CHƯƠNG 14: TẾT TRUNG NGUYÊN
Thoáng chốc, Lễ Trung Nguyên đã đến.
Vẫn còn nhớ khi xưa, lần đầu tiên đi chùa Tiêu cùng gia đình tham gia lễ Vu Lan rằm tháng 7 âm lịch. Bước qua cổng tam quan vào chánh điện, bọn trẻ con chúng ta ngồi hòa cùng với dòng người ở lễ đài, mải mê nghe các sư kể về sự tích và ý nghĩa của ngày Vu Lan.
“Bồ Tát Mục Kiền Liên là một trong 10 vị đệ tử xuất chúng của Đức Phật. Khi Ngài đạt thành chánh quả, Ngài nhớ đến người mẹ của mình đang trong cõi ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ. Ngài đã sử dụng tuệ nhãn kiếm tìm mẹ mình trong toàn cõi trời đất và đã giúp đỡ mẹ mình bằng cách dâng bát cơm. Tuy nhiên, do mẹ của Ngài còn quá sân si và có ác nghiệp quá nặng, nên khi đưa cơm vào miệng cơm luôn biến thành lửa. Tôn giả Mục Kiền Liên dùng hết cách không thể cứu mẹ nên đã quay về hỏi Đức Phật. Đức Phật dạy rằng chỉ có sự hợp lực của chư tăng khắp nơi, sau 3 tháng an cư kiết hạ cùng tập trung chú nguyện mới có thể chuyển hoá được nghiệp lực giúp mẹ Ngài thoát khỏi cảnh khổ. Tôn giả Mục Kiền Liên đã làm theo lời dạy của Đức Phật, cùng với chư tăng cùng tập trung chú nguyện và lễ cúng vào ngày Rằm tháng 7 Âm lịch. Cuối cùng, mẹ của Ngài đã được giải thoát.”
Trong dịp này Đức Phật cũng dạy: Chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu-Lan-Bồn Pháp) mà làm. Từ đó, ngày Lễ Vu Lan ra đời.
Vẫn nhớ như in cảm giác háo hức của tụi trẻ con khi xếp hàng nhận những bông hoa màu đỏ từ các sư thầy, cài trên ngực áo lam rộng thùng thình, đối với chúng ta khi đó như là một sự hãnh diện đi đôi với niềm vui sướng để đi khoe với nhau.
Và rồi chúng ta hí hoáy viết điều ước trên mẩu giấy con con với nét chữ nghệch ngoạc , gấp lại vuông vắn và thả trong chiếc hoa đăng hình hoa sen bằng giấy, đủ màu, thả xuống làn nước dập dìu. Tay chắp lại trước ngực, mắt nhắm nghiền, miệng lẩm nhẩm cầu khẩn cho những điều ước của mình sẽ được Phật trời chứng giám.
Nhà Lý vốn coi trọng đạo Phật nên dịp lễ lớn thế này không thể thiếu cảnh ăn mừng chúc tụng. Trong cung, những chiếc đèn lồng đỏ vàng được treo khắp nơi, dọc các dãy hành lang, khắp các cung điện lầu các, ở những khoảng sân, dây được giăng lên và treo đèn lồng trên cao nhìn như những chú đom đóm đang phát sáng, lượn lờ giữa không trung. Những chiếc đèn hoa đăng bằng giấy đủ màu với ánh lửa rực rỡ, nhảy múa ở trung tâm ngọn đèn, được người ta đặt khắp các bậc thang, tháp đèn hay xếp thành những hình cánh hoa, chữ có ý nghĩa tốt lành khắp khu vực sân Đan Trì - nơi thiết đãi tiệc trước điện Thiên An.
Những lá phướn may bằng lụa bóng, với chiếc đuôi tua rua đủ 5 màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen tương ứng với ngũ hành và ngũ tạng trong thân thể, được treo trước điện Thiên An, Tuyên Đức, Diên Phúc cùng 2 dãy hành lang hai bên, bay lất phất trong gió.
Hoa huệ, cúc, mẫu đơn chen nhau đua sắc trong những chậu cây, bình gốm trải dài khắp các lối đi từ cửa chính đến sảnh tiệc và trên bàn tiệc.
Sau hàng loạt các nghi lễ buổi sáng, nghe các chư tăng tụng kinh và thuyết giảng, vài trăm con người gồm quý tộc và quan lại lại quây quần bên bàn tiệc. Cùng nhau thưởng thức cảnh sắc hoàng cung lộng lẫy vào ban đêm, dưới ánh trăng tròn đầy phúng phính như chiếc bánh trôi ngày Lễ Hàn Thực. Màu trắng của bột tẻ và bột nếp quyện vào nhau nổi bần bật trên nền trời là chén chè mè đen, những ngôi sao là những hạt vừng trắng li ti, rải lác đác khắp cả bề mặt.
Ta ngồi giữa Thái Úy Trần Thừa và Trần Thị ở chiếu trên, các quan văn võ trong triều - đứng đầu là Điện điền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ cùng vợ ngồi chiếu dưới.
Trần Thừa nay là Thái úy, cùng Trần Thị nắm quyền, hai người có nét giống nhau nhưng thật khó diễn tả là giống ở điểm nào. Có thể là đôi mắt với ánh nhìn suy tư, sống mũi cao với đầu mũi hơi tròn, hay chiếc hàm thanh tú. Khác với Trần Thủ độ mang một nét khó đoán, người đàn ông này lại có khuôn mặt cương nghị, mang chút nét ưu buồn, ánh mắt sắc bén.
Trần Thủ Độ mấy năm trước được ban hôn với một công chúa nhà Lý, hai người cũng đã có một con trai tên Phó Duyệt. Cô công chúa ấy có vẻ là người hướng nội, không thích xã giao. Cả buổi cứ ngồi im, khép nép bên chồng
Trên chiếc bàn nhỏ trước mặt ta có bày chén trà và dĩa bánh oản ban sáng vừa dâng lên cúng Phật.
Bên dưới các quý tộc, quan lại ngồi quay quần theo mâm cỗ 5 người hay 6 người, nam với nam, phụ nữ với phụ nữ, những người bằng vai phải lứa ngồi cùng nhau, trạc tuổi cũng ngồi cùng một mâm. Cung nữ, nội thị tất tả rót đầy rượu xương bồ vào chén rượu ở trước mặt từng người.
Ta cũng được đưa đến chén trà Kiến Trản lông thỏ, bên trong là bạch trà hảo hạng thơm lừng với lớp bọt hoa phủ kín mặt nước, lớp bọt màu tươi trắng, không có chút ngấn nước bám thành chén, nước vừa cách miệng chén đúng 4 phân.
Ta dùng hai tay nâng chén trà lên để ngang tầm mắt, ngắm nghía chén trà từ bên ngoài, sắc chén đen ánh đỏ, vằn vện như lông thỏ. Bởi vì chất liệu đất sét đặc biệt của vùng Phúc Kiến khi nung lên đã tạo nên những hoa văn kì lạ, đặc sắc không nơi nào có được. Thành chén hơi dày, có thể giữ nhiệt cho nước trà khá lâu. Bạch trà chỉ mới thịnh hành thời Tống và chén Kiến Trản đã ra đời như là một vật để tạo sự nổi bật màu sắc của bạch trà.
Đại Việt tất nhiên cũng không thoát khỏi trào lưu này, vài lò gốm còn thử tái hiện lại Kiến Trản của Phúc Kiến nhưng số chén ấy khi đem vào cung, đặt cạnh Kiến Trản chính gốc vẫn có khác biệt lớn, miệng rộng hơn và được phủ lớp men nâu, không thể tái hiện được lớp men đặc biệt của vùng Phúc Kiến. Và tất nhiên sự khác biệt đó cũng làm tăng giá trị của Kiến Trản lên một phần.
Ta lần đầu tiên nhìn thấy cũng đã tấm tắc trước vẻ đẹp đó và suốt ngày đòi uống bạch trà trong chén Kiến Trản. Mấy cung nữ có tay nghề cũng có dịp luyện tập. Cách dùng chổi trà đánh bông bột bạch trà trong chén khiến ta nhớ đến cách uống trà của Nhật Bản thời hiện đại, chắc chỉ mỗi Nhật Bản còn giữ cách uống này đến ngày nay.
Nhạc trống nổi lên từ hai bên hành lang và phía sau. Mọi người bắt đầu hào hứng và trở nên sôi nổi hơn trong tiếng nhạc dập dìu.
Các vũ công, vũ nữ từ từ tiến vào giữa trung tâm bữa tiệc, môi ai cũng cong lên những nụ cười tươi roi rói, ánh mắt lấp lánh phản chiếu những ánh nến đang nhảy múa trong không gian xung quanh. Những bước đi vừa mềm mại, uyển chuyển, thanh thoát, vừa mạnh mẽ, dứt khoát; ứng với mỗi chuyển động là tiếng lục lạc phát ra nhịp nhàng, réo rắt.
Mọi người ánh mắt hướng theo từng chuyển động của những vũ công mà gật gù, tấm tắc, có người thì miệng từ tốn nhấp từng ngụm rượu xương bồ nhưng mắt vẫn say mê không rời những chiếc hài thêu mũi nhọn, cong cong điệu đà đang vẽ những đường uốn lượn trên nền đá của điện Thiên An.
Mũ uốn vành, áo lụa dài tay chẽn, những dải lụa mềm mại vắt ngang hông làm ta không thể liên tưởng đến bất kì phong cách ăn mặc nào ở Đại Việt lúc này. Ta cứ mải mê nhìn với vẻ hiếu kì, nhìn quanh cũng không biết ai để hỏi vì ai cũng đang đắm chìm trong nhạc Thái Thường. Chợt phía dưới, một giọng nói ôn tồn vang lên như giải thích cho tất cả:
- Có vẻ người cũng rất thích những điệu Hồ vũ này Hoàng Thượng.
Đầu ta chợt lóe lên, Hồ vũ thì chắc chắn của người Hồ rồi, họ là những người sống ở Tây Á và Trung Á. Lão sư có lần đã nhắc đến trong bài giảng, có vẻ trong thời kì này, những tộc người phía Bắc và Tây Vực được người Hán nhắc đến với một hàm ý khinh miệt hơn là hữu nghị.
Trần Thủ Độ khẽ cười nhìn hướng về ta, nâng chung rượu lên uống. Ta cũng như giải tỏa được thắc mắc, cũng liền nâng chén trà trước mặt lên hướng hắn khẽ gật đầu rồi uống. Chén Kiến Trản vốn giữ nhiệt tốt nên dù đã pha được 1 lúc, khi dòng nước trà tràn vào khoang miệng, vẫn cảm thấy độ ấm thẩm thấu qua vòm họng, từ từ trôi vào tuột vào bên trong tạo một cảm giác khoan khoái lạ thường. .
Phụ quốc Thái Úy Trần Thừa bỗng cao hứng, cầm ly rượu lên hướng phía ta giọng hào sảng:
- Thần nghe nói việc học của bệ hạ ngày càng tiến bộ, không biết người có thể làm 1 bài thơ để nâng cao nhuệ khí của trăm họ.
Không gian chung quanh chợt rơi vào im lặng và ngượng ngùng, những tiếng xầm xì bên dưới nhỏ dần lại thành tiếng muỗi kêu. Ai cũng đang nhìn ta dọ ý xem bước tiếp theo ta sẽ phản ứng thế nào.
Ta như chết đứng, làm thơ sao? Thái phó ngày nào cũng cho ta chép bài rã tay, đâu ra mà tiến bộ. Ta nhìn chung quanh lộ bộ dạng cầu cứu, liếc khẽ thấy Trần Thủ Độ mắt nhìn đi chỗ khác, nhếch môi cười khẽ, có vẻ chế giễu.
Ta càng hoảng, không biết bọn họ có ý gì mà làm khó một đứa trẻ như ta. Trần Thị quay qua nhẹ nhàng nói, giọng khích lệ:
- Xem thành quả học tập của con thế nào? Để cậu con kiểm tra xem. Con cũng có thể đọc một bài thơ con tâm đắc.
Tiếng xì xầm bên dưới bắt đầu trở thành loạt âm thanh chói tai, châm chích đến ngứa ngáy, mồ hơi trên cổ và lưng ta bắt đầu túa ra.
Trần Thủ Độ còn chêm thêm vào:
- Thần trước giờ học ít, thật sự muốn mở rộng tầm nhìn.
Ta nổi đóa lên trước sự từ tốn của hắn, thật là một người tráo trở, vừa nãy mới nhắc khéo giúp ta nay lại hùa với bọn họ làm ta bẽ mặt trước cả trăm người.
Quyết không để bị bĩnh mặt như thế, ta liền mím môi, não vận hết công sức xem hai mươi mấy năm làm dân trí thức ở thời hiện đại có cứu nổi ta qua đêm nay không. Liền chợt đến Bình Ngô đại cáo của cụ Nguyễn Trãi. Lòng thầm khấn, cụ có gì tha thứ cho con khi con lấy thơ cụ làm của mình.
Ta liền hít một hơi thật sâu, tằng hắng 1 tiếng rồi ngâm lên:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục bắc nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý bao đời xây nền độc lập
Cùng Tống, Đường, Hán mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu tùy lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt thời nào cũng có.
Ngâm xong, lòng thầm cảm ơn, may ta không lỡ miệng đọc luôn chữ Trần và Nguyên vào bài thơ.
Sau đó ta nghe Phụ Quốc Trần Thừa vỗ tay, cười ha hả tâm đắc. Các quan bên dưới cũng vỗ tay theo, tấm tắc khen:
- Hay, quả là thơ hay.
- Hay cho 2 câu: Từ Triệu, Đinh, Lý bao đời xây nền độc lập. Cùng Tống, Đường, Hán mỗi bên xưng đế một phương. Chứng tỏ nước ta tuy nhỏ nhưng không hề thua kém thế lực ở phương Bắc.
Trần Thủ Độ nhìn ta vẻ đánh giá, ta trực tiếp nhìn lại hắn với vẻ tự đắc. Ta tuy chữ nghĩa văn thơ không bằng người thời này nhưng không có nghĩa là dốt đặc cán mai.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------
1. Tết Trung Nguyên: Lễ Vu Lan

