Âm phủ - Phần I - Chương 08
Chương Tám
Ngày hôm sau, Tiến sĩ Burrows có mặt trong viện bảo tàng, sắp
xếp tủ nút bên dưới cửa sổ. Ông đang chồm qua kệ trưng bày, để thêm vài cái nút
đồng đã gỉ xanh, mới được lựa ra từ mớ hổ lốn, vào chỗ trưng bày chung với
những hàng nút nhựa dở dở ương ương, những cái nút ngọc trai hay tráng men đủ
màu. Ông hơi mất kiên nhẫn bởi vì những cái chân nút khiến cho những cái nút
không cách gì nằm bằng phẳng trên tấm bảng nền được bọc nỉ, bất kể ông ấn chúng
xuống mạnh cỡ nào. Ông thở hào hển vì giận dữ. Nghe thấy một tiếng còi xe vang
ở ngoài đường, ông ngẫu nhiên liếc nhìn ra.
Thoáng qua khóe mắt ông là hình ảnh một người đàn ông đang đi
bên lề kia của con đường. Hắn đội một cái mũ kết dẹp, mặc một áo khoác dài và
mặc dù trời rõ ràng đầy mây râm mát, chỉ thỉnh thoảng lọt xuống chút nắng, hắn
vẫn đeo một cặp kính râm đen hù. Rất có thể đây là người đàn ông mà Tiến sĩ
Burrows đã đâm sầm phải phía trước tiệm bán báo, nhưng ông không dám chắc, bởi
vì những người này trông y chang nhau.
Những người này có gì mà thu hút sự chú ý của Tiến sĩ Burrows
dữ vậy? Ông cảm nhận tận xương tủy là có điều gì đó rất đặc biệt về họ, điều gì
đó dứt khoát dị thường. Có vẻ như họ vừa bước thẳng ra từ một thời gian khác,
có thể từ thời George, căn cứ vào y phục của họ. Đối với Tiến sĩ Burrows thì
chuyện này có tầm ý nghĩa tương đương với việc tìm ra một mẩu lịch sử sống,
giống những báo cáo mà ông đã đọc về những người đánh cá châu Á giăng lưới bắt
cá vây hay thậm chí một chuyện gì đó còn quái chiêu hơn thế... khám phá một
“kết nối sót” trong tiến hóa của con người chẳng hạn. Những chuyện như vậy
khiến ông mơ mộng và bay bổng khỏi cuộc sống tẻ nhạt và buồn chán của mình.
Không bao giờ là người buông thả vào những cơn ám ảnh, Tiến
sĩ Burrows ngoéo chặt vào thực tế. Phải có một giải thích hợp lý về hiện
tượng người-đội-mũ. Ông quyết tâm phải tìm hiểu hiện tượng đó là
gì.
Ông quyết định ngay tức thì:
- Được. “Ngay bây giờ” là thời điểm tốt nhất.
Ông đặt cái hộp nút xuống và vội vã băng qua viện bảo tàng đi
tới cửa chính, đi ra khóa cửa lại. Khi ông bước ra đường, ông xác định được vị
trí của người-đội-mũ ở đằng trước, bèn đi theo hắn xuống đường
High, giữ một khoảng cách khá lớn giữa hai người.
Tiến sĩ Burrows theo kịp người đàn ông khi hắn bỏ đường High,
quẹo vào đường Disraeli, rồi băng qua đường để quẹo phải vào đường Gladstone,
ngang qua tu viện nữ cũ. Ông đi sau hắn khoảng hai mươi mét, bỗng dưng hắn
ngừng bước đột ngột và quay phắt lại nhìn thẳng vào ông.
Tiến sĩ Burrows rùng mình ớn sợ khi thấy bầu trời phản chiếu
trên mặt kính râm của người đàn ông, biết là trò chơi lộ rồi, nên lập tức quay
mặt về hướng ngược lại. Không biết phải làm sao khác, ông ngồi xổm xuống giả bộ
cột sợi dây giày tưởng tượng của đôi giày chỉ cần xỏ chân vô mang chứ không cần xỏ dây của
ông. Vẫn trong tư thế ngồi chồm hỗm, ông len lén liếc mắt qua vai mình nhưng
người đàn ông kia đã hoàn toàn biến mất.
Hai mắt đảo như điên rà soát con đường, Tiến sĩ Burrows bắt
đầu bước gấp gáp, rồi ù chạy khi tới gần chỗ mà ông đã nhìn thấy đối tượng theo
dõi lần cuối cùng. Tới chỗ đó ông mới phát hiện một lối vào hẹp té giữa hai nhà
tế bần nho nhỏ. Ông hơi ngạc nhiên là hồi nào đến giờ ông đã đi qua đường này
bao phen mà trước đây chưa hề để ý. Lối vào này có một cái cổng mở hình khung
tò vò chạy sâu vô trong như một con đường hầm cho đến khi khuất phía sau nhà tế
bần, rồi lại hiện ra một đoạn ngắn như một con đường hẻm không có vòm che. Tiến
sĩ Burrows dòm vô, nhưng vì ánh sáng không rọi thấu lối đi đó nên ông cũng khó mà
thấy được gì nhiều. Cố nhìn xuyên bóng tối, ông có thể thấy cái gì đó ở cuối
lối đi. Đó là một bức tường, cắt ngang con hẻm. Một ngõ cụt.
Xem xét con đường một lần cuối, ông lắc đầu, không thể nào
tin được. Ông không thể hiểu người đàn ông kia có thể đi lối nào mà biến mất
tăm nhanh chóng như vậy. Ông bèn lấy hơi hít sâu một cái và khỏi bước vào lối
đi. Ông dò dẫm từng bước thận trọng, lo lắng là người đàn ông kia có thể đang
rình ông ở một cánh cửa nào đó ông không nhìn thấy. Khi mắt ông quen với bóng tối,
ông có thể thấy mấy hộp giấy cứng thấm ướt và mấy chai sữa hầu như vỡ cả, lăn
lóc khắp trên mặt đường lát đá. Ông hầu như thấy nhẹ nhõm khi lại bước ra vùng
ánh sáng, bèn đứng lại nghiên cứu hiện trường. Con hẻm được hình thành giữa
những bức tường bao bọc vườn rau bên trái và bên phải, và kết thúc bằng bức
tường của một nhà máy cao ba tầng nằm ở cuối con hẻm. Tòa nhà máy cũ kĩ không
có cửa sổ nào phía dưới tầng lầu chính và không có cách nào khả dĩ giúp cho gã
đàn ông kia trốn thoát.
Vậy thì hắn đã biến vào cái cõi âm ty nào? Tiến sĩ Burrows
thắc mắc khi quay lại nhìn ngược lên con hẻm, nhìn ra con đường, nơi một chiếc
xe hơi vừa vụt thoáng qua. Bên phải của ông, bức tường vườn rau có một cái giàn
cho dây leo cao khoảng một mét chạy dài suốt bức tường, như vậy gã đàn ông kia
hầu như không thể nào leo bức tường này được. Bức tường đối diện thì không có
chướng ngại vật tương tự, nên Tiến sĩ Burrows trèo lên để dòm qua bên kia. Đó
là một khu vườn trơ trụi và nhếch nhác, lèo tèo vài bụi cây xơ xác và một miếng
đất lầy lội ở chỗ lẽ ra là một bãi cỏ. Cảnh này được điểm xuyết bằng mấy cái
đĩa nhựa xỉn màu chứa nước xanh lè.
Tiến sĩ Burrows chăm chú nhìn một cách bất lực mảnh đất riêng
bỏ hoang. Ông suýt quên phứt toàn bộ câu chuyện này cho rồi thì bỗng nghe tim
mình thắt lại. Ông vung cái cặp qua bức tường và ì ạch trèo lên. Ông nhảy
xuống, ê ẩm hơn là ông tưởng, vì ông rớt xuống một bãi sình trong tư thế ngồi.
Ông cố đứng dậy, nhưng giầy của ông mất chỗ tựa nên ông lại ngồi bệt xuống, bàn
tay vươn ra của ông loay hoay quơ trúng một trong mấy cái đĩa, khiến cho chất
nước xanh lè bên trong bắn tung tóe lên cánh tay và đầu cổ của ông. Ông chửi
thầm ráng phủi cho sạch, rồi gượng đứng lên một phen nữa, chúi ngã, loạng
choạng như một người say, rồi mới lấy lại được thăng bằng.
- Khỉ! Khỉ! Khỉ thiệt!
Ông nghiến răng lầu bầu, vừa lúc có tiếng cửa mở phía sau
lưng ông. Một giọng nói e dè hỏi:
- Chào? Ai đấy? Có chuyện gì thế?
Tiến sĩ Burrows xoay người lại đối diện một bà già đứng cách
ông chừng hai thước, chung quanh chân bà là ba con mèo đang lom lom nhìn ông
bằng ánh mắt thờ ơ nham hiểm.
Bà già có lẽ không nhìn được rõ lắm, căn cứ theo cách bà ngúc
ngoắc cái đầu. Tóc bà trắng như cước, khoác một cái áo hoa mặc trong nhà. Tiến
sĩ Burrows đoán bà già ít nhất trên tám chục tuổi.
Không thể nghĩ ra được cớ gì để giải thích tại sao hay làm
cách nào mà ông lại có mặt ở đó, Tiến sĩ Burrows nói:
- Ơ... Roger Burrows, hân hạnh được gặp bà.
Nét mặt của bà già bỗng nhiên thay đổi.
- Ôi, Tiến sĩ Burrows, ông ghé qua đây quả là tử tế. Đúng là
một ngạc nhiên thú vị.
Bản thân Tiến sĩ Burrows cũng ngạc nhiên, và không phải không
bối rối:
- Vâng... Ơ... À, tôi tình cờ đi ngang qua đây.
- Ông quả là lịch sự. Thời nay hiếm gặp người lịch sự như
thế. Ông đến thăm thật quý hóa.
Ông ngập ngừng đáp lại:
- Ơ... không có chi. Tôi rất vui mừng.
- Chẳng là hơi neo đơn, chỉ có mấy con mèo để hủ hỉ. Ông vào
nhà uống trà nhé? Ấm nước đang sôi.
Tiến sĩ Burrows còn đang lưỡng lự - ông đã nhắm trước chuyện
sẽ phải nhanh chóng vọt qua bức tường đào tẩu khi nhác thấy bà già. Sự tiếp đón
nồng hậu và hiếu khách này thật là ngoài sự mong đợi. Không biết nói sao, ông
chỉ gật đầu rồi bước tới trước, giầy của ông lại giẫm phải một cái đĩa khác,
làm văng nước bên trong đĩa lên ống quần của ông. Ông dừng bước để gỡ một cục
rêu nhớt dính vào vớ.
Bà già nói:
- Ôi, Tiến sĩ Burrows, cẩn thận nhé. Tôi đặt mấy đĩa đó cho
chim ấy mà.
Bà quay đi, đám mèo tùy tùng phóng vọt vô bếp trước.
- Sữa hay đường?
- Vâng.
Tiến sĩ Burrows nói, vẫn đứng bên ngoài cửa nhà bếp trong khi
bà già lăng xăng quanh bếp, lấy ấm trà trên kệ xuống.
- Tôi xin lỗi là đã đến mà không báo trước như vầy.
Tiến sĩ Burrows nói trong nỗ lực khỏa lấp sự im lặng.
- Bà thiệt là tử tế.
- Ấy chớ, ông mới là người tử tế. Tôi phải cám ơn ông.
- Sao vậy?
Ông phát cà lăm, vẫn còn bấn loạn tìm cách biết được chính
xác bà già này là ai.
- Vì lá thư rất lịch sự của ông đấy. Bây giờ tôi đọc không
được rõ như xưa nữa, nhưng ông Embers đọc giùm.
Bỗng nhiên đâu đó rõ như ban ngày và Tiến sĩ Burrows thở phào
nhẹ nhõm, màn sương mù mờ được làn gió mát hiểu ra thổi tan biến.
- Trái cầu phát sáng! Thưa bà Tantrumi, cái đó chắc chắn là
một mẫu vật đáng tò mò.
- A, hay thế cơ?
- Có lẽ ông Embers đã nói với bà là nó cần được kiểm tra.
Bà nói:
- Vâng. Chúng ta không muốn mọi người đều bị radio điều
khiển, nhỉ?
- Không ạ.
Tiến sĩ Burrows tán đồng, cố gắng không mỉm cười.
- Chẳng được việc lắm. Bà Tantrumi à, lý do tôi ghé qua là...
Bà già nghiêng đầu sang một bên, hồi hộp chờ ông nói tiếp
trong khi tay vẫn khuấy trà. Ông đành nói nốt:
- ... À, tôi mong bà có thể chỉ cho tôi chỗ bà đã tìm ra nó.
- Ấy không, nào phải tôi - chính là những người thợ
gas ấy. Bánh bông lan hay kem trứng?
Bà nói, vừa đưa ra một hộp thiếc méo mó đựng bánh.
- Ơ... xin bánh bông lan ạ. Bà nói là mấy người thợ gas tìm
ra nó à?
- Chính họ đấy. Ngay bên trong tầng hầm.
- Dưới đó?
Tiến sĩ Burrows hỏi, nhìn về phía cánh cửa mở ở dưới chân của
một cái cầu thang ngắn.
- Bà cho phép tôi ngó qua một cái được không?
Ông nhét cái bánh bông lan vô túi áo khoác vì phải đối phó
với mấy bậc cầu thang bằng gạch mốc rêu.
Khi đã bước qua ngưỡng cửa ông có thể thấy tầng hầm được chia
làm hai phòng. Phòng đầu tiên để trống, chỉ có mấy cái đĩa đựng đồ ăn cực kỳ
đen và khô cho mèo, dây thun rơi vãi khắp sàn. Ông bước qua phòng thứ hai, nằm dưới
phần trước của căn nhà. Nó gần giống như phòng thứ nhất, ngoại trừ ánh sáng
trong phòng này kém hơn và có thêm một số bàn ghế. Khi đảo mắt nhìn quanh ông
thấy một cái dương cầm dựng đứng ở một góc, coi bộ sắp rã rời từng mảnh vì ẩm
mục, và khuất trong góc tối là một tủ quần áo có mặt gương bể. Ông mở cánh cửa
tủ ra và đứng lặng.
Ông hít hửi nhiều lần, nhận ra cùng một mùi ẩm mốc mà ông đã
ngửi thấy ở gã đàn ông đụng phải trên đường và ở ống thông gió trong ngôi nhà
của Penny Hanson. Khi mắt ông đã quen với bóng tối ông có thể thấy bên trong tủ
có nhiều chiếc áo khoác - theo như ông có thể phân biệt thì chúng đều
màu đen - và khá nhiều những chiếc mũ kết dẹp và nhiều thứ đội đầu
khác nhau chất chồng trong một ngăn tủ ở một bên.
Điều đáng chú ý là bên trong tủ quần áo không có vẻ lộm cộm
như mọi thứ chung quanh, cái nào cũng bị phủ một lớp bụi dày. Hon nữa, khi ông
xê dịch nó ra khỏi tường để coi có cái gì sau lưng tủ không thì cái tủ hóa ra
là còn tốt một cách lạ lùng. Không kiếm ra gì cả phía sau tủ, ông hướng sự chú
ý trở vào bên trong tủ.
Bên dưới ngăn đựng mũ ông tìm thấy một ngăn kéo nhỏ hé mở.
Bên trong có năm hay sáu cặp kính, cầm một cặp kính và lấy một cái áo khoác ra
khỏi móc treo áo ông đi trở lên khu vườn.
Từ dưới chân cầu thang ông gọi:
- Bà Tantrumi ơi!
Bà già đủng đỉnh đi tới cửa nhà bếp.
- Bà có biết là trong tủ áo dưới tầng hầm còn có vài thứ đồ
đạc không?
- Thế ư?
- Vâng, một số áo khoác và kính râm. Có phải của bà không?
- Không, tôi ít khi nào đi xuống dưới. Nền mấp mô quá. Ông có
thể đem chúng lại gần hơn để tôi nhìn thử xem.
Ông đi lại gần cửa bếp. Bà đưa tay ra để lướt mấy ngón tay
vào lớp vải áo khoác như thể bà đang vuốt ve cái đầu của một con mèo thân quen.
Cảm giác dày và bóng, bà thấy cái áo khoác này thật lạ lẫm. Kiểu ráp áo đã xưa
với một miếng đắp vai bằng chất liệu vải còn dày hơn nữa. Bà nói cho qua chuyện
rồi quay lại nhà bếp:
- Tôi không thể nói là trước đây tôi đã từng thấy cái này. Có
thể là chồng tôi, Chúa phù hộ linh hồn ông ấy, đã bỏ chúng dưới đó.
Tiến sĩ Burrows xem xét kĩ cặp kính râm. Nó gồm hai miếng
kính dày và phẳng lì, hầu như bằng thủy tinh đục, tương tự kính bảo hộ của thợ
hàn, với những lò xo tinh xảo kỳ lạ ở hai bên gọng kính, rõ ràng để giữ kính
bám gọn vào đầu người đeo. Ông đâm ra thắc mắc. Tại sao những người lạ cất giữ
đồ đạc riêng trong một cái tủ quần áo hết xài trong một tầng hầm bỏ trống?
- Có ai đến đây không bà Tantrumi?
Tiến sĩ Burrows hỏi trong lúc bà rót trà bằng bàn tay run lẩy
bẩy, cái vòi ấm trà chạm lanh canh vào miệng cái tách dữ dội đến nỗi ông tưởng
bà sắp hất luôn cái tách ra khỏi cái đĩa. Tiếng lanh canh tạm ngưng khi bà tỏ
ra bối rối. Bà nói, như thể Tiến sĩ Burrows vừa giả định rằng bà làm điều gì đó
không được đứng đắn lắm.
- Tôi thật tình không hiểu ông ngụ ý gì?
- Chẳng qua là vì tôi vừa thấy vài nhân vật kỳ quái lẩn quẩn
quanh khu phố này - luôn mặc áo khoác to và đeo kính râm, giống những
thứ này...
Bà già lộ vẻ lo lắng khiến Tiến sĩ Burrows ấp úng.
- Ôi, tôi mong những người đó không phải là hạng tội phạm
người ta hay nghe nói. Tôi chẳng còn thấy an ninh ở đây nữa - Tuy là
ông Oscar bạn tôi rất tử tế. Hầu như chiều nào ông cũng đến thăm tôi. Ông thấy
đó, tôi chẳng còn ai là thân thích nữa, chẳng còn gia đình. Con trai tôi đã đi
Mỹ, ông biết đấy. Nó là đứa con trai giỏi giang. Công ty nó làm việc đã đưa nó
và vợ nó đi...
- Vậy là bà chưa từng gặp những người mặc áo khoác như
vầy - những người đàn ông tóc trắng?
- À, không hề, không thể hiểu là ông đang nói về cái gì.
Bà già nhìn ông dò hỏi, rồi tiếp tục rót trà.
- Mời ông vào và ngồi chơi.
- Tôi cất những thứ này đã.
Tiến sĩ Burrows nói rồi quay trở xuống tầng hầm. Trước khi
rời khỏi tầng hầm ông không thể đừng kiểm tra nhanh cái dương cầm, nhấc cái nắp
đàn lên, ấn thử vài phím, gây nên vài âm thanh từng tưng rè rè và hoàn toàn lạc
tông. Ông thử kéo nó ra khỏi tường, nhưng nó kêu rít lên và dọa rã ra từng
mảnh, nên ông dừng tay lại. Sau đó ông đi vòng quanh cả hai căn phòng dưới tầng
hầm, giẫm giẫm chần xuống nền hầm, hi vọng phát hiện ra một cái cửa sập. Ông
cũng làm vậy trong khu vườn nhỏ, giẫm giẫm chân quanh bãi cỏ đồng thời tránh
giẫm lên mấy cái đĩa nhựa, và luôn tò mò để mắt đến chiếc xe hơi của bà
Tantrumi.
Ở đầu kia của thành phố, Chester và Will đã trở lại đường hầm
trong khu Bốn chục Hố.
- Ba mày nói sao? Ổng cho là tụi mình đã tìm được cái gì?
Chester hỏi trong lúc Will dùng một cái vồ và một cái dùi để
khượi ra lớp hồ giữa những viên gạch của cái cấu trúc chưa xác định được.
- Cha con tao đã coi lại mấy tấm bản đồ và thấy không có gì
trên đó.
Will nói dối vì hồi tối nó đi ngủ trước khi Tiến sĩ Burrows
ra khỏi tầng hầm, và trước khi Will thức dậy vào buổi sáng thì ông đã ra khỏi
nhà.
- Không có ống cấp nước hay cống tháo nước hay bất cứ cái gì
trong khu vực này.
Will nói tiếp, cố gắng thuyết phục Chester.
- Mày biết không, gạch xây rất chắc - cái này xây
để đời.
Will đã gỡ ra được hai lớp gạch, nhưng vẫn chưa đục thủng
tường. Will nói, ra sức gấp đôi đục bức tường gạch,
- Nghe đây: nếu tao sai vụ này và cái gì đó ào ra, mày hãy
liệu làm sao ra được tới phía bên kia của căn phòng lớn. Dòng chảy sẽ đưa mày
lên tới cửa hầm.
- Cái gì?
Chester hỏi lại ngay.
- Một dòng chảy... đưa tao lên hả? Tao không thích nghe cái
điệu đó chút nào. Tao dông đây.
Nó quay đi, dừng bước một chút như thể chưa dứt khoát, rồi
quyết định và đi về phía gian phòng chính, vừa đi vừa lầm bầm một mình.
Will chỉ nhún vai. Không có chuyện nó sẽ ngừng lại, nhất là
khi có khả năng nó sẽ đưa ra ánh sáng một bí mật kỳ diệu nào đó, một bí mật
quan trọng đến nỗi cha nó phải sửng sốt, và chính nó đã một mình khám phá ra.
Và sẽ chẳng có ai ngăn được nó, kể cả Chester. Will lập tức tiếp tục đục quanh
một viên gạch khác, khượi từng mẩu vụn hồ vữa sát mép viên gạch.
Thình lình, một phần hồ bỗng nổ bụp thành một tiếng xì hơi,
và một mảng hồ bắn xuyên thẳng qua hai bàn tay đeo găng của Will như một viên
đạn đá chạm vào bức tường đường hầm sau lưng nó. Nó làm rớt dụng cụ và ngã ngửa
ra nền đất kinh ngạc. Nó lúc lắc đầu, lồm cồm đứng dậy, bắt tay vào công việc
gỡ viên gạch, và làm xong trong vòng vài giây.
Will gọi:
- Ê, Chester!
- Hả? Cái gì?
Giọng Chester cộc cằn vang lại từ gian phòng chính.
- Cái gì hả?
- Không có nước!
Will hét trả lại, giọng nó dội lại âm hưởng kỳ cục.
- Lại đây mà coi!
Chester bất đắc dĩ lần ngược lại dấu chân của nó. Nó thấy
Will quả thật đã đục thủng bức tường, và đang áp mặt nó vào cái lỗ hổng nó vừa
đục ra, hít hửi không khí.
Will nói:
- Chắc chắn đây không phải là ống cống, nhưng nó đã bị nén
khí.
- Có thể là một ống dẫn khí chăng?
- Không, chẳng có mùi như vậy, với lại nó được làm bằng gạch
mà. Ước chừng theo tiếng vọng thì nó sâu rộng lắm.
Mắt Will lóe lên tia sáng cảnh giác.
- Tao biết là tụi mình bắt được cái gì đó. Mày lấy giùm tao cây đèn cầy và cây
roi sắt ở gian phòng lớn, được không?
Khi Chester quay trở lại, Will thắp cây đèn cầy khá xa cái lỗ
rồi giơ nó ra trước mặt, chầm chậm tiến càng lúc càng gần cái lỗ, cứ mỗi bước
chân lại chăm chú quan sát ngọn đèn cầy.
Chester quan sát như bị thôi miên. Nó hỏi:
- Làm vậy để chi?
Will trả lời một cách đơn giản:
- Nếu có khí mày sẽ nhận thấy cách đèn cháy có khác đi. Khi
người ta phá mộ Kim Tự Tháp người ta cũng làm như vầy.
Nhưng chẳng có thay đổi gì trong ánh đèn bập bùng khi Will
cầm đèn tới gần hơn, rồi giơ thẳng tới trước, đưa vào lỗ trống.
- Coi bộ tụi mình an toàn rồi.
Will nói khi nó thổi ngọn đèn cầy và với lấy cây roi sắt mà
Chester đã đặt tựa vào vách đường hầm. Nó cẩn thận kéo thẳng cây roi ba thước
đưa vào cái lỗ rồi nhét roi qua, ấn cây roi đến khi chỉ còn thò ra một khúc
ngắn giữa hai viên gạch.
- Nó không chạm vô cái gì hết - cái này bự lắm.
Will nói vẻ phấn khích, càm ràm vì ráng sức khi kiểm tra
chiều sâu bằng cách thòng một đầu roi xuống đu đưa.
- Nhưng tao nghĩ tao có thể cảm nhận được cái có thể là đáy.
Được, tụi mình banh cái lỗ này rộng ra chút nữa.
Hai đứa cùng làm và chỉ lát sau đã gỡ ra được đủ số gạch để
Will thò đầu qua trước mà trượt xuống. Nó đụng đáy kèm một tiếng rên tắc nghẹn.
Chester gọi:
- Mày có sao không, Will?
- Không sao, chỉ té một phát.
Will đáp.
- Mày thò chân qua trước, tao sẽ đỡ mày xuống.
Chester chui qua lọt sau khi cố gắng hết sức, vai nó rộng hơn
vai Will. Khi Chester đã vô được bên trong, cả hai đứa nhìn quanh quất.
Đó là một căn phòng bát giác, mỗi bức tường dựng theo tám
cạnh uốn cong lên trên để hội tụ ở điểm trung tâm phía trên đầu tụi nó khoảng
sáu mét. Ở điểm hội tụ có cái gì đó giống như một hoa hồng chạm trổ từ đá. Hai
đứa giơ đèn lên soi với vẻ tôn kính lặng lẽ, thưởng ngoạn công trình xây bằng
gạch hoàn hảo này với những trang trí hình chuỗi hạt Gô-tích[3]. Sàn cũng
được lát kiểu gạch đấu đầu nhau.
[3] Gothic: hình thức nghệ thuật
thời trung cổ, trong đó có kiến trúc, bắt đầu từ thế kỉ XIII. Kiến trúc đặc
trưng có vòm nhọn, thịnh hành ở Anh vào thế kỉ XVIII.
Chester thì thầm:
- Kinh thật! Ai mà ngờ được một phát hiện như vầy!
Will nói:
- Giống như một hầm mộ nhà thờ, đúng không? Nhưng điều lạ
lùng nhất là…
- Gì?
Chester rọi đèn vào Will.
- Nó hoàn toàn khô khốc. Và không khí cũng có mùi như hăng
hắc. Tao không chắc…
Chester đột ngột nói, vừa rọi đèn chung quanh sàn rồi hướng
ánh sáng lên bức tường gần nó nhất.
- Mày thấy cái này chưa, Will? Có gì đó được ghi trên gạch.
Viên nào cũng có!
Will lập tức xoay vòng để nghiên cứu bức tường gần nó, đọc
những chữ viết kiểu Gô-tích được khắc công phu trên mặt mỗi viên gạch.
- Mày nói đúng. Những chữ này là tên: James Hobart, Andrew
Kellogg, William Butts, John Cooper...
Chester nói:
- Simon Jennings, Daniel Lethbridge, Silas Samuels, Abe
Winterbotham, Caryll Pickering... phải có tới cả ngàn cái tên trong này.
Will rút từ thắt lưng nó ra một cái vồ nhỏ, bắt đầu gõ lên
tường, lắng nghe âm thanh để xem có dấu hiệu nào của một chỗ rỗng, hay một
đường hầm tiếp giáp nào không. Nó gõ ra vẻ có phương pháp lắm, được hai bức
tường trong số tám bức, thì không rõ vì lý do gì nó bỗng nhiên ngừng. Nó vỗ một
bàn tay lên trán, nuốt nước miếng một cách khó khăn.
Nó hỏi Chester:
- Mày có cảm thấy vậy không?
Chester tỏ ra đồng cảm, chọc một ngón tay đeo găng vào lỗ
tai.
- Ừ, lỗ tai tao lùng bùng. Giống như khi máy bay cất cánh.
Cả hai đứa cùng im lặng, như thể chờ đợi điều gì đó sắp xảy
ra. Tụi nó cảm thấy một cơn chấn động, một âm vọng không nghe rõ, giống như một
nốt trầm của cây đàn organ - đang gia tăng bập bùng, dường như ngay
trong đầu tụi nó.
Chester nhìn bạn nó, dứt khoát nói:
- Tao thấy tụi mình phải ra khỏi đây.
Nó nuốt nước miếng, bây giờ không phải vì lùng bùng lỗ tai
nữa, mà vì những cơn buồn nôn đang trào lên trong bụng nó.
Lần này, chỉ một lần này, Will không bất đồng ý kiến. Nó há
miệng hớp hơi, thốt được một tiếng “ừ”, mắt chớp chớp vì không còn nhìn rõ
trước mắt nữa.
Cả hai lật đật trèo ngược lên lỗ hổng, rồi chạy về gian phòng
lớn ngồi phịch xuống hai cái ghế bành. Cái cảm giác khó chịu không giải thích
được chấm dứt ngay khi tụi nó ra khỏi căn hầm bất giác, mặc dù lúc đó tụi nó
không nói gì với nhau về chuyện đó.
Chester há rộng miệng để giãn quai hàm, áp hai bàn tai lên
hai tai, hỏi:
- Cái gì ở trong đó hồi nãy?
Will trả lời:
- Tao không biết. Tao sẽ kêu ba tao xuống coi - Ba
có thể giải thích. Chắc là áp suất tích tụ hay gì đó.
- Mày có thực sự tin đó là một hầm mộ, bên dưới một nhà thờ
hồi xưa không... Tất cả những cái tên đó là sao?
Will đăm chiêu suy nghĩ, trả lời:
- Có thể. Nhưng ai đó, nghệ nhân hay thợ đá, đã xây nó rất kĩ
lưỡng, không để dư chút đầu thừa đuôi thẹo nào khi xong việc, rồi phong kín nó
cũng rất kĩ. Mắc gì ai đó phải mất công làm như vậy chứ?
- Mày nói phải, tao đã không nghĩ tới điều đó.
- Và không có lối ra vô nào hết. Tao không tìm ra dấu vết nào
của hành lang liên kết - không một cái nào. Một căn phòng độc lập
khắc đầy những cái tên, giống như một kiểu bia tưởng niệm hay gì đó.
Will trầm ngâm, trông ngố hết chỗ nói.
- Bây giờ tụi mình làm gì nữa đây?