Khang Hy Đại Đế - TẬP 3 - Chương 32
32
Châm biếm sự đời Quách Tú trần tình
Đốc thúc hải chiến Quang Địa phụng chiếu
Võ Đơn ngơ ngác nhận kiếm, nhưng lại chần chừ. Sống lâu năm với Khang Hy, con người thô kệch này cũng đã sáng dạ nhiều. Quách Tú tuy nói trước kia có phạm tội tham ô, nhưng sau này đã bấm tay rửa đất, biết xấu mà sửa chữa lỗi lầm, việc này ông có nghe nói. Sự việc hôm nay, đạo lý đoạn cuối ông chưa nghĩ kỹ, nhưng rõ ràng là do Tiểu Lý ra ngoài làm điều phi pháp chẳng kể đất trời gây nên, bây giờ Khang Hy nổi giận giết người, đợi bình tĩnh lại thì ai biết sẽ như thế nào? Ông liếc nhìn bộ mặt dương dương đắc chí của Lý Đức Toàn, ông tiến lên dìu Quách Tú, thì Quách Tú đã vung tay đẩy ra, ông khấu đầu, hạ giọng nói nhỏ: “Tạ ơn!” rồi thở ra một hơi thật dài, đứng dậy đi.
Mọi người trong sân yên lặng như tờ, mấy chục cặp mắt nhìn theo Khang Hy đang giận dữ, ai ai cũng đều hồi hộp lo lắng. Cao Sĩ Kỳ suy nghĩ rất lâu, đã có chủ định, anh cắp tay sau đít nhìn trời thở dài, lẩm bẩm: “Làm sao được, làm sao được... Mặt trời không soi rọi tấm lòng thành của ta!”
“Hả?”
“Nô tài nói thực là quá dễ dàng cho tên Quách Tú!” Cao Sĩ Kỳ ánh mắt rầu rầu, nói chậm rãi: “Trong khoảnh khắc, một tên quan đã từng tham ô bị bắt quả tang, bỗng trở thành một ông quan can gián nổi tiếng lưu danh sử sách... dễ dàng quá!”
Khang Hy ngơ ngác suy nghĩ hồi lâu, rồi dậm chân đi vào trong nhà. Ba vị đại thần phòng dâng thư đưa mắt trao đổi với nhau, Sách Ngạch Đồ gọi Tố Luân tới, nói nhỏ: “Ngươi đi ra bảo Võ Đơn, hãy khoan ra tay, đợi một lát sẽ hay”.
Khang Hy mặt tối sầm đi vào nhà trong, thấy A Tú và bà Hàn Lưu người ngồi người đứng, đều sắc mặt trắng bệch, rõ ràng màn kịch xảy ra ngoài sân đã làm họ kinh hồn trố mắt. Khang Hy không nói không rằng đột nhiên ngồi xuống. Bà Hàn Lưu vội rót một chén trà bưng lại, cười nói: “Trà nóng, Chúa thượng nên nhắp từng ngụm từng ngụm một”.
“Ừm!” Khang Hy thở ra giọng nặng nề, rồi mới thay đổi sắc mặt, gõ trán nói như than thở: “Đúng, nóng quá sẽ bị hỏng việc đám quan người Hán này hễ có dịp là phạm thượng, mua danh cầu tước, tức chết người đi được!” A Tú nhân dịp khuyên can: “Nhổ vây rồng đương nhiên là đau. Chúng tôi trong phòng nghe, con người này cứng rắn có hơi quá, nhưng Chúa thượng mới bắt đầu đã dùng roi đánh, hình như có hơi vội...” Khang Hy nhắp một ngụm trà, ánh mắt mơ màng nhìn ra xa ngoài song cửa, như không có việc gì làm, bỗng chốc cảm thấy mơ hồ trống rỗng. Một hồi lâu bỗng ngơ ngác hỏi: “Bà Hàn Lưu, nhà dân dã bà có gì phiền lòng không?”
Bà Hàn Lưu cười nói: “Lớn nhỏ cùng một đạo lý như nhau, nhà nào cũng có quyển kinh khó đọc. Nhà nghèo để giành một miếng ăn, trẻ con kêu khóc loạn cả lên, người lớn chạy xuôi chạy ngược chẳng có cách nào, nhà họ Hàn chúng tôi vào năm Thuận Trị là như vậy đó. Nhà giàu thì cô ba dì bảy tranh nhau cao thấp, bà cả vợ lẽ ghen tuông nhau làm cho chó gà cũng chẳng yên, âu cũng là chuyện thường. Một hộ nhà quan, cửa nhà gia thế bên ngoài tỏ ra từ hiếu hòa mục, trong lòng thì nghĩ tới nghiệp nhà tổ tông, đánh giặc ngay trong nhà, có đứa giành, có đứa phá; khó tìm được một đứa con tốt để thừa kế nghiệp nhà, cũng lại có cái khó, tìm được đứa con như vậy lại là đứa con ương ngạnh, người đời nói ‘con bướng bỉnh không phá nghiệp nhà’!”
“Con bướng bỉnh không phá nghiệp nhà” Khang Hy vịn bàn đứng lên, bỗng nhớ lại lúc mới lên ngôi, “người thầy” Tô Ma Lạt Cô đã nói một câu “Nhà có con biết phấn đấu không hỏng nghiệp nhà; nước có quan giỏi không mất nghiệp nước”. Nhà vua rùng mình không yên lòng, không dám suy nghĩ tiếp, mấy bước phóng nhanh ra ngoài cửa. Thấy mọi người còn đứng lặng yên, vua mấp máy môi, khó khăn lắm mới hỏi: “Võ Đơn đâu? Người... giết rồi à?”
Sách Ngạch Đồ vội bước tới một bước, cúi mình cười theo: “Vẫn còn đứng ngoài hầu chỉ, nô tài mạnh dạn lệnh cho Võ Đơn tạm hoãn hành quyết...” “Tốt!” Khang Hy nói to: “Mau truyền Quách Tú vào chầu!” Võ Đơn bên ngoài đã nghe thấy, cười nói với Quách Tú: “Ông chủ đã bình tĩnh lại rồi, gọi ông vào đó! Được cái gì cũng đừng quên lão Võ này đã nể tình!”
Quách Tú đầu tóc rối tung, trước trán tím bầm, nặng nề bước vào giữa nhà, không biết vì buồn hay vì giận, ánh mắt bốc lửa có ngấn nước mắt. Ông không nhìn Khang Hy, chỉ bước tới trước hai bước, hầu như không còn sức, nặng nề quỳ xuống, nói nhỏ: “Vạn tuế gọi thần có việc gì?” Khang Hy trong lòng cũng rối bời, nhìn một ông quan nhỏ xíu tòng ngũ phẩm, không biết nói gì, một hồi lâu mới lên tiếng: “Theo ngươi nói, bây giờ việc đó nên... kết thúc như thế nào?” Quách Tú dập đầu lạy, khóc: “Bây giờ thần đã phạm tội đại bất kính, kính xin Hoàng thượng giáng chỉ xử tội theo phép nước. Theo luật đại Thanh, ba thái giám có tội khi quân, thì cũng nên chém bêu đầu giữa chợ để răn chúng, xin Hoàng thượng cho xử luôn một thể”.
Không ai ngờ Quách Tú lại trả lời như vậy, muốn cùng chết với bọn Lý Đức Toàn! Lý Đức Toàn vẫn nghiến răng trợn mắt tỏ ra trong lòng mừng rỡ, vừa nghe câu đó, đã co rúm lại một cục. Ba người mặt mày tái xanh nhất tề quỳ xuống đang định xin xỏ thì Khang Hy đã chán ngán quát lên: “Trẫm không hỏi các ngươi, các ngươi quỳ lui ra sau!” Khang Hy suy nghĩ một hồi, thần sắc u ám, khoát tay than thở: “Quách Tú, cùng Trẫm vào nhà nói chuyện”. Vừa nói vừa bước vào sảnh chính. Trong sân, mười mấy cặp mắt người này nhìn người kia, không ai dám lên tiếng, chỉ có con Hải Đông Thanh trên giá kêu lên hai tiếng “quát, quát”.
Trời đã chạng vạng, ráng chiều tỏa rạng, màu sắc huy hoàng, một tia nắng chiều tà xiên qua cửa lớn Cách Vũ chiếu vào trong sảnh, Khang Hy, Quách Tú, một vua một tôi, một ngồi một quỳ, im lặng hồi lâu. Khang Hy nói giọng trầm nặng: “Ngươi quỳ gần một chút”. Quách Tú vội quỳ lết tới mấy bước gần sát đầu gối Khang Hy, nghe Khang Hy nói tiếp: “Những điều ngươi tâu hôm nay, không thể nói là không có lý, nhưng ngôn ngữ quá đáng, bình tĩnh mà xét, Trẫm lẽ nào là một ông vua như Kiệt Trụ? Trước mặt bao nhiêu người thể diện của Trẫm có còn không?”
“Bẩm Hoàng thượng” Quách Tú thấy Khang Hy thành thực như vậy, lòng run lên vì cảm động, nước mắt chảy ròng ròng, nghẹn ngào nói: “Kẻ nịnh ta là thù, kẻ khuyên răn ta là thân, người xưa đã dạy, xin Vạn tuế xét cho lòng thần. Nặng Mãn nhẹ Hán, nặng trong nhẹ ngoài, đó chính là tệ nạn hành chính, thần không dám không mạnh dạn nói thật”. Khang Hy ngẫm nghĩ một lát rồi mỉm cười nói: “Người Mãn nói Trẫm quá nuông chiều người Hán, ngươi người Hán lại nói Trẫm nặng Mãn nhẹ Hán, làm người chẳng dễ chút nào! Ao nước trong không nuôi cá, Trẫm thấy không nên đặt vấn đề này nữa. Trẫm muốn hỏi ngươi, ngươi nói sĩ tử người Hán còn chưa phục bản triều, thực tế như vậy sao? Sau năm Khang Hy 18, Trẫm thấy tốt hơn nhiều rồi!” Quách Tú dập đầu thưa: “Năm Khang Hy 18 mở khoa thi bác học hồng nho quả là một nghĩa cử tốt đẹp, nhưng chỉ lấy hơn 180 người, lẽ nào đã thu phục hết lòng người dân triều trước! Đã bắt đầu thấy quy mô ý đồ Hoàng thượng hết sức làm nước nhà yên ổn, người khác lòng nghịch ý không dám nói gì, đó là sự thật, nhưng nói lòng người đều phục thì thần không dám phụ họa theo”.
Khang Hy gật đầu nghe, nghiêng người tới trước nói tiếp: “Ngươi nghe người ta nói những gì? cứ nói thẳng Trẫm nghe”. Quách Tú nói: “Thần là người bị tội giáng chức điều đi, nên nghe được những lời này dễ nhất. Quan văn võ người Hán ở bộ, ty, đạo, hễ động một tí là đem so sánh những chỗ sơ hở của bản triều với triều Minh trước, tình cảm bất mãn dễ thể hiện qua lời nói cử chỉ, càng được số di lão viết ra, nhớ lại những điển chương triều Minh trước, vạch bậy bạ ranh giới Hoa Di Mãn Hán, thậm chí có kẻ còn sùng bái Trinh Chính Sóc, lẽ nào xem những việc đó là chuyện phiếm không đáng quan tâm? Ngay như một bài thơ của Ngô Mai Thôn trước khi chết, không biết Vạn tuế đã nghe nói tới chưa?” Ngô Mai Thôn là nhà làm từ thời Sùng Trinh, làm quan bản triều, rất được danh sĩ ngưỡng vọng. Khang Hy ngạc nhiên vội hỏi: “Viết cái gì? Ngươi có thuộc không?”
“Thần không thuộc hết”, Quách Tú cúi lạy đáp, “hồi đó, Mai Thôn ra làm quan bản triều, Thương Khâu hầu Triều Tông viết thư hết sức can ngăn. Trong thơ Mai Thôn có nói: ‘Sống chết đều phụ ơn hầu cất nhắc, muốn nhỏ giọt tương lệ ướt đầm’. Trong bài Từ sắp chết có viết: ‘Cố nhân khảng khái nhiều chuyện lạ, nhớ hồi đó, trầm ngâm không dứt, sống tạm bợ với cỏ đồng’, là người dự khoa thi bác học hồng nho đó. Những bài khác, như bài thơ Tụng ca trước mộ họ Tiền của Lữ Lưu Lương Triết Giang, Điếu Tần của Cố Viêm Võ, bài từ Qua Nam Dương của Hoàng Khắc Thạch, đều là mượn lời tỷ hứng, hàm ý sâu sắc...”.
“Ôi!” Khang Hy bất giác thở dài. Từ khi lên ngôi đến giờ, nhà vua đã tốn bao nhiêu công sức để điều hòa mối quan hệ Hoa Di Mãn Hán, những tưởng mở khoa thi bác học hồng nho đã thu phục được người ở ẩn, không ngờ vẫn có người... Đang gật gù suy tư, thì đã nghe Quách Tú nói: “Đương nhiên so với trước năm Khang Hy thứ 18, tình hình đã khá hơn nhiều, Chúa thượng không cần vì một câu nói của thần mà sinh lo lắng. Thần nghĩ triều đình ta được chính thống không thể không chiếu dụ thiên hạ. Ngày đó đại quân vào quan trung, tông miếu, xã tắc nhà Minh đã không còn. Thiên hạ của ta thực ra là giành lại từ tay Lý Tự Thành, lý lẽ này phải đưa vào học đường, làm cho mọi người đều biết...” đang nói thấy Khang Hy đứng lên, liền ngừng lại. Khang Hy xúc động khoát tay: “Được... nói tiếp đi, nói tiếp đi Trẫm không quen ngồi đấy mà suy nghĩ công việc...”.
“...Vâng ạ!” Quách Tú nói tiếp, “Bá tánh thiên hạ không hiểu cái đạo lý đó, vẫn cứ cho rằng Đại Thanh cướp thiên hạ của họ Chu mà tự dựng, điều đó rất đáng lo! Thần cho rằng nên học theo nhà Minh trước, lấy lễ mà tôn thờ Khổng Mạnh, lập đền thờ mười bậc thánh hiền biểu dương văn minh; thăm hỏi các hậu duệ chân chính của vua Chu, thờ tự tông đường nhà Minh, tế lăng vua Minh, bố cáo cho thần dân biết việc triều ta trả thù cho nhà Minh đã xong, sửa lại chính sử nhà Minh chứng tỏ nước đã bị diệt không thể phục hồi...”.
Khang Hy nghe, sắc mặt rạng rỡ; bất giác nhìn Quách Tú một cách khâm phục: một nhân tài như thế này, Minh Châu làm sao mà không biết một chút nào hết!
“Còn bọn Chu Tam Thái tử”, Quách Tú nói tiếp, “vốn là những kẻ xấu mưu việc bậy bạ, nên bảo ty đại lý bộ Hình ra chiếu chỉ bắt ngay, để uốn nắn thiên hạ, sửa đúng luật nước như vậy thì còn lo gì dân không vững, thiên hạ không yên?”
Khang Hy yên lặng nghe xong, gật đầu mỉm cười, trang trọng ngồi xuống ghế, gọi ra ngoài: “Sách Ngạch Đồ, mấy người vào đây, gọi luôn ba người Lý Đức Toàn cùng vào nghe Trẫm xử!”
Đại thần phòng dâng thư và các thị vệ Võ Đơn, thái giám vì chưa nghe chỉ nên đều đứng yên tại chỗ, thấy trời sắp tối mà Khang Hy và Quách Tú vẫn cứ đàm luận ở trong nhà, chưa biết thế nào, nghe truyền gọi, Võ Đơn vội sai người cầm đèn. Lý Đức Toàn nghe giọng nói của Khang Hy, trong bụng biết việc không lành bèn bấm mạnh vào chân con Hải Đông Thanh một cái, con chim đau kêu to lên một tiếng, làm cho Khang Hy nhìn ra.
“Cao Sĩ Kỳ thảo chiếu!” Khang Hy bình tĩnh nói, “Quách Tú phạm thượng can gián thẳng, lời tuy có nhiều chỗ bất kính, nhưng lòng trung thành yêu nước sáng tỏ như mặt trăng. Những lời quá khích Trẫm không bắt tội. Bổ nhiệm Quách Tú ... chức hữu đô ngự sử viện Đô sát!”
Hữu đô ngự sử viện Đô sát là phó trưởng quan giám sát ngự sử sáu khoa mười lăm đạo viện Đô sát, chẳng những có quyền độc lập vạch tội, mà còn được quyền “tâu những việc nghe thấy” dù việc hạch tội không đúng cũng không bị tội vu oan, cấp bậc tòng nhất phẩm. Quách Tú là viên đạo bị cách chức, giáng xuống tòng ngũ phẩm, đột nhiên nhảy một bước lên làm đại thần đài các, cách đề bạt như vậy, từ lập quốc đến nay chưa hề nghe nói tới. Minh Châu và Sách Ngạch Đồ bất giác nhìn nhau, không biết Quách Tú đã nói những gì ở trong nhà mà bỗng nhiên được vua tin cẩn trọng đãi như vậy. Cao Sĩ Kỳ cũng giật mình, ngước đầu nhìn Khang Hy, rồi vội vàng hạ bút viết nhanh.
“... Ban cho lông trĩ hoa một mắt, cùng đại thần lục bộ các ban vào chầu”. Khang Hy vừa suy nghĩ vừa ra lệnh, “Ba thái giám Lý Đức Toàn ... ngang ngược phạm pháp, tự ý đánh quan chức đang làm việc, quát tháo ở công đường, nói bậy khi quân, phải xử chém ngay”.
Lời chưa nói dứt, ba người Lý Đức Toàn đã hồn bay phách lạc, nằm xuống đất lạy như tế sao xin tha chết. Khang Hy mỉm cười nói: “Các ngươi phạm phép nước, cầu cứu Trẫm chẳng ích gì. Quách ngự sử vạch tội các ngươi, Trẫm cũng chỉ đành làm theo pháp luật ... muốn cầu xin tha chi bằng cầu xin ông ta, phải do Quách Tú tự rút lại những lời tâu ban đầu mới được!”
Quách Tú cũng ngạc nhiên một lúc, nhìn ra chung quanh chẳng biết làm thế nào, cho đến lúc Sách Ngạch Đồ thay lời cầu xin mới chợt tỉnh. Ông quay người lắp ba lắp bắp tâu: “Thần tạ ơn ... thần không dám ...” Trấn tĩnh lại một lúc mới nói được trôi chảy, “Thần không phải là không biết ơn cất nhắc, kính xin Hoàng thượng rút lại thánh mệnh, thần là người có tội, không có chút công tích nào, chỉ vì một lời nói hợp ý mà được ơn lớn thế này, e rằng động lòng các quan thân cận, cúi xin Thánh thượng minh xét! Còn ba người Lý Đức Toàn, thần đã xử đánh đòn ở nha môn trấn Tam Hà. Là người ai không có vua, cha? Vua, cha nào không muốn bảo bọc người phụng sự mình? Lại có Sách Trung đường xin nể tình, thần xin miễn tấu tội khi quân của ba người”. Minh Châu cúi đầu suy nghĩ, tiến lên cúi người nói: “Hoàng thượng, Quách Tú nói có lý, phải đợi Quách Tú lập công rồi mới phong thưởng, có thể đỡ bớt điều dị nghị bên ngoài”. Sách Ngạch Đồ cũng nói: “Một chốc mà thăng lên cao quá, sợ lòng người không phục, cũng không có lợi gì cho Quách Tú. Đô ngự sử là khí cụ quan trọng quốc gia, đem cho dễ dàng như vậy, e rằng các quan ở dưới nói là Hoàng thượng thưởng phạt tùy tiện. Xin Hoàng thượng minh xét”.
“Vậy thì ban đầu làm Giám sát ngự sử vậy!” Khang Hy cười đứng lên nói, “Thực ra chỉ cần khảo sát thực tại, tăng thêm mấy cấp có ngại gì? Minh Châu, khanh ban đầu cũng chỉ là một tiểu thị vệ, trong một ngày thăng liền bảy bậc, phong làm phó đô ngự sử. Cao Sĩ Kỳ, ý khanh thế nào?” Cao Sĩ Kỳ cười nói: “Cũng như vậy thôi. Quách Tú là người phạm thượng hạch tội vua, sống chết không sợ, quả là có phong cách oanh liệt của quan thời xưa, phẩm chất đức độ ngự sử, nô tài trong lòng vô cùng khâm phục!” “Không sợ khanh không phục, người này kiến thức không thua khanh, nhưng gan dạ lớn hơn khanh nhiều!” Khang Hy cười đứng lên nói, “Trẫm hôm nay mệt lắm rồi, phải nghỉ một chút, khanh và Quách Tú cân nhắc xem, đưa điều trần của ông ta viết thành mấy chỉ dụ, sau khi về kinh, gặp Hùng Tứ Lý, đưa phòng dâng thư bàn quyết định, đóng ấn công bố! Ừm, ngoài ra còn thảo chỉ cho Thi Lang, bảo ông ta tâu lên việc chuẩn bị đánh biển tới đâu, nếu đã chuẩn bị xong thì phải tìm cơ hội xuất quân ra biển. Trẫm còn phải đi thị sát phía nam nữa!”
Mùa hè năm Khang Hy thứ 22, phía bắc mưa nhiều, phía nam nhiều gió. Gió đông từ nam Thái bình dương thổi tới, làm những con sóng dựng lên như trái núi. Lại Tháp nộp đủ số mười khẩu đại pháo hồng y, mười vạn mũi tên lửa liền nhận được thánh chỉ dẫn một đoàn đông đảo tỳ thiếp con cái đi thuyền quan về nhận công tác ở kinh sư. Thành Phúc Kiến chỉ còn lại tổng đốc Diêu Khải Thánh và thủy sư đề đốc Thi Lang thuộc phái chủ chiến, bầu không khí chiến tranh lập tức sôi động hẳn lên. Từ tháng ba nhận được chiếu dụ của Khang Hy đứng chân chuẩn bị chiến tranh, Thi Lang bèn lệnh điều ba trăm pháo hạm đi ra cửa biển Ngụy Đông Đình kịp thời điều tới rượu Thiệu Giang Nam năm ngàn hũ, heo sống ba ngàn con, dê sống năm trăm con cùng ba mươi vạn thạch gạo trắng khao quân. Thi Lang trong lòng lúc nào cũng căng thẳng, giờ mới hơi yên lòng. Trong vòng nửa tháng, tiếng dê lợn kêu không ngớt.
Diêu Khải Thánh nhận được năm mươi vạn bạc quân lương do dinh tổng đốc hải quan Nam Kinh mới đưa tới, bèn cưỡi ngựa tới ngay trung quân gặp Thi Lang. Các trại quân hai bên đường, binh sĩ ăn uống no say tụm năm tụm ba, có đám tập võ, có đám luyện bắn tên, có đám tập ngựa, cử tạ, đứng cọc, đi cầu sóng, nhún đu dây ... Tổng binh Trần Mãng dẫn mười quân sĩ, luyện tập giỏi nhất, kết băng đeo hoa đi trình diện ba quân. Binh sĩ đứng chật bên đường bắn tên, người thắng dương dương đắc chí, kẻ bại cũng không chịu thua, la to “ngày mai thi tiếp!” Diêu Khải Thánh trong lòng mừng vui khôn xiết. Vào đến sảnh quan, thấy Thi Lang ngồi một mình nhìn bản đồ vùng biển trầm ngâm im lặng, Diêu Khải Thánh cười nói: “Nhân huynh, binh sĩ khí thế cao lắm, anh thật không hổ là danh tướng thủy binh, biết cách điều binh!”
“Lòng trời ghét cát cứ, lòng quân cũng theo lòng trời”. Thi Lang vừa mời ngồi, vừa nói, “Cũng may mà có anh Khải Thánh hết lòng dạy dỗ, quân sĩ đã hiểu được đạo lý ‘đánh để đem lại thái bình, đánh để cầu nhất thống’ ”. Thi Lang ánh mắt chuyển sang màu u ám, nói tiếp, “Có điều, cũng còn nhiều người sợ đánh trên biển! Anh chỉ thấy được một mặt, đâu có biết chuyện nội tình bên trong - có không ít người lấy gạch đá khắc tên họ, quê quán mình đem chôn dưới cát”.
Diêu Khải Thánh im lặng lắng nghe, một lời nặng nề thốt ra từ miệng ông “giết!” Thi Lang mỉm cười nói: “Chỉ dựa vào việc này không được. Khi mới tới Phúc Kiến, chẳng đã giết hơn mười tên lính đào ngũ sao, nhưng về sau vẫn như cũ, có người tự chặt cánh tay, tự làm gãy chân, thậm chí có người tự sát. Họ thà bị giết trên đất liền còn hơn là chết trên biển! Rõ ràng giết người không phải là cách tốt. Hôm trước đi thị sát doanh trại, tôi bắt gặp một tên chôn gạch, chẳng những không phạt hắn mà còn khen hắn!” Diêu Khải Thánh cười thất thanh nói: “Một tên sợ chết như vậy, anh khen nó như thế nào?”
Thi Lang lấy tay chỉ trên bản đồ biển, đầu không ngước lên, nói: “Tôi khen ngợi hắn có chí quyết tử, xả thân thành nhân, quyết chí xuống Quỳnh đảo, lập công vì nước ...” Diêu Khải Thánh bỗng cười ha hả. “Anh đừng cười, đó là lẽ trời tình người, chưa chắc đều là sợ chết. Mấy năm nay đều luyện quân trên sông trên hồ, chưa ai từng đánh trận trên biển, nên phải lo lắng chứ”.
Hai người đang nói chuyện thì Lam Lý ấn chuôi kiếm bước vào, bẩm rằng: “Thưa hai quân môn, học sĩ điện Văn hoa, đại nhân Lý Quang Địa phụng chỉ đến gặp”.
Tin này, đã đọc thấy trên thông báo hôm qua, những tưởng năm ba ngày nữa Lý Quang Địa mới tới Phúc Kiến, không ngờ đến nhanh như vậy. Thi Lang ngạc nhiên nhìn Diêu Khải Thánh, Diêu Khải Thánh cười nói: “Canh bạc Lý An Khê này đặt cược ở huynh cả nên đương nhiên là sốt ruột rồi. Tính thanh niên, có gì mà không đoán ra: “Trận này đánh tốt, thì chức phụ thần nắm chắc trong tay!” Thi Lang cũng cười nói: “Rốt cuộc thì người đọc sách các anh quả là khôn ngoan. Bắn pháo, mở cửa giữa nghênh tiếp thiên sứ!” Nói xong hai người cùng nhau ra đón.
Lý Quang Địa tay cầm sắc chỉ ngang nhiên bước vào. Anh mặc áo dài chín xà năm móng thêu gấm hình gà, dưới cái mũ chóp san hô, một cái bím tóc đen lánh thả dài tới ngang lưng, đôi ủng đen đế hồng mỗi bước kêu lên cót két, mặt câng câng bước thẳng vào giữa nhà, đứng quay mặt về nam, nhìn Thi Lang nói: “Thi Lang tiếp chỉ!”
“Thần, Thi Lang cung lệnh thánh dụ!”
Lý Quang Địa gật gật đầu, mở tờ chiếu dụ trong tay đọc:
Vượt biển vào hang giặc nghịch Đài Loan, là điều Trẫm thiết tha kỳ vọng, đã nhiều lần hạ chiếu, nhưng vì quan hệ trọng đại không thể định sớm. Nay cho Lý Quang Địa đến nói rõ ý chỉ Trẫm, phải nên sớm định ngày xuất quân đánh về đông nhằm tránh để kéo dài thời gian. Nay gia phong Thi Lang chức hàm hữu đô đốc. Khâm thử!
“Tạ ơn!” Thi Lang lạy vái thật sâu.
Hàn huyên mấy câu, ba người phân ngôi chủ khách ngồi xuống. Tuy liên tiếp mấy ngày phóng ngựa nhanh, đêm ngày rong ruổi, nhưng Lý Quang Địa không tỏ vẻ mệt mỏi chút nào, chỉ nhắp mấy ngụm trà rồi nói: “Thánh dụ nói rất rõ rồi, học trò vội vàng tới đây là vì Hoàng thượng có hơi nóng ruột, Thi đại nhân liên tiếp viết lên đều nói thừa chỉ tìm cơ hội vượt biển, nhưng cho đến nay vẫn chưa có tin tức, nên sai học trò tới đây kiểm tra xem, không biết tướng quân dự định thế nào?”
“Đại nhân”, Thi Lang nghe chiếu chỉ xong, trong lòng cảm thấy không vui, không hiểu tại sao, ông hoài nghi vị thượng thư trước mặt đang độ đắc ý này đã nói gì với Hoàng thượng, nên ông gượng cười nói: “Nếu như Thánh thượng vì hạ quan chưa vượt biển được mà gia phong chức đô đốc để thúc giục thì chức hàm đó hạ quan quyết không dám nhận. Quân lính đánh trận nguy hiểm chết chóc, phải nắm phần toàn thắng mới được xuất quân, đâu dám hành động tắc trách? Lang tôi từ khi nhận lệnh đã đêm ngày suy nghĩ, chỉ nghĩ có một việc, quyết không thể vì tư thù mà hành động theo cảm tính, không để cho lòng nhân ái của Hoàng thượng suốt đời nghĩ tới Đài Loan cũng chảy xuôi về đông theo con sóng, đâu dám dồn binh không tiến, dưỡng địch giữ mình?” Câu nói này đấm thẳng vào ngực mình, Lý Quang Địa bất giác đỏ mặt. Chiếu chỉ này quả thực do anh thảo, bây giờ nghe câu nói Thi Lang thì hình như mình lấy lòng tiểu nhân mà đo bụng quân tử. Là nhà đạo học danh nho, lòng tự ái của anh bị một đấm quá đau. Rất lâu, Lý Quang Địa mới nói: “Thi tướng quân, xin đừng hiểu lầm! Quân đội tướng quân thống lĩnh đều từ phía bắc đưa tới, lại thêm thủy sư bản địa Phúc Kiến, Hoàng thượng sợ không tiện thống nhất chỉ huy, nên đặc biệt gia phong, đây là lời phê son của vua, ngài xem thì rõ”. Diêu Khải Thánh vuốt chòm râu dài nói: “Vẫn là suy nghĩ của Thánh thượng chu toàn, lấy chức hữu đô đốc chỉ huy toàn quân, quả là tiện lợi hơn nhiều. Xin Tấn Khanh yên lòng, binh mã Phúc Kiến chúng tôi, cả tôi trong đó, xin nghe theo sự điều động của Lang đại nhân!”
“Luyện quân vốn là để đánh giặc”, Lý Quang Địa chau mày suy nghĩ nói: “Kéo thời gian dài như vậy là không được. Mùa đông năm ngoái, Hoàng thượng đã có ý lệnh cho ngài xuất quân, mãi không động tịnh. Không hiểu vì cớ gì?” “Tôi đang đợi!” Thi Lang nói, “Thời cơ chưa chín muồi, làm sao có thể mạo hiểm xuống biển?” Lý Quang Địa nghiêng người nửa cười nửa không, hỏi: “Còn phải đợi, đợi cái gì?”
Thấy Lý Quang Địa mặt mày khó chịu, lòng Thi Lang nặng trĩu, những ngón tay gõ vào nhau, nói chậm rãi: “Đợi gió! Lý đại nhân nên nhớ, thuyền đi phải có gió!”
“Gió!” Lý Quang Địa cười khanh khách nói: “Học sinh là người Phúc Kiến, đất này hè có sóc, đông có huân, thu có kim, xuân có hòa, bốn mùa đều có gió. Học sinh trên đường tới đây, ngày nào cũng có gió, tại sao tướng quân không chịu xuất quân?” Diêu Khải Thánh liếc nhìn Thi Lang, ông ta chủ trương dùng gió bắc, nhưng thấy Lý Quang Địa vừa xuống xe đã vội đòi xuất quân, trong lòng hơi nổi nóng, bèn nói lạnh lùng: “Đánh giặc không phải ngâm vịnh gió trăng, một chút không cẩn thận thì muôn vạn sinh linh đồ thán, không phải ngọn gió nào cũng dùng được, xin Tấn Khanh minh xét!” Lý Quang Địa lấy tư cách khâm sai đến đốc chiến, vừa xuống ngựa đã cảm thấy hai người đều có vẻ khó chịu, trong lòng không vui, suy nghĩ một lát, thở dài, cười nói: “Quang Địa là thư sinh yếu đuối, không hiểu việc quân, nên muốn được chỉ dạy, ngọn gió nào thuận tiện nhất cho việc xuất quân?”
“Gió nam!” Thi Lang nói, “Tôi đợi gió nam, không có gió nam không thể ra biển!”
Lý Quang Địa cười to nói: “Nếu nói như vậy, thì tôi phải đợi lâu đây! Nếu lúc xuống biển là gió nam, giữa đường có gió đông thổi phải trở về, chẳng phải là trò trẻ con sao?”
Thi Lang không trả lời ngay. Ông nhìn Lý Quang Địa từ đầu tới chân, hồi lâu mới nói: “Làm tướng không biết thiên văn, không hiểu địa lý, là tướng tầm thường! Lý đại nhân, anh một mực tán đồng thu hồi Đài Loan, mấy năm nay khổ sở vì tôi trù bị lương hướng, nhìn xa hiểu sâu, tôi vô cùng khâm phục. Thánh thượng ủy thác anh tới đốc quân, việc này vốn chẳng có gì đáng nói. Nhưng nếu anh dở kiểu đốc thúc như hôm nay, thì Thi Lang cam nguyện lui tránh ra xa, để đại nhân thống lĩnh quân ra biển, được chứ!” Nghe Thi Lang muốn trút gánh nặng, đầu óc Lý Quang Địa mới bình tĩnh trở lại. Khang Hy vốn có ý để anh lấy tư cách khâm sai đến thị sát, chứ không có danh nghĩa đốc quân, tội vi phạm chỉ dụ không lãnh nổi đâu. Anh là nhà nho học rộng, thái giám nhà Minh trước mà đốc quân, điều hành tướng soái, không biết làm hỏng bao cơ hội quân sự, lẽ nào vì tình cảm một lúc bốc đồng mà để lại tiếng cười thiên cổ sao? Nghĩ vậy, Lý Quang Địa đã đổi ra sắc mặt tươi cười, vuốt vuốt tấm áo than rằng: “Anh Lang, nói quá nặng đấy, người anh em không đảm nổi đâu. Khâm sai tôi là chỉ tới bờ sông đánh trống trợ oai, quyết không có ý thay thế, xin chư tướng quân hiểu cho nổi khổ tâm của tôi”.
Diêu Khải Thánh nghe, cảm thấy lời Lý Quang Địa nói rất thành khẩn, không có vẻ lấy thế hiếp người như lúc mới tới. Anh ta là bạn với Trần Mộng Lôi, vốn có hơi coi thường Lý Quang Địa muốn để cho đụng đầu với Thi Lang cứng rắn xem sao. Nhưng nghe tới đây, cảm thấy sự thể càng to, liền đứng ra giải hòa nói: “Mọi người cùng phụng sự một đức vua, cùng làm một công chuyện, trong lòng cùng nghĩ những điều giống nhau. Tấn Khanh mang lệnh Thánh thượng, đương nhiên phải đốc thúc xuất quân, ông Thi thì sợ vạn nhất có gì sai sót thì làm hỏng việc lớn của Hoàng thượng! Tấn Khanh đường xa tới đây, gió bụi đầy người, chúng ta không nên nói chuyện đó nữa, bay đâu mang rượu ra đây để tẩy trần cho khâm sai đại nhân!”

