Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 12

12

Ngũ Thứ Hữu dâng thư bàn việc triều

Hoàng Thái Xung làm thơ vịnh cảnh tuyết

Giấy tờ Mục Tử Húc trình lên gồm hai bản sớ, một tờ Sách Ngạch Đồ và Hùng Tứ Lý cùng đứng tên, tường thuật tỉ mỉ tình hình di chuyển bố phòng của lính La sát trên bờ Hắc Long Giang sau khi Cơlani rời kinh; đồng thời xin chỉ thị xuất kho một triệu bạc cho Thành Long cứu tế dân sông Hoàng, Hoài bị lụt; còn nói tuần vũ An Huy đang bí mật điều tra vụ cướp phá kho lấy sáu trăm nghìn lượng tiền lương; cuối cùng tâu báo Ngũ Thứ Hữu đến nay vẫn không có hành tung. Khang Hy xem xong để qua một bên, lấy xem từ sớ thứ hai, bỗng giật mình, đúng là tờ sớ do Ngũ Thứ Hữu tự tay viết! Ông đã viết trước đây hai tháng, Khang Hy nhìn những chữ tiểu khải Chung vương viết ngay ngắn, lòng tràn đầy phấn khởi. Theo học Ngũ Thứ Hữu ba năm ròng rã, Khang Hy rất quen thuộc nét bút của thầy, dù khuyên tròn dù tô đỏ, Ngũ Thứ Hữu đều ghi tỉ mỉ lời bình, đến nay bút tích thân thiết đó hiện ra trước mắt, gây niềm hứng khởi xa lâu gặp lại. Nhà vua xem, bất giác đọc lên thành tiếng:

...Thần cho rằng bốn phương không yên, nhưng phải lấy an toàn bên trong làm trọng yếu. Không ổn định dân, thì không thể nói dẹp phiên; không tập trung tiền của, thì không thể nói binh đao. Đông nam dậy sóng, thiên hạ rối ren, thì biên cương tây bắc gặp nạn Di Địch, thực khó mà dẹp yên. Thấy việc không ngại, việc ngại không làm, nghĩ kỹ rồi làm thì ít có việc gì không khắc phục được. Chủ ta là vua thánh minh trong thiên hạ, nên có quyết đoán sáng suốt. Thần dù tầm nhìn hạn hẹp, hiểu biết muôn một, dám không nói ra trước bệ hạ sao? Thần vốn là người tự do phóng khoáng, du lịch sông hồ, dạy học ở Sơn Đông, quan sát lòng sĩ tử, như đã thuận hướng về bắc, gắng tỏ hết nỗi lòng, rộng đón nhân tài, tiến cử hiền tài cho miếu đường xã tắc, vì sự nghiệp chủ ta, dốc hết sức non yếu. Lâu không gặp mặt rồng, lúc nào cũng nhớ nhung canh cánh, trước đèn hiu hắt, viết gởi đường xa, không nén được dòng châu lã chã...

Xem phía dưới, có mấy hàng chữ nhỏ:

Thêm, nay có tà đạo Chung Tam Lang, người đạo này tung tin đồn nhảm, gây hiềm khích, kích động lòng người, chí hướng khó lường. Bây giờ rất điên cuồng, không rõ kinh sư thế nào? Đối với loại này, thần cho rằng chủ ta nên trấn dẹp cho yên, ngầm điều tra cho rõ, dẹp ngay một lượt, thì lòng dân mới yên ổn vậy.

Ngũ Thứ Hữu khấu đầu tái bút.

Khang Hy đọc, nước mắt cứ tràn ra: vị ân sự của mình mới thật sự xứng đáng là “Đứng cao hơn miếu đường, lòng lo cho dân; ở xa trong đám giang hồ mà lòng lo cho vua.” Ôi! Sợ người ta thấy mình không bình thường. Khang Hy vội lén gạt nước mắt, quay mặt nói với Dương Tất: “Kinh sư tin đồn nhảm rất nhiều, các ngươi ở đây gần kinh kỳ, có nghe thấy gì không?”

“Có ạ!” Dương Tất hơi suy nghĩ đáp, “Đều là những chuyện nhảm nhí xằng bậy, thần đã ra lệnh nghiêm cấm...”

“Nói nghe!” Khang Hy nghiêm giọng bảo.

“Dạ!” Dương Tất vội nói, “Phần nhiều là vè, ca dao...”

Bốn cái miệng phán, thiên hạ từ đây tản. Trời trăng cùng chiếu năm sao dính liền, khi thời cơ tới, đồng loạt là xong… khuyên người sớm theo thiện.

Dương Tất liếc nhìn, thấy Khang Hy gương mặt bình thản, liền nói tiếp: “Còn nữa!...”

Hai trái chùy trên lưng đạo sī, hỏa mộc thủy thổ hướng về kim. Thằng câm thực lòng cưỡi hổ trắng. Trên thành Bắc Kinh máu như nước.

Dương Tất đọc lên, Khang Hy suy nghĩ, nghe tới đây ngước đầu hỏi. “Theo ngươi, vì sao có câu đồng dao này, nó chỉ cái gì?” Dương Tất vội quỳ xuống khấu đầu nói: “Thần quả thật là học nông hiểu cạn, bài đầu không hiểu manh mối, bài thứ hai hơi ngông, không dám nói thẳng...”

“Sao kỳ vậy, cứ tình thật mà nói thì ngại gì?” Khang Hy cười, “Không sao, cứ việc nói.”

“Đúng – hai bài đồng dao hình như chỉ Ngô Tam Quế ạ!”

“Làm sao biết được?”

“Hai trái chùy trên lưng đạo sĩ” Dương Tất giải thích, “đạo là đạo, chữ sĩ đảo ngược lại là chữ can, hai trái chùy trên lưng là hai cái chấm, hợp thành chữ bình. Hỏa mộc thủy thổ hướng về kim, theo xưa nay, hỏa thuộc phương nam, mộc phương đông, thủy phương bắc, thổ ở giữa, đều hướng về kim, mà kim là khí phương tây, ám chỉ phương tây làm chủ thiên hạ hưng vong. Chữ á trong ruột rỗng, bây giờ nói thằng câm thực lòng chính là chữ vương, ghép lại thành ba chữ bình tây vương. Đông rồng xanh, bắc nguyên võ, nam tước đỏ, duy chỉ tây hổ trắng, hợp cả lại thì là “Bình Tây vương cưỡi hổ trắng đánh giết Bắc Kinh”. Nói máu như nước là ý giết” Nói xong khấu đầu nói. “Đây chỉ là thần đoán mò vậy thôi, chưa chắc đã nói trúng ý nghĩa câu ca dao...”

“Ngươi nói đúng.” Khang Hy ngẫm nghĩ một lát, tìm lời thích đáng nói. “Câu đồng dao này quả là nói Ngô Tam Quế, nhưng Ngô Tam Quế với triều đình ân tình kết chặt, không có lý tạo phản, nhất định là có kẻ bậy bạ tìm cách khích động ly gián, sau khi ngươi ra lệnh nghiêm cấm thì tình hình thế nào?”

“Bẩm Vạn tuế,” Dương Tất thung dung đáp. “công khai thì không có, còn ngấm ngầm thì khó biết hết. Gần đây ở địa phương thịnh hành một thứ đạo Chung Tam Lang, hành tung bí mật đáng ngờ, nhưng chưa xem xét được là có quan hệ gì với ca dao không.”

“Việc này tạm nói tới đây.” Khang Hy như có vẻ mệt mỏi, đứng lên, ngáp một cái nói, “Đã muộn lắm rồi, sáng mai Trẫm lên đường về kinh sớm, có Ngụy Đông Đình, Mục Tử Húc, Thượng Quan Lượng theo hầu, mọi thứ nghi thức đều không nên làm.”

Hôm sau, sáng sớm canh năm, Khang Hy ra lệnh khởi giá về kinh, Dương Tất không dám trái lệnh, chỉ dẫn mấy người trong nha cung kính tiễn ra ngoài thành. Khang Hy vì đã lộ tông tích, không tiện vi hành nữa đã thay đổi phục trang, đầu đội mũ cao da chồn đen lót vóc, mặc áo da thiên mã màu tương lót lụa, ngoài có chiếc áo khoác vóc xanh đá thêu chỉ vàng. Hai thị vệ Ngụy Đông Đình, Mục Tử Húc mỗi người một bên cưỡi con ngựa to cao kèm Khang Hy đi giữa, phía sau, Thượng Quan Lượng cũng đều mặc triều phục, dẫn theo năm trăm lính cung đình tiền hô hậu ủng, hùng hùng hổ hổ giẫm trên mặt đất đã đông cứng, đi vào nơi gió rét căm căm, theo con đường đất vàng ven bờ sông Vĩnh Định gấp rút về Bắc Kinh.

Khang Hy ngồi trên mình ngựa, nét mặt bình tĩnh với niềm vui thanh thản. Dù mấy tháng nay, những việc xảy ra chung quanh mình vô cùng rối rắm, nhưng nhà vua không thấy có chỗ nào xử lý không thỏa đáng. Tối hôm qua đọc thư Ngũ Thứ Hữu, việc nào cũng đúng đắn, lòng cảm thấy yên ổn. Suy ngẫm hồi lâu, Khang Hy quay người hỏi Ngụy Đông Đình: “Về kinh nhớ nhắc Trẫm hai việc, một là đợi Minh Châu về bảo đến bộ Hộ thanh tra xem còn tồn bao nhiêu bạc, bao nhiêu lương thực trong kho; hai là điều đội quân của Thượng Quan Lượng về đóng ở Thông Châu, việc thăng chức cho Dương Tất để Trẫm ban đặc chỉ, sang năm điều ông ta đi, vẫn đến phủ Bảo Định, để giữ cửa ngõ kinh sư cho Trẫm.”

Trong hai việc này, việc thứ nhất. Ngụy Đóng Đình đã rõ, Khang Hy đã hạ chiếu tu sửa ngay điện Thái Hòa bị động đất làm sụp. Thượng thư bộ Hộ Mễ Tư Hàn chưa chịu làm, nói là trong kho không còn bạc, cố nhiên phải thanh tra xem xét. Việc thứ hai thì không hiểu được, Thượng Quan Lượng là một tướng võ vô danh, bản thân anh là tổng quản nắm quân doanh cũng chỉ biết tên họ, lại không có công lao gì, vì sao phải đặc biệt điều nhiệm? Dương Tất thì Khang Hy tự mình chuẩn y nguyện vọng của bá tánh không điều đi, vì sao trong một đêm đã thay đổi? Ngần ngừ một lúc, Ngụy Đông Đình mới đáp: “Thần lãnh chỉ.”

“Khanh không nên học kiểu vâng dạ của quan lại ở kinh.” Khang Hy cười nói, “cho rằng gục đầu nhiều, nói chuyện ít, chịu khó giữ tư cách là bí quyết làm quan, Trẫm cần những nô tài như vậy để làm gì! Thông Châu, nơi đó dân tình rất phức tạp, một tên vô danh mạt tướng như vậy được Trẫm đặc chỉ đưa tới đồn trú lại dám không cố gắng tiến thân ra sức làm việc sao?”

Ngụy Đông Đình bỗng tỉnh ngộ: “Đây là đền ơn giải cứu.”

“Còn Dương Tất, cũng chỉ khác chút ít thôi,” Khang Hy đỡ cằm nặng nề nhìn về phía xa, nói chậm rãi: “Do việc anh ta phải làm muộn hơn nên Trẫm mới nói khanh phải nhắc. Quan như Dương Tất nên làm Tri phủ, không nên cao quá mà cũng không nên thấp quá.”

“Vạn Tuế... đây”

“Dương Tất, người này Trẫm đã xét kỹ rồi, ngoài mềm trong cứng, nén rồi mới nổ, tính tình anh ta với Ngao Bái tương phản tương thành, có cái hay mà không có cái dở.” Mắt Khang Hy lóe lên ánh sáng như lạnh lùng, lại như tán thưởng, rất lâu mới nói, “Dùng chỗ thấp quá thì uổng phí, dùng chỗ cao quá...” Nhà vua bỗng cảm thấy khó nói, liền cười ngưng lại.

Ngụy Đông Đình sợ sệt liếc nhìn Khang Hy. Đối với ông chủ này, anh đã trung thành không còn mức trung thành nào cao hơn, lúc thì anh kính, lúc thì anh sợ, cảm giác vô định đó cứ bám riết trái tim anh. Anh cảm thấy Khang Hy như một hồ nước tĩnh lặng, con người say đắm nhìn sắc núi qua ánh hồ, nhưng nếu anh nhảy xuống thì sâu không biết đâu mà lường. Anh bỗng nghĩ tới lão già gác cửa nhà anh, giả trang mai phục ở bên cạnh anh ròng rã ba năm, mãi đến lúc Ngao Bái thất bại chịu tội mới lộ rõ chân tướng. Không biết bây giờ có còn con người như vậy bên mình nữa hay không? Anh không dám nghĩ về vấn đề này nữa, vội chuyển sang việc khác, nhưng cảnh Dương Tất nắm cổ Chu Phủ Tường cao hơn anh ba cấp kéo xuống nước và khí thế hùng dũng trên bờ đê lúc mấy trăm dân phu bảo vệ Dương Tất, làm anh thực sự hiểu được “Thánh chỉ”. Luồng gió lạnh trước mặt thổi lại làm Ngụy Đông Đình run lên, anh ưỡn ngực muốn hít một hơi nhưng không dám, chỉ nhìn tới trước coi như không có việc gì.

“Sĩ phu tận trung thì không nên tiến lui so đo đãi ngộ.” hầu như để trả lời câu hỏi của Ngụy Đông Đình, Khang Hy hít một hơi dài, nói: “Nhưng, người làm chủ thiên hạ cũng phải thấu hiểu cho tôi con trung lương – Ngũ Thứ Hữu không biết bây giờ đang ở đâu. Ông dạy học bên ngoài rất khó khăn, nhưng rất hiệu quả, năm nay, sĩ tử Sơn Đông, An Huy về kinh ứng thí nhiều hơn mọi năm, có công của ông trong đó. Trước kia, mấy lần thư ông viết cho Minh Châu đều chuyển cho Trẫm, hôm qua lại dâng sớ, quả là người ở giang hồ, lòng trong cửa khuyết! Không biết bây giờ ông ở đâu?”

“A… hả!” Ngụy Đông Đình giật mình. Sau khi nghe rõ là nói Ngũ Thứ Hữu vội cười giả lả nói: “Hoàng thượng đã sai đại nhân Minh Châu đi tìm thăm, chắc chẳng bao lâu nữa Ngũ tiên sinh sẽ về tới kinh.”

Khang Hy lo lắng cho Ngũ Thứ Hữu thật không thừa, những mối nguy hiểm ngày càng lớn đang bao vây nhưng ông thầy vua học rộng lắm tài, phong lưu nho nhã nhưng thiếu lịch duyệt sự đời ấy vẫn không hề hay biết.

Tại trấn Ô Long, Ngũ Thứ Hữu và Minh Châu thỉnh thiên tử kiếm giết quan Tây tuyển là anh em Ngô Ứng Long, hai người chia tay nhau. Ngũ Thứ Hữu dẫn theo hai tùy tùng ven theo đường cũ Hoàng Hà đi về đông, dọc đường cảnh mùa đông tiêu điều thê thảm, phóng tầm nhìn cánh đồng hoang vu, cành dương liễu xơ xác trên trảng cát lắt lay theo chiều gió. Ngũ Thứ Hữu cho ngựa đi chậm lại, chạnh nghĩ ngày xuân qua nhanh, người đẹp xế chiều, tuổi xuân không ở lại, lòng muôn vàn xúc cảm.

Nhưng ông không nản lòng. Ông biết mình được “ban vàng về quê” nhưng khác với Lý Bạch. Thâm tâm Đường Huyền Tông xem Lý Bạch là văn nhân giúp vui khi nhàn rỗi, làm cho muôn vật được vui; còn Khang Hy thì chân thành xem mình là bạn tốt tri âm. Ông hiểu tâm tư của Khang Hy là muốn nhờ một số văn nhân có uy tín bên ngoài giúp triều đình thu nhận những sĩ phu tộc Hán, không để số người này rơi vào tay Ngô Tam Quế. Khang Hy đã nhiều lần thổ lộ ý muốn dùng lại ông. Nhưng Ngũ Thứ Hữu không còn hứng thú làm quan, vì quan trường lắm những mưu mô bẩn thỉu, những tâng bốc chán ngắt, những nổi chìm không thể nắm bắt, còn có những thay đổi hôn nhân với nàng Tô ngoài dự kiến mà bản thân ông không thể nói rõ. Nhưng vốn được vinh hạnh là người thầy khai mở cho đương kim thiên tử thì càng có trách nhiệm giúp đỡ học trò trở thành một vị chủ nhân anh minh danh tiếng muôn đời. Do vậy, ông phải tìm được cho Khang Hy một loạt nhân vật trong cõi giang hồ, để giúp Khang Hy trị nước yên dân, dựng cơ nghiệp lớn. Từ sau khi ở An Khánh gặp Lý Quang Địa vào kinh đi thi, biết được cha mình khỏe mạnh, ông càng kiên định quyết tâm này.

Cuộc gặp gỡ của Ngũ Thứ Hữu và Lý Quang Địa hoàn toàn là ngẫu nhiên. Ngũ Thứ Hữu từ Sơn Đông đến An Huy, đầu tiên giảng dạy hơn một tháng ở thư viện Hoài Tây phủ Phụng Dương, rồi đi thuyền đến phủ An Khánh, nhưng không muốn để lộ mình với tư cách là thị giảng viện hàn lâm đã thôi chức. Là một người quen tự do phóng túng, không thích thù tạc, sợ bị câu thúc, nên sau khi đến An Khánh, ông không giao thiệp với quan chức trong phủ, tự tìm chỗ trú tại “lầu nghinh phong” ở một cái quán đã có hàng trăm năm lịch sử. Ông đâu có biết nhất cử nhất động của mình đều được triều đình quan tâm chú ý!

Ở đó ngày thứ ba, thời tiết bỗng trở nên lạnh. Sáng sớm thức dậy, Ngũ Thứ Hữu cảm thấy ánh đèn khó chịu, nhìn ra ngoài cửa sổ thấy trời sáng tưởng là mình dậy muộn. Ai ngờ vừa đẩy cửa, một luồng gió lạnh cuốn theo từng nắm tuyết đẩy thốc vào, tuyết trắng cả đầu cổ. Ông vừa sợ vừa mừng, vội mò trong bọc lấy ra cái áo lông chồn Khang Hy ban tặng khoác lên người, hăng hái bước xuống lầu, nói với chủ quán: “Hôm nay tuyết đẹp, chắc là đợt tuyết cuối cùng của mùa xuân này. Tôi muốn bao cả phòng phía tây trên gác, phía đó nhìn ra sông, cảnh tuyệt đẹp, có thể một mình uống rượu ngắm tuyết. Tôi muốn trả thêm một ít tiền!”

“Ngài đến chậm một bước rồi, phòng gác tây đã có khách.” Hầu bàn mặt hớn hở tươi cười trả lời, “Nhưng ngài cũng đừng buồn, gác tây to như vậy, người nào chơi riêng phần người đó, không can hệ gì nhau, trên đó mới có bảy tám vị, lại đều là văn nhân, đang nói chuyện ngâm thơ, tiểu nhân không nhận thêm khách nữa là được chứ gì.”

Ngũ Thứ Hữu không cách gì hơn đành phải chịu vậy. Đến khi lên gác trên, quả nhiên thấy đã có tám vị khách, nhưng chia làm ba nhóm. Bàn phía đông nam có hai vị, khoảng tuổi bốn mươi, đều mặc áo bông vải xám. Có mấy vị trẻ hơn ngồi dưới họ, sát bên cửa sổ, cầm ly rượu trầm ngâm, thấy ông bước lên chỉ liếc nhìn rồi quay sang ngắm tuyết, hình như đang tìm vần làm thơ. Còn một vị trung niên ở cửa sổ phía đông, mở ra một cánh cửa, đứng dựa nửa người xem cảnh tuyết. Ở chiếc bàn cạnh tường phía tây có một thanh niên, ăn mặc hơi khác thường, chỉ một chiếc áo kép dài lụa xanh, ngoài khoác áo cánh màu xanh da trời cài cúc, dưới chiếc mũ vỏ dưa vóc xanh là một chiếc đuôi sam dài hầu như sát đất, lưng đeo một thanh kiếm dài, đang một mình rót uống hết ly này sang ly khác. Thấy Ngũ Thứ Hữu bước lên lầu, hình như có vẻ miễn cưỡng, anh ta mỉm cười nghiêng mình gật đầu, nói: “Ông anh, mấy vị bên đó đang ngâm thơ, ông anh có thể cùng ngồi xuống đây!”

“Cảm ơn!” Ngũ Thứ Hữu vừa ngồi xuống vừa cười nói, “Đây chỉ sợ hơi lạnh – xin hỏi chú em họ gì?”

“Tiên sinh mặc áo lông còn sợ lạnh, vậy tôi đây chắc phải chết cóng mất!” Chàng thanh niên nhiều nhất cũng chỉ hai mươi tuổi, nhưng rất tự nhiên cởi mở, cười hi hi nói, “Kẻ bất tài này họ Lý, tên Vũ Lương, còn anh?” Ngũ Thứ Hữu bỗng thấy có cảm tình, vội nói: “Nghe nói đã lâu! Bất tài họ Ngũ tên Thứ Hữu.” Ông trung niên mở cửa xem tuyết nghe ba tiếng “Ngũ Thứ Hữu” vội quay người liếc nhìn, rồi ngồi xuống cạnh bàn uống rượu như không có ai bên cạnh, hai mắt cứ láo liêng nhìn sang.

Mắt Lý Vũ Lương cũng sáng lên, chàng quan sát Ngũ Thứ Hữu một lượt từ trên xuống dưới. Đang định hỏi thì Ngũ Thứ Hữu đã lên tiếng gọi hầu rượu: “Lấy một vò rượu Thiệu lâu năm, và mang bốn đĩa thức nhắm – ngon ngon một chút.” Mấy người bàn phía đông nam đang khổ tìm ý thơ, bỗng nghe Ngũ Thứ Hữu lớn tiếng kêu rượu kêu thức nhắm, tỏ vẻ chán ghét, lặng lẽ quay mặt đi.

“Ngũ tiên sinh thật là khỏe, ăn nhiều thế à?” Vũ Lương vừa uống vừa hỏi. Ngũ Thứ Hữu cười đáp: “Người trong bốn biển đều là anh em, đã cùng ngồi với chú thì phải cùng uống, lẽ nào rượu của chú không cho tôi uống một ly?” Vũ Lương cười, đứng lên rót một chung to đưa sang. Ngũ Thứ Hữu cười, uống một hơi cạn, đặt chung xuống bàn, nói: “Vũ Lương tiên sinh cũng là người khoáng đạt! Cứ uống thôi, nếu có say thì chẳng cần về nhà, cứ ở lại gác nghênh phong này với tôi.” Vũ Lương hơi sững sờ, quay mặt cười nói: “Khỏi phải lo, tôi vốn ở ngay trong quán này!”

Bên ngoài lúc này tuyết rơi ngày một nhiều hơn, đất trời một màu trắng toát, tuyết trên sông nhìn rất rõ, đang từ từ trôi về hướng đông nam. Trên đầu tường phía ngoài gác, một cành mai đỏ, đẹp lộng lẫy nổi lên trên nền tuyết trắng. Lý Vũ Lương thấy Ngũ Thứ Hữu nhìn say đắm, bèn cười nói: “Ngũ tiên sinh, cảnh đẹp như thế này, sao chẳng làm một bài thơ?” Ngũ Thứ Hữu cười khoát tay nói: “Bên kia có thi đàn! Thấy như sắp mở đàn rồi. Chúng ta hãy nghe họ ngắm tuyết ngâm thơ, còn gì khoái bằng!”

Lý Vũ Lương quay mặt nhìn, thấy một vị tiên sinh đứng tựa cửa sổ, tay vuốt râu, nghiêng đầu ngâm đọc:

Rừng hạc đỏ tuy nay phai nhạt, như cụ già đầu bạc ốm đau

Buồn cười đào lý vườn sau, chia nhau sắc thắm đợi màu gió xuân.

Tiếng ngâm vừa dứt, một người 40 tuổi ngồi phía trước cười ha hả nói: “Câu Nhan sắc giữ gìn đợi gió xuân hay tuyệt! Hoàng Thái Xung chưa hết tính nóng, là hổ thẹn đào lý không dám nở hoa?”

Nghe ba tiếng “Hoàng Thái Xung”, mắt Ngũ Thứ Hữu bỗng sáng lên, không ngờ ở đây lại gặp được Hoàng Tôn Hy, người đứng đầu “ba Hoàng Triết Giang” tiếng tăm lừng thiên hạ! Lý Vũ Lương vừa rót rượu cho Ngũ Thứ Hữu vừa cười hỏi: “Ông già đó ngâm cái gì? Một chữ “tuyết” tôi cũng không nghe thấy.” Ngũ Thứ Hữu cười bĩu môi nói: “Hừm, nói về cành mai hồng! đừng ồn, để nghe tiếp.”

Hoàng Tôn Hy nghe người trung niên nói, mỉm cười, vuốt râu: “Uông Ngọc Thúc, đến phiên anh rồi!” Ngũ Thứ Hữu lại giật mình, người này là Uông Ngọc Thúc, đứng đầu văn đàn “Yên đài thất tử”. Một nhà gặp được hai người một lúc cũng kể là kỳ ngộ. Nhưng không biết chàng thanh niên kín đáo thâm trầm và ba trung niên kia là ai? Đang suy nghĩ thì anh thanh niên cười nói: “Hoàng tiên sinh nói chí phải, Quang Địa cũng cho rằng nên để Uông tiên sinh ngâm.” Một trung niên ngồi bên cạnh nói xen vào: “Hôm nay vốn làm mừng thọ bốn mươi tuổi Hoàng tiên sinh, nhưng đã là văn nhân thì không thể không làm thơ. Nhuận Chương giám rượu không chia lớn nhỏ, sang hèn, hễ ai làm không ra thơ thì không có rượu mà uống đâu!” Ngũ Thứ Hữu lắng tai nghe, cũng không quen biết Lý Quang Địa, nhưng ông biết Thi Nhuận Chương, là chủ văn đàn phái Tuyên thành. Thiên hạ bình thơ “Nam Thi bắc Tống”, bắc Tống là Tống Quỳnh trong Yên đài thất tử, nam Thi thì là vị này. Ngũ Thứ Hữu vừa nghe ngóng động tĩnh, vừa ngầm nghĩ ra ý của mình.

“Ngu sơn giám rượu đã lên tiếng,” Uông Ngọc Thúc ho khan một tiếng, cười nói, “tửu lệnh lớn hơn quân lệnh, đành phải nghe lệnh. Có điều hôm nay không có tình thơ, tạm điền một bài từ trả nợ vậy.” Nói xong liền ngâm:

Tầng không mây lạnh trùng trùng, gió đông thổi nát ngọc ròng lung linh.

Thành đàn bướm trắng múa quanh, hoa mai vút thẳng rung rinh một cành.

Hôm qua song cửa trắng tinh, tưởng rằng đâu đó một vành trăng treo.

Sáng ngày đẩy cửa nhìn theo, mong manh áo lụa đèo heo lạnh lùng.

“Câu gió đông thổi nát không tồi.” Thi Nhuận Chương cười nói, “Thơ từ quý ở chỗ điềm đạm, anh vẫn giữ được bản sắc.” Nói xong quay mặt nhìn Lý Quang Địa nói, “Bây giờ nghe thơ anh đây.” Lý Quang Địa chỉ cười, hồi lâu mới nói: “Đỗ Nạp tiên sinh và Bồ Đình Thần tiên sinh đều là danh gia một thời, vãn sinh quyết không dám đi trước!” Bây giờ Ngũ Thứ Hữu mới biết Đỗ Nạp và Bồ Lưu Tùng là đại danh sĩ phái Tân thành Sơn Đông.

“Tôi xin hiến trò,” Đỗ Nạp rất sảng khoái.

Than đốt lò vàng phòng khó ấm, qua bao lần cửa tối om om.

Mây đen kéo tới Côn Lôn đỉnh, quệt xuống ngọn mai một vệt trăng.

Ngâm xong cười nói: “Thơ tôi không hay, xin các vị tự đi tranh ly rượu Trạng nguyên vậy?”

Sáu người bất giác nhìn nhau cười, đang định bình luận chỗ hay chỗ dở của thơ từ, Ngũ Thứ Hữu cười ha hả đứng dậy nói với Lý Vũ Lương: “Chú em, lấy hai chén rượu, chúng ta cùng góp vui, thơ từ những người này buồn bã quá, làm hỏng cả cảnh buổi sáng đẹp trời này!”

Báo cáo nội dung xấu