Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 29

29

Vâng mệnh vua Khổng Tứ Trinh về nam

Cướp pháp trường chú Khỉ đen vâng mệnh

Lý Vũ Lượng và Ngũ Thứ Hữu trốn khỏi nha phủ, bà cụ ngoại đuổi Khổng Lệnh Bồi, quan tri phủ Duyễn Châu họ Trịnh vẫn tiến hành vụ đổ máu lớn, quyết định xử quyết tất cả những phạm nhân nhốt trong ngục đã qua thẩm xét kết án từ mùa thu. Lý do rất đơn giản, Ngũ Thứ Hữu đã trốn thoát không bắt lại được thì chức tri phủ của hắn là không làm nổi, nên phải trốn về Vân Quý. Trong ngục hiện có ba mươi hai tử tù, trừ bốn tên phạm tội cướp giật, gian dâm ra, còn lại đều là quan lại chống lệnh ở Vân Nam đưa trở về Trung Nguyên, cũng có một số làm phản trong các hội Chung Tam Lang. Bộ mặt thật của hắn đã lộ rõ, khẳng định là Niết ty sẽ hạch xét lại, không biết chừng kinh động cả bộ Hình, để cho một số tên “giặc Hán” sống sót đi ra qua tay Trịnh Xuân Hữu là một việc đáng tiếc suốt đời. Hơn nữa, bản thân hắn trốn sang Vân Nam thì không thể tay không đi gặp Bình Tây vương! Cho nên khi Khổng Lệnh Bồi trở về cho biết tin ở Khúc Phụ không cách gì bắt được Ngũ Thứ Hữu, Trịnh Xuân Hữu ban đầu kinh hoảng, suy nghĩ rất lâu, bỗng nhiên nổ ra trận cười điên loạn như phát rồ:

“Ha ha... ha... ha … ha! Không ngờ Trịnh Xuân Hữu ta vất vả dựng xây, dồn hết mưu trí, vẫn chỉ là hoa trong gương trăng dưới nước, trăng nước hoa gương... ha ha...”

Nghe hắn cười thê thảm kỳ quái, Khổng Lệnh Bồi sợ điếng người, một hồi lâu mới lắp ba lắp bắp hỏi: “Tôn ông... ngài, ngài... đây là...?”

“Tôn ông?” Trịnh Xuân Hữu mở trừng hai mắt đỏ lựng, “Tôn ông đã không còn nữa. Bây giờ ta là nghĩa dân nhà Đại Minh Trịnh Xuân Hữu!” Hắn bỗng tỏ ra đau lòng chán nản, ngã ngồi xuống chiếc ghế dựa, cúi đầu suy nghĩ một chặp, hắn ngước nhìn lên, nước mắt ràn rụa trên mặt, nói: “Lệnh Bồi, ba năm tri phủ nhà Thanh, mười vạn bạc bổng lộc, ta ở đây một năm rưỡi, ngươi có biết ta xài phí bao nhiêu không?”

Khổng Lệnh Bồi không dám trả lời.

“Mười lăm vạn!” Trịnh Xuân Hữu nói không chút do dự, “Mười lăm vạn này chia ba phần, một phần cho Bình Tây vương, một phần cấp cho Chu Tam Thái tử, còn lại năm vạn ta dùng cho những người chung quanh mình! Cho nên, với Mãn Thanh, ta là tên quan tham nhũng thứ nhất, với nhà Minh, ta là một quan thanh liêm nhất! Nếu thân ta gặp điều bất trắc, nhờ anh truyền rộng ra cho thiên hạ biết điều này.”

Khổng Lệnh Bồi không hiểu hỏi lại: “Làm sao như thế được? Ngũ Thứ Hữu chưa ra khỏi Duyễn Châu, vẫn nên tìm cách bắt lại!”

“Trong tay ta mà có quân lính, thì chẳng cần ngươi nói!” Trịnh Xuân Hữu cười lạnh lùng, “Đáng than, đáng tiếc là triều đình không đóng quân ở Duyễn Châu, phủ Khổng các ngươi có quân, lại không do ngươi điều khiển...”

“Vậy tôi phải làm thế nào?”

Trịnh Xuân Hữu im lặng, tới trước bàn cầm bút viết một mảnh giấy, rồi cẩn thận đóng dấu ấn của mình giao cho Khổng Lệnh Bồi, nói: “Ngươi cầm phiếu này xuống kho lấy một vạn ngân phiếu, đến Vân Nam, đến Bắc Kinh tìm thế tử đều được, đi xa bay cao!”

“Thế còn ngài?”.

“Ta?” Trịnh Xuân Hữu nghiến răng cười nói, “Yên tâm đi – ta cũng không ngu! Hôm nay bốn cửa thành đều mở đồng loạt, giết hết bọn tội phạm quan trọng trong ngục, ta cũng phải gói bạc mà đi.” Nói xong ngoáy bút rồng rắn, không cần câu cú, thảo ngay thông cáo giết người. Viết xong, đọc lại một lần, thấy Khổng Lệnh Bồi vẫn còn ngồi trơ trơ, liền nói: “Ngươi vẫn chưa đi, làm sao thế?”

Khổng Lệnh Bồi lắp bắp một hồi lâu, mới nói: “Tôi sợ... Tôi sợ Ngũ Thứ Hữu tịch thu nhà của tôi...”

“Nước còn không có, còn nói gì nhà!” Trịnh Xuân Hữu cười gằn, “Ngũ Thứ Hữu không hỏi đâu? Em họ ta Chu Phụ Tường sau khi bãi quan ở Cố An đã hợp lại với tên tướng cướp Lưu sẹo to ở Bão Độc Cố, tụ tập được hơn bảy trăm người, ta đã viết thư bảo ông ta để ý. Ông có biết nguồn cơn sự việc, đâu chịu bỏ qua chuyện Ngũ Thứ Hữu? Ta hiện nay...” Hắn nói, có hơi chán chường, quay người giật xuống thanh kiếm treo trên tường, rút ra gõ gõ. Đó là thanh kiếm rất tốt, lập tức phát ra tiếng u u của kim loại, “Ta hiện nay hận nhất là Hoàng Phủ Bảo Trụ! Vương gia làm sao lại chọn một người như vậy để làm chuyện lớn? Nếu ông ta không mềm lòng trì hoãn, thì Trịnh Xuân Hữu ta đâu bị tai họa ngày nay?”

Hắn trầm ngâm vừa nói vừa đi tới bên Khổng Lệnh Bồi, đột nhiên không kịp đề phòng, đâm thẳng một nhát vào ngực, nhát kiếm đâm xuyên qua lưng Khổng Lệnh Bồi.

“Ông!” Khổng Lệnh Bồi đứng thẳng người, loạng choạng chưa chịu ngã ngay, cười gằn với Trịnh Xuân Hữu, “Ông sao vậy? Hãy nói ra cho ta chết đường hoàng!”

Trịnh Xuân Hữu bưng chén trà lạnh uống, cười hi hi nói: “Đã yêu nước thì không thể yêu nhà, yêu nhà tất phải tiếc thân, tiếc thân tất phải bán đứng bạn bè! Ta chu toàn cho mi đấy, Ngũ Thứ Hữu biết ta giết mi, còn có thể đốt nhà mi sao?”

Khổng Lệnh Bồi trừng mắt nghe xong, ngã đánh “rầm” một cái xuống đất, chết không kịp kêu. Trịnh Xuân Hữu rút kiếm ra, rút tấm vải trải bàn cẩn thận lau sạch rồi đeo vào lưng, hắn đi ra, còn khóa cửa lại, khí thế hiên ngang, sắc mặt thong dong bước tới phòng thường trực, rút kiếm hô to: “Thăng đường!”

Pháp trường chợ Tây Thái, gió âm u buồn thảm, sát khí đằng đằng. Ba mươi hai tên đao phủ mặc áo dài màu mận chín, thắt lưng đen, cánh tay phải đồng loạt để ngực trần ra ngoài tay áo, dao đầu quỷ sáng loáng, mép lưỡi quay ra trước, sống dao áp vào bộ ngực nhiều lông. Bọn chúng sốt ruột chân dẫm nhè nhẹ, gương mặt cộm lên những thớ thịt ngang, lóe lên những tia sáng đen hồng. Bốn bên pháp trường dày đặc các nha dịch, có đến hơn bốn trăm người – ngay cả người của nha môn đầu huyện cũng điều đi hết sạch. Trên một đài cao ở giữa mặt chính đặt một bàn công án, từng chiếc thẻ bài hành hình xếp đặt ngay ngắn. Trịnh Xuân Hữu mặc bộ quân phục mới toanh đứng sau chiếc bàn cầm bút son không chút do dự, không chút qua loa đại khái, đánh dấu vào từng chiếc thẻ, giao cho tư thư phát xuống. Nhân viên phục dịch các phiên, ban đều tề tựu đông đủ. Trịnh Xuân Hữu dặn dò: “Chuẩn bị cho tốt, bản phủ thân hành giám trảm!”

“Dạ... Ôi...” Bên dưới đáp lại một tiếng vang dài như sấm, rồi dẫn phạm nhân có thẻ hành hình ra. Lập tức bà con bên ngoài đến hóng chuyện ồn ào, đều nghển cổ nhìn, bọn nha dịch trong vòng người dùng roi gậy đánh đập một hồi, buộc vòng người phải nới rộng ra. Lần đầu tiên Khổng Tứ Trinh thấy quan địa phương giết người, cách bố trí không khác gì ở điện Diêm Vương dưới địa ngục, lòng thấy kinh sợ. Nàng quay đầu nhìn lại, thấy Khỉ đen cầm một nắm hạt dưa đứng bên Tôn Diên Linh vừa cắn vừa đưa đôi mắt đen sáng quắc tìm Ngũ Thứ Hữu và Vân Nương, nhưng phạm nhân đều nhất loạt mặc áo tù, đầu bị bọn đao phủ ấn xuống rất thấp, nên không nhìn rõ. Tôn Diên Linh thì như chẳng có chuyện gì, tay chắp sau lưng đưa ánh mắt lạnh lùng nhìn bộ mặt đầy sát khí của Trịnh Xuân Hữu.

“Từ xưa, đối với những người mưu phản làm loạn, quyết không thể trì hoãn việc xử trảm!” Trịnh Xuân Hữu hai tay chống bàn, nói to. Đây là lần giết người nhiều nhất và cũng là lần cuối cùng trong thời gian hắn làm tri phủ, nên càng làm ra vẻ trịnh trọng. Hắn quay đầu liếc nhìn một lá cờ dựng lên được làm vội vã, mặt lụa xanh bốn bên đính tua màu đỏ, ở giữa có một hàng chữ do tay hắn viết:

Khâm mệnh Tiến sĩ Cập đệ ngũ phẩm Trung Hiến đại phu Tri phủ Trịnh.

Mười lăm chữ vàng trên lá cờ lạnh lẽo đập vào mắt mọi người. Trịnh Xuân Hữu quay mặt lại, ánh mắt có vẻ tàn tạ xác xơ, nói tiếp: “Bản phủ phải vỗ an bá tánh ở một địa phương không yên ổn, đã bắt được tướng cướp Lý Vũ Lượng, đầu lĩnh Vu Lục tụ tập chúng dân mưu phản, qua sáu trăm dặm ra sức thỉnh thị cấp trên, hôm nay hành quyết tử tù, các đao phủ chuẩn bị xong chưa?”

“Dạ!” Ba mươi hai tên đao phủ đồng thanh hô lớn, “Xin đại nhân hạ lệnh!”

“Khoan!” Thấy Khổng Tứ Trinh đưa mắt ra hiệu, người đầy tớ thân cận của bà Đái Lương Thần quát to một tiếng, giơ tay đi vào pháp trường, trừng mắt nhìn Trịnh Xuân Hữu hỏi, “Ông nói đã phụng vụ cấp trên, đưa lệnh Niết ty ra cho mọi người xem thử!”

Không ai ngờ có người dám đứng lên ra mặt nói chuyện, hàng ngàn người cả ở trong và ngoài pháp trường lập tức ồn ào náo loạn, ngước đầu nghển cổ nhướng mắt lên nhìn.

“To gan!” Trịnh Xuân Hữu vì có thư của Ngô Ứng Hùng, trong lòng đã có đề phòng, thấy người đàn ông nhảy ra, tưởng là người dưới quyền Khâm sai, vỗ bàn kêu “rầm” một tiếng, quát, “Bắt ngay cho ta người quấy rối pháp trường!” Mấy tên to khỏe như vâm đứng cạnh Trịnh Xuân Hữu dạ một tiếng, hung hãn xông lên, Khổng Tứ Trinh quay người nghiêm giọng quát Tôn Diên Linh: “Diên Linh, lên!” Trịnh Xuân Hữu trên đài đã nhìn thấy, gọi tên đứng đầu chỉ huy bảo vệ pháp trường: “Lưu Thiên Nhất, ai làm loạn dưới đó?”

Lưu Thiên Nhất tưởng có người cướp pháp trường, đã hoảng sợ điếng người, chưa kịp đáp lời thì Khỉ đen đã nhảy ra, chỉ mũi mình nói:

“Các cụ đây! Hiểu rõ chưa? – Các cụ đã phụng lệnh Khâm sai Hoàng đế, ai dám tới bắt?”

Khỉ đen nói xong rút phắt chiếc dao ở thắt lưng, giơ tay nắm ngực Lưu Thiên Nhất đang nhảy bổ tới, thuận đà kéo tay hắn, chém cho một nhát: “Ai dám vô lễ?”

Tên nhóc này được Vân Nương và Hồ Cung Sơn truyền dạy cho, công phu trên người cũng đã kha khá, lần ra tay này vừa nhanh vừa gọn. Đầu lâu Lưu Thiên Nhất lăn ra xa bốn năm thước, máu bắn ra bốn bên, bọn nha dịch xông tới bắt Khổng Tứ Trinh cũng hoảng kinh đứng khựng lại.

“Bắt lấy cho ta, bắt, bắt!” Trịnh Xuân Hữu gào lên, “Chính là tên giặc cướp nha đêm qua!”

“Bay không bắt được đâu!” Lúc này, Khổng Tứ Trinh mới bước nhanh vào, rút trong túi ra kim bài lệnh tiễn do Khang Hy ban cho, tay giơ cao lên, lắc lắc, ánh sáng chói mắt, “Ta là thị vệ ngự tiền bậc nhất, công chúa Hòa Thạc Khổng Tứ Trinh! Đây là lệnh tiễn của Thánh thượng, lệnh cho ta vi hành tra xét phong tục dân tình!”

Trịnh Xuân Hữu hít vào một luồng khí lạnh, cảm thấy kinh hoảng: “Tứ Cách Cách” này nghe tiếng đã lâu nhưng chưa gặp mặt! Trong lúc tính mạng treo đầu sợi tóc, hắn vụt trấn tĩnh lại, cười gằn khanh khách nói: “Ngươi là Khâm sai? Sao lại không thấy công văn, lại không có hộp khám, cấp trên cũng không có trát cho biết? Hứ! Xưa nay chưa từng có đàn bà làm Khâm sai đại thần – rõ là đàn bà gian manh mạo danh khâm sai, như vậy mà được à?” Hắn cất cao giọng quát to, “Không cho một tên nào chạy thoát, bắt hết trị tội!”

Khổng Tứ Trinh nghe xong ngước đầu cười lớn. Bà phụng lệnh Khang Hy lấy tư cách công chúa Hòa Thạc cùng chồng Tôn Diên Linh đi về Quảng Tây, điều hành tổ chức cũ của cha Khổng Hữu Đức. Lần này đi Quảng Tây, Tôn Diên Linh vốn muốn đi đường bộ, nhưng Tứ Trinh do phụng chỉ thuận đường bí mật thăm tìm Ngũ Thứ Hữu nên quyết ý theo đường thủy xuôi xuống Nam, không ngờ đêm qua vừa mới trọ tại phủ Duyễn Châu đã gặp được Khỉ đen từ trong nha phủ trốn ra, liền bàn nhau trên thuyền, hôm nay đi cướp pháp trường cứu Ngũ Thứ Hữu.

Trịnh Xuân Hữu liếc thấy tấm thẻ bài vàng có đúc chữ “Như Trẫm thân đến”, đã cảm thấy lạnh gáy, nhìn thấy bá tánh đứng xem lào xào, bọn nha dịch ngẩn mặt nhìn nhau, hắn biết nếu nhát gan một chút thì mọi việc hỏng hết, lại thấy bà chỉ có bốn người ít ỏi, hắn hơi yên tâm, cười hung hãn nói: “Vật này là thật hay giả, chẳng có gì đáng tin!”

Khổng Tứ Trinh không thèm đối đáp với Trịnh Xuân Hữu, bà cười gằn, cho hắn một chiêu, Tôn Diên Linh bèn vội bước tới, chắp tay nói: “Công chúa, xin ra lệnh?”

“Công chúa!” Lần này mọi người đều nghe rõ ràng, hàng ngàn cặp mắt nhìn về phía Khổng Tứ Trinh, mắt mở to nhìn trừng trừng không dám thở mạnh.

“Diên Linh,” Khổng Tứ Trinh bình tĩnh khoát tay, “bắt lấy nó!”

“Dạ!” Tôn Diên Linh đáp một tiếng, xông thẳng lên đài, một tên thư lại giơ hai tay ngăn lại, liền bị một cú vào ngực, rồi một bạt tai đã ngã chỏng gọng. Bây giờ Tôn Diên Linh mới cười ha hả, nói: “Ta cũng là một Khâm sai, Thượng Trụ Quốc tướng quân, Phò mã Hòa Thạc, Tiết chế Quảng Tây binh mã đô thống Tôn Diên Linh! Có hiểu không?” Nói xong quay mặt nhìn đám người thét to: “Ai đứng ra thi hành lệnh, ông lớn có thưởng!”

Lời vừa dứt, mười mấy chàng trai khỏe mạnh ùa xông ra, trong đó có hai người sắc phục hiệu úy, đó là người tùy tùng ông dẫn theo, còn mấy người nữa không quen biết, là những người trước nay bị Trịnh Xuân Hữu làm khổ cũng đến đánh hôi, tất cả đều cúi chào Tôn Diên Linh: “Xin nghe lệnh đại nhân!” Lúc này các phạm nhân cũng nhanh trí, tất cả đều quỳ xuống hô to: “Oan uổng”. Cả vòng người tới hóng chuyện cũng sôi động lên, chen lấn nhau hò hét: “Bắt lấy tên quan chó đẻ! Bắt lấy tên quan chó đẻ!”

Trịnh Xuân Hữu buồn lòng nản chí, ngồi phịch xuống chiếc ghế tựa, rồi nhảy bật lên như chiếc lò xo, hắn đập bàn cười gượng: “Khâm sai bây giờ nhiều hơn thỏ, một chốc đã thò ra hai người! Thật đáng buồn cười – còn ai là Khâm sai nữa? Đứng dậy nói đi!” Hắn nói xong, sắc mặt như không, nhìn khắp mọi người.

“Hết rồi à? Tốt!” Trịnh Xuân Hữu bước lên đài giám trảm, chỉ một tử tù hỏi Khổng Tứ Trinh: “Bà cô đã tự xưng khâm sai đại nhân – người này, còn ba mươi mốt người nữa, phạm những tội gì, nói đi?” Hắn cười hả hê, rồi quay qua Tôn Diên Linh. “Ông “đại nhân” vì sao quấy rầy “hạ quan” làm việc công?”

Câu hỏi này có lý và rất được thể. Tôn Diên Linh không đáp lại được, vốn nói là cứu Ngũ Thứ Hữu, nhưng ông và Khổng Tứ Trinh không biết mặt, nên quay mặt nhìn Khỉ đen. Lúc này Khỉ đen đi xem lại từng phạm nhân, chỉ buồn rầu lắc đầu. Khổng Tứ Trinh biết phải tùy cơ ứng biến, ngẫm nghĩ một chút, cao giọng nói: “Ta đi kiểm tra tới đây, biết ngươi thành tích bất hảo, là một tên quan tham ô! Tháng nguyên xuân không thỉnh ngự chỉ của Thánh thượng, tự tiện xử quyết bao nhiêu là phạm nhân, bụng dạ khó lường! Vả lại phạm nhân ra pháp trường kêu oan, phải lập tức dừng hành quyết xem xét lại, nước có luật rõ – điều nào, khoản nào ngươi cũng phạm, còn dám vô lễ trước mặt ta, còn tự xưng vô tội?”

“Người nào nhận bà là Khâm sai? Ai biết Khổng Tứ Trinh là thế nào?” Trịnh Xuân Hữu phút bỗng tái mặt, hắn rút kiếm ra cầm tay, gượng cười khanh khách, “Các nha dịch!”

“Có đây!” Bọn nha dịch đã bị thế trận làm cho đầu óc mê muội, không còn tỉnh táo, nghe cụ lớn phủ quát nạt đã la lên một tiếng dạ không chút rập ràng.

“Có chuyện gì, bản phủ đây chịu hết, bọn bay cứ việc bắt người, bắt được một người thưởng bạc ba trăm lượng!” Trịnh Xuân Hữu nổi điên lên, mắt đỏ quạch, hắn huơ kiếm chặt đứt một góc bàn, “Đứa nào sợ không dám xông vào, thì chém hết!”

Lời chưa dứt, Tôn Diên Linh đã nổi lôi đình, nhảy tới như tên bắn, nắm tay Trịnh Xuân Hữu bẻ vặn lại, đánh rơi kiếm hắn, thuận tay chặt xuống một nhát đứt một mảng thịt cánh tay, rồi hỏi: “Còn dám vô lễ không?”

“Bắt! Cứ bắt hết!” Trịnh Xuân Hữu liều mạng, điên cuồng kêu lên.

Nhưng bọn nha dịch đã thất kinh hồn vía trước cái uy vũ như thiên thần của Tôn Diên Linh, không ai đám động đậy. Khổng Tứ Trinh thấy thời cơ đã tới, hai tay giơ lệnh tiễn, có Đái Lương Thần và Khỉ đen tiếp đỡ, bước chậm lên đài giám trảm, lùa hết thứ ấn tín tri phủ trên bàn giao cho tên thư lại đang há mồm trợn mắt, đặt lên tờ trát vua, lệnh tiễn, làm đại lễ ba quỳ chín lạy, xong mới nghiêm trang ngồi xuống, nói: “Tôn Diên Linh, kéo tên Trịnh Xuân Hữu đi, chém!”

Tôn Diên Linh đáp một tiếng “Dạ!”, kéo Trịnh Xuân Hữu đau đớn gần như ngất xỉu, máu me đầy người, ném phịch xuống đất, đang định xuống đao thì Khỉ đen đứng bên ngăn lại: “Phò mã, ngài không biết tên này nham hiểm như thế nào đâu – không phải giết kiểu đó, để tôi!” Nói xong, bên trái một nhát, bên phải một nhát, ngang một nhát, dọc một nhát, mười bảy nhát kiếm ngang dọc trên người Trịnh Xuân Hữu, cuối cùng mới đâm thẳng một nhát vào tim. Chú ra tay độc địa như vậy ngay cả trang nữ tướng oai hùng như Khổng Tứ Trinh cũng hoảng kinh.

“Trước hết hãy đưa phạm nhân vào ngục giam giữ,” Khổng Tứ Trinh bừng tỉnh, lớn tiếng sai bảo, “làm văn bản gửi Niết ty Sơn Đông, cử mấy người xem xét lại án tiết từng người, báo rõ cho bộ Hình xin Hoàng thượng phê chuẩn sau đó mới hành quyết!”

Cách xử lý này rất sáng suốt mau lẹ, về mặt pháp lý, về trình tự đều đúng, các nha dịch vốn nghi là vụ “cướp pháp trường” bỗng chốc yên tâm, đứng dưới “Dạ!” to một tiếng rập ràng.

Ngay trong ngày, đoàn người của Khổng Tứ Trinh đi đến nha môn quan phủ, mãi tới lúc ăn cơm tối mọi người mới ổn định. Tôn Diên Linh vừa ăn vừa cười nói: “Hôm nay đúng là diễn một vở kịch, cả phủ Duyễn Châu đều rung động! Làm khổ cho công chúa áp trận – Việc này theo ta phải báo ngay cho triều đình mới phải.”

“Đúng vậy, ăn cơm xong, anh thảo giúp cho một tờ tấu, em xem rồi ta gửi đi.” Khổng Tứ Trinh thấy Khỉ đen ăn ngon lành, bèn đẩy đĩa thịt gà trước mặt sang, vừa cười nói, “Khỉ đen, chú hợp tính ta, cùng ta tới biên đình lập công, được không?”

“Tôi không!” Khỉ đen chống hàm nói, “Tôi còn phải tìm bà cô!” Vừa nói vừa dùng hai tay xé chiếc quạt lông ngỗng, bỏ đầy trên bàn.

Khổng Tứ Trinh lại than: “Chú bé này chỉ một mạch nhớ tới bà cô. Ôi... cũng không biết Ngũ tiên sinh bây giờ ở đâu? Lần này chúng ta không có thời gian tìm kỹ.” Tôn Diên Linh vừa ăn vừa nói: “Chúng ta đã dừng ở Trực Lệ, Sơn Đông một thời gian rồi, không dám làm trễ công việc chính. Lần này tuy không gặp Ngũ Thứ Hữu, nhưng các nha dịch nói ông đã thoát khỏi hiểm nguy thế là tốt rồi.”

Khổng Tứ Trinh là người bạn gần gũi nhất của Tô Ma Lạt Cô, nghe Tôn Diên Linh nói có lý, lại nghĩ có chỗ không phải với nàng Tô, bà suy nghĩ rất lâu, rồi tự an ủi nói: “Cũng đành phải vậy thôi. Chà, trên đời chỉ có đàn bà si tình, đàn ông đâu có biết chuyện đó? Nghĩ như vậy, lòng ta cũng đen tối rồi...”

Ngày hôm sau lên đường, Khỉ đen vẫn không muốn theo Khổng Tứ Trinh về nam, luôn mồm nói phải tìm Lý Vân Nương. Khổng Tứ Trinh thấy chú bé này lanh lợi hợp ý, lại không nỡ bỏ đi, bèn khuyên: “Chú bé giỏi, chú lớn lên cũng phải lập công danh sự nghiệp, theo ta về nam, xoay cái mũ đỏ đi gặp cô chú tốt biết bao! – Chú chẳng nói là mẹ bị bán xuống Quảng Đông? Nơi đó cách chỗ chúng ta không xa, ta sai người tìm hỏi thăm, không biết chừng hai mẹ con có thể đoàn tụ!”

Nói với mẹ, Khỉ đen lại do dự, đôi mắt to sáng quắc, lúc nhìn bên này, lúc nhìn bên kia, mồm méo xệch, bật ra tiếng khóc òa lên.

Báo cáo nội dung xấu