Trúc Thư Dao - Tập 1: Mở đầu - Chương 03
Tứ khanh thay nhau giữ ngôi vị chính khanh, người chết quyền mất.
Chẳng ai biết được, căn hầm ngầm nằm sâu dưới lòng đất kia lại là cố gắng giãy giụa cuối cùng của một gia tộc.
Phía trên suối vàng trong lòng đất, xuyên qua những đình đài lầu gác trải dài, chỉ thấy một vùng đèn đuốc sáng trưng lộng lẫy. Tiếng đàn, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng người nói xôn xao hòa lẫn vào nhau, buổi tiệc kéo dài suốt đêm trong phủ Trí đã sắp đến hồi kết.
Tộc chủ tộc Trí là Trí Lịch mới khỏi bệnh ít lâu bỗng dưng thấy khó chịu nên đã vội vã rời chiếu rượu, chỉ để thế tử là Trí Thân đứng ở cửa tiễn khách.
Các đại phu kẻ say người tỉnh, kẻ mệt lử người còn hăng đương vội vã chào từ biệt Trí Thân nhưng đôi mắt cõi lòng đã bay ra ngoài cổng, chỉ mong người đứng trên thềm ngoài cửa đi chậm một chút để mình đuổi kịp hỏi một câu, chào một tiếng.
Trí Lịch, chính khanh nước Tấn từ sau buổi tế mùa đông ở ngoài thành tháng trước đã đổ bệnh nặng, vu y bên ngoài đoán rằng ông ta không qua nổi cuối năm nay. Vậy mà hôm nay ông ta tự dưng lại bày tiệc lớn trong phủ, mọi người đều cho rằng ông ta đã khỏe. Chẳng ngờ thức ăn hầm trong vạc đồng bốc khói nghi ngút suốt cả tối còn chưa được bưng lên, mặt ông ta đã tái nhợt, tay chân co giật, người hầu phải vội vã dìu đi. Đám đại phu thính mũi lập tức đánh hơi được triều đình nhà Tấn sắp thay đổi.
Một khi Trí Lịch qua đời, người nắm giữ triều chính sẽ là Triệu Ưởng, tông chủ tộc Triệu.
Hè năm ngoái, cả nhà Triệu Ưởng vẫn còn là cá nằm trên thớt của tộc Phạm và tộc Trung Hàng, bị một câu “kẻ khơi họa phải chết” dồn ép đến mức phải trốn khỏi kinh đô giữa đêm hôm, chạy tới Tấn Dương cố thủ. Việc chưa đầy một năm, tộc Triệu bị dồn vào đường cùng chẳng những liên kết với tam khanh đuổi kẻ địch là tộc Phạm và tộc Trung Hàng ra khỏi nước Tấn, mà tông chủ Triệu Ưởng còn đích thân dẫn quân vây đánh Triều Ca, hòng giết sạch người của hai tộc kia. Một chiêu đường cùng phản kích, nhanh, chuẩn, hiểm, độc.
Lúc Triệu Ưởng gặp nạn, ai ai cũng cho rằng tộc Triệu sắp diệt tộc tới nơi, để nịnh bợ hai tộc Phạm và tộc Trung Hàng đang như mặt trời chính ngọ, ít nhiều đều nhân lúc hỗn loạn đánh hội chửi hùa, lần này thấy ông ta lại sắp đắc thế thì không khỏi chột dạ. Nhưng sợ thì sợ, vẫn phải tranh thủ tỏ rõ lập trường, đạo lý này ai cũng biết. Thế nên trên bậc thềm trước cửa phủ Trí, đám đại phu hối hả vén vạt áo, nối đuôi nhau tràn về phía Triệu Ưởng, chẳng buồn để tâm tới thế tử tộc Trí là Trí Thân đang tái mặt đi vì giận dữ.
“Đúng là bọn tiểu nhân vong ân phụ nghĩa, tầm nhìn hạn hẹp! Nếu ông nội ta sống được đến trăm tuổi thì tên Triệu Ưởng kia cả đời chỉ làm thượng quân tá thôi! Tới lúc đó, xem các ngươi còn dám coi thường tộc Trí nữa không?” Trí Dao, cháu đích tôn của Trí Lịch đứng trong góc Đông Nam đại sảnh tức đến đỏ gay mặt mũi, nhìn đám đại phu túa ra cửa như thác lũ, hai bàn tay nhỏ xíu bấu vào mặt bàn dài sơn đen, tưởng chừng muốn bấu ra cả mạt gỗ.
“Ai nhắc đến tên khanh phụ ta thế?” Cách Trí Dao không xa, một thiếu niên vận áo màu chàm đang gà gật chợt bừng tỉnh, vừa lầu bầu vừa ngẩng lên, khuỷu tay không cẩn thận huých đổ cái chén hai quai sơn son đựng loại rượu ngon được ủ kỹ bốn lần, rượu trong vắt cay sè chảy lênh láng ra đất.
“Ta gọi đấy, người làm gì được ta nào?” Thấy thiếu niên tỉnh dậy, Trí Dao chẳng những không rụt lại mà còn gân cổ cao giọng hơn.
“Hóa ra là A Dao à...” Thiếu niên áo chàm vừa tỉnh rượu, nhướng mắt nhìn thằng bé vận áo đỏ rực đang tức sôi gan rồi cúi đầu lẩm bẩm, “Lần sau gặp khanh phụ ta ngươi cứ gọi thẳng tên nhé, để ông ấy biết trong đám con cháu tộc Trí vẫn còn dũng sĩ thật sự như ngươi!”
“Triệu Bá Lỗ, ngươi đừng lôi cha ngươi ra dọa ta! Ta biết giờ người đang dương dương tự đắc, nhưng cha ta sợ cha ngươi, chứ ta không sợ ngươi đâu. Chỉ cần ông nội ta sống thêm bốn mươi năm nữa, nước Tấn chẳng đến lượt người tộc Triệu các người nắm quyền, ngươi cũng đừng hòng đè đầu cưỡi cổ ta!” Trí Dao đẩy phắt người hầu bên cạnh ra, xông tới trước mặt Triệu Bá Lỗ. Năm nay nó vừa tròn mười tuổi, song đã là “đầu gấu” nức tiếng thành Tân Giáng, thường ngày ỷ được ông nội yêu chiều, chẳng coi thế tử yếu ớt này của tộc Triệu ra gì cả.
Sống thêm bốn mươi năm nữa ư? Thoạt nghe Triệu Bá Lỗ đã phì cười. Nếu Trí Lịch sống thêm được bốn mươi năm nữa thì đừng nói ba tộc kia hết đường sống, e rằng Tấn hầu cũng đổi thành người tộc Trí rồi. Nhưng trên đời làm gì có kẻ nào sống được tới trăm tuổi? Trẻ con suy cho cùng vẫn là trẻ con, cáu lên là nói năng nhăng nhất.
Triệu Bá Lỗ không muốn so đo với thằng bé “đầu gấu” này, bèn rút trong tay áo ra một vuông khăn lụa lau cổ tay áo bị thấm ướt rượu, quay lại hỏi người đằng sau, “Hồng Vân nhi, ta ngủ bao lâu rồi, sao mọi người bỏ đi hết vậy?”
Một bé trai chừng bảy tám tuổi đang quỳ sau lưng Triệu Bá Lỗ, mũi cao mắt sâu, trông như dị tộc phương Bắc, đuôi mày có vết bớt to bằng hạt đậu không giống chu sa cũng không giống phấn, như nhỏ nước cỏ xuyến giã nát vào. Nó còn chưa búi tóc thành chỏm, mái tóc dài được buộc qua quýt cùng chiếc áo lông ngắn nhếch nhác rất dễ khiến người ta chú ý giữa cả sảnh đường xa hoa tráng lệ. Thấy Bá Lỗ quay lại, thằng bé lê hai bước tới bên cạnh, thì thầm, “Thế tử, tiệc vừa mở màn, anh mới uống nửa chén rượu mạnh đã say rồi...”
“Thằng kia! Ta với chủ mày đang nói chuyện, sao mày dám chen vào!” Thấy cha mình đứng ngoài cửa phải chịu nhục, Trí Dao đã sôi gan, giờ lại thấy Triệu Bá Lỗ chẳng buồn đếm xỉa đến mình thì càng nóng tiết, tiện tay vơ lấy một chiếc đĩa chân cao sơn son trên bàn ném thẳng vào đứa bé bên cạnh Triệu Bá Lỗ. “Cộp” một tiếng, chiếc đĩa chân cao đựng đầy thịt băm đập mạnh vào đầu thằng nhỏ. Thịt mỡ thịt nạc đã đóng váng trắng cùng nước miếng và vụn thịt thừa xỉa ra từ răng của thực khách chảy ròng từ trán nó xuống.
“Vô Tuất!” Nhìn gương mặt ròng ròng nước thịt dính dớp của thằng bé, Triệu Bá Lỗ luống cuống chẳng biết phải lau từ đâu nữa.
Năm nay Triệu Vô Tuất vừa tròn bảy tuổi, nhưng nó đã biết không được né cú ném của Trí Dao. Nó là con trai một nữ nô tộc Địch, thân phận của nó không cho phép nó né tránh, đây là số phận nó phải chịu. Triệu Vô Tuất cười an ủi Triệu Bá Lỗ, giơ tay quệt váng mỡ trên mi mắt rồi lẳng lặng cúi xuống nhặt chiếc đĩa chân cao dưới đất lên, cung kính đặt trở lại bàn.
“Hừm, thằng hầu như mày có bao giờ biết mùi thịt, hôm nay hời cho mày quá đấy!” Trí Dao khinh khỉnh nhìn xuống đầu Triệu Vô Tuất.
Triệu Bá Lỗ như bị đánh một gậy, đứng phắt dậy tóm cổ áo Trí Dao kéo tới trước mặt quát hỏi: “Mi bảo ai là thằng hầu? Nó là Triệu Vô Tuất em ta, mi dựa vào cái gì mà dám ra tay đánh nó?”
“Em mi á?” Trí Dao liếc đứa bé đang quỳ dưới đất, khinh miệt nói, “Nó rõ ràng là thằng giữ ngựa cho mi, đừng tưởng ta không biết. Một đứa nô lệ cũng dám bước vào yến tiệc phủ ta, tộc Triệu bọn mi thực khinh người quá lắm!” Trí Dao không chịu lép, tuy nó nhỏ hơn Triệu Bá Lỗ bốn tuổi nhưng lại ỷ thế khỏe mạnh, còn từng tập võ, giật phăng cổ áo khỏi tay Triệu Bá Lỗ, còn tiện đà đẩy phắt đối phương ra.
Triệu Bá Lỗ vốn không muốn sinh sự ở phủ Trí. Tuy nó là thế tử tộc Triệu song cũng là đứa con trưởng bị ghẻ lạnh nhất trong nhà. Khanh phụ chê nó yếu ớt, họ hàng cười nó vô dụng, chỉ có đứa em trai bảy tuổi con hầu thiếp coi nó là anh cả. Hôm nay, chính nó đã cố kéo Vô Tuất tới dự tiệc, nếu ngay cả em trai mình còn không che chở được thì sao có thể coi là anh cả đây! Triệu Bá Lỗ cố đứng vững, giơ tay chỉ thẳng mặt Trí Dao nghiêm giọng mắng, “Ranh con mất dạy! Đừng nói ông mi sống thêm được bốn mươi năm, từ ông ta tính ngược thêm hai đời nữa, có tông chủ nào nhà bọn mi sống được quá bốn mươi tuổi chưa? Vắn số thì vắn số, ông mi chết cũng đâu phải do khanh phụ ta hại, mi trút giận lên em ta là cớ làm sao! Biết điều thì câm họng lại cho ta, coi chừng sau này khanh phụ ta tống cha con mi đi theo ông mi luôn!”
“Triệu Bá Lỗ! Mi, mi cứ đợi đấy! Chỉ cần thêm hai hôm nữa, ông ta xơi được của ả kia...” Trí Dao tức điên người, giậm chân chồm lên như một con gà chọi. Nó nhớ tới căn hầm nọ, nhớ tới người bị nhốt trong đó, tối nay nó nhất định phải cắt thịt đùi thằng oắt kia cho ông làm thuốc, tới ngày mai ông khỏe lại, xem kẻ nào còn dám láo lếu với nó.
“Chúng bay nói gì mà ồn ào thế?” Một giọng trầm thấp cất lên từ xa, Trí Dao đang tức sôi máu nghe tiếng lập tức thay đổi hẳn, thái độ hung hăng bay biến hết, chỉ còn một gương mặt trắng nõn nà như phần dồi ngọc tạc ngây thơ nhìn Triệu Bá Lỗ.
Triệu Bá Lỗ chẳng có tài như Trí Dao, thường ngày rất hiếm khi nổi giận, lúc này muốn đổi nét mặt cũng chẳng kịp, không giấu nổi vẻ cau có.
“A Dao tham kiến thái sử.” Trí Dao sửa lại cổ áo, chớp cặp mắt đen láy hành lễ với người nọ. “Bá Lỗ tham... tham kiến thái sử.” Triệu Bá Lỗ cũng khom người hành lễ.
Người nọ mặc áo vu sĩ, đội mũ cao, chính là Thái Mặc, thái sử nước Tấn. Thái Mặc là một nhân vật đặc biệt ở Tấn, ông ta chẳng có gì không làm được, chẳng có gì không biết, các khanh tộc đều coi ông ta như thượng khách, song ông ta không phục vụ bất cứ gia tộc nào. Lúc này, cặp mắt lạnh băng lướt qua gương mặt ba đứa trẻ, ông ta chẳng nói năng gì, chỉ cúi đầu rút trong tay áo ra một vuông khăn xanh ném xuống cạnh tay Triệu Vô Tuất.
Chiếc khăn xanh thanh thiên bay qua trước mắt Trí Dao, Trí Dao sinh nghi, song vẫn thản nhiên ngẩng lên cười với Sử Mặc, “Không có gì đâu ạ, A Dao đùa với em trai Triệu thế tử thôi! Đêm nay lạnh đột ngột, e rằng đường sá ngoài kia đóng băng rồi. Mấy hôm trước ông con phái người đi nhờ nhà Công Thâu nước Lỗ làm riêng một cỗ xe thất hương cho thái sử, đang định chọn ngày đưa sang phủ. Bánh xe ấy làm rất khéo, chạy trên băng cũng không lo trượt. Vừa hay để A Dao đánh xe đưa thái sử về phủ nhé.”
“Xe thất hương à? Hồng Vân nhi, bên ngoài lạnh lắm, bọn mình đừng cưỡi ngựa về nữa, đi nhờ thái sử một chuyến đi!” Triệu Bá Lỗ kéo tay Triệu Vô Tuất. Triệu Vô Tuất đầu đầy canh thịt, siết chặt vuông khăn lụa không đáp. Trí Dao bất giác cười thầm trong bụng, một đứa mạt hạng, có cho cũng chẳng dám lên ngồi xe thất hương này ấy chứ.
“Khanh phụ ngươi bảo ngươi cưỡi ngựa đến à?” Sử Mặc đặt hai ngón tay lên cổ tay Triệu Bá Lỗ. Triệu Bá Lỗ gật đầu, Sử Mặc nhíu mày nói, “Ngươi và Vô Tuất theo ta về phủ lấy thuốc, trong bảy ngày tới không được ra gió nữa.” Dứt lời, chẳng đợi ba đứa lên tiếng, ông ta đã phẩy tay áo, đi thẳng ra cửa.
“Đi thôi, bọn mình lên ngồi xe thất hương của thái sử!” Triệu Bá Lỗ đắc ý cười với Trí Dao rồi kéo Triệu Vô Tuất theo. Hai đứa mới đi được một quãng, chợt Triệu Vô Tuất ngoái lại nhìn chằm chằm Trí Dao.
Ánh mắt ấy khiến Trí Dao khó chịu. Nó không giải thích được là khó chịu ở đâu, chỉ thấy tim nhói lên như bị gai đâm, nhìn không thấy sờ không được nhưng khó chịu hết sức. Nó nào hay đây có lẽ là bản năng khi gặp kẻ địch đáng sợ nhất trong đời, con người ta bất giác sẽ sinh ra căm ghét, kháng cự.
“Quân mạt hạng!” Trí Dao nhìn theo bóng Triệu Vô Tuất đi xa, nhổ toẹt một cái.
Thực ra chưa cần trông thấy cỗ xe thất hương, Triệu Bá Lỗ đã biết hình dạng của nó, cũng biết mui xe như vảy cá để tránh đọng nước mưa, rèm xe dày dệt bằng tơ và đay thêu đủ các vì sao trên bầu trời nước Tấn, bánh xe chia ra làm hai bộ xuân hạ và thu đông, bảy loại gỗ thơm dùng đóng thân xe đều lấy từ rặng núi chạy dài của nước Yên phía Bắc. Nửa tháng trước, trên án thư của khanh phụ nó đã đặt một bức mật báo, miêu tả kỹ càng hình dạng cỗ xe cùng việc người tộc Trí phái đi sang Lỗ đã gặp những ai, làm những chuyện gì. Nó biết cỗ xe này chỉ là cái cớ, tộc Trí phái người sang Lỗ còn mục đích khác. Song nó không biết vì sao trên xe lại có một người đàn bà mang bầu, tóc ngắn, tay lăm lăm dao găm? Lẽ nào bà ta cũng là món quà tộc Trí dâng lên thái sử ư? Nhưng vì sao “món quà” kỳ lạ này lại chĩa dao vào cổ nó?