CHƯƠNG 24: ĐỀN ĐÔ
Cả đoàn người dừng trước Đền Đô, quan tài của Lý Huệ Tông được mười mấy người khiêng vào. Mọi người đều bước xuống, đi bộ tiến vào trong Đền Đô.
Trước đền là hồ Bán Nguyệt, giữa có thủy đình. Nghe nói khi xưa, các vua Lý về thăm quê, thường tổ chức múa rối và hát quan họ. Tiếp đến là cổng Ngũ Long Môn để tiến vào chính điện Đền Đô. Bên phải cổng Ngũ Long Môn là Thiên Đô chiếu, được khắc trên đá, với 214 chữ Hán- bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước.
Cổng Ngũ Long môn làm hoàn toàn bằng gỗ quý, được lợp ngói mũi hài. Là cửa tam quan, cửa ở giữa to nhất dành cho vua, hai cánh cửa được chạm khắc hình rồng đang bay lên. Hai bên, một cửa cho quan văn, một cửa cho quan võ. Bước qua cổng Ngũ Long Môn là đến sân rồng, băng qua sân rồng là khu chính điện, thờ các vua nhà Lý, bao gồm hệ thống nhà phương đình, nhà tiền tế, nhà chuyển bồng và linh cung. Hai bên trái phải có nhà Văn chỉ thờ các quan Văn là Tô Hiến Thành và Lý Đạo Thành, nhà Võ chỉ thờ quan Võ là Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt và Đào Cam Mộc.
Quan tài của Lý Huệ Tông được đặt ở khu thờ chính để làm lễ, tụng kinh trong vòng 3 ngày, sau đó được chôn cất ở Sơn lăng cấm địa, cách đây không xa, với những vị vua triều Lý khác
Về Đền Đô, ta và Ngọc Oanh được sắp xếp ở chung phòng. Tối hôm khi về đến, sau khi ăn chút cháo, nàng tháo giày, chụm hai lòng bàn chân lại phủi mấy cái rồi ngồi cong gối lại, quàng tay ôm lấy 2 chân, chống cằm lên trên gối ngồi đó. Đôi mắt thẫn thờ, nhìn xa xăm như khi trên xe ngựa.
Ta giục nàng ngủ sớm sau chuyến đi dài, nàng chỉ trả lời ngắn gọn:
- Ngủ không được.
Câu nói lạnh ngắt dường như từ một người đã bị tê liệt cảm xúc.
Không biết nếu biết chính Trần Thủ Độ, người mà ngày ngày nàng kính trọng và còn là bề trên bên họ ngoại làm, thì không biết nàng sẽ phản ứng ra sao.
Ta thở dài, chợt nghĩ, nhiều chuyện không biết thì sẽ tốt hơn.
Chuyện Trần Thủ Độ cùng Trần Thị Dung về Đền Đô rồi cho người canh giữ nghiêm ngặt bên ngoài nhanh chóng truyền khắp Bắc Ninh. Các bô lão trong đêm đó đã đến cổng Đền làm ầm ĩ, không ai chịu ra tiếp, liền gửi thư vào bên trong mời 2 người đến gặp. Nơi đây là phát tích của triều Lý, dĩ nhiên bô lão ở đây toàn người họ Lý.
Sáng hôm sau, sau khi ăn sáng, Ngọc Oanh và ta đến từ đường tụng kinh thì nghe nói chỉ Trần Thủ Độ đến gặp các bô lão.
Trần Thị Dung đã quỳ trên từ đường từ trước, khuôn mặt sưng húp, thâm quầng, làn da trắng trở nên nhợt nhạt, đôi mắt lộ rõ vẻ hoảng loạn.
Thấy bọn ta đến, Trần Thị đang quỳ trên miếng đệm tròn. Trong khi chúng ta đang mặc đồ tang vào, bà liền nhờ cung nữ đến đỡ 1 bên tay, loạng choạng đứng dậy, đi đến phía bọn ta. Bà xoa đầu Ngọc Oanh rồi dẫn nàng đến miếng đệm bên cạnh, quỳ xuống. Ta thì cúi đầu, líu ríu đi theo 2 người rồi quỳ xuống miếng đệm gần đó. Vừa quỳ xuống, bà ấy đã lẩm bẩm, giọng cay cay:
- Cuối cùng, Điện Tiền chỉ huy sứ cũng không ở đây quản chúng ta nữa!
Ngọc Oanh chỉ biết gật gù, còn ta thì mắt đảo liên tục, nghĩ quài không ra ý bà ấy là gì, cuối cùng cũng thở dài, nhìn vào quyển sách kinh trước mặt, tụng kinh theo nhịp với những sư sãi và 2 mẹ con họ.
Trong buổi tụng kinh, ta thấy Trần Thị gọi người vào nói nhỏ gì đó mấy lần cũng không biết nói gì. Buổi trưa, sau khi ăn qua loa, chúng ta lại tiếp tục tụng kinh, Trần Thị có vẻ nôn nao, chân tay không yên, tụng sai liên tiếp .
Đến chiều tối chạng vạng, khi có người vào nói nhỏ vào tai, thì bà ấy đứng thốc dậy, tháo đồ tang trên người, rời từ đường. Một lúc lâu sau đó, cung nữ đến dẫn bọn ta đi, nói là Trần Thị truyền đến. Không biết chuyện gì diễn ra mà mặt cung nữ nào cũng nhễ nhại mồ hôi, hoang mang.
Cung nữ dẫn chúng ta đến hồ Bán Nguyệt cùng Thủy Đình ở giữa hồ, Thủy Đình gồm 5 gian, nối với đất liền bằng 1 chiếc cầu nhỏ cong cong.
Nhìn từ xa bọn ta đã thấy thủy đình sáng rực, có 2 chiếc thuyền rồng đang nổi dập dềnh trên mặt hồ, tiếng nhạc xập xình ngày càng rõ, tiếng các liền anh liền chị bắt đầu hát vang khắp cả Thủy Đình và vùng lân cận. Tiếng ca thống thiết, da diết, rung cảm, lan truyền như làn sóng đến từng ngóc ngách của tâm hồn:
“Bèo dạt mây trôi, chốn xa xôi,
Anh ơi, em vẫn đợi bèo dạt
Mây í i ì... trôi,
chim sa, tang tính tình... í i ì..., cao vời
Ngậm một tin trông, hai tin đợi, ba bốn tin chờ
sao chẳng thấy anh...
Một mảnh trăng treo, suốt năm canh,
Anh ơi, trăng đã ngã... a á à... ngang đầu
Thương nhớ... ờ ơ... ai, sao rơi... đêm sắp tàn... í i ì...
trăng tà,
Người ra đi có nhớ, (hay người xa có nhớ)
là nhớ ai ngồi trông cánh chim trời,
sao chẳng thấy anh…”
Hàm dưới của ta rớt xuống, miệng há hốc. Ngọc Oanh đứng cạnh cũng sốc không kém. 2 người liền ba chân 4 cẳng chạy đến Thủy Đình, bỏ xa mấy người cung nữ mặt mày càng xanh xám.

