Vết Bớt Màu Cà Phê Sữa - Chương 22 - 23
22
Erlendur
không hiểu ngay những gì ông bác sĩ nói và nhìn ông ta như thể mình chưa nghe
thấy gì. Ông không hiểu được ông bác sĩ đang nói đến chuyện gì. Trong một
thoáng, ông nhìn xuống cái xác, sau đó nhìn vội lên cho đến khi ông thấy một
mẩu xương từ bàn tay bé xíu thò ra bên dưới tấm khăn phủ. Ông không nghĩ là
mình có thể hình dung ra hình ảnh của thứ đang nằm dưới đó. Ông không muốn biết
những gì còn lại của cô bé trông như thế nào. Không muốn hình ảnh đó lại xuất
hiện mỗi khi ông nghĩ về cô.
“Cô bé đã
bị mổ ra trước đây,” ông bác sĩ nói.
“Bộ não
mất rồi sao?” Erlendur rên rỉ.
“Có một
cuộc khám nghiệm tử thi đã diễn ra.”
“Đúng, ở
bệnh viện Keflavík.”
“Cô bé
chết năm nào?”
“1968,”
Erlendur đáp.
“Và, nếu
như tôi hiểu đúng, thì Holberg là bố của cô bé, và họ không sống cùng nhau, bố
mẹ của cô bé ấy?”
“Cô bé
chỉ có mẹ thôi.”
“Người ta
cho phép sử dụng các bộ phận của cô ấy cho mục đích nghiên cứu không?” Ông bác
sĩ nói tiếp. “Ông có biết gì về chuyện đó không? Người mẹ có đồng ý không?”
“Chắc
chắn là không,” Erlendur nói.
“Có thể
nó được lấy đi mà không có sự cho phép của bà ta. Ai đã khám nghiệm cho cô bé
sau khi cô ấy chết? Bác sĩ của cô bé là ai?”
Erlendur
đọc tên Frank. Viên bác sĩ im lặng một lát.
“Tôi có
thể nói là tôi hoàn toàn không quen gì với những chuyện đại loại như vậy. Những
người thân đôi khi được hỏi xem liệu những bộ phận của người chết có được lấy
đi nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu hay không. Tất cả đều là vì khoa học, tất
nhiên là như vậy. Chúng tôi cần những thứ đó. Cả để dạy học nữa. Tôi biết có
những trường hợp, khi mà, nếu không có người thân thích kế cận, một vài bộ phận
sẽ được lấy đi để nghiên cứu trước khi cái xác được chôn. Nhưng tôi không biết
nhiều trường hợp các cơ quan bị đánh cắp hoàn toàn trước khi người thân được
hỏi ý kiến.”
“Bộ não
có thể bị mất tích như thế nào?” Erlendur tiếp tục hỏi.
“Cái đầu
đã bị cưa làm hai nửa và một mẩu đã bị lấy ra.”
“Không, ý
tôi là...”
“Một công
việc rất khéo léo và tinh xảo,” ông bác sĩ nói. “Phải là một người rất chuyên
nghiệp trong nghề. Ông ta cắt dọc cột sống, qua cổ từ đoạn cuối ở đây và lấy bộ
não ra.”
“Tôi được
biết là bộ não được nghiên cứu vì có liên quan đến một khối u,” Erlendur nói. “Có
phải ý ông là nó không được đặt lại?”
“Đó là
một lời giải thích,” viên bác sĩ vừa nói vừa phủ lại thi thể. “Nếu họ lấy bộ não ra để nghiên cứu, họ
khó có thể trả lại nó kịp với đám tang. Nó cần phải được cố định lại.”
“Cố
định?”
“Để làm
cho nó trở nên dễ dàng hơn cho việc nghiên cứu. Nó giống như pho-mát vậy. Não
phải mất một thời gian mới cố định lại được.”
“Người ta
lấy một ít thôi không đủ sao?”
“Tôi
không biết,” viên bác sĩ nói. “Tất cả những gì tôi biết là bộ não không còn nữa,
điều này làm cho việc xác định nguyên nhân cái chết trở nên khó khăn hơn. Có
thể chúng ta kiểm tra AND trên xương, việc đó có thể nói cho chúng
ta biết điều gì đó.”
Trên
mặt Frank là một nỗi ngạc nhiên tột độ khi ông ta ra mở cửa và nhìn
thấy Erlendur đang đứng trên bậc cửa dưới trời mưa như trút.
“Chúng
tôi đã khai quật xác cô bé lên.” Erlendur nói mà không vòng vo. “Và bộ não đã
biến mất. Ông có biết gì về chuyện đó không?”
“Đào cô
bé lên? Bộ não?” Ông bác sĩ nói và đưa Erlendur đi về phía văn phòng của mình. “Ý
ông là gì cơ, bộ não mất tích hả?”
“Như tôi
đã nói. Bộ não đã bị lấy đi. Có thể là để nghiên cứu thêm về mối liên hệ của nó
với nguyên nhân cái chết, nhưng người ta không trả nó lại. Ông là bác sĩ của cô
bé. Ông có biết chuyện gì đã diễn ra không?”
“Tôi là
bác sĩ đa khoa của cô bé, và hình như tôi đã nói với ông khi ông đến lần trước:
cô bé chịu sự kiểm soát của bệnh viện Keflavík và các bác sĩ ở đó.”
“Người
bác sĩ thực hiện ca phẫu thuật đã chết. Chúng tôi nhận được một bản photocopy về báo cáo xét nghiệm tử thi của
ông ta, nó rất cụt lủn và chỉ đề cập đến căn bệnh u não. Nếu ông ta làm thêm
xét nghiệm về nó, chẳng thấy có ghi chép gì hết. Chẳng lẽ lấy một ít làm mẫu mà
cũng không đủ sao? Họ có nhất thiết phải lấy đi toàn bộ não không?”
Ông bác
sĩ nhún vai. “Tôi không chắc.” Ông ta lưỡng lự một lát. “Các cơ quan khác có bị
mất không?” Ông ta hỏi.
“Các cơ
quan khác nữa ư?” Erlendur hỏi lại.
“Ngoài bộ
não ra, còn gì bị lấy đi không?”
“Ý ông là
gì?”
“Không có
gì khác bị động chạm vào ấy?”
“Tôi
không nghĩ như vậy. Bác sĩ pháp y đó không đề cập đến vấn đề nào. Ông
định nói đến điều gì?”
Frank nhìn
Erlendur, trầm tư. “Chắc ông chưa từng nghe qua về Jar City, phải không?”
“Jar City
nào?”
“Bây giờ
nó đóng cửa rồi, tôi tin thế, thực ra là cách đây không lâu. Căn phòng được gọi
đến với cái tên đó. Jar City.”
“Căn
phòng nào?”
“Trên lầu
của Barónsstígur. Nơi mà người ta giữ các bộ phận.”
“Tiếp tục
đi.”
“Chúng
được bảo quản trong dung dịch phoóc môn trong các bình thủy tinh. Tất cả các bộ
phận cơ thể người ở đó được lấy từ các bệnh viện. Nhằm mục đích giảng dạy
trong y khoa. Chúng được bảo quản trong một căn phòng mà sinh
viên y khoa gọi là Jar City. Những bộ lòng được bảo quản. Những
quả tim, gan và chân tay. Cả não nữa.”
“Từ các
bệnh viện ư?”
“Những
người chết ở các bệnh viện ấy. Họ bị xét nghiệm tử thi. Các bộ phận được kiểm
tra. Thường là các bộ phận ấy không được trả lại, một vài trong số đó được giữ
lại để phục vụ cho mục đích dạy học. Và một thời chúng được lưu giữ ở Jar City.”
“Ông nói
với tôi những điều này để làm gì?”
“Các bộ
não không nhất thiết biến mất mãi mãi. Nó có thể ở đâu đó trong Jar City. Các mẫu được bảo quản cho
mục đích dạy học đều được ghi chép lại và phân loại, ví dụ như vậy. Nếu ông
muốn tìm bộ não của cô bé thì vẫn còn cơ hội đấy.”
“Tôi chưa
từng nghe thấy chuyện này trước đây. Các cơ quan bị lấy đi mà không có được
phép hay sự đồng ý của người nhà bệnh nhân sao? Sự dàn xếp đó là như thế nào?”
Ông bác
sĩ nhún vai. “Nói thật là tôi không biết. Bình thường nó phụ thuộc vào nhiều
thứ. Các cơ quan nội tạng là cực kỳ quan trọng đối với việc đào
tạo y khoa. Tất cả các bệnh viện của các trường Đại học có những bộ
sưu tập nội tạng rất lớn. Thậm chí tôi từng nghe là một vài vị bác sĩ, những
người nghiên cứu về y học, còn có những bộ sưu tập riêng của mình cơ,
nhưng tôi không thể đảm bảo được điều đó.”
“Những
người sưu tập nội tạng à?”
“Họ là
những người như thế.”
“Chuyện
gì đã xảy ra với cái... Jar City này? Nếu nó không còn hoạt động nữa?”
“Tôi
không biết.”
“Vậy ông
nghĩ rằng đó có thể là nơi cất giữ bộ não sao? Bảo quản trong phoóc môn sao?”
“Có thể
lắm chứ. Tại sao ông lại cho khai quật xác cô bé lên?”
“Có thể
đó là một sai lầm,” Erlendur thở dài. “Có thể cả cái vụ án này là một sai lầm
lớn.”
23
Elínborg
đến tìm Klara, em gái của Grétar. Việc cô tìm kiếm nạn nhân khác của Holberg, người
phụ nữ Húsavík như Erlendur đã gọi, chẳng đi đến kết quả nào. Tất cả những
người phụ nữ mà cô đến tìm đều phản ứng như nhau: ngạc nhiên tột độ, sau đó là
tò mò, háo hức muốn biết thêm làm cho Elínborg phải sử dụng tất cả những chiêu
học được trong sách để tránh đề cập đến chi tiết cụ thể của vụ án. Cô biết rằng
mặc dù cô và các cảnh sát khác - những người điều tra người phụ nữ đó - có nhấn
mạnh đến mấy rằng đó là một vụ rất nhạy cảm và không được nói với ai khác, điều
đó cũng không thể nào ngăn những câu chuyện ngồi lê đôi mách liên miên khi màn
đêm dần buông.
“Vậy bà
không biết Holberg sao?” Elínborg hỏi.
“Không.”
“Hoặc
là Ellidi?” Cô thêm.
“Ellidi
là ai?”
“Xin bà
đừng bận tâm.”
“Tôi
không biết Grétar giao du với ai. Khi anh ta mất tích, có một người nào đó tên
là Marion liên
lạc với tôi và đưa tôi đến nơi anh ta sống. Đó quả là một cái lỗ bẩn thỉu. Một
thứ mùi ghê tởm bốc lên trong phòng và sàn nhà thì đầy rác rưởi, có cả những
cái đầu cừu đã bị ăn một nửa với cháo củ cải đã mốc meo trong căn phòng đó nữa.”
“Marion ư?” Elínborg hỏi lại. Cô làm việc cho Cục điều tra tội phạm
chưa đủ lâu để có thể nhận ra cái tên đó.
“Đúng, là
cái tên đó.”
“Bà có
nhớ đến một chiếc máy ảnh trong số những đồ đạc của anh mình không?”
“Đó là
thứ duy nhất trong căn phòng còn nguyên vẹn. Tôi mang nó về nhưng chưa bao giờ
sử dụng nó cả. Cảnh sát cho rằng nó đã bị ăn cắp và tôi không ủng hộ điều đó. Tôi
để nó ở nhà kho dưới tầng hầm. Cô có muốn xem qua nó không? Cô đến vì chiếc máy
ảnh hả?”
“Tôi có
thể xem qua nó được không?” Elínborg nói.
Klara đứng lên. Bà bảo Elínborg đợi một lát và đi vào bếp để lấy
một chùm chìa khóa. Họ đi ra hành lang và xuống tầng hầm. Klara mở cửa dẫn vào nhà kho, bà bật đèn
rồi tiến đến một cánh cửa và mở nó ra. Trong đó, rác rưởi cũ chồng đống khắp
nơi, những cái ghế xếp và túi ngủ, dụng cụ trượt tuyết và đồ đi cắm trại. Elínborg
để ý thấy có một thiết bị mát-xa chân màu xanh và một máy pha sô đa.
“Tôi để
nó trong một cái hộp ở đây,” Klara nói sau khi lách qua đống rác. Bà cúi
xuống nhặt lên một cái hộp bìa cứng nhỏ màu nâu. “Tôi để tất cả đồ của Grétar ở
đây. Anh ta chẳng có gì ngoài cái máy ảnh đó.” Bà mở hộp và đang chuẩn bị lấy
đồ ra thì Elínborg ngăn bà lại.
“Đừng lấy
gì ra khỏi chiếc hộp ấy cả,” cô nói và đưa tay ra đỡ nó. “Bà không biết được
những thứ trong đây có thể quan trọng với chúng tôi đến thế nào đâu,” cô nói
thêm.
Klara đưa cho cô cái hộp với vẻ mặt hơi khó chịu, còn Elínborg mở
nó ra. Nó đựng ba cuốn truyện trinh thám bìa mềm đã rách tả tơi, một con dao
nhíp, vài đồng xu và một chiếc máy ảnh - loại máy ảnh Kodak Instamatic bỏ túi
mà Elínborg nhớ nó từng là món quà Giáng sinh phổ biến nhiều năm trước đây. Đó
không phải là thứ dành cho người có niềm đam mê cháy bỏng với nhiếp ảnh, nhưng
chắc chắn là nó dùng được. Cô không thấy cuốn phim nào trong hộp. Erlendur đã
yêu cầu cô kiểm tra kỹ xem liệu Grétar có để lại cuốn phim nào không. Cô lấy ra
một cái khăn tay, xoay chiếc máy ảnh và nhận thấy bên trong chẳng còn cuốn phim
nào. Trong hộp cũng chẳng có bức ảnh nào.
“Còn đây
là tất cả những khay và dung dịch,” Klara nói và chỉ tay vào bên trong nhà kho. “Tôi
nghĩ là anh ta tự rửa ảnh. Cũng có cả những tấm giấy in ảnh nữa. Chắc hẳn là
bây giờ chúng vô dụng rồi, phải không?”
“Tôi cũng
muốn lấy cả cái đó nữa,” Elínborg nói và Klara lại ngụp lặn trong đống rác.
“Bà có
biết liệu ông ta có giữ các cuốn phim không? Hay bà có thấy chúng ở nơi ở của
ông ta không?” Elínborg hỏi.
“Không, chẳng
có cái nào cả,” Klara trả lời khi bà cúi xuống để lấy những cái khay.
“Bà có
biết ông ta có thể cất chúng ở đâu không?”
“Không.”
“Vậy bà
có biết nội dung những bức ảnh đó là gì không?”
“Tôi nghĩ
là anh ta thích nó,” Klara nói.
“Ý tôi
là: bà có trông thấy bức ảnh nào không?”
“Không, anh
ta chẳng bao giờ cho tôi xem gì cả. Như tôi đã nói, chúng tôi không nói chuyện
nhiều. Tôi không biết những bức ảnh đó ở đâu. Grétar là một tên lang thang đáng
nguyền rủa,” bà nói, không biết liệu mình có lặp lại những lời mình vứa nói hay
không, rồi bà nhún vai như thể một điều thú vị thì không nên được nhắc lại một
cách quá thường xuyên vậy.
“Tôi muốn
mang cái hộp này đi,” Elínborg nói. “Tôi hy vọng bà chấp thuận. Tôi sẽ sớm
trả lại.”
“Chuyện
gì đang xảy ra thế?” Klara hỏi, lần đầu tiên bà thể hiện sự quan tâm đến yêu cầu của
cảnh sát và những câu hỏi liên quan đến anh trai mình. “Cô có biết Grétar ở đâu
không?”
“Không,”
Elínborg nhấn mạnh, cố gắng xua tan mọi mối nghi ngờ. “Không có gì mới cả. Không
có gì.”
Hai người
phụ nữ đi cùng với Kolbrún vào cái đêm cô bị Holberg tấn công cũng được lưu tên
lại trong hồ sơ điều tra của cảnh sát. Erlendur đã yêu cầu điều tra về họ. Hóa
ra cả hai cùng đến từ Keflavík, nhưng không ai còn sống ở đó nữa. Một
trong hai người đã kết hôn với một người Mỹ ở căn cứ quân sự NATO không lâu sau
khi vụ cưỡng hiếp xảy ra và bây giờ đang sống tại Mỹ. Người còn lại đã chuyển
từ Keflavík đến Stykkishólmur năm năm sau. Bà ta vẫn đăng ký sống
tại đó. Erlendur băn khoăn liệu ông có nên mất cả ngày trời vào một chuyến đi
miền Tây đến Stykkishólmur không, hay chỉ cần gọi điện và hy vọng rằng như thế
là đủ.
Tiếng Anh
của Erlendur hơi kém nên ông nhờ Sigurdur Óli xác định nơi ở của người phụ nữ
đang sống ở Mỹ. Anh nói chuyện với người chồng. Bà ta đã chết cách đây mười lăm
năm vì bệnh ung thư và được chôn cất ở Mỹ. Erlendur gọi đến Stykkishólmur và dễ
dàng liên lạc được với người phụ nữ thứ hai. Đầu tiên ông gọi đến nhà bà ta và
được báo là bà ta đang đi làm. Đó là một y tá ở bệnh viện
Stykkishólmur.
Người phụ
nữ nghe các câu hỏi của Erlendur nhưng nói rằng thật không may là bà ta không
giúp gì được cho ông. Ngày đó bà đã không giúp ích được gì cho cảnh sát và bây
giờ cũng vậy.
“Holberg
đã bị giết,” Erlendur nói, “và chúng tôi nghĩ rằng nó liên quan đến vụ việc này.”
“Tôi đã
nghe tin tức về vụ đó,” giọng nói trên điện thoại trả lời. Tên của bà ta
là Agnes và Erlendur
cố gắng hình dung bà ta qua giọng nói. Đầu tiên ông hình dung ra một người phụ
nữ kiên định và có năng lực ở độ tuổi sáu mươi, một người béo ú bởi bà ta hay
bị hết hơi. Nhưng rồi ông lại nghe thấy bà ho khan vì khói và Agnes hiện
ra với một hình ảnh khác trong đầu ông: gầy như que củi, da nhăn nheo vàng vọt.
Tiếng ho của bà ta nghe thật khó chịu và rời rạc, cứ chốc chốc lại ho một lần.
“Bà có
nhớ cái đêm đó ở Keflavík không?” Erlendur hỏi.
“Tôi về
nhà trước họ,” Agnes trả lời.
“Có ba
người đàn ông đi cùng các bà.”
“Tôi về
cùng với một người đàn ông tên là Grétar. Hồi đó, tôi đã nói với cảnh sát như
vậy. Tôi cảm thấy nói về chuyện đó thật khó chịu.”
“Bây giờ
tôi mới biết là bà đi về cùng Grétar,” Erlendur nói trong lúc lật nhanh các báo
cáo trước mặt.
“Tôi đã
nói với họ khi họ hỏi tôi những câu hỏi thế này ngày đó.” Bà ta lại ho nhưng cố
gắng chỉ để Erlendur nghe thấy tiếng khàn khàn trong cổ họng. “Xin lỗi. Tôi
không thể nào từ bỏ được những điếu thuốc lá chết tiệt này. Ông ta có vẻ như là một kẻ
thất bại. Cái gã Grétar ấy. Sau đó tôi không bao giờ gặp ông ta nữa.”
“Bà và
Kolbrún quen biết nhau như thế nào?”
“Chúng
tôi từng làm việc cùng nhau. Đó là thời gian trước khi tôi học làm y tá. Chúng
tôi làm việc trong một cửa hàng ở Keflavík, nó đã đóng cửa lâu rồi. Đó là lần
đầu tiên và duy nhất chúng tôi đi chơi với nhau. Điều này có thể thông cảm được.”
“Bà có
tin Kolbrún khi cô ta nói về vụ hiếp dâm không?”
“Tôi
không biết gì về vụ đó cho đến khi bất thình lình cảnh sát đến nhà tôi và bắt
đầu tra hỏi về cái đêm đó. Không khi nào cô ấy lại nói dối về một chuyện như
vậy. Kolbrún rất đứng đắn, hoàn toàn thành thật về mọi điều mà cô ấy từng làm, mặc
dù có lẽ cô ấy hơi nhu nhược. Yếu ớt và mỏng manh. Không có cá tính mạnh mẽ. Đó
là một chuyện quá kinh khủng để có thể nói ra nhưng cô ấy không thuộc tuýp
người thích đùa, nếu ông hiểu đúng ý tôi. Không có nhiều chuyện xảy ra xung
quanh cô ấy lắm.”
Agnes dừng lại và Erlendur chờ bà ta nói tiếp.
“Cô ấy
không thích đi chơi và thực tình tôi đã phải phỉnh phờ mãi cô ấy mới chịu đi
với tôi và Helga tối hôm đó. Helga đã sang Mỹ nhưng đã chết cách đây nhiều
năm, có thể ông biết điều đó. Kolbrún rất dè dặt và cô đơn nên tôi muốn làm
điều gì đó cho cô ấy. Cô ấy đồng ý đến vũ trường, sau đó đi cùng chúng tôi đến
nhà của Helga, nhưng một lúc sau cô ấy lại muốn về nhà. Tôi về trước cô ấy
nên tôi không thực sự biết có chuyện gì đã xảy ra ở đó. Kolbrún không đi làm
vào ngày thứ Hai và tôi nhớ là đã gọi điện cho cô ấy, nhưng cô ấy không trả lời.
Vài ngày sau cảnh sát đến gặp tôi để hỏi về Kolbrún. Tôi không biết nên nghĩ
thế nào nữa. Tôi không thấy điều gì bất thường ở Holberg. Ông ta là một người
khá hấp dẫn nếu như tôi nhớ đúng. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy cảnh sát hỏi về
vụ cưỡng hiếp.”
“Rõ ràng
là ông ta đã tạo được một ấn tượng tốt,” Erlendur nhận xét. “Một người đàn ông
của các quý bà, tôi nghĩ là ông ta được miêu tả như vậy.”
“Tôi nhớ
là ông ta có đến cửa hàng.”
“Ông ta?
Holberg á?”
“Phải, là
Holberg. Tôi nghĩ đó là lý do tại sao họ ngồi xuống với chúng tôi buổi tối hôm
đó. Ông ta nói rằng mình là một kế toán viên đến từ Reykjavík, nhưng đó là một lời nói dối phải
không?”
“Tất cả
bọn họ đều làm ở Cơ quan quản lý Bến cảng và Hải đăng. Đó là loại cửa hàng gì?”
“Một cửa
hàng chuyên dụng. Chúng tôi bán đồ của phụ nữ. Cả đồ lót nữa.”
“Và ông
ta đã đến cửa hàng?”
“Phải. Ngày
hôm trước ấy. Ngày thứ Sáu. Hồi đó tôi cứ phải kể đi kể lại chuyện này nên tôi
nhớ rất rõ. Ông ta nói rằng mình đang cần tìm một vài thứ đồ gì đó cho vợ mình.
Tôi phục vụ ông ta và khi chúng tôi gặp nhau tại vũ trường, ông ta cư xử cứ như
thể chúng tôi đã quen nhau từ trước ấy.”
“Bà có
liên hệ với Kolbrún sau khi sự việc xảy ra không? Bà có nói chuyện với cô ấy về
những gì đã xảy ra không?”
“Kolbrún
không bao giờ quay trở lại cửa hàng nữa, và như tôi đã nói, tôi không biết có
chuyện gì xảy ra cho đến khi cảnh sát đến chất vấn tôi. Tôi cũng không hiểu rõ
cô ấy lắm. Tôi cố gắng gọi điện đến nhà cô ấy một vài lần khi thấy cô ấy không
đi làm nhưng đều không gặp. Tôi không muốn xen vào quá nhiều. Cô ấy luôn như
vậy. Bí hiểm. Sau đó chị gái cô ấy đến và nói rằng Kolbrún đã thôi việc. Tôi
nghe nói mấy năm sau cô ấy mất. Hồi đó tôi đã chuyển đến Stykkishólmur. Đó là
một vụ tự vẫn phải không?”
“Cô ấy đã
chết,” Erlendur đáp, và lịch sự cảm ơn bà ta vì đã tiếp chuyện ông.
Erlendur
nhớ về một người có tên là Sveinn, ông từng đọc được câu chuyện về ông ta. Người
này sống sót sau một cơn bão ở Mosfellsheidi. Cái chết của những người đồng
hành cùng Sveinn dường như chẳng có chút ảnh hưởng nào đến ông ta. Ông ta được
trang bị tốt nhất trong số những người du lịch và là người duy nhất quay trở về
an toàn và khỏe mạnh. Điều đầu tiên ông ta làm sau khi được người ta chăm sóc
tại một trang trại gần nhất là đeo ván trượt tuyết lên và làm mọi người ngạc
nhiên bằng cách trượt trên một chiếc hồ gần đó.
Trong lúc
ấy, những người đi cùng ông ta đang bị đóng băng đến chết.
Kể từ lúc
đó, ông không bao giờ gọi Sveinn bằng một cái tên nào khác ngoài “kẻ vô
lương tâm.”