Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 27
27
Giả anh em, đêm trốn đi Khúc Phụ
Bà già quê thu nhận kẻ giang hồ
Lý Vân Nương vai bị trúng tên, cõng Ngũ Thứ Hữu bị trói như buộc bánh tét, từ chỗ tường đổ trốn ra ngoài phủ nha, không cần biết đông tây nam bắc, không kể gò rãnh, thấy đường là đi, gặp sông là lội, vội vàng như cá lọt lưới, vượt khỏi thành Duyễn Châu. Mãi đến lúc không còn nghe thấy tiếng người truy đuổi mới đặt Ngũ Thứ Hữu xuống, mở dây trói, hai người sánh vai ngồi nghỉ trên bờ kè tranh cỏ um tùm che phủ.
“Đã ra ngoài rồi!” Một luồng gió lạnh thấu xương thổi tới, Ngũ Thứ Hữu mới biết là mình đã được cứu ra. Nhìn sao trên trời, đã gần tới canh tư, ông khoan khoái hít một hơi dài, xoa bóp cái bả vai bị trói tê cứng, cười đau khổ, bụng nghĩ: “Cô Vân Nương này... là đầu trò sinh sự, lãnh tụ gây họa!”
Vân Nương khẽ rên một tiếng, Ngũ Thứ Hữu bỗng giật mình, vội cúi người xem thấy không biết nói sao.
“Không có gì.” Vân Nương nói, “Không biết tên giặc đê tiện nào bắn tôi một mũi tên.”
Ngũ Thứ Hữu xem kỹ lại, dưới ánh sao đêm, thấy sắc mặt Vân Nương thấy trắng nhợt, nằm dựa trên triền đất không động đậy. Ông liền kéo một bàn tay cô, viết trong lòng bàn tay: “Bị thương ở đâu? Có nặng không?”
Vết thương Vân Nương vốn không nặng lắm, chỉ vì không kịp băng bó, trên đường đi, mất máu quá nhiều, lúc này cô cảm thấy choáng đầu, trời đất, sao trời, cây cỏ đều quay cuồng. Cô gượng cười nói: “Trên bả vai. Không... không sao đâu...” Ngũ Thứ Hữu nghe, không còn nghĩ đến thân mình nhức mỏi, bước tới định mở cúc áo Vân Nương, Vân Nương vội la thất thanh: “Đừng!”
Ngũ Thứ Hữu, hai tay rụt lại như điện giật, ông bỗng ý thức được, người nằm bên mình đã không phải là “tiên sinh Vũ Lượng” hay “Vũ Lượng hiền đệ”, mà là... Ngẫm nghĩ hồi lâu, Ngũ Thứ Hữu bỗng bật cười, rồi viết trên lòng bàn tay Vân Nương: “Ta không phải là nhà đạo học cổ hủ, cô không phải người đàn bà khát vọng làm quan, Khổng Tử nói chị dâu chết đuối giơ tay ra (cứu), là quyền biến vậy!” Vân Nương im lặng, hình như đã hôn mê rồi. Ngũ Thứ Hữu cẩn thận mở vạt áo bị vết máu dính đông cứng, xẻ vạt áo dài của mình buộc chặt vết thương. Bỗng tay ông vấp phải một vật cứng, nghĩ lại là cái nghiên bằng ngọc đen tiết gà, mình đã cho lúc ốm nặng, ông bất giác rùng mình, hối hận, thương xót, mịt mù, rầu rĩ, bao nhiêu hương vị nỗi niềm không nói hết. Lại bỗng nhiên nghĩ tới dấu máu Vân Nương chảy ra suốt dọc đường, có mệt mấy cũng không thể ngồi nghỉ ở đây.
Chàng thư sinh phóng khoáng cõng cô Vân Nương nửa mê nửa tỉnh, mặc cho sương lạnh gió buốt giữa canh tư trong chốn đồng hoang cỏ dại, họ đi mãi đến nửa canh giờ. Nghe tiếng gà gáy phía xa xa, Ngũ Thứ Hữu cảm thấy hoảng sợ: “Hai người mình đầy máu, không thể tiếp tục đi như thế này.”
Nhìn thấy phía trước xóm làng, một mảng đen lờ mờ, Ngũ Thứ Hữu lảo đảo lê đi từng bước từng bước. Thấy bên cạnh một vật hình như một cái miếu nhỏ, đen thui lủi đứng sừng sững trước mặt, vào trong xem thì là một nhà bia. Ông đặt Vân Nương xuống, tiến lên trước mò mẫm, bất giác sửng sốt: Làm sao lại đi vòng vo đến miếu Khổng Tử Khúc Phụ? Nghĩ bụng nơi ở xưa của thánh nhân tất có nhiều người thiện, cảm thấy thư thái, nhưng lại nghĩ tới Khổng Lệnh Bồi, lòng lại lo lắng: “Làm sao cho tốt đây?” Đi qua chỗ khác thì không kịp, lại rất đỗi nguy hiểm, bèn cúi xuống bế Vân Nương đi tìm một nhà nào xin nghỉ tạm rồi sẽ hay. Ông nhớ lại “giàu tất thông đồng với quan”, nên đi tìm một nhà nghèo. Có nhà sân nhà chật hẹp sơ sài, khó bề ẩn thân, có nhà xung quanh hàng xóm quá nhiều, sợ kinh động nhiều người. Mãi đến lúc phía đông hửng sáng, sao mai mọc, Ngũ Thứ Hữu mới tìm được một ngôi nhà hạng trung ở góc đông bắc miếu Khổng Tử.
Nhà này sân vườn rất lớn, có hai lối vào, nhà đều lợp tranh, một khoảng trống trước sân quét tước sạch sẽ, củi rác để đun chất cao gần bằng nóc nhà. Giờ này tiếng gà gáy chó sủa rộ lên từng hồi, không còn thời gian lựa chọn nữa, đành bấm gan bước tới gõ nhẹ cửa.
Lập tức có tiếng chó sủa gâu gâu trong sân, chó nhà láng giềng lập tức hưởng ứng, sủa ran một hồi. Một lúc lâu, mới có giọng người già lên tiếng hỏi:
“Ai đó?”
Im lặng.
“Ai?” Giọng hỏi trở nên nghiêm khắc.
Lúc này trí óc Vân Nương hơi tỉnh lại, bỗng nhớ ra Ngũ Thứ Hữu đã bị tắt tiếng, liền ráng sức đáp: “Con... Chúng con là cử nhân vào kinh thi, ban đêm trọ nhầm hắc điếm, trốn ra, xin cứu giúp chúng con…”
Bên trong lại một hồi im lặng, bỗng nghe một giọng đàn bà nói: “Cả Trương, mở cửa cho họ, trời sắp sáng rồi, còn có chuyện gì?”
Cửa mở ra kêu kít một tiếng, một ông già râu bạc dáng như trưởng tùy đứng sừng sững trước cửa, nheo mắt nhìn Ngũ Thứ Hữu, thấy ông mặt mày dơ bẩn, vết máu loang lổ trên vạt áo, còn bế trong lòng một thư sinh, vội bước ra tiếp Vân Nương. Ngũ Thứ Hữu vừa mệt vừa sợ, vừa đói vừa khát, thở phào một cái, chỉ thấy trước mặt tối thui, mắt nổ đom đóm, trời quay đất chuyển, ông ngã lăn đùng ra trước cửa...
Khi tỉnh lại, mặt trời đã lên ba con sào. Ngũ Thứ Hữu nhìn ra bốn bên, mình và Vân Nương hai giường kề nhau, đều nằm ở chái tây sân sau. Ông rất ngạc nhiên, tòa nhà tranh này bên ngoài nhìn vào hoàn toàn giống như một nhà làm ruộng, nhưng trang trí bên trong thì khác hẳn, sạp gụ tủ trà, bàn sơn, giá sách, tuy không hào hoa bề thế, nhưng nghiễm nhiên là dòng dõi sách đèn; đáng ngạc nhiên hơn là bà chủ nhà dung mạo hiền từ ngồi bên Vân Nương, quần áo vải gai thô, ăn mặc như đàn bà nhà nông, còn người đầy tớ già cung kính đứng hầu lại đội mũ nỉ lông chiên đen, mặc áo bông vóc lụa xanh, ngoài khoác chiếc áo chẽn bằng lông dê lót lụa xanh! Cách ăn mặc lẫn lộn thế này, cho dù Ngũ Thứ Hữu học thức rộng đến đâu cũng không hiểu nổi nguyên do bên trong.
“Chàng thư sinh, chú đã tỉnh rồi? Tốt lắm, xin dùng trà!” Ngũ Thứ Hữu đang buồn rầu, người đàn bà nói: “Cả Trương đâu, pha trà, mang chút điểm tâm vào đây!”
Ngũ Thứ Hữu ngồi dậy tiếp chén trà, một hơi uống cạn ngọt như nước cam lồ, quả thực ông khát lắm rồi, nhưng xấu hổ không dám ăn điểm tâm.
“Tiên sinh, chúng ta không hỏi ông vì sao gặp nạn.” Người đàn bà mỉm cười nói, “vị gái giả trai này, không biết là em gái hay là vợ của tôn gia?”
Ngũ Thứ Hữu khổ vì không nói được, hai tay ra dấu, ông cảm thấy thiếu lịch sự, bèn lấy tay chỉ cổ họng mình, ra dấu muốn viết chữ, người đàn bà gật đầu nói: “Tôi hiểu rồi, đem bút nghiên ra đây!”
Bây giờ, Vân Nương rên lên một tiếng rồi cũng tỉnh lại, nghe người đàn bà đang cật vấn Ngũ Thứ Hữu, bèn vùng ngồi dậy nói: “Ông ta đau cổ họng, không nói được, bà chủ có gì xin cứ hỏi tôi.”
“Ừm.” Người đàn bà vốn ngồi bên cạnh cô, nghe nói vội quay người lại, mỉm cười nói: “Cô em, ta không phải cật vấn các em. Đã trọ ở đây, ta phải biết các em là ai, vì sao tới nơi đây. Em cứ mạnh dạn nói ra, không phải bà lão Trương tôi mở miệng nói bậy, chỉ cần các em hợp ý ta, trong địa phận Sơn Đông không ai dám tới quấy rầy các em.
“Người này khẩu khí lớn thật!” Ngũ Thứ Hữu nghĩ bụng, “Chẳng lẽ bà ta có quan hệ thế nào với con cháu thánh hiền phủ Khổng? Nhưng bà lại nói họ Trương!”
Vân Nương liếc nhìn Ngũ Thứ Hữu, ngập ngừng một hồi mới nói: “Ông là huynh trưởng của tôi, chúng tôi... chúng tôi...” Cô đang suy nghĩ nên nói thật hay là bịa ra một câu chuyện, bỗng nghe bên ngoài một trưởng tùy ăn mặc đẹp đẽ bước vào, ngáp một cái nói: “Bà, Khổng Lệnh Bồi ở phủ Khổng mang thiệp tới thăm.” Ngũ Thứ Hữu và Vân Nương đưa mắt nhìn nhau, sắc mặt bỗng trở nên trắng hệch.
“Ừm, chỉ một mình hắn à?” Bà Trương hỏi.
“Còn có Lương Nhi, cháu thứ tư của Khổng Trinh Kỳ, đằng sau còn có mười mấy tên nha dịch.”
“Dẫn nha dịch tới đây à!” Bà Trương sắc mặt hơi khó chịu, “Không nói có việc gì sao?”
“Nói... không nói gì, chỉ mời bà ra ngoài nói chuyện.”
“Khổng Lệnh Bồi không nên dáng, cả ngày đàn đúm với tên đáng chết Trịnh Xuân Hữu.” Bà Trương nói, “Lương Nhi ta xem còn được, nhưng sao cũng không nên cái thớ gì? – Con nhất định còn che giấu cho bọn chúng cái gì đó, miệng cứ ấp a ấp úng như ngậm hột thị!”
“Bẩm bà, chúng con thực tình không nói chuyện gì.” Tên trưởng tùy trẻ tuổi thấy bà cụ bực mình, vội bước tới nói nhỏ vào tai mấy câu.
“Được,” bà cụ Trương đứng dậy, “cho gặp ở nhà bên kia – hai vị đừng suy nghĩ lung tung, một lát nữa ta trở lại.”
Câu này nói ra Vân Nương chưa cảm thấy gì, còn Ngũ Thứ Hữu nghe như sấm rền chớp giật! Phủ Khổng thế lực to, dòng họ Thánh công nối truyền hai ngàn năm không suy suyển, xưng hiệu là “Thiên hạ đệ nhất gia”. Từ quan địa phương trên tới đô đốc tuần vũ, dưới phủ huyện, không ai dám động đến, người đàn bà này thuận mồm nói “cho gặp” người phủ Khổng! Tại sao như vậy, thật không hiểu nổi.
Khổng Lệnh Bồi cười hì hì bước vào cửa, thấy bà cụ Trương đang ngồi nghiêm chỉnh uống trà, hắn bước tới vái thỉnh an, nói: “Đã có hơn nửa năm không gặp cụ, tinh thần ngày càng thêm cường tráng chứ, cháu tới thăm hỏi sức khỏe!”
“Đứng dậy, chẳng phải cháu đã đến chỗ Trịnh Xuân Hữu phủ Duyễn Châu làm quan thầy rồi sao? Ngọn gió nào thổi vị đại quý nhân này trở về vậy? – Lương Nhi, cháu theo anh cả Sính Chi đến Thạch Môn học tập, ta thấy cũng sắp nên người rồi, sao không đi làm lớn mà lại như thế này – việc đường hoàng không làm, chuyên theo hùa bọn bên ngoài!”
“Bẩm cụ,” Khổng Lệnh Bồi vừa vén áo ngồi xuống, vừa cười nói, “đây không phải là chuyện cụ Tư – chú ấy từ Thạch môn về lấy sách cho Sính Chi, nhân tiện lại thăm cụ. Con là…” hắn bỗng hạ thấp giọng, Ngũ Thứ Hữu và Vân Nương ở bên kia vách không nghe thấy gì nữa.
“Mày quả là thính mũi!” Một hồi lâu, bà cụ Trương cười nói, “Làm sao biết chúng chạy trốn tới chỗ chúng ta?”
“Có một tên bị thương, vết máu ướt đến tận đến bờ cừ lớn góc tây nam rừng Khổng.” Khổng Lệnh Bồi nói, “Nghĩ lại không có chỗ nào khác, chỉ ở vùng chúng ta thôi!” Nghe tới đây, Ngũ Thứ Hữu và Vân Nương rất hồi hộp, quả thật đến truy bắt mình!
“Thế à?” Bà cụ Trương đáp như không thèm để ý, rồi tiếp, “Nếu tới đây, chắc có người nào giấu, tìm ra đưa trở về thì được chứ gì?”
“Cháu đã đi dò xét từng nhà rồi, không có.”
“Nhà họ Khổng các anh, hộ nhỏ nhiều như vậy.” Bà cụ Trương cười nói, “Không biết rơi vào làng nào, hộ nào, đừng sốt ruột, cứ thư thả tìm, nó bị thương, có thể bay lên trời sao?”
Khổng Lệnh Bồi thấy bà cụ Trương cứ vòng vo, bất giác sốt ruột, cười gằn một tiếng, nói: “Không giấu cụ, các hộ nhỏ đã lật tung hết rồi – có người nói, lúc trời gần sáng nhà cụ chó sủa một hồi lâu. Cháu nghĩ cụ là người biết phép nước, lẽ đâu lại che giấu tội đồ? Nên to gan tới đây thỉnh thị, cụ cho phép xuống phòng đầy tớ... tra xét xem, chẳng qua là để khỏi phải nghi ngờ...”
“Ta nói sao bỗng nhiên cháu nghĩ tới việc thăm ta, đã thỉnh an lại hỏi chuyện, quả là hiếu thảo – té ra là chúng bay đến nhà họ Trương ta để truy bắt cướp!” Bà cười gằn nói, “Đừng nói tụi nhóc con bay! Cha bay hồi còn sống làm tới chức Tuần vũ, Khổng Hữu Đức là Vương gia, vào cái sân nhỏ này ba trượng cũng phải phép tắc đường hoàng – cứ tưởng ta tốt tính giống bà sui!” Bà tái xanh mặt, nói như đinh đóng cột, Khổng Lệnh Bồi hoảng kinh một hồi lâu không nói được một lời. Khổng Thượng Lương thấy bà khó chịu, vội khuyên can: “Bồi Nhi trên đường đã nói với con rồi, không phải là khám xét phủ đệ của cụ, chỉ sợ cụ hiểu lầm, bảo cháu cùng đi để nói cho rõ, chỉ là xem phòng ở của bọn kẻ dưới thôi, anh cũng dễ nói...”
“Không phải việc của mày, mau cút về lấy sách cho anh Sính Chi của mày!” Bà cụ Trương nói, “Nhà họ Trương không có người che giấu giặc! Ông nhà tôi mất đi, để lại mấy người đó, đều đã mấy đời theo họ Trương làm sai dịch, không nghe nói có ai làm giặc, che giấu giặc! Nếu có giặc, thì ta là người đầu tiên, Khổng Lệnh Bồi, ngươi hãy nói đi, ngươi định làm như thế nào?” Nói xong, Ngũ Thứ Hữu và Vân Nương nghe Khổng Thượng Lương ngượng ngùng cáo từ ra về.
Khổng Lệnh Bồi ngay trong đêm dẫn người lần theo dấu vết đuổi theo, trong tay không có một giấy tờ gì của quan phủ, mà dù có đi nữa cũng không dám sử dụng ở vùng đất cấm ba thước này. Đứng trước bà cụ quyết đoán, Khổng Lệnh Bồi suy nghĩ hồi lâu mới nói: “Thưa cụ, không phải cháu dám mạo muội với cụ, Diễn Thánh Công vào kinh chầu vua không có ở nhà...”
“Ông ta có ở nhà thì sao?” Bà cụ cười nói, “Hơn bảy trăm năm làm hàng xóm, làm sui gia với nhà họ Khổng, chưa nghe nói ai dám động đến một ngọn cỏ nhà họ Trương! Anh là cái giống gì?”
“Vậy cháu xin vô lễ!” Khổng Lệnh Bồi vì để sổng Ngũ Thứ Hữu, lòng như lửa đốt, bản thân cùng Trịnh Xuân Hữu sớm tối cũng bị tai họa tan nát cả nhà, không còn nghĩ tới chuyện đối đáp với bà cụ, bèn đứng dậy vái chào, “Sau việc này, cháu sẽ dẫn cả nhà tới đây chịu tội!” Nói xong sải bước đi nhanh vào sân trước, quát bọn nha dịch đứng trước cửa: “Bay đâu, lục soát!”
“Bay đâu!” Bà cụ Trương cũng đi theo ra, đứng trên bậc thềm sai bảo, “Gọi bọn nhà bếp phía sau lên đây tất cả!”
Thực ra, không cần quát nạt, đầy tớ nhà họ Trương đã xông cả lên, biết là bên này có chuyện, đều mang tiêu bài phủ Khổng, một cây côn to thủy hỏa, sắp thành hai hàng, so với phép tắc nha môn tư pháp, oai phong không kém chút nào! Bà cụ Trương đằng hắng một tiếng nói với Khổng Lệnh Bồi:
“Có thấy không? Cây côn này từ khi Diễn Thánh Công đưa tôi chưa có dùng, thằng nhóc ngươi có muốn thử xem?”
“Tới!” Khổng Lệnh Bồi nghiến răng. Thấy bà cụ Trương cố chấp như vậy, hắn càng đoán chắc Ngũ Thứ Hữu ở trong này không còn gì nghi ngờ.
“Trương Đại, đi thỉnh long đầu trượng của bà cụ Tổ, gõ vân bản lên!” Bà cụ Trương cười gằn một tiếng, “Nhà họ Trương có giặc cướp, bảo người phủ Khổng tất cả tới cứu!”
“Dạ!” Ông trưởng tùy già mở cửa cho Ngũ Thứ Hữu lên tiếng dạ rồi chạy ra phía sau.
“Ấy... ấy... ấy!” Khổng Lệnh Bồi bỗng chốc luống cuống chân tay. Gia pháp nhà họ Khổng cực kỳ lợi hại, trong họ Khổng địa vị hắn rất thấp, vì trước nay hành vi không đoan chính, trong họ nhiều người rất giận hắn. Vân bản đánh lên, phủ Khổng trên dưới đều tới cứu viện, thấy nhà bị lục soát là nhà bà cụ Trương không được động tới, sẽ đánh chết hắn lại trận hoặc dìm sông, chôn sống đều có thể. Khổng Lệnh Bồi thấy tới nước này, vội xua tay cười nói: “Chà! Cháu ăn cứt mê muội rồi, cụ đừng để bụng, thằng cháu này xin đi khỏi đây là được chứ!” Nói xong quay mặt quở trách mấy tên sai dịch dẫn theo: “Đồ chó chết! Còn không đi mau lên – cứ giữ chặt cái khuôn viên này, không tin chúng nó còn có thể bay đi sao?”
Ngũ Thứ Hữu và Vân Nương nghe phía trước đã dần tĩnh lặng mới yên lòng. Nhưng bà cụ Trương suốt ngày không thấy trở lại, cơm nước đều do Trương Đại tới lo liệu, thỉnh thoảng nghe tiếng bà trong sân ngoài vườn đốc thúc người nhà, sắp xếp công việc ngoài đồng, tự mình dẫn người tới phường dệt vải. Mãi đến lúc lên đèn, bà cụ già thần bí này mới dẫn theo một thầy thuốc đến khám bệnh cho hai người. Rồi sai người đi bốc thuốc, bố trí phòng ngủ khác cho Vân Nương. Đợi cơm nước xong, mọi việc ổn thỏa, bà cụ mới đến phòng chái tây ngồi, cười nói: “Định đi một chốc rồi trở lại, ai hay sinh chuyện như vậy, ban ngày bận, đành phải buổi tối – Ta làm lụng ngoài đồng, không có thì giờ tiếp khách, các ngươi không nên trách ta.”
Vân Nương và Ngũ Thứ Hữu nghỉ ngơi một ngày, có cơm cháo tươm tất nên tinh thần khá hơn nhiều. Ngũ Thứ Hữu liền đi tới vái bà cụ Trương một vái, ngồi xuống ghế bên cạnh. Vân Nương nói: “Cụ đối với chúng con ơn sâu như vậy, sau này sẽ có ngày xin đền đáp cụ.”
“Việc các ngươi ta đã biết đại khái.” Bà cụ Trương cười nói, “Cứu một mạng người hơn là xây bảy tháp bảy tầng! Cái tên Lệnh Bồi nhà họ Khổng hồi nhỏ còn được, không ngờ càng lớn càng không nên người! Nửa năm trước đây gặp Trịnh Xuân Hữu lần đầu, trở về là Chung Tam Lang, lại là Ngô Tam Quế, lại là chân mệnh thiên tử gì gì như trúng tà vậy! Không thèm thấy từ lúc thôi khoanh đất năm kia, bà con trăm họ mới được mấy ngày sống yên ổn? Không biết căn cớ gì cứ mong thiên hạ đại loạn! Cái gì người Di hay không phải người Di ta chẳng hiểu, dân trăm họ có ai biết ông Hoàng đó, Khang Hy tôn Khổng, tôn Mạnh, thờ trời thờ tổ, làm việc lại thấu tình đạt lý, xem ra cũng là người Trung Quốc!” Nói xong thì cười. Ngũ Thứ Hữu nghe nói, mắt sáng lên, lời nói này làm ông phấn chấn, nhưng không nói được lời nào. Ông ngước đầu nhìn người đàn bà nông dân, bà cụ Trương, rồi cúi đầu xúc động thở dài.
“Ông ta nói chúng tôi thế nào?” Vân Nương cười hỏi.
“Nói là… nói cô là tên cướp đường, nó nói tên Vu Lục – là anh Vu Thất, còn nói là ông phủ Trịnh đã biết rõ rồi.”
“Thưa cụ, cụ nghĩ thế nào?”
“Toàn là nói bậy bạ, ai không biết tên Trịnh Xuân Hữu muốn hại người? Năm trước giết một người Vu Ngũ, rồi có một Vu Bát, đều thành giặc phản hết! Muốn giết ai, thì nói người đó chính là giặc phản!” Bà cụ Trương vừa nói vừa than, “Năm Vu Thất làm phản, ta mới mười mấy tuổi, làm gì có Vu Lục nào bằng tuổi nó? – Nói tới cô thì càng không phải, một cô gái mới lớn mềm mỏng mảnh mai, làm sao là tên cướp đường được? A di đà phật, nói phải tội!”
“Cụ bà, ngài sáng suốt nghĩa hiệp,” Vân Nương nói, “không dám giấu ngài, con vốn xuất thân là “cướp đường”!” Trong lòng cô vô cùng cảm kích bà cụ, không còn chút dè dặt, cô đã kể hết tình cảnh của mình từ khi còn nhỏ, làm sao đến nhà họ Uông, bị bức hại như thế nào, lên núi Chung Nam ra làm sao, rồi vì sao xuống núi cứu Ngũ Thứ Hữu, Ngũ Thứ Hữu là người như thế nào... lần lượt kể hết ra cho bà cụ Trương nghe. Bà cụ nghe xong, lúc thì nước mắt lưng tròng, lúc thì ớn lạnh sởn gáy, lúc thì nhắm mắt mỉm cười, lúc thì tức giận tràn hông.
“Các người gặp nạn to mà không chết, quả là đã hồi sinh làm người.” Nghe Vân Nương nói xong, một hồi lâu, bà cụ Trương mới than thở, “Việc này ly kỳ hơn gấp mấy lần những điều người ta viết ra trong sách vở, hát trong lời ca. Nếu không gặp được các người, thì có nói gì ta cũng không tin được – đã như vậy thì cô nàng Tô đã quy y phật ta, ta xem hai người đúng là một đôi trời sinh đất dưỡng sắp đặt sẵn, sao lại không được…”
Khí trời oi nồng. Vân Nương mặt đỏ như gấc, cô thở dài cúi đầu, Ngũ Thứ Hữu mê mẩn nhìn ra đêm đen ngoài cửa sổ, gió lạnh không ngừng kêu réo.
“Không nói việc này nữa.” Bà cụ Trương thấy hai người lộ vẻ lúng túng, liền cười nói, “Các người hãy ở yên đây trước đã, thì anh em cũng được. Ta cũng có niềm tâm sự. Ngũ Thứ Hữu tài văn cao như vậy mà không dùng thật đáng tiếc. Núi Thạch Môn ở đây có một cái am, họ Khổng có một vị tú tài tên Thượng Nhậm, hiệu là Sính Chi đang học hành ở đó. Đợi Ngũ tiên sinh khỏi bệnh, nên tới đó một thời gian. Đợi yên ổn hãy đưa tiên sinh về kinh, đó chẳng phải là song toàn tốt đẹp sao?” Nói xong đứng lên cáo biệt.
Vân Nương thấy bà định đi, lòng không nỡ rời, vội nói: “Cụ đừng vội, trời hãy còn sớm! Việc ngày hôm nay con có chỗ chưa hiểu: Nghe nói nhà họ Khổng ở Sơn Đông thế lực rất lớn, quan phủ đều nghe theo, sao mà tên Khổng Lệnh Bồi hình như sợ cụ, làm thế nào mà cụ trấn áp được ông ta?”
Ngũ Thứ Hữu mở to mắt nghe bà cụ nói, đây là câu hỏi lớn nhất đã đeo đuổi ông suốt một ngày hôm nay.

