Khang Hy Đại Đế - TẬP 3 - Chương 56

56

Đem binh trời kịch chiến sông Bu-thông

Nhớ ơn vua hiến kế chặn quân trốn chạy

Đội quân Khang Hy trung tuần tháng ba tới Long Hóa. Ngay trong đêm nhận được quân báo, quân Cát Nhĩ Đơn cộng tất cả hơn hai vạn bảy ngàn người, toàn bộ tập trung trong lưu vực sông Tây Lạp Mộc Luân, liên doanh dựng trại, vô cùng kiên cố. Trong lều chung của trung quân, than lửa cháy hừng hực, mấy chục cây đèn sáp to bằng cổ tay chiếu sáng rực trong lều ngoài lều. Mấy người Sách Ngạch Đồ, Phi Dương Cổ, Cao Sĩ Kỳ, Đồng Quốc Duy cầm kiếm đứng nghiêm, mắt không chớp nhìn Khang Hy đang xem bản đồ. Trong lều chỉ một mình A Tú là đàn bà, bưng nước sâm đứng hầu phía sau Khang Hy.

“Phi Dương Cổ, ở Ba Lâm khanh đóng bao nhiêu quân?” Rất lâu mới nghe Khang Hy hỏi, “Đây là nơi xung yếu phía trước quân địch, vạn nhất có thất sót thì nguy hiểm cả đại doanh, không thể coi thường!”

“Nô tài đâu dám đùa với việc quân!” Phi Dương Cổ nghiêng mình đáp, “Quân đồn trú Ba Lâm trước đã có một vạn rưỡi, từ lúc nô tài về kinh bẩm việc, đã tăng lên hai vạn bảy. Cát Nhĩ Đơn có tập trung toàn quân giáp công, quân ta cũng vững như núi Thái Sơn”. “Quân ta có mười bốn vạn, dùng mặt chính diện với quân địch chỉ hai vạn bảy, quá ít!” Khang Hy lắc đầu, “Rút thêm hai vạn từ quân cánh phải của Tố Ngạch Đồ bổ sung cho Ba Lâm, đều giao Phi Dương Cổ thống nhất chỉ huy!”

Sách Ngạch Đồ lần tiến quân này chỉ là yểm hộ đại doanh, liên lạc với Trác Sách Đồ, chặn đánh bên hông Cát Nhĩ Đơn. Với tư cách đại thần đứng đầu phòng dâng thư đi làm công chuyện này, ông cảm thấy rất tủi thân, nghe Khang Hy nói vậy, trong lòng càng không vui, bèn bước tới một bước cười nói, “Nô tài già rồi. Từ khi dẹp giặc Cảnh Tinh Trung không đánh trận nữa, lần này chỉ phối hợp, nô tài trong lòng cảm thấy khô khan, xin Chúa thượng ân chuẩn cho nô tài được lập công với Chúa thượng!” Khang Hy liếc nhìn Sách Ngạch Đồ. Từ thị sát phía nam đến nay, nhà vua mơ hồ cảm thấy con người đã từng ra công đoạt lại ngôi vua cho mình năm đó hình như có hai lòng, chỉ vì không có chứng cứ, lại ngặt vì tình cảm với Hoàng thái hậu nên không động tới; đến lúc này làm sao dễ dàng giao quyền quân đội cho ông ta? Suy nghĩ cả buổi mới nói: “Khanh tự nguyện xin lập công là tốt, nhưng xuất quân lần này, thống soái đương đầu với địch là Phi Dương Cổ, khanh không thể tranh với ông ta. Đã như vậy, hai vạn người này giao cho khanh đưa tới Ba Lâm. Khanh và Quốc Cương đều nghe Phi Dương Cổ điều khiển!”.

“Dạ!” Sách Ngạch Đồ và Đồng Quốc Cương đồng thanh đáp. Phi Dương Cổ không ngờ trước khi lâm trận bên mình lại có thêm hai nhân vật này, một vị là đương nhiệm đại thần phòng dâng thư, một vị là anh của đại thần phòng dâng thư, hơn nữa giữa hai người còn có vụ án của Minh Châu chưa làm sáng tỏ. Từ xưa tướng cầm quân, sợ nhất là Hoàng đế sai giám quân can dự. Khang Hy sắp xếp tuy nói hai vị đều do ông điều khiển, nhưng thân phận hai vị này hiển hách như vậy, một viên tướng bên ngoài nhỏ bé như mình làm sao xử lý? Ông mấp máy môi, thở dài không thành tiếng, nói: “Vậy đành xin lỗi tể tướng Sách”.

“Quyết định như vậy”. Khang Hy chỉ một lòng lo về tình thế quân sự, không nghĩ kỹ điều vướng mắc này, nhìn tấm bản đồ nói: “Xem bản đồ địa hình, lòng Trẫm quả thật không yên, canh năm ngày mai, Trẫm và các khanh cùng đi tới sông U-lan-bu-thông quan sát tình hình địch”.

Phi Dương Cổ nghe nói vừa mừng vừa sợ. Khang Hy đến tận tuyến đầu rất có lợi cho việc cổ vũ sĩ khí; vua tự đến xem, những điều lo lắng của mình vừa rồi sẽ là thừa. Nhưng quân hai bên tên đạn giao phong, gươm giáo chạm nhau, vạn nhất có gì sai sót bất ngờ, thì bản thân mình ăn nói làm sao với triều đình và thần dân? Nghĩ vậy liền cao giọng tâu: “Quân ta gấp mấy quân địch, luyện tập nhiều năm, vả lại lấy khỏe chờ mệt. Cát Nhĩ Đơn một nhúm hề trèo tường, ngàn dặm bôn tập đến phía đông này, việc thắng bại không bói cũng biết. Vạn tuế an tọa đại doanh, nô tài nếu ra quân một lần không dẹp yên được giặc này, xin Vạn tuế giết hết cả nhà nô tài!” “Không phải ra quân một lần dẹp yên!” Khang Hy ánh mắt lóe sáng “Mà phải nhổ cỏ tận gốc! Để dụ địch về phía đông, Trẫm đã bỏ ra bao nhiêu tâm tư, vạn nhất có thất thoát, Trẫm cũng không còn mặt mũi nào gặp lại phụ lão Giang Đông! Điều Phi Dương Cổ tâu miễn bàn, các khanh lui ra, sáng sớm mai tới đây lên đường!”

Mọi người lui ra. Trong lều to trở nên vắng lặng, sữa trong nồi trên lò than sủi bọt, Khang Hy cảm thấy hơi nóng, liền bảo A Tú giúp cởi áo khoác ngoài, chỉ còn mặc một chiếc áo dài màu đỏ tía, ngồi xếp bằng nhìn A Tú, nói: “A Tú, năm đó đi thị sát phía bắc Trẫm gặp khanh lần đầu ở đây, còn nhớ không?”

“Vâng ạ!” A Tú đỏ mặt “Cũng trong một đêm như thế này, nhưng là mùa đông...”.

Khang Hy thấy nàng nét mặt thẹn thùng, kéo nàng vào lòng, vuốt nhẹ mái tóc đẹp, nói: “Thơm quá! Nguyên Trẫm ngửi thấy mùi hương lạ toát ra từ người khanh, vào cung thì không ngửi thấy nữa, làm sao ra đây lại ngửi thấy?” A Tú ngước mặt, đôi mắt con ngươi đen lánh không thấy đáy nhìn chằm Khang Hy, nói: “Trong cung phi tần nhiều, đâu đâu cũng mùi hương phấn. Người ta nói vào nhà đẹp đẽ lâu không ngửi thấy mùi hương của nó...” Khang Hy nâng mặt A Tú lên, thơm đôi môi ấm áp của nàng, cười nói: “Con gái Mông Cổ, có người như khanh tinh giỏi Hán học quả thật ít thấy, hễ động tới là giở điển chương ra!”

“Người Mông Cổ tinh thông Hán học nhiều lắm!” Nằm dựa trong lòng Khang Hy, A Tú như say, nheo mắt nói: “Người con gái Cát Nhĩ Đơn Chung Tiểu Trân tài giỏi hơn thiếp nhiều. Đừng xem cha cô ta là lang sói, Tiểu Trân là người tốt thấu suốt đại nghĩa, thiếp rất ngưỡng mộ cô ta...”.

“Khanh ngưỡng mộ cô ta điều gì?” Khang Hy bỗng nhớ lại, người đàn bà trong lòng mình không thể quên tình một người đàn ông khác, vua bất giác biến sắc: “Ngưỡng mộ cô ta chọn ý trung nhân chăng?”

A Tú giật mình , nhẹ nhàng vùng ra khỏi vòng tay Khang Hy, quỳ phịch xuống đất nói: “Chúa thượng! Người Mông Cổ trước nay không nói bậy bạ, Chúa thượng nghi cho thiếp, thiếp đã biết từ lâu! Bất quá chết là cùng, có gì đáng sợ? Năm xưa trốn ra Bắc Kinh, không người thân thích, may nhờ Trần Hoàng giúp đỡ, lúc đó thiếp định lấy anh ta, nhưng anh... không yêu thiếp. Thiếp biết cái đạo lý phải theo một người cho đến chết, tùy ý Chúa thượng, muốn đối xử với thiếp như thế nào cũng được, thiếp đâu dám nghĩ tới chuyện phi lễ?” Đôi mắt sáng quắc chứa đầy vẻ u buồn oán trách, nàng nhìn sững Khang Hy nói: “Nhưng nhốt mãi Trần Hoàng trong ngục, thiếp cho rằng Hoàng thượng xử lý không thỏa đáng. Ngài là thiên tử, có tấm lòng bao dung bốn biển, vì sao không dung được một thư sinh ngốc chỉ biết trị thủy?” Nói xong, đôi lông mi dài sụp xuống, hai hàng nước mắt nóng hổi chảy ra.

Khang Hy ban đầu là một cú sét kinh hãi bàng hoàng, một cung phi dám nói với mình như vậy, vốn là một chuyện đại nghịch vô đạo! Nhưng câu nói cuối cùng của A Tú lại gây xúc động sâu sắc. Là thiên tử tôn quý trong thiên hạ lại ghen ghét một thư sinh, việc này truyền lại thiên hạ hậu thế thì còn ra thể thống gì? Nhà vua vô cùng lúng túng, sửng sốt hồi lâu, thở dài một tiếng nói: “Lời khanh nói có chỗ đúng có chỗ không đúng. Bị giam không chỉ riêng Trần Hoàng, còn có hai người nữa. Vụ án Cận Phụ liên lụy với Minh Châu, đều đang tra xét. Bây giờ Đồng Quốc Duy mới vào cũng có ý lật án cho Minh Châu. Minh Châu quyền chức lâu năm, phe cánh rất nhiều, một việc không cẩn thận sẽ sinh biến động! Cho nên lần này thân chinh, Trẫm mang theo cả Sách Ngạch Đồ và Minh Châu... A Tú, đây không phải là việc đàn bà các khanh nên dính vào, khanh đừng nói nữa”.

Sáng đi tối nghỉ suốt hai ngày, ngự doanh của Khang Hy đã tới tiền tuyến U-lan-bu-thông. Tối đó Khang Hy ngủ rất ngon, sáng sớm hôm sau bèn cưỡi ngựa đến sông U-lan-bu-thông quan sát tra doanh trại địch. Ven theo bờ sông từ Ba Lâm di chuyền sang, tướng sĩ quân tám cờ, đội quân cờ lục, đội quân cờ người Hán thấy phướn rồng cánh quạt rợp trời kín đất, đều biết là ngự giá đến rồi, các doanh trại liên tiếp trong ba mươi dặm lập tức vang lên tiếng hô “Vạn tuế” rung trời chuyển đất.

Khang Hy thúc ngựa tới bờ sông, một tay nắm chuôi kiếm lạnh ngắt, một tay giơ kính viễn vọng lặng lẽ nhìn sang bờ bên kia, thấy lều trại dựa sông dựa núi dựng lên nhung nhúc như rừng. Rào hào chướng ngại chi chít trước trận tiền, quả là bố trí như thành đồng vách sắt. Nheo mắt xem một hồi lâu. Khang Hy đặt kính viễn vọng xuống, quay đầu nhìn mọi người sau lưng cười nói: “Cát Nhĩ Đơn không hổ là danh tướng, bày trận dùng binh không chút mơ hồ. Đáng tiếc là đi lệch đường tà không được trời giúp! - Phi Dương Cổ, đại pháo hồng y của quân ta đều kéo lên đặt vào vị trí cả chứ?”

“Bẩm Vạn tuế!” Phi Dương Cổ ngồi trên mình ngựa nghiêng mình cười đáp, “Tổng cộng 43 khẩu đại pháo hồng y, tầm bắn đều từ bảy dặm trở lên. Số doanh trại gỗ đất của chúng thì nhằm nhò gì, trong khoảnh khắc sẽ tan thành tro bụi!”

Khang Hy gật đầu, đang định nói đã nghe từ đại trại trung quân bờ bên kia ba phát pháo nổ rung trời chuyển đất, Tố Luân và mấy chục thị vệ ào tới vây Khang Hy vào giữa. Khang Hy mỉm cười, nói: “Làm gì có chuyện giặc đánh đến? Trẫm thấy như Cát Nhĩ Đơn sắp ra nói chuyện”.

Người đi ra quả nhiên là Cát Nhĩ Đơn, nghe quân Thanh bên kia bờ reo hò ầm trời, đoán là Khang Hy tự đến trận tiền, hắn bèn dẫn mấy chục tên thân binh hộ vệ cưỡi ngựa chạy như gió đến bờ bắc sông. Nhìn xa xa bờ bên kia một đám quan văn tướng võ vây quanh một người đàn ông trung niên phong độ hiên ngang, biết chắc là Khang Hy, hắn bèn ngồi trên ngựa đặt tay ngang ngực, nghiêng mình chào, nói to:

“Thần Hãn Bác Thạc Khắc Đồ Cát Nhĩ Đơn cẩn kiến Hãn Bác Cách Đạt Thiên nhan bệ hạ!”

Lúc này đang là mùa khô, hai người đứng cách nhau không quá bảy tám trượng, nước sông U-lan-bu-thông trong vắt nơi sâu nhất chỉ hơn bốn năm thước, đá cuội trứng ngỗng dưới đáy nhìn thấy rõ mồn một. Khang Hy cách địch gần như vậy làm mọi người sợ thót tim. Nghe Khang Hy lạnh lùng nói: “Ngươi cũng là Hãn, Trẫm cũng là Hãn, thì nói ‘cẩn kiến’ làm gì, cần gì phải khách sáo? Hơn nữa Chuẩn Cát Nhĩ ở biên cương phía tây, cách đây hàng vạn dặm, ngươi đem quân tới lãnh địa vương Khoa Nhĩ Tẩm làm cái gì? Trẫm muốn được lĩnh giáo!”

“Ngài là Đại Hãn Thiên tử, tôi là Tiểu Hãn bộ lạc”. Cát Nhĩ Đơn nghe Khang Hy nói không chậm không nhanh làm hắn sửng sốt, nuốt bãi nước bọt, hắn cười gian xảo, “Năm kia, tôi đã mời Thương Nam Đa Nhĩ Tế Lạt ma chuyển gửi cho Đại Hãn, Cát Nhĩ Đơn trước nay không phải là người ngoài đối với Hoàng đế Trung Hoa. Thần dân bộ lạc tôi trước nay đều tôn trọng pháp thống của đại Hoàng đế, không hề dám làm càn!”

“Không dám làm càn?” Khang Hy bỗng ngửa mặt lên trời cười to, “Quả thật là chuyện lạ trong thiên hạ! Ngươi đã xưng thần, nhưng không qua tâu trình đã thôn tính bốn bộ lạc Chuẩn Cát Nhĩ, thôn tính ba bộ lạc Ca Nhĩ Ca, đưa mấy vạn quân dày xéo Sơn Thiểm và các bộ lạc đông Mông Cổ, lại còn nói ‘không dám làm càn’! Từ xưa tới nay, gian thần nhiều không kể xiết, nhưng có tên nào ngang tàng bậy bạ như ngươi?”

“Đại Hãn!” Cát Nhĩ Đơn không cười nữa, hắn cắt đứt lời Khang Hy, nói, “Việc xưa nói tới làm gì? Hãn Thổ Tạ Đồ liên lạc với chư Vương sa mạc bắc Mông Cổ, nhiều lần quấy nhiễu Chuẩn Cát Nhĩ tôi, cướp bóc khí giới bộ lạc tôi, còn giết mất đứa cháu của tôi, là kẻ thù không đợi trời chung của Chuẩn Cát Nhĩ! Vì sao ngài thiên lệch một bên phía Thổ Tạ Đồ? Vua không xứng là vua, thần tự nhiên cũng có thể không phải là thần!”

Khang Hy cười lạnh lùng: “Đây là cái cớ ngươi đem quân phạm thượng? Nói Trẫm thiên lệch Thổ Tạ Đồ, ngươi có chứng cớ chứ?” Cát Nhĩ Đơn lấy tay chỉ A Tú phía sau Khang Hy, nói nghiêm khắc: “Con mụ đàn bà kia chính là công chúa Bảo Nhật Long Mai con gái Thổ Tạ Đồ! Đây là bằng chứng sống!”

“Quân giặc!” A Tú nghe tới đây, không còn nhịn được, đúng là kẻ thù gặp nhau, mặt đỏ lên, nàng trừng mắt mắng: “Ngươi là con sói ác, là con cú mèo trên thảo nguyên! Ngươi trả lại cha ta, trả lại bộ lạc của ta...” giọng nói nàng khàn khàn đau xé, mọi người nghe được ai cũng đau buồn. Cát Nhĩ Đơn khoát tay, hai mươi mấy tên tùy tùng kéo cung bắn tên sang, các thị vệ Tố Luân... đã múa kiếm chắn phía trước, như những quả cầu bạc loang loáng, những mũi tên bị đứt gãy bay ra rào rào, không cách gì động đến sợi lông chân của Khang Hy. Khang Hy đùng đùng nổi giận, lấy roi ngựa chỉ Cát Nhĩ Đơn nói: “Tướng nào thay ta ra trận đây?”

“Nô tài xin đi!” lời chưa dứt, từ phía sau một vệ sĩ lách ra lên tiếng đáp.

Khang Hy nhìn lại, thì ra là thị vệ Trương Ngọc Tường khi đi thị sát phía bắc lúc đi săn bị mãnh hổ dọa chết ngất. Thấy mặt anh tỏ vẻ khẩn cầu nhìn mình, Khang Hy liền gật đầu. Trương Ngọc Tường mắt đỏ lên, cảm ơn, cởi bỏ ngay chiếc áo dài trên người, trên thân mình trắng muốt xăm nhiều hình, không phải rồng không phải phượng, không phải hoa, không phải mây, mà là liên tiếp không dứt chỉ một chữ “nhục”! Trương Ngọc Tường cánh tay trần, hét lên một tiếng phóng ngựa như bay, nhảy xuống sông rồi vọt lên bờ bên kia, hoàn toàn là một sự liều mạng bất cần đời làm cho người trên hai bờ sông sửng sốt. Khang Hy bèn dặn Võ Đơn: “Bắn tên yểm hộ! Cho sang một số người nữa, đánh tan sự kiêu ngạo của tên côn đồ đó!” Lời chưa dứt bốn mươi tên lính hộ vệ trung quân cũng cởi bỏ áo, trần trùng trục xông ra. Cát Nhĩ Đơn thấy người tới không lành, bèn lệnh cho hậu vệ hơn một trăm tên xông ra chém giết. Lập tức tiếng trống hai bên bờ sông U-lan-bu-thông đều nổi lên vang động, tiếng hô giết ngất trời, tiếng la hò trợ uy sôi lên sùng sục.

Trương Ngọc Tường từ khi bị Khang Hy tước đi chiếc lông hoa trên chóp mũ, vẫn bị chung quanh coi thường. Anh ta ẩn nhẫn chờ cơ hội, bản thân ngầm khắc khổ tập tành, rèn luyện gan góc đã bảy năm. Hôm nay ra trận sắc bén không ai ngăn chặn nổi. Khi vượt sông đã bị hai mũi tên ghim vào vai vào đùi. Anh ta nhịn đau, cắn răng rút mũi tên ném xuống sông. Vừa lên bờ đã bị một tên kỵ binh huơ dao chém vào giữa ngực, anh lách người, thuận tay chém một dao, đem cái đầu ướt đẫm máu ném sang bờ nam... Phía sau, hơn bốn mươi kỵ binh người to tay trần ào ào xông lên, xáp vào quần nhau với hơn trăm tên vệ sĩ của Cát Nhĩ Đơn, nháo nhào một đám. Thấy số quân ít nhiều chênh lệch nhau, Khang Hy căng thẳng giơ tay nắm chặt Phi Dương Cổ. Phi Dương Cổ lại cười nói: “Không sao, Chúa thượng chiêu này tuy có vội vàng một chút nhưng lừa được Cát Nhĩ Đơn không thể làm gì được. Thần đã lệnh cho cánh trái Niên Canh Nghiêu dẫn bốn ngàn người từ thượng du đi tắt xuống, đã không làm thì thôi, đã làm thì làm tới cùng, dứt khoát hôm nay phải đánh cho chúng một trận tơi bời.

Lúc này cuộc chém giết ở bờ bên kia căng thẳng làm mọi người nín thở. Những con ngựa chiến ngang dọc điên cuồng xung sát. Các võ sĩ Mông Cổ dũng mãnh và các chiến sĩ Mãn Hán, giơ dao sáng quắc sống chết quần thảo với nhau, dao kiếm va nhau kêu lên những tiếng rợn người. Những con ngựa chiến bị chém ngã hí lên đau khổ, có những cánh tay, những cẳng chân bị chặt đứt, những chiếc đầu lâu bị chém, máu tuôn ra xối xả, lăn lông lốc trên thảo nguyên giữa tiết trời se lạnh. Trương Ngọc Tường chém giết đã đỏ mắt, trên mặt trên người máu tươi loang lỗ, anh vừa gầm thét, vừa đâm chém, quân sĩ hai bờ nhìn thấy trợn trừng mắt. Anh ta dũng mãnh không hề biết sợ, ngay cả trong đội quân Cát Nhĩ Đơn cũng có người khen tài.

Bỗng nhiên trung quân Cát Nhĩ Đơn vang lên tiếng tù và u u u và tiếng thanh la cấp báo. Có người lều trung quân phi ngựa tới báo, “Thưa Hãn Bác Thạc Khắc Đồ, quân Thanh từ phía tây đánh tới rồi!”

“Có bao nhiêu người?” Cát Nhĩ Đơn đang xem ngây người ra, bỗng nghe hậu phương có biến, hắn giật mình kinh hãi vội hỏi: “Quân của ai?”

“Có bốn năm ngàn người, là quân Thanh của họ Niên, từ thượng du...”.

Lời chưa dứt, Cát Nhĩ Đơn kêu to một tiếng: “Căn Đặc Nhĩ làm gì? mà ban ngày để chúng nó xung qua sông!” Hắn quay đầu phía các cận vệ đang say sưa chém giết, quát to: “Các dũng sĩ không nên ham đánh, trở về trại!” Lúc này, trên bờ bắc sông U-lan-bu-thông, tiếng chém giết vang dậy. Toàn bộ phía trước đại doanh Cát Nhĩ Đơn đều hoảng loạn. Niên Canh Nghiêu dẫn bốn ngàn kỵ binh xông vào doanh trại Cát Nhĩ Đơn, thấy người là giết, thấy lều là đốt, trong làn khói đen cuồn cuộn, nơi nào cũng là lính, đâu đâu cũng máu chảy... Khang Hy dùng kính viễn vọng nhìn rất lâu mới thả tay xuống, thở ra nặng nề, bỗng than rằng: “Một tướng công thành, vạn xương khô, đáng tiếc Cát Nhĩ Đơn làm việc trái đạo trời, tuy có binh hùng tướng giỏi nhưng lòng người không đồng, hiệu lệnh bất nhất!” Phi Dương Cổ không có tấm lòng từ bi như vậy, ông quay người lệnh cho quan cờ hiệu trung quân: “Lệnh Đồng Quốc Cương dẫn năm ngàn quân đánh tan trại giữa tiền quân Cát Nhĩ Đơn, bức cho hắn lui giữ Cảnh Phong, toàn quân chúng ta có thể đứng vững chân trên bờ bắc U-lan-bu-thông!”

Khang Hy không chú ý nữa, nhà vua xuống ngựa, nhè nhẹ xoa đôi chân đã sưng to, đi về phía Trương Ngọc Tường vừa trở về. Hơn bốn mươi dũng sĩ chỉ sống trở về có mười ba người, vì vừa mới rửa ráy ở dưới sông, các vết thương trên người vẫn không ngừng rỉ máu. Trên người Trương Ngọc Tường đầy vết thương do tên bắn, cánh tay trái bị chặt đứt, dùng vải trắng bọc lại, tay phải cầm cánh tay đứt và một nửa thanh kiếm gãy, gượng đứng vững nhìn Khang Hy. Khang Hy đi tới gần, nói: “Không phụ lời dạy dỗ của Trẫm, giỏi lắm, Trẫm trả lại cho ngươi một chiếc lông hoa ba mắt!”

Trương Ngọc Tường nghe xong, cảm thấy chóng mặt, tấm thân cao to ngả phịch xuống đất. Tối hôm đó, nhận được tin thắng trận, doanh trại Cát Nhĩ Đơn trên bờ bắc sông U-lan-bu- thông toàn tuyến bị phá tan, rút chạy, co cụm vào vùng Cảnh Phong. Khang Hy lập tức lệnh cho đại bản doanh Long Hóa chuyển đến đóng quân ở Ba Lâm, lệnh cho quân tướng Hắc Long Giang và đội quân Lang Thẩm chuyển về đông chi viện cho Trác Sách Đồ, bịt đường Cát Nhĩ Đơn đánh xuống phía đông. Lại lệnh sáu trăm dặm gia cấp truyền chỉ tướng quân Cam túc Trương Dũng dẫn quân tiến ra bắc đề phòng Cát Nhĩ Đơn chạy về tây. Mọi việc sắp đặt thỏa đáng, lại lệnh dùng xe ngự của vua đưa Trương Ngọc Tường đang thoi thóp về Phụng Thiên điều trị vết thương.

Trận đầu thắng lợi, doanh trại quân Thanh mọi người đều vui mừng phấn khởi. Tuần vũ Trực Lệ sai người đưa tới ba ngàn con lợn béo khao quân. Phi Dương Cổ lệnh các trại không được uống rượu, nhằm đề phòng Cát Nhĩ Đơn cướp trại. Tiếng dê kêu lợn éc râm ran trong các doanh trại. Binh sĩ giết dê mổ lợn tưng bừng, chỉ riêng một mình Minh Châu lạnh lùng đau khổ. Ông ta là tản trật đại thần đang mang tội, tuy theo giá xuất chinh nhưng không được tham gia bàn việc cơ mật, mà việc xung phong trận mạc cũng không cần đến ông. Người đi theo “hộ vệ” cho ông đều do Sách Ngạch Đồ chọn trong phủ Nội vụ, trước mặt tuy lễ phép cung kính nhưng tâm trạng cách bức muôn trùng sông núi, không ai dám nói một lời tri kỷ. Thịt lợn chia tới cho ông, binh sĩ đã nấu chín, bốc lên mùi thịt nồng nặc, Minh Châu không ăn được một miếng, ông bảo mọi người: “Các anh cứ việc ăn đi, tôi đi dạo một lát”. Ông từng bước đi ra khỏi trại, đi về phía lều ngự của Khang Hy.

Nơi đây phòng vệ nghiêm ngặt, khuôn viên trong vòng bốn dặm đều dùng màn màu vàng che kín, có ba cửa ngự môn, hai mươi mốt lều tuần tra cảnh vệ bố trí xung quanh, phía trong ba bước một trạm, sáu bước một người đều là quân vũ lâm mới toanh, không có phụng chỉ đừng hòng vào trong, mới đến gần chút đã bị giữ lại tra hỏi. Minh Châu đưa mắt nhìn, trong lều ngự đèn đuốc sáng trưng, vắng lặng, rất ít có người ra vào. Ông thở dài đang định lui bước thì thấy Võ Đơn từ trong đi ra, Minh Châu vội quay mặt, không nhanh không chậm đi trở về.

“Minh Châu đấy hả?” Võ Đơn thấy ông tránh đi vội kêu lại, “Có chuyện gì không?”

Minh Châu gật đầu chua chát, nói: “Võ quân môn, ông khỏe chứ...” “Quân môn gì, đừng nói thế!” Võ Đơn cười nói, “Nếu anh thích cứ gọi tôi là Lừa bướng! Chúng ta bao nhiêu năm cùng ăn cùng ở, thấy anh luôn luôn tấn phát, sau theo bọn yêu tinh đó chúng làm hỏng anh, có gì cứ việc nói, giúp được gì đương nhiên tôi sẽ giúp!” Khi Minh Châu nắm quyền, chưa hề tới Võ Đơn, Võ Đơn cũng không có ý gì, bây giờ nghe Võ Đon nói, suýt nữa thì nước mắt trào ra. Minh Châu đang định nói thì thấy Niên Canh Nghiêu và một đám nha tướng cùng Sách Ngạch Đồ đi ra, ông liền nín lặng. Sách Ngạch Đồ thấy ông bèn đứng lại, nói như cười mà không phải cười: “Ông Minh, lâu ngày không gặp. Muộn như thế này đến lều ngự có việc hả?”

“Tôi thả bộ tới đây, thấy ông Võ, chuyện trò mấy câu”. Minh Châu nhanh nhảu nói, “Lâu không gặp Hoàng thượng, trong lòng thực cũng lo lắng, không biết mình rồng có khỏe không?” Sách Ngạch Đồ chau mày, bỗng bật cười, nói: “Hoàng thượng thân thể xương cốt đều cứng cáp! Bây giờ ông vô sự nhẹ mình, thật làm người ta ao ước, không cần phải lo lắng nhiều như vậy. Tôi đang phụng lệnh đi truyền chỉ, nếu ông có việc gì tâu, cứ tìm tôi mà nói. Chúng ta bạn bè lâu năm, không để thiệt cho ông đâu”. Nói xong bỏ đi.

Những lời này từng chữ từng câu nghe ra còn đau hơn khoét tim. Minh Châu đã chịu nhục nhiều, không mấy để ý, nhưng Võ Đơn tức giận mặt trắng bệch, trừng mắt nhìn theo sau lưng Sách Ngạch Đồ, xì một tiếng nói, “Anh Minh, tôi biết anh muốn gặp Hoàng thượng. Chỉ sợ lúc này không được. Vừa bàn việc xong, Hoàng thượng mỏi mệt một ngày rồi, e đang ôm Quý phi ngủ rồi. Anh muốn gặp Hoàng thượng, đợi có dịp, tôi sẽ nói cho anh. Bây giờ đang xúi quẩy, không lợi cho anh, có phải không?”

“Tôi đã không có lòng nào muốn phục chức.” Minh Châu khẽ ho hai tiếng, gương mặt hơi đỏ, nắn bàn tay đầy chai sạn của Võ Đơn nói: “Người anh em, anh đối với tôi như vậy, trong lòng tôi vừa buồn vừa hối hận, hồi trước tôi không xử thật tốt với anh, nếu không thì đã đưa anh đi làm Tổng đốc rồi. Ôi... bây giờ còn nói làm gì nữa? Tôi biết không thể gặp Thánh thượng, nhưng có một việc quan trọng: Con đường tháo chạy phía tây bắc của Cát Nhĩ Đơn phải đưa quân trấn giữ. Vạn nhất chưa tiêu diệt hết tại đây, để cho Cát Nhĩ Đơn chạy qua Chiêu Mạc Đa mà muốn bắt được chúng thì càng tốn nhiều công sức”. Nói xong, ông lặng thinh, lại nắm tay Võ Đơn, rồi dùng dằng bỏ đi.

Báo cáo nội dung xấu