngồi trong phòng học nhỏ đó. “Hoan nghênh vì
sự có mặt trong dự án dạy đọc Douglass. ” - Giọng tôi hài hước. Tôi đã lấy tên
ông Frederick Douglass(9) đề đặt tên cho thử thách này. Ông là một nhà văn lớn
kiêm một chính trị gia quyền lực, người cũng giống Rommel - được sinh trưởng
tại đây và thời trẻ, ông cũng từng gặp rất nhiẻu khó khăn trong việc đọc.
(9) Frederick Douglass (1818 - 1895): Một người
theo chủ nghĩa bãi nô, người tán thành việc mở rộng quyền bầu cử cho phụ nữ.
Ông còn là một biên tập viên, nhà hùng biện, chính khách và người đưa ra chủ
trương cải cách ở Mỹ.
Tôi lấy ra một cuốn sách
tập đọc. “Được rồi, chúng ta bất đầu học thôi”. Rommel không biết cách phát âm
các chữ cái, vì thế chúng tôi bắt đầu với chữ cái “A”. Mỗi tuần, chúng tôi học
một nguyên âm và một phụ âm. Rommel tự nghĩ ra cách để ghi nhớ. Với mỗi âm mới,
cậu sáng tạo ra một nhân vật. Alex - kẻ dùng rìu màu xanh. Iggy - con cự đà ngu
ngốc. Oscar - con bạch tuộc. Dingo -con chó. Cậu vẽ tranh về những nhân vật này
và dán chúng khắp tường của lớp học. Khi quên một âm, cậu lại liếc nhìn tường.
Dần dần, cậu học cách nối những âm này thành từ.
Nhiều tuần sau, Rommel
cùng tôi tới văn phòng của cô Bruton, ở đó rất đông học sinh. “Các em, chờ cô
một lúc nhé, ” - cô nói. Rommel đứng bên cạnh cô. Cậu bé hắng giọng rồi mở cuốn Foot
Book (Cuốn sách về chân) của Giáo sư Seuss. Chẳng khác gì vị bộ trưởng uy
nghiêm, cậu long trọng đọc từng câu trong đó.
Suốt một tuần, Rommel đã
chuẩn bị rất kỹ lưỡng cho cuộc gặp gỡ với cô Bruton. Khi cậu bé đọc xong, cô
Bruton đã ôm lấy cậu và nói “Cô rất tự hào về em”. Rommel tỏ ra bình thản như
thể đó chẳng phải việc gì lớn lao. Sau đó, cô Bruton nói rằng: “Cô sẽ gọi điện
cho mẹ em và kể cho mẹ em nghe về thành tích này”. Đến lúc này thì Rommel không
thể kìm nén thêm nữa. Gương mặt cậu rạng rỡ chưa từng thấy.
Khi kỳ nghỉ tới gần,
việc luyện đọc của Rommel tiến triển với tốc độ bất ngờ. Chúng tôi chìm ngập
trong từ, âm và các câu chuyện, Rommel tiếp thu tất cả như một người bị bỏ đói
lâu ngày nay có được miếng ăn. Nhưng sau tất cả phương pháp nghĩ ra để luyện
đọc, tôi đã quên một điều không kém phần quan trọng: viết. Tôi yêu cầu Rommel
phải hoàn thành một bài viết sau kỳ nghỉ Giáng sinh và nói với cậu bé rằng
chúng tôi sẽ bắt đầu mỗi buổi học bằng cách viết về kỳ nghỉ.
Trong bài viết của
Rommel, câu đầu tiên do chính tay cậu bé viết là “Em thích pa tê”. Tới khi tiếp
tục đỉ học sau kỳ nghỉ mùa xuân, cậu bé hoan hỉ khoe với tôi rằng cậu đang đọc Harry
Potter và tên tù nhản ngục Azkaban - cuốn thứ ba trong loạt truyện Harry
Potter. Tôi yêu cầu cậu viết về những gì đọc được. “Trong chương hai, Harry đã
quyết định bỏ nhà ra đi. Cậu lựa chọn ra đi vì cậu đã hất tung dì Marge. Kết
quả là cậu gặp Fudge và hữ đã nói chuyện. Theo em, Harry đã có quyết định sáng
suốt vì nếu ở lại, cậu chắc chẩn sẽ gặp rắc rối”.
Trong một thời gian dài,
tôi luôn cho rằng cơ hội để học tốt ở trường là không thiếu và lỗi là do Rommel
chưa chịu cố gắng học đọc. Nhưng thực tế thì chẳng ai trong chúng tôi hiểu được
niềm khát khao mong mỏi được đọc viết bình thường như các bạn của cậu bé. Không
phải Rommel không thể đọc mà đơn giản vì chúng tôi đã không dạy cho cậu bé.
- Tyler Currie

