Vết Bớt Màu Cà Phê Sữa - Chương 30 - 31

30

Khoảng
chín giờ sáng hôm sau đội pháp y và đội điều tra hình sự đã tập hợp đầy đủ ở
nhà Holberg. Đến giờ đó rồi mà trời vẫn chẳng có dấu hiệu gì là ban ngày cả. Bầu
trời vẫn xám xịt và vẫn mưa tầm tã. Đài thông báo rằng đợt mưa
ở Reykjavík đã đạt đến kỷ lục của tháng 10 năm 1926.

Đường ống
nước thải đã được dọn sạch và chẳng còn con vật nào còn sống trong móng nhà. Cái
hố trong tầng đáy đã được mở rộng nên hai người đàn ông có thể đi xuống đó cùng
một lúc. Những người sống trong các căn hộ bên trên đang đứng thành một nhóm
bên ngoài cửa tầng hầm. Họ đã yêu cầu một thợ sửa cống đến để sửa đường ống và
đang chờ để gọi anh ta vào ngay khi cảnh sát cho phép.

Ngay lập
tức người ta phát hiện ra rằng khu vực hố xung quanh đường ống nước thải tượng
đối nhỏ. Nó có kích cỡ khoảng gần ba mét vuông và bị nén lại vì đất vẫn chưa bị
lún hẳn xuống. Cái ống bị vỡ ở cùng một nơi như trước đây. Vết sửa chữa cũ hiện
ra và có một lớp sỏi bên dưới cái ống bao quanh nó. Các nhân viên pháp y thảo
luận xem có nên mở rộng cái hố to ra không, đào đống sỏi lên khỏi móng nhà và
làm sạch nó cho đến khi họ có thể nhìn thấy mọi thứ bên dưới tầng đáy.

Sau khi
tranh luận một hồi, họ quyết định là lớp đáy có thể bị vỡ ra nếu những thứ bên
dưới nó đã bị tháo rút đi hoàn toàn, do đó họ chọn một phương án an toàn và cao
cấp hơn, đó là khoan xuyên qua sàn nhà xuống những cái hố ở khắp mọi nơi và đặt
một camera nhỏ
trong lòng móng.

Sigurdur
Óli quan sát trong khi họ bắt đầu khoan các lỗ trên sàn rồi lắp hai màn hình
quan sát được nối với hai chiếc camera mà đội pháp y đang sử dụng. Những
chiếc camera nhỏ
hơn với một chiếc đèn trên bề mặt được đẩy xuống hố và có thể di chuyển bằng
điều khiển từ xa. Tại những cái lỗ đã được khoan trên khắp sàn nhà ở những nơi
mà người ta cho rằng có hố bên dưới, họ trượt camera vào bên trong và
bật hai màn hình lên. Hình ảnh đen trắng hiện ra và đối với Sigurdur Óli, người
sở hữu một chiếc tivi Đức trị giá đến nửa triệu cua-ron, thì chất lượng hình
ảnh này thật kém.

Erlendur
đến tầng hầm khi họ bắt đầu thăm dò bằng cameravà ngay sau đó Elínborg đến.
Sigurdur Óli để ý thấy Erlendur đã cạo râu và mặc bộ quần áo sạch sẽ có vẻ như
đã được là ủi cẩn thận. “Chuyện gì đang diễn ra thế?” Erlendur hỏi và châm
một điếu thuốc, nhận thấy sự chán nản của Sigurdur Óli.

“Họ đang
dò bằng camera,” Sigurdur Óli đáp. “Chúng ta có thể theo dõi qua màn hình.”

“Không có
gì trong hố thải à?” Erlendur vừa hỏi vừa rít một hơi thuốc.

“Giòi bọ
và chuột, chẳng có gì khác cả.”

“Mùi hôi
thối xông đến đây,” Elínborg nói rồi lấy ra một chiếc khăn tay xức nước hoa mà
cô mang theo trong túi xách. Erlendur mời cô hút thuốc, nhưng cô từ chối.

“Holberg
có thể đã sử dụng cái hố mà người thợ sửa cống đào lên để đặt Grétar xuống dưới
sàn nhà,” Erlendur nói. “Ông ta hẳn đã thấy có cái hố bên dưới lớp đáy và đã
phải di chuyển đống sỏi cho đến khi đặt được Grétar vào vị trí mình muốn.”

Họ tập
trung xung quanh màn hình nhưng không hiểu được nhiều lắm những điều trông thấy.
Một luồng ánh sáng di chuyển về trước rồi ra sau, lên trên và xuống dưới, và
sang cả hai bên nữa. Đôi khi họ nghĩ là đã thấy hình dáng của lớp nền, và đôi
khi dường như họ thấy lớp sỏi. Mặt đất đã lún xuống với nhiều mức độ. Ở một số
chỗ nó dâng lên đến lớp nền nhưng ở những chỗ khác có khoảng cách lên đến một
mét.

Họ ngồi
một lúc khá lâu theo dõi camera. Trong tầng hầm rất ồn ào vì đội
pháp y vẫn đang tiếp tục khoan những lỗ nhỏ mới và Erlendur nhanh
chóng mất kiên nhẫn. Ông đi ra ngoài, Elínborg vội theo sau ông và sau đó là
Sigurdur Óli. Tất cả bọn họ leo lên xe của Erlendur. Ông đã nói với họ lý do
tại sao tối hôm qua ông bất ngờ đi Keflavík, nhưng họ không có cơ hội để bàn
bạc sâu hơn.

“Tất
nhiên là nó phù hợp với nội dung lời nhắn để lại ở Nordurmýri. Và nếu người đàn
ông mà Elín nhìn thấy ở Keflavík trông rất giống Holberg, nó phù hợp với
giả thuyết về đứa con thứ hai của ông ta.”

“Holberg
có thể không có con trai sau vụ hiếp dâm đó,” Sigurdur Óli nói. “Chúng ta không
có chứng cứ nào để chứng minh điều đó, ngoại trừ rằng Ellidi biết có một người
phụ nữ khác. Đó là tất cả. Mà Ellidi lại là một thằng đần!”

“Không ai
trong số những người chúng ta nói chuyện đề cập đến chuyện ông ta có một đứa
con trai,” Elínborg nói.

“Không ai
trong số những người chúng ta nói chuyện biết Holberg một cách sâu sắc,”
Sigurdur Óli nói. “Đó mới là vấn đề. Ông ta là một kẻ cô đơn, chỉ giao du với
một vài người cùng chỗ làm, tải những phim khiêu dâm từ Internet, giao du với
những tên ngu ngốc như Ellidi và Grétar. Không ai biết gì về gã này cả.”

“Điều tôi
băn khoăn là thế này,” Erlendur nói. “Nếu con trai của Holberg thực sự tồn tại, làm
sao hắn biết về Elín, bác của Audur? Như thế không phải là hắn cũng biết về
Audur, em gái mình hay sao? Nếu hắn biết Elín, tôi cho là hắn biết cả Kolbrún và vụ hiếp dâm
nữa, và tôi không thể làm rõ là bằng cách nào được. Không có chi tiết nào về vụ
điều tra trên truyền thông. Vậy hắn lấy thông tin ở đâu ra?”

“Chẳng lẽ
hắn không thể moi được thông tin này từ Holberg trước khi giết ông ta sao?”
Sigurdur Óli nói.

“Có lẽ
hắn đã tra tấn ông ta để bắt ông ta thú nhận,” Elínborg nhận xét.

“Trước
hết, chúng ta không biết liệu người đàn ông này có thực sự tồn tại không.”
Erlendur nói. “Elín rất xúc động khi bà ta nhìn thấy hắn. Thậm chí cứ giả sử là
hắn ta có thật, chúng ta cũng không biết hắn có giết Holberg hay không, không
biết hắn có biết về sự tồn tại của cha mình không khi phải sinh ra dưới điều
kiện như vậy. Ellidi nói rằng có một người phụ nữ trước Kolbrún bị hiếp, có thể
là bị tệ hơn thế. Nếu bà ta có thai sau vụ đó, tôi đồ rằng người mẹ chắc hẳn
phải rất vui nên không nói ra tên của người cha. Bà ta không trình bày vụ việc
với cảnh sát. Chúng ta vẫn phải tiếp tục tìm người phụ nữ này, nếu bà ta tồn
tại...”

“Và chúng
ta đang đào bới nền móng của một ngôi nhà để tìm ra một người đàn ông mà có lẽ
là chẳng liên quan gì đến vụ án cả,” Sigurdur Óli nói.

“Có thể
Grétar không nằm dưới lớp móng nhà,” Elínborg nói.

“Là sao?”
Erlendur hỏi.

“Có thể
hắn vẫn còn sống, ý cô là thế ư?” Sigurdur Óli hỏi.

“Gã biết
tất cả về Holberg, tôi nghĩ vậy,” Elínborg đáp. “Gã biết về đứa con gái, nếu
không thì đã không chụp hình ngôi mộ của cô bé. Gã chắc chắn biết vì sao cô bé
được sinh ra. Nếu Holberg có một đứa con nữa, một người con trai, rất có thể
Grétar cũng phải biết về người con này.”

Erlendur
và Sigurdur Óli nhìn cô với sự quan tâm lớn dần.

“Có thể
Grétar vẫn đang ở đây với chúng ta,” cô nói tiếp, “và liên lạc với người con
trai. Đó là một cách lý giải cho việc làm thế nào mà người con trai ấy có thể
biết được về Elín và Audur.”

“Nhưng
Grétar đã mất tích được hai mươi lăm năm và không có tin tức gì từ đó,”
Sigurdur Óli nói.

“Gã mất
tích không nhất thiết có nghĩa là gã đã chết,” Elínborg đáp.

“Vậy thì...”
Erlendur bắt đầu, nhưng Elínborg ngắt lời ông.

“Tôi
không nghĩ chúng ta có thể loại trừ gã ra. Tại sao không tính đến khả năng là
Grétar vẫn còn sống? Có thể gã đã rời bỏ đất nước. Có thể gã đã về vùng quê. Không
ai thèm kết tội gã. Không ai nhớ đến gã hết.”

“Tôi
không nhớ có một trường hợp nào như thế,” Erlendur nói.

“Như cái
gì cơ?” Sigurdur Óli hỏi.

“Một
người mất tích quay trở lại sau cả một thế hệ. Khi người ta mất tích ở Iceland,
thường là mất tích mãi mãi. Không ai từng quay trở lại sau khi biến mất được
hơn hai mươi lăm năm. Chưa bao giờ.”

31

Erlendur
để các đồng nghiệp ở lại Nordurmýri và đến Barónsstígur để gặp bác sĩ pháp y.
Ông ta đã hoàn tất việc xét nghiệm tử thi Holberg và đang phủ khăn lên cơ thể
ông ta khi Erlendur đến tìm ông. Thi thể của Audur không thấy ở đó.

“Ông đã
tìm ra bộ não của cô bé ấy chưa?” Ông bác sĩ hỏi khi Erlendur bước vào.

“Chưa,”
Erlendur đáp.

“Tôi đã
nói chuyện với một giáo sư - một người bạn gái cũ của tôi ở trường đại học và
kể chuyện đó với cô ấy, và cô ấy không ngạc nhiên chút nào trước khám phá
nho nhỏ của chúng ta. Cuốn truyện ngắn của Hallór Laxness, ông đã đọc nó
chưa?”

“Cuốn
truyện viết về Nebuchadnezzar ấy hả? Nó hiện lên trong đầu tôi vài
ngày hôm nay rồi,” Erlendur trả lời.

“Có phải
nó được gọi là “Lily” phải không, cuốn truyện ấy? Tôi đọc cuốn đó lâu
lắm rồi, nhưng nó nói về một số sinh viên y khoa đã đánh cắp xác chết và thay
thế đá vào trong quan tài. Ngày xưa không ai kiểm soát chuyện đó, đúng y như
câu chuyện đã mô tả. Những người chết trong bệnh viện phải được phẫu thuật tử
thi trừ khi việc đó bị cấm và tất nhiên việc khám nghiệm đó được tiến hành để
phục vụ cho mục đích giảng dạy. Đôi khi các mẫu vật bị lấy đi và thực tế chúng
có thể là bất cứ thứ gì, từ các cơ quan nội tạng còn nguyên cho đến những mẫu
vật rất nhỏ. Sau đó mọi thứ được gói ghém lại và người đó được chôn cất tử tế. Ngày
nay thì khác. Cuộc khám nghiệm tử thi chỉ có thể diễn ra dưới sự đồng ý của
người nhà bệnh nhân, và các cơ quan bị lấy đi để nghiên cứu và phục vụ cho mục
đích giảng dạy chỉ khi một số điều kiện nào đó được đáp ứng. Tôi không nghĩ bây
giờ còn có vụ ăn cắp nội tạng nào nữa.”

“Ông
không nghĩ thế ư?”

Viên bác
sĩ nhún vai.

“Chúng ta
đang không nói đến việc cấy ghép nội tạng đấy chứ?” Erlendur hỏi.

“Đó là
một vấn đề hoàn toàn khác. Người ta thường chuẩn bị sẵn sàng để có thể giúp
người khác nếu như đó là vấn đề sống - chết.”

“Vậy ngân
hàng nội tạng ở đâu?”

“Riêng
trong tòa nhà này đã có hàng nghìn mẫu vật,” ông bác sĩ nói. “Ở đây, Barónsstígur.
Phần lớn nhất của nó chính là bộ sưu tập Dungal, đây là ngân hàng mẫu sinh học
lớn nhất Iceland.”

“Ông có
thể chỉ nó cho tôi được không” Erlendur hỏi. “Có bản ghi chép nào về nguồn gốc
các mẫu vật không?”

“Tất cả
chúng đều được ghi chép lại cẩn thận. Tôi đã mạo phép tìm kiếm mẫu vật của
chúng ta nhưng không tìm ra nó.”

“Thế nó ở
đâu?”

“Ông phải
nói chuyện với bà giáo sư và nghe xem bà ta nói gì. Tôi nghĩ là có mấy bản ghi
chép ở trường đại học đấy.”

“Tại sao
ông không nói với tôi ngay từ đầu?” Erlendur hỏi. “Khi mà ông phát hiện ra bộ
não đã bị mất? Ông đã biết chuyện đó rồi ư?”

“Hãy đến
nói chuyện với bà ta rồi hãy quay lại. Có lẽ tôi đã nói với ông quá nhiều rồi.”

“Tất cả
ghi chép về các bộ sưu tập đều ở trong trường đại học à?”

“Theo tôi
biết thì như thế,” ông bác sĩ nói, cho Erlendur biết tên của bà giáo sư và nói
rằng ông ta phải tiếp tục làm việc của mình.

“Vậy là
ông biết về Jar City”, Erlendur kết luận.

“Người ta
từng gọi một căn phòng ở đây là Jar City,” ông bác sĩ nói. “Bây giờ
nó đóng cửa rồi. Đừng hỏi tôi xem chuyện gì đã xảy ra với những cái chai lọ, tôi
chẳng biết gì cả đâu.”

“Ông
không thấy thoải mái khi nói về chuyện này à?”

“Ông làm
ơn dừng lại đi.”

“Sao cơ?”

“Dừng
lại!”

Bà giáo
sư, Hanna, trưởng khoa Y của trường Đại học Iceland, nhìn chằm chằm vào
Erlendur như thể ông là một con bệnh ung thư cần phải được đưa ra khỏi văn
phòng của mình ngay lập tức. Bà ta có vẻ trẻ hơn Erlendur nhưng rất mạnh mẽ, nói
nhanh và đáp nhanh, khiến người ta có cảm giác là bà ta không thể chịu
được bất kỳ sự lạc đề vô nghĩa hoặc không cần thiết nào. Bà ta yêu cầu
Erlendur đi thẳng vào vấn đề một cách khá xấc xược khi ông chuẩn bị trình
bày một bài diễn thuyết dài về lý do tại sao ông lại có mặt ở đây. Erlendur mỉm
cười với chính mình. Ông bắt đầu thấy có chút yêu mến bà và biết rằng họ sẽ
hiểu ý nhau trước khi cuộc gặp kết thúc. Bà ta mặc bộ quần áo màu đen, mập mạp,
không trang điểm, thấp, tóc vàng, đôi tay linh hoạt, nét mặt nghiêm túc và sâu
sắc. Erlendur muốn trông thấy bà ta cười, nhưng mong ước đó không thành sự thật.

Ông làm
phiền Hanna khi bà đang dạy học. Ông gõ cửa để hỏi bà như thể ông đang bị lạc
đường. Hanna ra mở cửa và nhẹ nhàng yêu cầu ông chờ đến khi giờ học kết thúc. Erlendur
đứng ở hành lang, giống như là bị tóm vì đã trốn học, khoảng tầm 15 phút trước
khi cửa mở. Hanna sải bước ra hành lang, đi qua Erlendur và bảo ông đi theo
mình. Ông thấy khó khăn trong việc đó. Bà ta dường như đã bước được hai bước trong khi ông
mới bước được một.

“Tôi
không thể hiểu Cục điều tra hình sự cần gì ở tôi,” bà ta nói khi lướt qua, hơi
quay đầu lại một chút như để xem Erlendur có theo kịp mình không.

“Bà sẽ
biết thôi,” Erlendur thở hổn hển.

“Đương
nhiên là tôi mong vậy,” Hanna nói và đưa ông về phía văn phòng của mình.

Khi
Erlendur nói về mối bận tâm của mình, bà ta ngồi xuống và nghĩ ngợi về chuyện
đó một lúc lâu. Erlendur cố gắng làm bà ta nói chậm lại một chút khi kể về
Audur và người mẹ, về quá trình phân tích và bộ não đã bị lấy đi.

“Ông nói
là cô bé được điều trị ở bệnh viện nào?” Cuối cùng bà ta hỏi.

“Keflavík.
Bà lấy các nội tạng để dạy học như thế nào?”

Hanna
nhìn ông chằm chằm.

“Tôi
không hiểu ông đang ám chỉ điều gì.”

“Bà sử
dụng nội tạng của con người để phục vụ cho mục đích dạy học,” Erlendur nói. “Các
mẫu sinh học, tôi nghĩ chúng được gọi như vậy, tôi không phải là chuyên gia, nhưng
câu hỏi rất đơn giản: Bà lấy chúng ở đâu?”

“Tôi
không cho là tôi cần phải nói với ông bất kỳ điều gì về chuyện đó,” bà ta nói
rồi bắt đầu động đến mấy đống giấy tờ trên bàn như thể mình đang quá bận đến
nỗi không có thời gian để ý đến Erlendur.

“Chuyện
này rất quan trọng với chúng tôi,” Erlendur nói, “với cảnh sát chúng tôi, để
tìm ra xem liệu bộ não có còn tồn tại khồng. Rất có thể nó vẫn còn trong bộ sưu
tập của bà. Hồi đó nó đã được nghiên cứu nhưng người ta không trả nó về đúng chỗ.
Có thể có một lời giải thích hoàn toàn thẳng thắn. Người ta phải mất thời
gian để nghiên cứu nhưng cái xác thì cần phải chôn. Trường đại học và các bệnh
viện là những nơi có khả năng lưu trữ nội tạng lớn nhất. Bà có thể ngồi đó với
khuôn mặt lạnh như tiền, nhưng tôi cũng có thể làm vài điều gì đó gây chút rắc
rối cho bà, cho trường đại học và các bệnh viện. Hãy nghĩ đến việc đôi khi giới
truyền thông có thể gây phiền toái đến mức nào, và tình cờ tôi lại quen vài
người bạn làm báo...”

Hanna
nhìn Erlendur thật lâu, và bà cũng nhận được một cái nhìn chằm chằm tương tự.

“Tôi
không thể nói cho ông biết điều gì cả. Đây là những chuyện khá nhạy cảm.”

“Tôi
không phải đang điều tra một hành động phạm tội,” Erlendur nói. “Thậm chí tôi
còn không biết là nó có liên quan đến việc ăn cắp nội tạng hay không. Việc các
bà làm gì với những người chết không phải là việc của tôi, nếu như nó diễn ra
trong một mức độ có thể chấp nhận được.”

Vẻ mặt
của Hanna càng trở nên dữ tợn hơn.

“Nếu đây
là điều mà nghề y cần, tôi đảm bảo rằng nó có thể biện minh được cho một số
người. Tôi cần phải xác định một bộ phận cụ thể của một cá nhân cụ thể để
nghiên cứu lại nó, và nếu chúng tôi có thể theo dấu nó từ khi nó được lấy ra
cho đến ngày nay thì tôi sẽ rất biết ơn. Đây là thông tin riêng đáp ứng cho mục
đích riêng của tôi.”

“Loại
thông tin riêng tư nào?”

“Tôi
không muốn để chuyện này đi xa hơn. Chúng tôi cần lấy lại bộ phận đó, nếu có
thể. Điều tôi băn khoăn là việc lấy một ít mẫu thử có đủ hay không, liệu bộ
phận đó có cần phải lấy đi toàn bộ không.”

“Tất
nhiên là tôi không biết trường hợp cụ thể mà ông đang nói đến là trường hợp nào,
nhưng ngày nay có những quy định ngặt nghèo và có hiệu lực hơn trong việc
khám nghiệm tử thi so với trong quá khứ,” Hanna nói sau khi nghĩ một hồi. “Nếu
trường hợp này xảy ra vào những năm 1960, chuyện đó có thể diễn ra, tôi không
thể loại trừ điều ấy. Ông nói rằng việc cô bé bị khám nghiệm đi ngược lại mong
muốn của người mẹ. Đây không phải là trường hợp đầu tiên. Ngày nay, chúng tôi
hỏi những người thân ngay sau khi một người bị chết xem có thể thực hiện một
cuộc khám nghiệm tử thi không. Tôi có thể nói là mong muốn của họ được tôn
trọng ngoại trừ một số trường hợp cực kỳ đặc biệt. Trường hợp trẻ em tử vong là
khó giải quyết nhất. Không có cách nào lột tả được hết nỗi đau và tấn bi kịch
mà những người mất con gặp phải, nên câu hỏi về khám nghiệm tử thi là không phù
hợp trong những trường hợp này.”

Hanna dừng lại.

“Chúng
tôi có lưu lại một số trường hợp như thế này trong máy tính,” bà nói tiếp, “và
phần còn lại lưu trong tập tài liệu của tòa nhà này. Người ta giữ những ghi
chép khá tỉ mỉ. Bộ sưu tập nội tạng lớn nhất của các bệnh viện là ở
Barónsstígur. Ông có thể thấy rằng việc giảng dạy về những cơ quan đó rất ít
khi diễn ra trong trường học. Nó được thực hiện chủ yếu ở các bệnh viện. Đó là
nơi khởi nguồn của tri thức.”

“Bác sĩ
pháp y không muốn chỉ cho tôi biết ngân hàng nội tạng.” Erlendur nói. “Ông ta
muốn tôi nói chuyện với bà trước. Trường đại học có gì để nói trong chuyện này
không?”

“Đi nào,”
Hanna nói mà không trả lời câu hỏi của ông. “Xem chúng ta có gì trong máy tính.”

Bà đứng
lên và Erlendur đi theo sau. Bà dùng chìa khóa để mở một căn phòng rộng
thênh thang và nhập mật mã vào một thiết bị an ninh trên tường. Hanna đi đến
một cái bàn và bật máy tính lên trong khi Erlendur nhìn xung quanh. Căn phòng
này không có cửa sổ, có rất nhiều hàng tủ gỗ đầy ắp kê dọc sát tường. Hanna hỏi
tên của Audur và ngày tháng cô bé chết rồi nhập chúng vào máy tính.

“Không có
ở đây,” bà nói trầm ngâm, liếc nhìn vào màn hình. “Các ghi chép của máy tính
chỉ bắt đầu từ năm 1984. Chúng tôi đã số hóa tất cả những dữ liệu từ khi khoa Y
dược thành lập, nhưng chúng tôi không có thông tin nào về Audur trong hồ sơ cả.”

“Vậy thì
có nghĩa thông tin nằm trong các tủ đựng tài liệu kia,” Erlendur nói.

“Thực sự
tôi không có thời gian để làm việc đó,” bà ta nói và nhìn đồng hồ. “Tôi sắp
phải quay lại giảng đường.”

Hanna đi
qua Erlendur một lần nữa và nhìn nhanh xung quanh, bà đi giữa các hàng tủ và
xem xét các nhãn. Bà lôi các ngăn kéo ra rồi lướt qua những tài liệu, nhưng rồi
lại nhanh chóng đóng chúng lại. Erlendur không biết trong những tập tài liệu đó
chứa những gì.

“Các bà
có hồ sơ chữa bệnh ở đây không?” Ông hỏi.

Hanna rên
rỉ. “Đừng có nói với tôi rằng ông ở đây thay mặt cho ủy ban thông tin cơ mật
nhé,” bà nói và đóng sầm một ngăn kéo khác.

“Chỉ hỏi
thôi mà,” Erlendur nói.

Hanna lấy
ra một báo cáo và đọc nó.

“Đây là
một tài liệu các mẫu sinh học,” bà nói. “1968. Có một vài cái tên ở đây. Không
có gì để ông quan tâm đâu.” Bà đặt lại tờ báo cáo vào ngăn kéo và lôi ra một
cái khác. “Đây có một số cái tên nữa,” bà nói. “Đợi chút. Có tên của cô bé ở
đây, Audur, và cả tên của người mẹ nữa. Đây này.”

Hanna đọc
nhanh bản báo cáo.

“Một bộ
phận đã bị lấy ra,” bà nói như với chính mình. “Lấy tại bệnh viện Keflavík.
Mục cho phép của người thân... không có ở đây. Ở đây không nói gì đến cái bộ
phận bị phá hủy.”

Hanna
đóng tập tài liệu. “Chẳng còn thông tin gì nữa.”

“Tôi có
thể xem nó được không?” Erlendur hỏi, không kìm chế sự háo hức.

“Ông
chẳng biết thêm được gì từ nó đâu,” Hanna nói, để tập tài liệu lại chỗ cũ và
đóng lại. “Tôi đã nói cho ông những gì cần biết.”

“Nó nói
gì? Bà đang che giấu gì vậy?”

“Chẳng gì
cả,” Hanna nói, “tôi phải quay lại lớp học của mình đây.”

“Vậy tôi
sẽ lấy lệnh và quay lại trong ngày hôm nay và cái báo cáo đó sẽ ở nơi mà nó nên
ở,” Erlendur nói rồi đi ra phía cửa.

“Ông có
hứa rằng thông tin ở đây sẽ không bị lộ ra ngoài không?” Bà ta nói khi Erlendur
mở cửa và chuẩn bị đi.

“Tôi đã
nói với bà rồi. Đó là thông tin riêng, chỉ riêng tôi biết.”

“Vậy ông
hãy xem đi,” Hanna mở lại ngăn tủ và đưa cho ông tập tài liệu.

Erlendur
đóng cửa, cầm lấy tập tài liệu và đắm mình vào đó. Hanna lấy ra một bao thuốc
và châm một điếu trong khi chờ Erlendur đọc xong. Bà phớt lờ bảng cấm hút thuốc
và không lâu sau căn phòng đã ngập khói.

“Eydal là
ai?”

“Một
trong số những nhà khoa học tài ba nhất của chúng tôi.”

“Có gì ở
đây mà bà không muốn tôi xem? Tôi không thể nói chuyện với người đàn ông
này ư?”

Hanna không trả lời.

“Chuyện
gì đang xảy ra thế?” Erlendur hỏi.

Hanna thở
dài. “Bản thân ông ta có giữ một số cơ quan,” cuối cùng bà nói.

“Người
đàn ông sưu tầm các bộ phận cơ thể người ư?” Erlendur hỏi.

“Ông ấy
giữ một số, một bộ sưu tập nhỏ.”

“Một
người sưu tập nội tạng sao?”

“Đó là
tất cả những gì tôi biết,” Hanna đáp.

“Có thể
là ông ta giữ bộ não,” Erlendur nói. “Ở đây nói rằng người ta đã đưa cho ông ta
một mẫu vật để nghiên cứu. Bà lo ngại về điều đó sao?”

“Ông ấy
là một trong số những nhà khoa học hàng đầu của chúng tôi,” bà ta nhắc lại qua
hàm răng nghiến chặt.

“Ông ta
giữ bộ não của một bé gái bốn tuổi trên bệ lò sưởi nhà mình
đấy!” Erlendur quát lên.

“Có lẽ
ông chưa hiểu được công việc khoa học,” bà nói.

“Thế tôi
phải hiểu điều này thế nào đây?”

“Lẽ ra
tôi không nên để ông vào đây!” Hanna kêu lên.

“Tôi đã
nghe điều đó một lần rồi,” Erlendur nói.

Báo cáo nội dung xấu