Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 41
41
Ngô Ứng Hùng nôn nóng mưu trốn thoát
Ngũ Thứ Hữu đường cùng chạy về kinh
Từ khi A Tử và Bảo Trụ không hiểu sao tự sát, Ngô Ứng Hùng thăm dò tư cách thực sự của Tiểu Mao, hắn như bị dội một thùng nước lạnh, cả người từ trên xuống dưới đều cóng lạnh. Mất ngủ hết đêm này sang đêm khác, tròng mắt hắn lõm xuống có quầng thâm đen. Vốn chỉ đề phòng Tiểu Mao là người Dương Khởi Long cử sang bên hắn. Đến khi Vương Trấn Bang báo tin Tiểu Mao ngày hôm đó cuống quít vội vàng chạy đi báo tin, hắn mới vỡ lẽ, bản thân hắn và cả Dương Khởi Long cũng đều bị tên nhóc này gài bẫy. Hắn càng ngày càng trở nên nghi hoặc, chẳng còn dám tin vào ai, ngay cả quẻ bát quái trong Chu Dịch những thứ hắn thuộc lòng cũng lười không muốn suy diễn. Không biết ông thánh giả nào chuyên môn làm trò ma mãnh trêu ngươi một người cô đơn như hắn! Hắn hận, hận Khang Hy, hận Dương Khởi Long, hận Bảo Trụ, hận Tiểu Mao... ngay cả Ngô Tam Quế hắn cũng hận – người ở Ngũ Hoa Sơn tiêu dao xưng vương, lại đưa hắn tới cảnh ngộ này, quỷ không ra quỷ, người chẳng giống người. Người xưa nói “cha hiền con hiếu”, còn đây đâu có giống người cha hiền?
Ngô Ứng Hùng một mình ngồi mê mải trầm tư ở một góc tối trong hiên Háo Xuân, tay hắn mân mê cái lệnh tiễn vàng, bụng nghĩ, chưa chắc nó đáng tin, nhưng tiếc không nỡ vất đi, vì Vương Trấn Bang nói, cho đến nay triều đình vẫn dùng nó để điều binh khiển tướng – đến Vân Nam phải trải qua hơn năm ngàn dặm đường núi khe hiểm trở, thật không dễ dàng! Hắn ngước đầu nhìn tấm chữ phúc mà Ngô Tam Quế viết cho, bỗng trong lòng nổi lên một ngọn lửa. Đây chẳng phải bảo ta nhẫn sao? Chẳng lẽ nhẫn nhục cho đến chết! Ngô Ứng Hùng tức giận nhảy lên, thuận tay kéo tấm phúc xuống, bỗng hắn dừng tay. Bên ngoài có tiếng người đi trên tuyết lạo xạo, rồi vén rèm bước vào.
“Có việc gì?” Ngô Ứng Hùng rút tay lại, nét mặt trở lại nho nhã lịch lãm thường ngày, hắn mỉm cười đôn hậu, “Vương gia gửi thư tới?” Vì Hoàng Phủ Bảo Trụ chết không rõ ràng, Ngô Ứng Hùng càng nghi ngờ nặng đối với Lang Đình Khu, liên tưởng đến sau chuyến thăm bất ngờ của Khang Hy, họ Lang mấy ngày liền như người mất hồn, lòng hắn càng khó tin hơn, ngay cả việc tu bổ sách nhà cũng miễn luôn.
Lang Đình Khu cười, khom lưng lấy trong chiếc ủng ra một phong thư đưa lên, nói: “Thư của Chu Phủ Tường và Lưu Thiết Thành ở Ba Độc Cô.”
“Đình Khu,” Ngô Ứng Hùng vừa bóc thư vừa hỏi, “Hồi này Vương gia mãi không có thư, ông xem có thể có dấu hiệu gì không?” Nói xong bảo Đình Khu ngồi ngay trước mặt, hắn cầm bức thư liếc nhanh một chốc rồi ném xuống bàn, cười nói: “Tên Chu Phủ Tường này trời sinh là một tên lưu manh, hắn có gì mà buôn bán? Không viết thư thì chớ, cứ hễ viết là đòi một vạn! Giống như họ Ngô ta mắc nợ gì hắn!”
Lang Đình Khu ánh mắt đen láy nhìn trừng trừng Ngô Ứng Hùng. Hắn vốn là một thư sinh nghèo buồn chán ở đất kinh sư, nhờ Ngô Ứng Hùng giúp đỡ, làm một tên thư lại ở phủ Nội vụ, sau được mời đến phủ làm môn khách, tuy có hẹn cùng Bảo Trụ quy y Khang Hy, nhưng lương tâm cảm thấy có điều hối tiếc. Bức thư này hắn biết rõ là Chu Phủ Tường đang đòi Ngô Ứng Hùng lương, nhưng Ngô Ứng Hùng giả vờ không biết, nên hắn cũng yên tâm, hắn cười hững hờ: “Ai bảo ngài là ông chủ của hắn? Hắn đã xin thì chắc là đang cần dùng. Tôi xin nói một câu không tốt lắm, phò mã như bây giờ thì vàng bạc như núi như biển phỏng có ích gì? Chi bằng cho hắn, để tăng thêm một chút tình cảm!” Thấy Ngô Ứng Hùng liên tiếp gật đầu, liền ghé sát vào tai nói tiếp, “Vừa rồi phò mã hỏi chuyện Vương gia lâu ngày không có thư từ, tôi thấy cũng lạ thật!”
“Sao?” Ngô Ứng Hùng nhấp nháy mắt, “Nói rõ cho nghe thử!”
“Không có tin là tin!” Lang Đình Khu nói nghiêm túc, “Biến động lớn sắp xảy ra, nên tính gấp chuyện về nam!”
Không có tin, bản thân nó đã là tin! Ngô Ứng Hùng đột ngột nghe ra chợt như bừng tỉnh, mặt bỗng biến sắc. Ngẫm nghĩ rất lâu, Ngô Ứng Hùng bỗng thấy hưng phấn, hắn cười khanh khách, lấy ra một bình rượu nói: “Chúng ta đã lâu không nói chuyện rồi, ít khi anh nói chuyện thấu đáo như hôm nay! Lại đây, chúng ta vừa uống rượu vừa nói chuyện, được chứ?” Lời vừa dứt thì phía sau nghe có tiếng người nói vội vã: “Thế tử, bây giờ mà anh còn ngồi uống rượu, giờ này không đi, thì đợi đến bao giờ?”
“Ôi chao. Trấn Bang!” Ngô Ứng Hùng ban đầu giật mình, thấy là Vương Trấn Bang vội cười nói: “Mau vào đây, quả là ông gặp may, chắc là ngửi thấy mùi rượu hả? Có tin gì không?”
“Thế tử, ngài thật là “núi Thái Sơn đổ ngay trước mặt” vẫn không biến sắc!” Vương Trấn Bang vịn ghế ngồi xuống, nói thong thả, “Vương gia đã khởi binh rồi! Các con đường quan trọng ở hai tỉnh Vân Quý đều bị phong tỏa nghiêm ngặt một con chuột cũng không chạy qua được, chỉ cho vào không cho ra! Mấy ngày nay Đức Vạn tuế cũng đã chuyển qua Thông Châu làm việc, vùng đóng quân đã chuyển cách bố phòng, Tri phủ Thông Châu cũng đổi sang Dương Bật, các thái giám không biết một chút tin tức gì!”
“Làm sao anh biết những việc đó?” Ngô Ứng Hùng kinh ngạc, bỗng nhiên đứng lên. Lang Đình Khu suy nghĩ rồi nói: “Đương nhiên là tin tức lấy từ các nhà thờ Chung Tam lang.”
Vương Trấn Bang vội vàng nói: “Ba mươi sáu kế, chuồn là thượng sách! Thế tử, muộn nữa thì ngài không đi được đâu!” Ngô Ứng Hùng thở dài như không chịu nổi gánh nặng, nói: “Vốn mong chờ bọn Chu Phủ Tường tới đón ta, hắn lại chỉ quanh quẩn ở Sơn Đông để báo thù riêng, đi đánh phủ Duyễn Châu, tìm Ngũ Thứ Hữu gì đó!” Ánh mắt thất thần nhìn khắp chung quanh, hắn tiếp. “Bây giờ bị vây hãm ở kinh sư biết chạy đằng nào?”
“Xa tít chân trời, gần trong gang tấc!” Lang Đình Khu thầm suy tính rồi nói: “Bây giờ sao không đi tìm Chu Tam Thái tử? Trước tiên dựa vào hắn trốn ra khỏi kinh thành rồi sẽ hay!” Ngô Ứng Hùng nghe, liên tiếp lắc đầu, cười đau khổ: “Anh đâu có biết sự tình bên trong? Tên Dương Khởi Long này không dễ đụng đến đâu!”
Vương Trấn Bang lại không biết đây là Ngô Ứng Hùng diễn kịch cho Lang Đình Khu xem, nghe Ngô Ứng Hùng nói thế liền cười: “Phải chăng là sợ Tiểu Mao làm lộ? Không sao, Tiêu Sơn và Chu Thượng Hiền đều nghi ngờ hắn, hôm qua gọi hắn đến trạm dịch Lộ Hà tuyên bố để đối phó tình hình không ai được rời một bước...”
“Không phải vì sợ hắn, hắn thì đáng gì!” Ngô Ứng Hùng cắt đứt câu nói Vương Trấn Bang. “Chính tên Dương này trước nay không có ý tốt với ta!” Lang Đình Khu vì Bảo Trụ đã chết, tự hắn mất liên lạc với triều đình, cũng nôn nóng muốn thoát thân, hắn mím môi suy nghĩ rồi nói: “Tôi nghĩ họ Dương không tùy tiện ra tay độc ác với ngài đâu, triều đình vẫn còn xem thế tử là vật gửi bảo đảm huống chi bọn chúng?” Ngô Ứng Hùng ngớ ra, bỗng cười nói: “À, ta chưa nghĩ ra chuyện này, ta sốt ruột đến mức lẫn lộn mọi thứ!”
Vương Trấn Bang phì cười nói: “Người sốt ruột thường lú lẫn! Tôi xin bẩm một tin vui, Vương Phụ Thần gây binh biến ở Thiểm Tây, giết Mạc Lạc, hưởng ứng Vương gia, xé cờ làm phản!”
“À!” Ngô Ứng Hùng mặt mày rạng rỡ, mắt sáng lên. “Có thật... thật vậy không? Ta bớt được một nửa đoạn đường vất vả – có chắc không? Không phải là chuyện đùa đâu nhé!” Vương Trấn Bang nói: “Đúng như vậy mà! Ngõa Nhĩ Cách bị giữ ở Đông Quan, hoảng hốt trốn về, xế hôm nay mới đưa đến Thông Châu gặp vua!” Ngô Ứng Hùng mắt sáng quắc ánh lên như hai đốm lửa, một lúc lâu mới tối sầm lại, hắn đứng lên vặn người thư giãn, cười nói: “Vốn định giữ lại Tiểu Mao để hắn gây họa cho Dương Khởi Long, ta và Chu Phủ Tường thừa dịp hỗn loạn trốn ra, nước cờ này không đi được rồi! Đình Khu, anh chú ý đem đốt hết thư từ qua lại giữa ta và Vương gia. Canh ba, chúng ta đóng cửa phủ, đến trạm dịch Lộ Hà, trước hết nương nhờ với con sói Trung Sơn này một thời gian!”
Một đêm đánh đấu ác liệt, tên giặc núi từng làm Hà đạo Chu Phủ Tường không vớ bở được chút nào. Trời vừa sáng, nghe nói phủ Duyễn Châu Tế Nam điều động một số quân lớn tiến về Khúc Phụ, nên đành phải ra lệnh lui binh. Ngũ Thứ Hữu và Lý Vân Nương nhân hỗn loạn trốn ra, tờ mờ sáng lội qua sông Tứ rét buốt xương, đi về phía tây đến Ninh Dương.
Tháng mười vào đông, nước kênh Vận Hà lạnh buốt chắn ngang trước mặt hai con người lênh đênh, gió sông buốt xương thổi đùa mặt nước, những cọng cỏ tranh lau sậy khô lắt lay trôi theo dòng, thượng du, hạ du vắng lặng không một bóng người. Ngũ Thứ Hữu lặng nhìn trời sao, một hồi lâu bỗng cười nói: “Nếu không có bà cụ Trương dẫn đi xa bọn chúng thì hôm nay khó tránh đại nạn – giờ này đã qua nỗi kinh hồn, tôi lại nảy ý thơ, bây giờ xin ngâm cho cô nghe một bài thơ vui nhộn, để bớt nỗi cồn cào trong bụng!” Nói xong ngâm nho nhỏ:
Đến sông sóng lớn trùng trùng, lặng yên nín khóc nỗi buồn khôn nguôi.
Sáo trúc ca khúc tử quy, mịt mù sóng nước buồn ôi lạnh lùng.
Vân Nương nghe, lặng im rất lâu mới nói: “Bây giờ chúng ta đi đâu đây?”
“Đến Bắc Kinh đi tìm Long Nhi!”
Đến Bắc Kinh nương nhờ Khang Hy vốn là chuyện đương nhiên không cần bàn, nhưng lòng Vân Nương lại cảm thấy xót xa: Đi theo người đàn ông phong lưu lỗi lạc này đến cùng trời cuối đất, nàng đều cảm thấy dễ chịu, cho dù là anh em cũng tốt, chỉ cần không đánh mất ông. Nhưng nếu đi Bắc Kinh, thì Khang Hy và Tô Ma Lạt Cô sẽ cướp mất ông. Nàng và ông có lẽ sẽ trở nên người xa lạ. Cho dù không phải vậy thì mình còn mặt mũi nào quanh quẩn ở đây? Nàng buồn tủi ngước nhìn Ngũ Thứ Hữu, tay nắm thanh kiếm lạnh ngắt lên lưng, nói khẽ: “Vốn phải nên như vậy, cũng chỉ đành như vậy ... kia một chiếc thuyền đi tới!” Nàng đưa tay làm loa gọi to: “Bác lái thuyền ơi, tấp vào đây – cho chúng tôi đi với!”
Bước vào khoang thuyền, ngồi trên chiếc ghế mềm ấm áp hai người mới cảm thấy bên ngoài lạnh biết bao, ở trên đời, lửa khói đáng quý biết bao. Cảm thấy hai người ngồi sát nhau quá, Ngũ Thứ Hữu khẽ nhích ra một chút thì bác lái thuyền thò đầu vào hỏi: “Hai người là thế nào, muốn đi tới đâu?”
“À, cô ấy là em tôi, chúng tôi đi Bắc Kinh.”
“Thuyền chúng tôi chỉ đi tới Đinh Tự Cô.”
“Tới Đinh Tự Cô cũng được” Vân Nương nói, “Chúng tôi xuống thuyền ở Thiên Tân.”
Bác lái đò liếc nhìn hai người, cười nói: “Quan khách tha cho tiểu nhân vô lễ, anh em ruột tính sổ không phải xấu, giá thuyền mười lăm xâu, xin đưa trước cho tiểu nhân tiền lộ phí.” Nói xong, hắn liếc nhìn Ngũ Thứ Hữu, Ngũ Thứ Hữu cười gượng gạo.
“Không sao, bác cứ chèo thuyền chạy đi!” Vân Nương nói, “Không thiếu của bác đâu!”
Bác lái đò cười nhạt, nói: “Thưa cô, đây là quy định của nhà thuyền – tiểu nhân không phải nói hai vị, tôi chèo thuyền hơn nửa đời người, khi lên thuyền thì nói y như cô vừa nói, khi đến nơi vất cho mấy đồng tiền phủi đít mà đi, cả một nhà tôi lớn nhỏ có nước ăn cám!”
Ngũ Thứ Hữu nghe như có gai đâm sau lưng, mắt ông chỗ tím chỗ tái, không biết nói thế nào cho phải. Ông lái thuyền càng tin thực là họ không có tiền bèn bước ra ngoài khoang cắm sào, thả ván nói: “Mời hai vị lên cho, tôi đợi ở đây, lấy có tiền hãy lên thuyền.”
Vân Nương đùng đùng nổi giận, vén rèm bước ra, chỉ ông lái thuyền mắng: “Mẹ cha nhà ông, xem bọn này là dân quịt nợ chắc?”
“Không dám.” Ông lái thuyền tính khí cũng cứng cỏi, nghênh cổ đáp, “Nếu cô cho tiền thì chúng tôi đâu dám nói cô quịt nợ?”
“Bà cô mày bây giờ không muốn trả tiền thì sao?”
“Xin bẩm bà,” ông lái thuyền cũng giận đỏ mặt, “tiểu nhân cha con anh em bốn người mà không có bà cô!” Lời chưa dứt, Lý Vân Nương đã giang tay cho một đấm làm ông lái thuyền lảo đảo, mồm mắng: “Đồ khốn! Ta sẽ cho mày biết tay!” Ông lái thuyền cũng biết chút võ nghệ, bị Vân Nương đánh, lửa giận càng cao, thấy Ngũ Thứ Hữu nho nhã yếu đuối, còn Vân Nương là nữ, chắc là không biết bơi, ông bèn giơ mái chèo đập xuống định gạt Vân Nương xuống nước, Vân Nương đâu có coi ông ra gì, chỉ ra bộ giơ tay đỡ, cây chèo không đánh trúng người nàng.
Ngũ Thứ Hữu bên trong nghe hai người cãi cọ, ban đầu cảm thấy mình thất lý, chỉ thở dài, bây giờ nghe hai người đã đánh nhau, liền bước ra ngoài thuyền khuyên giải. Không ngờ mới ra khỏi cửa, tay chèo bị Vân Nương gạt ra đập trúng vai, ông kêu lên một tiếng “Ối chao” ngã ngồi xuống sàn thuyền.
Vân Nương vốn không có ý gây chuyện hơn thua, thấy Ngũ Thứ Hữu vô cớ bị đánh ôm tay đau đớn ngồi đó, lửa giận bốc lên phừng phừng, nàng bước tới một bước, chặt tay xuống giật lấy cây chèo, huơ ngang lưng, ông lái thuyền kêu lên một tiếng, bị đánh văng lên cao rồi rơi tõm xuống nước.
“Đồ súc sinh, ngang ngược hả?” Vân Nương cười nhạt một tiếng tự chèo thuyền đi tới, thấy Ngũ Thứ Hữu đứng đực ra nhìn, nàng nói, “Anh yên tâm, nó không chết đâu, nó biết bơi mà!”
“Tôi đã nói bao nhiêu lần rồi,” Ngũ Thứ Hữu chau mày nói. “không được giết người, không được gây án, huống chi việc hôm nay, là chúng ta thất lý!”
Vân Nương sửng sốt, rồi cười hì hì nói: “Nói cũng đúng, quả thật không thể thiếu người này.” Nói xong quay thuyền chèo trở lại, thấy ông lái thuyền đang bơi định trốn liền cười nói: “Lên đây! Chúng ta không phải là cướp đường, trốn đi đâu – không nể anh cả thì bà cô đâu chịu tha cho anh?”
Bác lái thuyền bám vào mạn thuyền leo lên ướt như chuột lột, lạy Ngũ Thứ Hữu như giã giò, nói: “Cảm ơn ông lớn...”
“Bác lái thuyền,” Ngũ Thứ Hữu hai tay đỡ ông ta dậy nói, “Nói thật với bác, chúng tôi hiện không có tiền bạc, đến nơi, chúng tôi tìm cách trả cho bác nhiều hơn.” Ông ta dạ dạ rối rít, liếc nhìn Vân Nương, vào trong khoang thay quần áo, rồi ngoan ngoãn chèo.
Thuyền đã chạy, ngọn đèn bằng hạt đậu leo lắt chiếu vào hai con người nổi trôi phiêu bạt, cả hai người đều cúi đầu suy nghĩ. Một hồi lâu Vân Nương bỗng hỏi: “Anh cả, anh đang nghĩ gì thế?”
“Tôi đang nghĩ.” Ngũ Thứ Hữu than thở, “ở Thiên Tân chúng ta không có người quen, lấy đâu ra mười lăm quan trả tiền thuyền?” Vân Nương che miệng cười khanh khách: “Thế mà anh cũng mang tiếng làm thầy vua, nói về trị nước kinh bang tế thế thì cả một tràng đạo lý! Không nghe người ta nói “xe đến trước núi tất có đường, thuyền tới trước cầu phải đi thẳng” hay sao? Em có một người bà con ở Thiên Tân, bảo ông ta đưa đi, còn sợ không có lộ phí sao. Chúng ta đi bộ lên Bắc Kinh đỡ khỏi bị mắng là đồ khốn!” Lúc này Ngũ Thứ Hữu mới yên lòng.
Cũng từ đó người lái thuyền mới sợ Vân Nương, nói đi là đi, nói dừng là dừng, gạo mắm củi dầu đều có đủ, còn đánh cá tươi cho Ngũ Thứ Hữu ăn nữa.
Đi hơn mười ngày thì đến Thiên Tân. Ngay buổi tối hôm đó thuyền vừa cập bến, Vân Nương liền xuống thuyền, dặn bác lái thuyền: “Bác đợi ở đây, hầu hạ anh tôi, tôi đi vay tiền cho bác, đỡ cho bác khỏi lo lắng!” Ngũ Thứ Hữu nghe nói vậy sợ nàng đi gây án, vội đứng lên định dặn mấy câu thì Vân Nương đã cười bỏ đi rồi.
Trống canh đã điểm, Ngũ Thứ Hữu ngồi trong thuyền đợi Vân Nương lòng thắc thỏm không yên. Thượng du Vân Hà đèn đuốc như sao, nước chảy róc rách, trên bờ nghe văng vẳng tiếng ca tiếng nhạc. Nơi đây tuy không phồn hoa bằng Kim Lăng thời trước nhưng cảnh đẹp duyên dáng. Ngũ Thứ Hữu ngồi thừ suy nghĩ: “Sắp vào kinh rồi. Cái gì đợi ở phía trước? Là cung Càn Thanh, là quán Duyệt Bằng? Hay là... nhà Sơn Cô? Sắp xếp như thế nào khi có cô gái si tình bên mình đây?” Con thuyền lắc lư theo dòng nước chảy, Ngũ Thứ Hữu chìm dần vào giấc ngủ mơ màng.
Khoảng nửa đêm Vân Nương trở về, vừa vào khoang đã cười hì hì: “Anh cả ngủ say, còn em thì được lộc trời!” Ngũ Thứ Hữu dụi mắt, thấy Vân Nương quần áo không nhàu nát, người không có vết máu, mới đỡ lo, liền hỏi: “Vay được tiền lệ phí rồi hả?” “Làm gì có chuyện không vay được?” Vân Nương cười đáp, “Nếu người bà con không hà tiện thì em đã về từ sớm rồi!”
Vừa nói vừa lấy cái gói vóc đen sau lưng, để mở ra trước ánh đèn. Ngũ Thứ Hữu nhìn, bất chợt sửng sốt: Thì ra là sáu đĩnh vàng móng ngựa to sáng chói! Bác lái đò lúc đó cũng tỉnh dậy, từ lúc lọt lòng mẹ đến giờ ông chưa từng thấy vàng nhiều như thế này, nhìn thấy hoa cả mắt. Vân Nương thuận tay nhặt một đĩnh vàng ném cho bác lái thuyền, cười nói: “Mái chèo của ông đáng giá chưa?”
Bác lái thuyền không nghĩ là Vân Nương nhanh nhẹn hào phóng như vậy, gục đầu lạy ba cái liền, nói: “Tiểu nhân có mắt không thấy vàng khảm ngọc! Cô cho nhiều thế này đủ cho cả nhà tiểu nhân dùng suốt một đời!” Ngũ Thứ Hữu cười nói: “Cô một chốc vay được ba trăm lượng vàng, còn nói người ta hà tiện, nhỏ mọn, khẩu khí này quả làm người ta chết khiếp – tôi cứ tưởng cô đi gây án!”
“Không gây án, ai dám cho vay?” Vân Nương cười nói, ngước đầu thấy Ngũ Thứ Hữu nét mặt sa sầm, vội nói: “Tên quản đạo Thiên Tân này lòng dạ độc địa, hắn thu tiền bù hao đến sáu tiền! – Em phế bỏ bốn tên thủ kho, để lại một mảnh giấy – đây là tiền bất nghĩa!” Bác đi thuyền nghe nói mới hay cô gái lợi hại này là tên bợm cướp giang hồ, ông hoảng kinh mặt vàng như đất.
“Hắn là quan tham ô, đã có phép nước trừng trị, ta cũng vạch tội được! Loạn lạc như thế này thì có lợi gì? Tiền này ta không dùng!” Ngũ Thứ Hữu nói quả quyết. Tính Vân Nương thẳng thắn hào phóng, không câu nệ lề thói lễ nghi, rất phù hợp với tính cách Ngũ Thứ Hữu, nhưng nàng từ nhỏ đã lớn lên trong núi sâu thời loạn, xem mạng người như cỏ rác, trong lòng không có “phép vua”, Ngũ Thứ Hữu lại không thể chịu nổi. Lần trước ở phủ Duyễn Châu, Ngũ Thứ Hữu đã quở trách nàng, sau đó tại nhà họ Trương lại nhiều lần giảng cho nàng hiểu sự quan trọng của mạng người, không ngờ nàng vẫn thói quen khó chữa! Nghĩ tới tức mình, Ngũ Thứ Hữu giậm chân nói: “Cô như vậy không đáng xách giày cho Tô Ma Lạt Cô, chao ôi!”
Mặt Vân Nương bỗng chốc trắng bệch. Suốt đời nàng là người nổi trội, trước nay muốn nói là nói, muốn làm là làm, muốn đánh là đánh, muốn giết là giết. Mấy năm theo Ngũ Thứ Hữu, nàng ngậm đắng nuốt cay, muôn vàn gian khó chăm sóc ông, bảo vệ ông, không ngờ lần đầu tiên ông nói mình “Không đáng xách giày cho Tô Ma Lạt Cô”! Toàn thân Vân Nương run lên, bao nhiêu cảm giác xấu hổ, căm hận, buồn rầu, oán trách dâng lên trong lòng, một hồi lâu nàng nghiến răng run giọng nói: “Nói đúng... tôi xách giày cho người ta...” Nàng bỗng rất cao giọng, ngẩng đầu cao ngạo nói, “Ngũ tiên sinh, anh mệt rồi, tôi cũng mệt rồi, chúng ta nên chia tay thôi. Anh vốn là người trong trắng, trước mắt sẽ vào triều làm quan to, còn tôi chẳng qua chỉ vẫn là một kiếm khách trôi nổi giang hồ, làm sao bì kịp chị Tô?” Nàng cười đau buồn, “Người đời chỉ thế mà thôi... Tôi tự hỏi, không có sai trái gì với người đời, một đời hành động theo bản tính, cũng coi như chuyến đi này không uổng phí, cứ coi như tôi với anh ngoảnh mặt làm ngơ, lách vai nhau mà đi!”
Lý Vân Nương trước nay vốn chỉ biết thuận tình bảo sao nghe vậy, bỗng nhiên nói thẳng lòng mình cũng cao quý như Ngũ Thứ Hữu, tuyên bố cắt đứt tình giao hảo với Ngũ Thứ Hữu. Ngũ Thứ Hữu ban đầu cảm thấy hối hận, cảm thấy mình đã lỡ lời, nhưng ngẫm nghĩ kỹ lại thấy mình vốn không đặt ra vấn đề cao thấp với nàng: “Trời ơi! Sao ta thế này!” Một ngọn lửa bốc lên hừng hực trong lòng thiêu đốt cả lục phủ ngũ tạng, ông đau khổ: “Ta Ngũ Thứ Hữu cũng không bằng cả những tiểu nhân chỉ biết quyền thế lợi lộc!” Ngũ Thứ Hữu cảm thấy choáng váng đầu óc, ông bước loạng choạng như để kéo áo Vân Nương lại, nhưng kịp dừng lại, nói giọng thật trầm: “Cô trách mắng rất phải! Tôi... tôi quả thật không xứng đáng... kéo giữ cô... cô đi, tôi chỉ có một lời đinh ninh: Những việc như vậy trong thiên hạ có biết bao nhiêu, chỉ dựa vào đôi tay của cô thì không thể quản hết được... tôi thật xấu hổ hối tiếc không kịp...” Nói xong nước mắt tuôn ra như mưa.
“Anh cả không thích giết người, em biết.” Thấy Ngũ Thứ Hữu đau lòng như vậy, Vân Nương bỗng mềm lòng, nàng nghẹn ngào nói, “Chỉ vì bốn tên giữ kho là một bầy cầm thú, đang đè một cô gái ở... ở... em giận quá bèn...” Ngũ Thứ Hữu nghe vậy càng cảm thấy xấu hổ, nghĩ ra không có gì an ủi, hai chân mềm nhũn, ngồi thụp xuống, thở dài ảo não. Bốn bên chiếc thuyền chìm trong một màn đen tối, tiếng thở dài càng sâu thẳm thê lương. Vân Nương ngước đầu, nước mắt long lanh trên mặt, nàng nói: “Lòng dạ của anh em biết, anh muốn đi gặp Hoàng thượng một cách sạch sẽ. Vậy cũng được, ném quách những vật vô dụng này đi!” Nàng đứng lên bước tới, cầm năm đĩnh vàng còn lại trên bàn, gói lại cẩn thận rồi ném mạnh xuống lòng sông, nghe “tõm” một tiếng rồi chìm nghỉm.
Hai người rời thuyền lên bờ đi dọc theo bờ sông, vẫn lặng im không nói. Giết người đã không được, trộm cướp Ngũ Thứ Hữu cũng không cho, nhưng trong tay một chữ cũng không, chợt tỉnh ra khỏi nỗi đau khổ xé lòng, Vân Nương bất giác cảm thấy buồn, nàng nói ngập ngừng: “Làm sao đây, lẽ nào chúng ta ăn xin để vào kinh? Nếu không, anh nên đi thăm quan đạo phủ Thiên Tân, vay một ít tiền?”
“Nghe cô nói tiền của họ bẩn thỉu, ta động tới làm gì?” Ngũ Thứ Hữu suy nghĩ cũng không có cách gì hay, ông cúi đầu ngẫm nghĩ một hồi, nói: “Xin ăn cũng chẳng có gì xấu. Nguyên Đề đốc Cửu môn Bắc Kinh Ngô Lục Nhất cũng từng ăn xin, ông có biệt hiệu là “ăn mày sắt”!”
“Nếu không thì bán chữ.” Lòng Vân Nương đã nguội dần, “Chữ của anh chẳng rất đẹp sao? Đó là một nghề làm ăn, hợp với sở thích của anh!”
Ngũ Thứ Hữu ngần ngừ một chốc rồi nói: “Bây giờ không gặp ngày lễ ngày Tết, bán chữ không được.” Thực ra đây là lời nói tránh, ông thực tình không muốn viết chữ gì để bán, người ta mua về, người biết thì nói là “Sư phụ của Đức Vạn Tuế bán cho tôi đấy”! “Vậy thì hát dạo” Vân Nương bỗng cười nói, “Giọng anh không tốt, thì viết chữ, em sẽ hát, anh gõ que đánh nhịp, kiếm được tiền mua một cái đàn, nhất định được!”
Ngũ Thứ Hữu không ngờ, ngạc nhiên hỏi: “Cô hát được không? Đừng hát cái gì “ông không biết làm trời, ông sụp đi”!” Vân Nương nói: “Hồi nhỏ em ở núi Chung Nam, người ở đó đều biết hát, em học theo cũng hát được mấy câu, chỉ cần anh đặt lời hát là được. Còn hát hay hay không em chẳng biết nữa.” Nói xong, nghĩ tới con đường xuất thân của mình, lại nghĩ tới Khỉ đen không biết lưu lạc tới phương trời nào, mắt nàng đỏ lên. Ngũ Thứ Hữu cũng bỗng thấy chua chát trong lòng, ông gượng cười nói: “Hồi trước ở quán Duyệt Bằng nghe cô Thúy hát, sau có nghe một lần nói tình cảm ở trấn Ô Long, lúc đó cảm thấy hay, không ngờ mình cũng có một ngày như vậy.” Nói tới đây, nước mắt từ từ lăn qua gò má chảy xuống.

