Trúc Thư Dao - Tập 1: Nước Tần - Chương 01

CÓ NÀNG TÊN THẬP

Năm ấy, thánh Khổng năm mươi lăm tuổi đang làm quan ở nước Vệ, được phu nhân Nam Tử coi như thượng khách; ở phía Nam, Ngô vương Hạp Lư bại trận trước Việt vương Câu Tiễn, bị trọng thương mà chết, con là Phù Sai kế vị, lăm le mưu nghiệp bá...

Nhưng những chuyện đó chẳng hề liên quan tới nó, nó chỉ tình cờ chào đời vào đúng thời điểm ấy mà thôi.

Năm hai mươi tư đời Chu Kính vương, thiên hạ đảo điên.

Cùng năm ấy, thánh Khổng năm mươi lăm tuổi đang làm quan ở nước Vệ, được phu nhân Nam Tử coi như thượng khách; ở phía Nam, Ngô vương Hạp Lư bại trận trước Việt vương Câu Tiễn, bị trọng thương mà chết, con là Phù Sai kế vị, lăm le mưu nghiệp bá...

Nhưng những chuyện đó chẳng hề liên quan tới nó, nó chỉ tình cờ chào đời vào đúng thời điểm ấy mà thôi.

Mẹ nó kể rằng, nó sinh ra ở Kinh Dương. Kinh Dương nằm ở chân núi phía Nam Trọng sơn, ven bờ sông Kinh, tám trăm dặm đất Tần bát ngát, trong thành có tới cả trăm nhà hào phú, dân chúng an cư lạc nghiệp. Mẹ nó là thiếp của một nhà giàu trong thành, chủ nhân đã ngoài sáu mươi, một hôm ra ngoài gặp được mẹ đương phơi phới tuổi hoa, thấy vừa ý thế là có nó. Thực ra nếu may mắn giấu trời qua biển được, có lẽ mẹ con nó cũng hưởng một đời no ấm. Tiếc rằng nó vừa mở mắt chào đời đã định sẵn bi kịch cho cuộc đời bà.

Dưới ánh trăng, con ngươi mắt nó không đen láy như những người khác, mà thấp thoáng màu xanh xám nhạt. Nó thậm chí còn chưa được đặt tên đã bị đuổi ra khỏi cửa cùng mẹ.

Đó là một đêm đông, nước Tần nằm ở biên thùy phía Tây, nước sông đã đóng băng từ lâu, lạnh lẽo thấu xương. Nhiều năm sau này, nó vẫn không sao tưởng tượng nổi, một người đàn bà vừa vượt cạn và một đứa bé mới lọt lòng làm sao vượt qua đêm dài buốt giá giữa đất Tần.

Xin ăn, chịu đòn, nhịn đói, chịu rét, đó là toàn bộ cuộc sống của nó từ khi bắt đầu ghi nhớ được. Suốt bốn năm, một người đàn bà ốm đau triền miên dẫn theo một đứa bé, đã đi từ Kinh Dương đến thành Ung, kinh đô nước Tần.

Trước kia, mẹ nó không bao giờ chịu ở nơi nào quá ba tháng, bà lúc nào cũng sống trong thấp thỏm và lo sợ. Thậm chí bà còn không dám ngủ, nói rằng sợ gặp phải ác mộng sẽ làm nó thức giấc. Nhưng lần này có lẽ bà đã quá mệt mỏi nên cuối cùng họ cũng dừng chân lại thành Ung.

Sống ở thành Ung cũng chẳng khá gì hơn những nơi khác, mắt nó ban ngày giống hệt người thường, nhưng dưới ánh trăng sẽ tỏa ánh xanh lam kỳ dị, làm đám ăn mày trong thành khiếp sợ. Họ bèn gọi nó là quỷ núi.

Mẹ nó ốm đau lâu ngày, lại phải che chở cho nó luôn luôn nên đã đổ bệnh liệt giường không dậy nổi. Mới bốn tuổi, nó đành một mình lê la ngoài phố ăn xin, giành ăn cả với chó dữ trong hẻm.

Tối tối, nằm trong lòng mẹ, nó lại nghĩ, nếu cứ thế này ngủ thiếp rồi chết đi thì tốt biết bao... Sáng mai sẽ không phải trở dậy, không phải ăn đòn nữa.

Tiếc rằng, trời cao lại nghe nhầm lời nguyện cầu của nó.

Một sáng mùa thu, mẹ nó đã qua đời trong lúc ngủ. Khi nó thức dậy, đôi tay mẹ ôm vòng quanh người nó đã cứng ngắc, bà không thể giơ tay vuốt ve nó, cũng không thể dùng thân thể ủ ấm cho nó được nữa.

Nó khóc đến đỏ hoe cả mắt, khóc khàn cả giọng, khóc đến nỗi không khóc nổi nữa thì lẳng lặng nằm xuống cạnh thi thể lạnh ngắt của mẹ, cầm tay bà choàng qua người mình. Nó nghĩ, ngủ thôi, cứ ngủ thế này, ngủ thêm mấy hôm nó sẽ không phải chịu khổ nữa, ngủ thêm mấy hôm có lẽ sẽ gặp lại mẹ. Mẹ con nó sẽ tìm một nơi hoa nở chim hót trú chân, mãi mãi không bao giờ chia lìa nữa...

Nhưng ngay cả nguyện vọng nhỏ nhoi ấy, ông trời cũng không giúp nó thực hiện. Có lẽ ở thời loạn lạc này, ngày ngày đều có vô số người chết vì chiến loạn hoặc đói khổ nên ông trời không rảnh mà để ý tới một đứa bé như nó.

Hai hôm sau, cơn đói cồn cào khiến nó không sao ngủ nổi nữa. Xác mẹ nó bên cạnh đã bắt đầu bốc mùi. Tuy hai mẹ con ở một nơi khá hẻo lánh, nhưng lỡ bị phát hiện, người ta sẽ quăng xác mẹ nó ra bãi tha ma ở ngoại ô.

Nó không muốn mẹ bị vứt đi như rác rưởi, càng không muốn để chó hoang cắn xé thi thể mẹ.

Đến giờ nó vẫn nhớ rõ khung cảnh sáng hôm ấy, gió cuốn những chiếc lá vàng rực bay đầy trời, không khí còn ẩm hơi sương, thấm ướt cả khoang mũi khô khốc của nó. Một đám mây trắng được gió sớm thổi trôi đến phía trên đầu nó, quanh quẩn hoài không nỡ rời đi.

Mẹ xem, đúng là một ngày đẹp để ra đi...

Nó đem một bó củi sang hàng xóm đổi lấy mồi lửa rồi lặng lẽ châm lửa đốt gian nhà tranh hai mẹ con ở, toan đi cùng với mẹ.

Nhìn ngọn lửa càng lúc càng bốc cao, nó chẳng mảy may sợ hãi, trái lại còn thấy ấm áp. Nhưng đúng lúc ấy, một bóng người băng qua làn khói mù mịt ngoài cửa chạy về phía nó. Vóc dáng y cao lớn, đường nét lạnh lùng, như thần tiên giáng xuống bên cạnh nó. Nó cười với y, bởi biết rằng cuối cùng trời cao cũng đã nghe được lời cầu khẩn của nó, phái thần tiên tới đưa nó đi.

Y giơ một tay kéo nó dậy, phi thân nhảy ra ngoài.

Sau lưng họ là ngôi nhà tranh chìm trong ngọn lửa, bụi tro, tàn lửa bị gió thổi bay tứ tán.

Y cúi đầu nhìn nó, chẳng nói chẳng rằng, chỉ ấn nhẹ đầu nó vào ngực mình.

Thình thịch, thình thịch, thình thịch...

Hóa ra thần tiên cũng có nhịp tim.

Vừa thả lỏng người, nó đã lăn ra ngất lịm vì đói suốt hai ngày. Lúc ấy, nó còn tưởng cuối cùng mình đã được chết.

Đó là lần đầu nó gặp người ấy, không phải kết thúc tất cả, mà là khởi đầu cho cuộc đời chìm nổi của nó sau này...

Khi tỉnh lại, nó thấy mình đang nằm trên sập mềm, mặt mũi mình mẩy đã được lau rửa sạch sẽ, trên người còn mặc một chiếc áo lót trắng muốt mà từ cha sinh mẹ đẻ tới giờ nó chưa từng thấy. Tuy áo rộng thùng thình nhưng nó lại thích mê.

Theo lời những người hầu kẻ hạ thì người cứu nó là tướng quân trẻ nhất nước Tần, tên Ngũ Phong, hai mươi tuổi đã mấy phen dẫn quân Tần đánh lui quân Tây Nhung quấy nhiễu biên giới nên được Tần bá ban cho phủ đệ ở kinh thành. Nhưng phần lớn thời gian, y sống ở tòa thành nhỏ tên Lâm Thao ngoài biên ải.

Sau khi được y nhặt về, đứa bé lang thang phiêu bạt như nó cuối cùng cũng có một mái nhà mới. Bởi nó không có tên, lại là trẻ mồ côi được nhặt về nên người ăn kẻ ở trong phủ đều gọi nó là Thập.

“Thập, đem quần áo cần giặt ở nhà sau tới đây.” Bách Phụ phụ trách giặt giũ quần áo cho người ăn kẻ ở trong phủ ngồi cạnh giếng ơi ới gọi nó. Chị có vóc dáng đẫy đà, cằm ngắn tủn, chiếc mũi tròn tròn như cục bột dính trên mặt. Từ khi vào phủ tướng quân, nó vẫn luôn ngủ với chị.

“Vâng ạ!” Nó vâng dạ rồi co giò chạy thẳng ra chỗ ở của người làm phía nhà sau.

Phủ tướng quân đại khái chia làm ba khu, nhà trước là nơi tướng quân tiếp đãi khách khứa, gặp gỡ môn khách; ở giữa là minh đường xây trên đài cao dùng cho việc cúng tế; nhà sau chia làm hai đằng Đông, Tây, tướng quân ở bên Đông, còn khu nhà phía Tây mới là chỗ ở của hơn hai mươi người hầu. Thời nay người chết đói chết rét đầy rẫy ngoài đường, chẳng ai nhặt một đứa bé về nuôi không cả. Để khỏi bị đuổi đi, để kiếm được miếng cơm trong phủ, nó luôn cố hết sức làm lụng thật nhiều. Giúp Bách Phụ gom quần áo, đem cơm cho ông quản gia bị ốm, hễ việc gì làm được, nó đều chẳng nề hà.

Tướng quân quanh năm không ở phủ, nhưng người trong phủ chẳng một ai dám lơ là. Trời mới tảng sáng, đám hầu gái đi chặt đay đã quẩy gùi ra cửa, trai tráng thì cởi trần nai lưng đem kê mới thu hoạch cuối năm ngoái ra sân phơi. Còn Thập thì cười nói ríu ran ôm quần áo bẩn thu nhặt từ các phòng nhảy chân sáo trên con đường lát đá ở nhà Tây.

Con đường dưới chân nó là ông quản gia mới sai người lát, để tới mùa mưa khỏi ướt lép nhép. Chỉ khổ đứa láu táu như nó, nếu hôm nay lại vấp ngã làm bẩn quần áo, Bách Phụ chắc sẽ đánh nó tuốt xác. Vừa nghĩ vậy, chân nó đã đá phải một mảnh đá nhô lên, đầu gối nhũn ra, cả người lẫn quần áo ngã bổ nhào.

Thôi xong...

Ló ra khỏi đống quần áo ngồn ngộn, nó trông thấy Công Sĩ Hy, thủ vệ trong phủ đang đứng sừng sững trước mặt mình như một ngọn núi. Tính cả hôm nay thì đây đã là lần thứ ba anh ta bắt gặp nó ngã.

“Thập, đã bảo bao nhiêu lần rồi, đi đứng phải nhìn đường chứ. Rõ ràng không bưng nổi một lần, sao không chia ra làm hai?” Công Sĩ Hy một tay xốc đống quần áo một tay bế nó lên, đi thẳng ra giếng.

“Thập lại ngã hả?” Vừa thấy họ, Bách Phụ đã đỏ bừng mặt đứng phắt dậy, vội vã giơ bàn tay ướt sũng vén lại mớ tóc mai lòa xòa.

Thập ôm chặt lấy cổ Công Sĩ Hy, chỉ sợ Bách Phụ nổi giận quăng mình xuống giếng.

Nhưng Bách Phụ hôm nay hình như hơi khang khác, không mắng mỏ nó như mọi khi mà chỉ cười cười đón lấy nó từ tay công Sĩ Hy, “Con bé này đi đường mắt cứ hếch lên, phiền Công Sĩ phải bế nó sang đây.”

“Không... Không có gì, tôi tình cờ bắt gặp thôi.” Công Sĩ Hy cao to làm vậy mà đứng trước mặt Bách Phụ lại thành ra ấp úng.

Không chịu nổi không khí ngượng ngùng giữa hai người, Thập vùng vẫy tuột xuống khỏi tay Bách Phụ, chạy vụt đi, vừa chạy vừa ngoái đầu nói với lại, “Em đi đưa đồ ăn sáng cho ông quản gia đây.”

“Chạy từ từ thôi...” Bách Phụ gọi với theo, nhưng nó đã ngoặt vào bếp.

Tối hôm ấy, Bách Phụ ôm nó vào lòng. Tuy trước kia mẹ cũng từng ôm nó ngủ, nhưng bà gầy giơ xương, nó thường bị xương bà cấn vào người mà choàng tỉnh giấc, Bách Phụ thì khác, nằm trong lòng chị vừa êm vừa ấm, dù thỉnh thoảng chị ngáy hơi to, nó vẫn có thể ngủ thẳng đến sáng.

Nó thầm nghĩ, sau khi qua đời nhất định mẹ đã xin với thần linh nên cuộc sống của nó ngày một tốt lên. Tuy Bách Phụ thường đánh mắng nó, nhưng quần áo giày dép nó đang mặc phần lớn đều do chị xin đồ cũ của người ta về sửa lại cho.

“Thập này, nếu mai gặp công Sĩ Hy, nhớ hỏi hộ chị xem anh ấy đã có vợ chưa nhé.” Nó vừa thiêm thiếp đã bị Bách Phụ lay tỉnh.

“Hỏi làm gì ạ?” Nó mơ màng đáp lại.

“Trẻ con hỏi lắm thế làm gì, bảo em hỏi thì cứ hỏi đi.” Nói rồi, Bách Phụ vỗ nhẹ vào lưng nó.

Nó vừa nhắm mắt đã lại thiếp đi. Trong mơ, mẹ và nó sống trong một căn nhà nở đầy hoa dâm bụt, mái tóc đen của mẹ bay phất phơ trong gió, đôi én một lớn một nhỏ chao liệng trên không, ríu ra ríu rít.

Dân đen phần lớn đều không có họ, Bách Phụ sở dĩ gọi là Bách Phụ bởi người chồng quá cố của chị tên Bách. Hôm sau, nghe Thập thông báo Công Sĩ Hy chưa có vợ, chị đã tự quyết định, ôm tay nải nửa đêm lẻn tới phòng y.

Sau khi Bách Phụ tái giá, căn phòng đôi chị ở bỏ trống. Quản gia Tần Cổ bèn đón cháu mình là con Tư lên cùng nó.

Tư bằng tuổi nó, gương mặt đỏ hồng, đôi mắt hạnh lúc nào cũng như đang cười. Tối nào chúng cũng trùm chăn ríu rít với nhau, nói xấu hết chó mèo trong phủ, bàn nhau vặt trộm cây mận ở sân trước, kể từ người mẹ đã khuất của nó tới em trai chết yểu của Tư, từ đôi mắt kỳ lạ của nó tới nốt ruồi đen trên bụng Tư. Xuân hạ thu đông, chúng chia nhau một bát kê, đắp chung một tấm chăn mỏng. Tư đã trở thành bạn thân nhất, thành người thân nó yêu quý nhất.

Nó chăm chỉ làm việc, tích cực gây họa, theo các hầu gái trong phủ học bóc đay, xe sợi; vật lộn với đám con trai đầu đường xó chợ giữa vũng bùn. Ba năm cứ thế trôi qua như một cái chớp mắt.

Suốt ba năm ấy, tướng quân chưa hề đặt chân về phủ. Lần nó gần y nhất là dạo y về kinh trình báo năm nay, y cưỡi ngựa ngang qua cổng phủ, nó và người hầu kẻ hạ quỳ đón trước cổng. Lúc vó ngựa y ngang qua trước mặt, nó rất muốn ngẩng lên hỏi, y có còn nhớ đứa bé nhặt về ba năm trước không.

Nhưng cuối cùng nó cũng không dám, quý nhân như y chắc hẳn đã quên bẵng nó lâu rồi...

Sang năm mới nó sẽ tròn tám tuổi. Theo lời Tư thì nó giỏi nhất là vờ ngoan ngoãn, mỗi lần gây chuyện lại mau mồm xin lỗi, đánh nhau xong lúc nào cũng có cách đổ vạ cho người khác. Có điều Tư nể tình những trò ấy phần lớn Thập làm vì mình nên mới không vạch mặt nó.

Cuối cùng ông quản gia giao cho Thập mấy việc nhẹ nhàng như quét dọn thư phòng của tướng quân, còn con Tư “nối giáo cho giặc” bị sai xuống bếp. Tư tham ăn, xuống bếp chẳng khác nào chuột sa chĩnh gạo, mừng hết biết. So ra thì Thập không được may mắn như vậy.

Tướng quân rất thích đọc sách, những cuốn thẻ tre cũ có mới có trong thư phòng xếp đầy ba mặt tường cao. Ngày ngày nó phải lau sạch bàn, quét tước bụi bặm trên đống thẻ tre. Công việc hết sức nhẹ nhàng, ai ai cũng ao ước nhưng nó lại thấy bứt rứt bó chân bó cẳng, từ bé số cây nó trèo e rằng còn nhiều hơn cả lượng cơm từng ăn, tự dưng lại phải ngồi yên một mình trong phòng, nó khó chịu vô cùng.

Mấy tháng sau, có lẽ nhờ ngửi mãi mùi thẻ tre trúc và mùi mực mà tính tình nó nền nã hơn nhiều, dần dà cũng ít ra ngoài lêu lổng.

“Này Thập, bác Đại Đầu sai mình đến chợ Tây tìm mua ít bầu khô, cậu có đi không?” Con Tư tóc để chỏm, vận áo kép đỏ rực đứng trước cửa thư phòng, vừa hà hơi trắng vừa cúi đầu phủi tuyết bám trên người.

“Đừng phủi nữa, vào đây đi!” Thập rảo bước đi tới cửa, không ngờ gió lạnh thổi thốc vào mặt làm nó run bắn lên, “Bác Đại Đầu cũng thật là, tuyết lớn thế này, lấy đâu ra bầu khô? Mau lại gần lò lửa sưởi ấm đi.”

“Chỗ này của cậu ấm thật nhỉ.” Tư vừa hơ tay vừa đưa mắt nhìn quanh.

“Mấy hôm trước không được ấm thế đâu, nghe nói dăm bữa nữa tướng quân về mới bắt đầu đốt than đấy.” Thập cầm que cời bên cạnh lên cời đống than trong chiếc lò ba chân hai tai chạm hình thú.

“Tướng quân năm nay tự dưng lại quay về cúng bái đón giao thừa, làm bọn mình mệt chết đi được. Kê, lúa đều thiếu, rượu củ nghệ còn hai vò nhưng cũng chẳng biết đã chua chưa. Bác Đại Đầu sai mình đi mua bầu khô rồi tiện thể chạy qua phủ Bách Lý xem có xin ông chú đồ tể của mình sẽ cho ít mắm chưng thịt của phủ Bách Lý được không. Mắm chưng thịt phủ ta làm muộn quá, rượu ngâm cũng thiếu, nhanh nhất cũng phải nửa tháng mới mở ra được.” Tư vừa xoa bắp chân vừa kể liến thoáng, “Có điều mình thấy mấy hôm nay cậu bận luôn tay mà vẫn vui như tết ấy. Thập này, tướng quân cậu tâm tâm niệm niệm trông thế nào? Có đẹp hơn chàng áo xanh bọn mình gặp ngoài chợ bữa trước không?”

Tháng trước Thập theo Tư đến chợ Tây mua củi, tình cờ gặp một thiếu niên quý tộc lớn hơn bọn nó đôi chút ngồi trong xe ngựa chạy qua. Xe ngựa suýt nữa đâm phải Tư, vốn dĩ xe ngựa nhà giàu đâm phải dân đen, ắt dân đen sẽ bị ăn roi, nhưng thiếu niên nọ lại xuống xe, cúi người đỡ Tư dậy, cất tiếng nói như gió mát lùa qua cánh rừng hỏi, “Có làm sao không?

Tư đỏ bừng mặt, chỉ lắc đầu quầy quậy, mãi không thốt được lời nào. Câu chuyện sau đó dĩ nhiên là người ta lên xe đi mất còn Tư bị Thập cười vào mặt. Từ ấy, nó cứ luôn miệng nhắc tới chàng nọ.

“Trên đời lấy đâu ra người đẹp hơn chàng áo xanh của cậu cơ chứ!” Thập cố tình ghẹo Tư. Song Tư lại nghiêm túc gật đầu. “Mình cũng nghĩ thế.”

Đúng là hết thuốc chữa.

“Thập này, cậu đi với mình đi, tuyết lớn thế này đi một mình chán lắm.” Tư tì cằm lên vai Thập, nhìn nó bằng cặp mắt hạnh long lanh.

Thập áp trán vào đầu Tư cười nói, “Theo mình thấy chắc chắn cậu không kiếm được bầu khô hay mắm chưng thịt gì đâu, chi bằng cứ ở lại đây sưởi cho ấm, đợi lát nữa quay lại bảo bác Đại Đầu là tuyết lớn lấp đường ở chợ Tây rồi, ông chú đồ tể bên phủ Bách Lý cũng không dám chia bớt phần mắm chưng thịt cho cậu.”

“Thế làm sao được? Đi thôi, cậu mặc phong phanh thế, bên ngoài lạnh lắm, để mình đi lấy áo với khăn cho cậu, cứ vậy nhé! Cậu ở đây chờ mình!” Dứt lời chẳng đợi Thập đồng ý, Tư đã xoay người chạy biến.

Từ bé đến lớn, Thập vẫn không cách nào từ chối được cô nhóc hấp tấp này.

Năm nay thành Ung đổ tuyết lớn hơn mọi năm, bông tuyết như những phiến lông chim lả tả xoay tròn rồi rơi xuống từ bầu trời xám xịt. Băng kết dày trên mái hiên hai bên đường, nóc lán cất tạm của những người bán hàng thỉnh thoảng lại có cả tảng tuyết đọng lộp bộp rơi xuống. Hai đứa bước thấp bước cao ra đến chợ thì đã chẳng còn bóng nông dân bán rau củ nào, ngay cả những cửa hàng bên đường cũng đóng cửa.

“Đã bảo cậu là người ta về hết rồi mà? Cậu còn không chịu tin.” Tuyết đã phủ dày trên mặt đất, những chỗ có vũng nước thì đóng băng, Thập dắt tay Tư, đi bước nào trượt bước nấy, hết sức chật vật. “Hôm nay lạnh quá, có phải bác Đại Đầu biết cậu toàn ăn vụng nên cố tình bày trò trêu bọn mình không đấy?”

“Không có đâu. Mặt cậu lạnh cứng lại rồi à? Để mình xoa cho.” Tư giơ tay lên miệng hà hơi rồi xoa mạnh lên mặt Thập.

“Thế nào? Đỡ chưa?” Gương mặt tròn trặn nhỏ nhắn của Tư đã đỏ ửng lên vì lạnh, hệt như trái chín mùa thu, bàn tay đặt trên má Thập lạnh ngắt, nhưng nó lại thích.

Thập gật đầu, kéo Tư đi tiếp. Mới được mấy bước, Tư lại dừng, trỏ con hẻm nhỏ bên trái la lên: “Nhìn kìa! Hình như đằng kia có người.”

Thập nhìn theo tay Tư chỉ, thấy hai bóng người một áo xanh một áo xám nằm cứng đờ trên mặt tuyết.

“Chắc không phải người chết đâu nhỉ?” Tư kéo áo Thập, nấp ra sau lưng nó.

“Xem là biết chứ gì!” Thập kéo Tư chạy thẳng vào hẻm.

Hai gã choai choai nằm giữa trời tuyết trắng, quần áo xộc xệch, mặt tím bầm, xem bộ trước khi ngất lịm đã đánh nhau một trận. Người mặc áo gấm đeo đai ngọc nằm phía ngoài chính là thiếu niên quý tộc Tư nhìn thấy trên xe ngựa tháng trước.

“Cậu bảo liệu có phải người ta chết cóng rồi không?” Tư ngồi xuống cạnh thiếu niên nọ, lúc thì vỗ vào mặt hắn, lúc lại xoa tay hắn, luống cuống suýt khóc.

“Hay là... cậu sờ thử xem bụng còn ấm không?” Thực ra Thập cũng chẳng rõ làm cách nào để biết một người đã chết hay chưa, nó chỉ nhớ lúc mẹ mất, cả người đều lạnh cứng.

Tư dùng đầu ngón tay vạch vạt áo người nọ ra, phồng má hà hơi vào lòng bàn tay.

Thiếu niên nằm dưới đất mười phần chắc tám đã đông cứng thành băng, thế mà Tư còn sợ tay mình lạnh làm hắn lạnh. Thập lắc đầu nhìn nó rồi cúi xuống kiểm tra thiếu niên có sẹo dưới mắt nằm phía trong. Lòng bàn tay ấy thoáng qua một làn hơi ấm, song Thập lại rụt tay về, quay ra hỏi Tư, “Người này chết rồi, người kia còn sống không?”

“Còn ấm, người này vẫn còn sống, chúng mình mau cõng người ta về đi!” Nước mắt Tư lăn dài trên má nhưng miệng lại cười tươi như hoa.

“Nếu ông cậu biết bọn mình tùy tiện mang người về phủ, nhất định sẽ lại khiêng đi vứt cho xem. Lát nữa chúng mình phải vào từ cửa ngách đổ nước gạo ở sau nhà, không để ai trông thấy mới được.”

“Được rồi, nghe cậu hết.”

Thập giúp Tư đỡ người nọ dậy, loạng choạng cất bước, đi được mấy bước, nó không kìm được ngoái đầu nhìn kẻ còn lại nằm trong hẻm.

“Sao thế? Đi nhanh lên nào!” Tư giục giã.

“Ừm, biết rồi, đi thôi!”

Thực ra Thập nhận ra gã choai choai trong hẻm. Gã là một tên ăn mày, từng có lần nửa đêm trói nó lại ném ra bãi tha ma, mẹ nó chạy đến cứu, gã còn xúi giục mấy đứa nữa lấy đá ném mẹ con nó. Vì che cho nó nên mẹ bị thương nặng, không lâu sau thì ngã bệnh liệt giường. Về sau nó một mình đi ăn xin, vẫn luôn nơm nớp tránh mặt gã, thực không ngờ mấy năm sau lại gặp gã ở đây.

Giờ gã vẫn chưa chết, nhưng nó không muốn cứu gã. Chỉ một canh giờ nữa thôi, gã sẽ lạnh cứng rồi chết giống như mẹ nó.

Từ khi quyết định bỏ lại tên ăn mày nọ trong hẻm cho chết cóng, Thập đã biết mình chẳng lương thiện gì, ít nhất cũng không trong sáng lương thiện như Tư.

Bình thường đi từ chợ Tây về phủ tướng quân chỉ mất hai khắc, vậy mà hai đứa đi hơn nửa canh giờ vẫn chưa về tới. Người trên vai càng lúc càng nặng còn chúng chân bước càng lúc càng yếu, Thập gỡ cánh tay thiếu niên khoác trên vai mình xuống, thở hồng hộc bảo Tư, “Thế này không được đâu, cậu ở đây trông chừng, mình đi tìm tấm ván với sợi dây thừng, bọn mình đặt người này lên ván mà kéo, có khi sẽ nhanh hơn đấy.”

“Để mình đi, mình biết chỗ có mấy thứ đó. Gần thôi, mình sẽ về ngay.” Chưa nói dứt câu, Tư đã phăm phăm chạy thẳng về phía Đông, để lại Thập thở hổn hển dìu gã thiếu niên hôn mê bất tỉnh ngồi thụp xuống giữa con phố vắng tanh.

Chẳng biết đã qua bao lâu mà Tư vẫn chưa quay lại. Bầu trời trên đầu càng lúc càng âm u, chẳng mấy chốc những bông tuyết bằng đóa hoa mai lại lả tả rơi xuống. Đất trời như giăng một tấm lưới trắng khổng lồ, lầu thành xa xa đã biến mất, ngay đường phố cách chừng hơn một trượng cũng chẳng trông rõ được nữa. Thập xoa bắp chân tê dại vì lạnh, miễn cưỡng cõng người dưới đất lên.

Hầy, tên này ăn gì mà nặng thể không biết!

Thập cõng người trên lưng đi được chừng mười bước, còn chưa lê tới chiếc lán bên ngoài nhà xưởng bên đường đã ngã gục. Kẻ trên lưng đè lên mình Thập, làm nó ngã cắm mặt xuống tuyết. Lưng nó mấy năm trước từng bị đá đạp tổn thương, sao chịu nổi sức nặng của người nọ, nó hít sâu một hơi, trở tay đẩy phắt hẳn xuống. Nào ngờ người nọ lại đập trán vào cây cột lán bên cạnh, làm cả mái lán lợp bằng tấm cói rộng hơn trượng đọng tuyết dày hai đốt tay đổ sập xuống, khiến nó suýt ngất lịm.

“Đại ca à, chẳng biết tại sao tên ăn mày kia lại chết cóng trong hẻm. Thằng oắt nước Tấn kia cũng mất tăm, liệu có phải nó chạy ra ngoài thành rồi không?” Bên ngoài chợt vang lên giọng đàn ông khàn khàn.

“Người của chúng ta đã đứng canh sẵn ngoài cổng thành rồi, nó không ra được đâu.”

“Nhưng thành Ung rộng mênh mông, biết đi tìm nó đâu đây? Hay anh em mình trả quách mười nén vàng cho người Tấn đi. Trời lạnh căm căm, đi tìm ả góa bán rượu vui vẻ có phải thích không?”

“Ngu lắm, mày nghĩ người ta là ai hả, còn cho bọn mình trả lại tiền cơ à? Mày đã nhận công việc này thì hoặc là cắt đầu thằng đó đưa đến Tân Giáng cầu phú quý, hoặc là chờ người ta đến cắt đầu chúng ta, thế thôi.”

“Biết thế này thì...”

“Đừng dông dài nữa, thằng oắt ấy bị thương, không chạy xa được đâu, mày tìm quanh đây đi, tao ra đằng kia xem.”

Thập nằm rạp dưới tấm cói không dám nhúc nhích, tuyết trên lưng đã bắt đầu tan ra, nước tuyết lạnh buốt thẩm qua tấm cói ngấm vào lần áo kép của nó. Chiếc áo kép này vốn có lớp lót bằng bông rách, cỏ khô, ngấm nước tuyết trở nên nặng trịch như có nghìn cân nước đá đè lên lưng. Nó run bần bật vì lạnh, song lại sợ người bên ngoài nghe thấy tiếng răng đánh lập cập, đành cắn lưỡi nén run.

“Đã giết bố người ta, còn không tha cho con người ta, quý nhân người Tấn kia tàn nhẫn thật đấy.” Một gã đàn ông đã đi mất, tên còn lại sợ tuyết lớn trời lạnh không muốn động đậy, bèn ngồi phịch luôn xuống tấm cói.

Ôi trời Tư ơi là Tư, cậu chuốc phải vạ gì đây không biết!

Thập nấp dưới tấm cói không ngớt than thầm, cả người cứng đơ, không dám nhúc nhích. Kẻ giết mướn đang ở bên ngoài, còn nó lại nấp ở đây cùng thiếu niên này, chắc hẳn tên kia sẽ chẳng hơi đâu giữ lại mạng cho nó. Trốn không nổi, chạy không được, phải làm sao đây?

Thập đang nghĩ cách chạy thoát thân thì thiếu niên mê man như chết bên cạnh sực tỉnh. Dưới tấm cói tối om, Thập nằm sấp, hắn nằm ngửa, đầu cụng vào nhau, mặt đối mặt, hắn mở to mắt nhìn nó, còn nó chỉ muốn đập cho hắn một gậy chết tươi.

“Ngươi là ai?” Hắn hỏi.

“Ôi...” Thập chẳng còn sức đâu mà mắng hắn nữa, thầm nhủ, chết thì chết quách đi, sớm một ngày hay muộn một ngày cũng thế.

Quả nhiên trên đỉnh đầu lóe lên một luồng sáng, tấm cói đã bị vạch ra. Thập nhìn vào mắt gã thiếu niên, hét to, “Chạy đi!”

Hẳn hiểu ra ngay đầu đuôi câu chuyện, ưỡn người bật dậy, thừa cơ đẩy tấm cói trên đầu lên chắn trước tên giết mướn bên ngoài rồi kéo nó chạy vụt đi.

Trời ạ, kéo người ta làm gì, chia nhau ra chạy không hơn à? Thập nghĩ thầm.

Tên giết mướn phía sau quát lớn rút kiếm đuổi theo, may mà tuyết lớn đường trơn, Thập và thiếu niên nọ khá gầy nên còn chạy được nhanh, trong khi tên kia cao to vạm vỡ, tuy sải bước dài song không sao đuổi kịp họ.

“Đằng này!” Thiếu niên nọ kéo Thập rẽ vào một con ngõ.

“Đừng chạy vào đây...” Thập chưa kịp nói ra miệng đã bị lôi tuột vào ngõ sâu. Nó là người Tần, hắn là người Tấn, làm sao hắn biết được chín hộ trong ngõ này đều là những người cần mẫn nhất thành Ung, con ngõ lát đá xanh được quét sạch bong, chỉ có một lớp tuyết mỏng. Nếu tên kia đuổi theo vào đây thì chẳng mấy chốc sẽ bắt kịp họ, mà bắt kịp thì chỉ còn một con đường chết. Trước kia Thập đã không chết cóng, chết đói, chết cháy, nó không muốn hôm nay lại vô duyên vô cớ phải chết chung với người này trong ngõ.

Giữa lúc tuyệt vọng, nó thấy cánh cửa một nhà bên đường chỉ khép hờ, hé ra một khe nhỏ, vội kéo thiếu niên nọ lại đẩy hẳn vào. Hắn lách người vào phòng chứa củi rồi giơ tay ra kéo nó theo. Nó thầm rủa mình mấy câu rồi xoay người chạy tiếp.

“Cứu với! Có kẻ cướp...” Vừa chạy nó vừa la làng, thấy một con hẻm đọng tuyết liền chui tọt ngay vào.

Tên giết mướn kia ngã sấp ngã ngửa mấy cái, cuối cùng cũng bắt kịp. Dồn được Thập vào ngõ cụt, hắn phá lên cười ha hả, nhưng rồi lập tức nhận ra kẻ mình cần bắt giữ đã biến đâu mất.

“Người đâu? Thằng ranh đi cùng mày đâu rồi?” Hắn vung kiếm hùng hổ hăm dọa nó.

“Ông đừng tới đây! Dù ông có bắt tôi, tôi cũng không cho ông biết đâu!” Thập dán sát lưng vào bức tường đất cao bằng hai người phía sau, vừa khóc vừa hét. Hắn dấn thêm một bước, nó bèn vơ tuyết dưới đất ném tới tấp vào hắn.

“Mày dám giấu à? Để tao lột da mày làm mũ cho xem!” Tên giết mướn hằm hằm thu kiếm lại, sải bước đi đến định xách cổ nó lên, nào ngờ nó lách mình né sang một bên, giơ hai ngón tay bịt mũi.

"Ối da!”

Tên giết mướn chỉ kịp kêu lên một tiếng đã thấy hẫng dưới chân, rơi ngay xuống hố phân trước mặt Thập.

Đã là hố phân, dĩ nhiên bên trong toàn cứt đái các nhà đổ ra. Nếu là tháng sáu tháng bảy thì dù có đậy nong tre thật dày, mùi thối vẫn bốc lên nồng nặc, từ đầu ngõ đã ngửi thấy. Nhưng mấy hôm nay trời đổ tuyết, đừng nói khó thấy được chiếc hố rộng ba thước mà ngay mùi hôi thối dường như cũng bị đóng băng. Thập quệt mấy giọt nước mắt cá sấu trên mặt, nói chõ xuống tên giết mướn đang ngập nửa người trong đống cứt, “Này, thảo nào đại ca ngươi mắng ngươi ngu, ta đã bảo mấy lần là đừng lại gần rồi, ngươi cứ nhất quyết vẫn đến. Giờ da của ngươi có lột ra cho ta làm đế giày, ta cũng không thèm, thối lắm!”

“Con ranh con, tao băm mày ra bây giờ...” Hắn nổi điên vơ một cục đen sì ném vào nó.

Thập kêu ré lên né tránh rồi vắt chân lên cổ chạy thẳng. Chạy tới đầu ngõ, nó chợt thấy một bóng áo xanh từ xa xa cầm kiếm chạy về phía mình, băng qua gió tuyết rít gào. Thập thoáng ngạc nhiên, sao hắn còn ở đây? Họ hoàn toàn không quen biết, nó lại là dân đen thân phận thấp hèn, nếu hắn bỏ nó lại mà chạy, nó cũng chưa chắc đã oán trách. Nhưng hắn chẳng những không đi mà còn hớt hải chạy đến, xem bộ là định tới cứu nó.

“Sao nhóc có một mình thế này, tên kia đâu? Có bị thương không?” Thiếu niên nọ tóc tai rối bù, tay áo trái rách toạc, để lộ cả lớp áo lụa trắng bên trong.

“Ăn cứt dưới hố phân rồi!” Thập đắc ý cười với hắn, nhủ bụng, kẻ này đúng là quân tử, không uổng công Tư lải nhải về hắn suốt cả tháng trời.

“Hố phân ư?” Hắn líu cả lưỡi, trố mắt nhìn nó, “Sao nhóc biết ở đó có hố phân, làm sao xô hắn rơi xuống được?”

“Trước kia tôi từng bị người ta ném xuống, dĩ nhiên phải nhớ rồi.” Thập vênh mặt lên đầy tự hào, nói hết câu mới thấy vẻ mặt thiếu niên hơi là lạ, “Sao hả? Chê tôi thối à? Vừa rồi chính anh nắm tay kéo tôi đi đấy”

“Ta...” Thiếu niên đỏ bừng mặt.

Thập chẳng hơi đâu đấu võ mồm với hắn, vội giục, “Ngoài tên dưới hố phân ra, trong thành vẫn còn người muốn giết anh. Người của bọn chúng chờ sẵn ở cổng thành rồi kìa, nếu anh còn chỗ trốn nào khác thì mau chạy đi!”

Thiếu niên nọ ngây ra, gương mặt đẹp đẽ mịn màng như ngọc thoắt chốc sa sầm, “Ta... không còn nơi nào để đi cả.”

“Không còn nơi nào ư?”

“Ừm.” Thiếu niên cúi gằm mặt, tuyết lớn bay lả tả đầy trời xóa sạch khung cảnh xung quanh họ. Giữa thế giới trắng phau ấy, dường như chỉ có hai người đứng đối diện nhau. Thập biết kẻ trước mắt là tai vạ lớn, nhưng lại cảm thấy nếu mình không dẫn hắn đi, hắn sẽ phải một thân một mình ở lại thế giới trắng toát này, không bao giờ thoát ra được. Nó hít sâu một hơi, nhìn thiếu niên rồi nói, “Anh tin tôi không? Nếu tin, tôi sẽ dẫn anh tới một nơi an toàn.”

Thiếu niên sững ra rồi gượng cười đáp, “Hôm nay ta đã bị bạn chí cốt lừa đến hai lần, tin một bé gái như em một lần thì có làm sao? Em gái, dẫn đường đi!” Dứt lời hắn giơ hai tay lên, vái nó một vài thật dài. Nó là dân đen, không dám nhận lễ, vội né người tránh đi. Vừa né nó đã liếc thấy trên chuôi kiếm của hắn buộc một dải vải sô để tang.

Chẳng biết cha hắn đắc tội với người nào mà chết đi rồi còn liên lụy đến con trai phải xất bất xang bang chạy trốn khắp nơi hòng giữ mạng.

“Đi thôi! Lần này để tôi dẫn đường.” Nó giơ tay ra nắm lấy bàn tay lạnh băng của thiếu niên nọ.

Ngoài cửa sau phủ tướng quân, Tư ngồi dưới đất vẽ vòng tròn đã thành một người tuyết be bé. Trông thấy bạn, nó mới thở phào nhẹ nhõm.

“Chết tiệt, vừa rồi cậu chạy đi đâu đấy?” Thập gọi to.

“Cậu chạy đi đâu thì có, mình...” Nghe tiếng gọi, Tư đứng bật dậy, tuyết đọng dày trên đầu một nửa rơi xuống vai, một nửa vẫn bám đầy trên chỏm tóc.

“Sao không nói nữa vậy, lạnh cứng lưỡi rồi à?” Thập trêu.

Tư chạy ù đến bên cạnh nó, nắm lấy tay áo nó, song không dám ngẩng lên nhìn người nọ, chỉ ghé tại nó vừa ngượng nghịu vừa ngạc nhiên hỏi nhỏ, “Sao người ta tỉnh lại được vậy?”

“Vào trong rồi nói, đứng đây coi chừng bị trông thấy.” Thập đẩy Tư vào trong.

Hôm nay tuyết lớn, người trong phủ đa phần đều chuẩn bị cúng giao thừa ở nhà trước, nên chúng đi vào êm xuôi trót lọt. Thập giữ Tư lại phòng săn sóc thiếu niên còn mình chạy về thư phòng lấy mấy viên than cháy rực bỏ vào lọ gốm nhỏ. Khi nó trở về mở cửa ra, hai người trong phòng đã chuyện trò rôm rả.

“Cậu về rồi.” Tư nhảy xuống sập, vừa xỏ giày vừa bảo nó, “Vu An nói vừa rồi đói quá nên ngất xỉu, mình đi lấy ít đồ ăn, cậu ở đây nhé.”

Hóa ra hắn tên Vu An.

Thập dúi lọ gốm trong tay cho thiếu niên trên sập rồi quay ra bảo Tư, “Mình cũng phải về thư phòng, nếu ông cậu không thấy mình, chưa chừng lại lần đến đây tìm bây giờ.”

“Vậy Vu An...” Tư do dự ngoái lại nhìn Vu An.

“Chỉ cần Vu An không ra khỏi cửa thì chẳng ai phát hiện được đâu. Lát nữa cậu cũng đừng cuống cà kê lên kẻo người ta nghĩ đấy.”

“Ừm, vừa rồi mình đang đi giữa đường thì bị Bách Phụ kéo đến phủ Bách Lý, mắm chưng thịt thì không xin được, nhưng xin được nhiều thứ hay lắm. Bác Đại Đầu cho mình nghỉ nửa ngày rồi. Mình đi nhanh về nhanh thôi.” Câu trước là Tư nói với Thập, còn câu sau là nói với Vu An. Vu An khẽ gật đầu, Tư nhoẻn miệng cười rồi khoác áo tơi xăm xăm đi thẳng ra ngoài.

“Vậy tôi cũng đi đây, anh nghỉ ngơi cho khỏe.”

“Khi nào em về?” Vu An giơ tay níu tay áo Thập, bị đuổi giết cả ngày nay, hắn không tránh khỏi sợ hãi.

Thập bóp tay hắn rồi toét miệng cười, “Nhanh thôi.”

Trong thư phòng, than trong lò ba chân hai tai chạm hình thú đã tắt quá nửa. Bên ngoài, gió bấc tạt những bông tuyết đã đông cứng thành bằng vào song của từng đợt. Thập quỳ xuống cạnh lò lửa chập chờn, rầu rĩ nhìn chiếc áo ngắn cũn cỡn ướt sũng trong tay. Chiếc áo này Bách Phụ may cho nó năm lên sáu, tay áo tuy đã cộc nhưng là chiếc áo rét duy nhất của nó. Hôm nay chẳng biết móc vào đâu mà lưng áo rách toạc một mảnh rộng hơn hai tấc, để lộ ra một nắm bông nát mốc meo đen sì cùng bông lau kết thành cục.

Lớp lót đã ướt, thế là cái áo rét đi tong. Ba tháng tiếp theo đây, nó chết cóng mất.

Thập thở dài, bỏ cái áo xuống một bên rồi nhặt một cuộn thẻ tre trên giá trải ra bàn như thường lệ.

Người hầu trong phủ tướng quân đa phần là dân đen, còn nó chỉ có thể coi là nô lệ, đừng nói đến chuyện được đọc sách biết chữ, nếu đem bán quách đi, có khi còn chẳng có giá bằng một tấm da chó. Nhưng nó khao khát muốn biết chữ, nó muốn biết trước kia mỗi khi ru nó ngủ mẹ đã hát bài gì, muốn biết những lúc điên dại bà đã nói gì. Nếu một người cứ nhìn chằm chằm một người khác mười ngày, một trăm ngày thì dù không trò chuyện, đôi bên cũng vẫn biết nhau. Vậy nếu nó ngày ngày lôi những thẻ tre này ra xem, có phải sẽ có ngày nó cũng nhận được mặt chữ không?

“Ta là Thập, bọn mày có nhận ra được không?” Nó nhẹ nhàng giơ ngón tay vuốt lên những dấu mực xiên xẹo trên thẻ.

Kẹt, ngoài cửa chợt vang lên một tiếng động khẽ.

Nó giật bắn mình, toan đứng bật dậy cuộn những thẻ tre trên bàn lại thì đã muộn.

Báo cáo nội dung xấu