Trúc Thư Dao - Tập 1: Nước Tần - Chương 02
CÓ BẬC QUÂN TỬ
Trong mơ, Thập biến thành một con chim nhỏ, mỏ vàng rực, chân đỏ thắm, đập cánh đậu trên vai tướng quân. Y thúc ngựa phi nhanh giữa biên ải miền Tây cát vàng cỏ trắng, nó bay vút lên tận tầng mây.
“Tử Chiêu rõ khéo chọn ngày, ở Ung Đô suốt nửa tháng qua chỉ có hôm nay tuyết rơi dày nhất, vậy mà lại về đúng lúc này.” Kẻ nói là một đại phu trung niên khoác tấm choàng bằng da, ông ta đẩy cửa nhưng không bước vào mà chỉ cười khì đứng ngoài.
“Đã biết tuyết lớn, Bách Lý việc gì phải ra ngoài thành đón?” Ngoài cửa, tuyết đọng dày đè gãy cả cành cây, giữa tiếng gãy rắc giòn tan, Thập nghe thấy một giọng xa lạ mà ấm áp.
Tướng quân về rồi ư? Thập đánh bạo ngẩng lên, nghển cổ dòm ra ngoài.
“Ta đợi Tử Chiêu bốn năm nay rồi, cả thành Ung mênh mông này ngoài cậu ra, chẳng ai dám theo ta lên Ma Nhai sơn săn đêm cả.” Người khoác tấm choàng da xoa tay, quay lại tìm lò lửa, Thập còn chưa kịp nhìn kỹ bóng người cao cao cạnh cửa trúc thì đã bị tóm.
“Ấy! Con nít con nôi ở đâu thế này?” Người nọ ngạc nhiên nhìn nó.
Thập liền quỳ sụp xuống đất.
Người nọ đến bên cạnh lò lửa, nhặt cuộn thẻ tre nó đánh rơi dưới chân lên, trầm trồ: “Ồ, nhỏ thế này mà biết chữ đã không phải vừa, còn đọc cả sách binh pháp nữa chứ!”
“Bẩm quý nhân, nô tỳ không biết chữ, chỉ... chỉ đang lau sách thôi ạ.” Nó cúi gằm, nơm nớp thưa.
“Lau sách á? Lau bằng tay à?” Người nọ dùng cuộn thẻ tre nâng cằm nó lên ngắm nghía, bỗng nhếch môi ngoái lại bảo người đằng sau: “Tử Chiêu, con bé này hay đấy, cho ta được không?”
Cho ông ta ư?! Đầu ong lên, nó vội nhìn ra sau lưng người nọ.
Tướng quân khăn đen cột tóc, áo nho sĩ trắng hơn tuyết đã xuất hiện trước mặt nó như thế. Nhìn gương mặt tựa thần tiên trong ký ức, nó vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, vừa hoảng hồn, vừa sợ hãi. Sĩ tộc các nước xưa nay vẫn trao tặng nô bộc cho nhau, coi là việc hết sức bình thường. Chỉ cần có người mở miệng xin thì gần như không ai từ chối. Lẽ nào bốn năm rồi nó mới gặp được tướng quân thì đã bị tặng cho người khác sao? Không, nó không muốn.
Song Thập không dám phản đối, chỉ mếu máo nhìn người mình đã trông đợi suốt bốn năm với vẻ vật nài.
Tướng quân nhìn nó, không nói năng gì, chỉ cười cười cầm lấy cuộn thẻ tre từ tay người nọ, “Hôm nay bệ hạ lại ban cho phủ Bách Lý mười người, việc gì phải xin thêm một đứa hầu bé ở chỗ ta?”
Người nọ ngẩn ra rồi phá lên cười ha hả, “Cũng phải, người hầu trong phủ Tử Chiêu đúng là hơi ít, để ta tặng thêm mấy đứa tháo vát nhé.”
Tướng quân tủm tỉm cười cảm ơn rồi quay ra bảo nó, “Ở đây không có việc của ngươi, lui xuống đi!”
“Vâng!” Thập vội vã đứng dậy, bỏ chạy trối chết ra ngoài, tới cửa lại sực nhớ manh áo rách của mình còn đang hong cạnh lò lửa, đành đỏ bừng mặt quay vào lấy rồi lại chạy đi.
“Tử Chiêu, cậu xem bông lau vụn rải đầy sàn kìa! Con bé này đúng là không thích ta rồi!” Ra bên ngoài thư phòng, nó chợt nghe thấy tiếng người nọ cười phá lên.
Cúi đầu nhìn xuống, Thập mới thấy bông lau vụn ướt đẫm mốc meo nhồi trong áo đã bị rơi ra rải khắp dọc đường như rắc hoa.
Ôi, ôi... nó thở dài thườn thượt quay về phòng, buồn bực trèo lên giường trùm chăn kín đầu, không muốn nói chuyện cũng chẳng còn mặt mũi nào gặp ai nữa. Con Tư không biết chuyện Thập vừa gặp phải, còn hí hửng ghé tai thầm thì như khoe của báu, “Này Thập, tướng quân về rồi đấy biết không? Xem mình mang gì ngon về cho cậu này?”
“Không biết, không biết...” Thập trùm chăn lăn tròn, rầu rĩ đáp.
“Không biết thật à?”
“Biết rồi, dĩ nhiên là biết rồi!” Thập ngồi bật dậy ôm chầm lấy Tư khóc òa lên, “Vừa nãy tướng quân suýt tặng mình cho Bách Lý đại phu đấy! Bông lau nhồi trong áo mình còn rải đầy thư phòng kia kìa. Chắc tướng quân ghét mình lắm, nhất định ngài đang hối hận vì năm xưa đem mình về. Tư ơi, cậu bảo sáng mai liệu tướng quân có bảo ông quản gia đưa mình sang phủ Bách Lý không? Mình không đi, mình không đi đâu...”
Tư nhìn tấm áo Thập vứt dưới đất, tuy không hiểu lắm song vẫn ôm ghì lấy đầu bạn.
Vu An thấy Thập khóc lóc thảm thiết cũng ghé lại an ủi, “Đừng lo, tộc Bách Lý nước Tần là gia tộc lớn, tông chủ Bách Lý Cừu là con cháu Ngũ Cổ đại phu Bách Lý Hề, lại lấy chị ruột Tần bá, làm nô tỳ bên đó chưa chắc đã kém bên này đâu!”
Nghe vậy, Thập lại nhớ tới gương mặt Bách Lý đại phu săm soi nhìn nó, “Anh là người Tấn, biết cái quái gì chứ!” Nó vừa khóc vừa mắng, đẩy phắt Vu An từ mép giường xuống, “Đám quý tộc các người có bao giờ coi dân đen là người đâu, chỉ coi như dưa như quả, như vại như nồi thôi, vứt đâu chẳng được? Đặt lên cao tí còn đáng ít tiền, đúng không?”
“Cậu làm cái gì đấy? Người ta đang bị thương mà!” Tư Vội nhảy xuống giường đỡ Vu An.
Thập siết chặt nắm tay, ngẩn ra nhìn thiếu niên đang cau mày dưới đất. Nó làm sao thế nhỉ, hắn là hắn, hắn không giống bọn họ.
“Anh đừng trách nó, nó cứ như hạt dẻ ấy, gặp lửa là nổ tung tóe.” Tư trừng mắt với Thập rồi áy náy bảo Vu An.
“Không sao, là lỗi của ta mà. Ta quên mất rằng đây cũng là nhà của em ấy.” Vu An lồm cồm bò dậy, từ “nhà” thốt ra khỏi miệng hắn đượm phần đắng đót hơn cả rau đắng.
Nghĩ tới tình cảnh hắn lúc này, Thập chợt cảm thấy mình quả là không phải.
“Hai người... ăn rồi hả?” Thập định nói gì đó với Vu An, nhưng ngắc ngứ hồi lâu chỉ buông ra được câu này.
“Đều đợi cậu cả đấy, bụng mình đói đến lép kẹp rồi này.” Tư véo mạnh vào sườn Thập một cái làm nó phải xuýt xoa kêu đau, bấy giờ mới hả giận, hí hửng bưng ra một âu sành đen đậy nắp đặt xuống trước mặt nó. Âu sành này vốn tướng quân dùng để đựng kê và gạo, vì mẻ mất một miếng to nên Tư mới nằn nì xin được ông quản gia. Thập biết, mỗi khi Tư bưng âu sành này ra, nghĩa là có một bữa thịnh soạn. Quả nhiên, là cơm niễng hấp bột hạt dẻ, trên bát cơm còn phủ hai miếng thịt muối màu đỏ thẫm mỏng dính. Lần ăn thịt trước là bao giờ nhỉ? Hồi làm lễ tế mùa hè bảy tháng trước à? Thập nuốt nước bọt, giơ tay ra định nhặt miếng thịt. Tư vội đằng hắng ra hiệu, Thập mới lật đật ngẩng lên bảo Vu An, “Anh là khách, anh ăn thịt đi.”
Vu An nhỏ nhẻ ăn miếng thịt muối. Đổi lại, hắn kể cho Thập biết, trên đời ngoài nước Tần ra, còn nước Yên băng tuyết phủ đầy, nước Sở sông ngòi ngang dọc, nước Lỗ quân tử nho nhã, nước Việt gái đẹp như mây. Qua lời kể của thiếu niên xa lạ nọ, Thập lần đầu tiên được biết, hóa ra thế giới bên ngoài rộng lớn làm vậy.
Tuyết ngoài cửa chẳng biết đã tạnh từ khi nào, ánh trăng trong như nước cùng tuyết trắng xóa đầy sân làm bên ngoài sáng rực lên như ban ngày.
Tư hào hứng chạy ra ngoài múc một âu tuyết, nói rằng muốn nặn một con thỏ tuyết cho Vu An, Thập bèn rủ nó ra sân đắp người tuyết. Thực ra, cả hai đã không còn là trẻ con ham chơi nữa, chẳng qua chỉ cố hết sức để thiếu niên hiểu nhiều biết rộng kia tạm quên đi tình cảnh khổ sở của mình mà thôi.
Nặn quả cầu tuyết, đắp người tuyết. Một con là cậu, một con là mình, một con là người nọ. Dưới ánh trăng bàng bạc, ba con người tuyết nho nhỏ xúm lại một chỗ, hơi giá ban đêm bảng lảng quanh chúng, song gương mặt trắng toát của chúng lại nở nụ cười rạng rỡ.
Đêm đã về khuya, ba đứa nhỏ trong phòng nằm nép vào nhau, đầu dựa vào đầu, vai kề sát vai, ai mơ mộng nấy.
Trong mơ, Thập biến thành một con chim nhỏ, mỏ vàng rực, chân đỏ thắm, đập cánh đậu trên vai tướng quân. Y thúc ngựa phi nhanh giữa biên ải miền Tây cát vàng cỏ trắng, nó bay vút lên tận tầng mây. Giữa mây mù bảng lảng, nó trông thấy mẹ đang ôm mình trong lòng, đung đưa nhè nhẹ, ghé miệng vào tai nó thì thầm, “Đừng đến nước Tấn, đừng đến nước Tấn, con gái ta, đừng sang Tấn...” Nhưng rồi bà lại nói, “Sang Tấn đi, sang Tấn đi, con gái ta, phải sang Tấn tìm Lê...”
“Lê, Lê là ai ạ?” Nó áp mặt vào lòng mẹ hỏi.
Nhưng mẹ không nghe thấy tiếng nó, trong lòng bà chỉ đang ôm ấp một con chim.
Thập mở bừng mắt tỉnh giấc, trong bóng tối, nó bắt gặp ánh mắt sáng như sao của thiếu niên người Tấn nọ đang nhìn mình. Đó là người Tấn đầu tiên mà nó gặp, nên nó bèn hỏi, “Nước Tấn ở đâu?” Hắn ngẩn ra rồi đáp, “Tấn nằm về phía Đông nước Tần, phía Nam là Sở, phía Bắc là Tiên Ngu và Yên, phía Đông là Tống, Vệ và Tề.”
“Cách Tần có xa không? Cách thành Ung xa lắm à?” Nó nửa hiểu nửa không.
“Xa đấy, đi bộ chắc phải mất nửa năm, ngồi xe thì nhanh hơn, lúc thuận gió còn có thể ngồi thuyền theo sông Vị đi đến sông Quái, kinh đô nước Tấn là Tân Giáng nằm bên bờ sông Quái. Em hỏi làm gì thế? Muốn sang Tấn à?” Vu An hơi nghiêng người về phía nó.
“Không, tôi không sang Tấn.” Nó nhìn lên xà nhà đen sì, lắc đầu.
“Vậy em...” Vu An ngập ngừng, rồi bỗng chống tay nhỏm dậy, cúi đầu nhìn vào mắt Thập, mím môi, “Thập à, sao mắt em... sao mắt em dưới ánh trăng lại.”
“Tôi không phải quỷ núi đâu.” Nó nhìn xoáy vào hắn.
Vu An sững người, lập tức nhận ra vẻ bi ai khôn xiết trong mắt nó, hắn định giải thích, song nó đã quay mặt đi. Đôi mắt là vết sẹo sâu nhất, xấu nhất của nó, hắn trông thấy, nhưng không thể vạch trần. Vu An bất lực nằm xuống, nó quay lưng lại phía hắn. Một lúc lâu sau, hắn chợt dựa nhẹ đầu vào vai nó, rù rì như nói mớ, “Em biết không? Trong truyền thuyết của người Sở, quỷ núi là thần linh sống trong núi sâu, thích đội vành hoa kết bằng cỏ thơm, cưỡi hổ báo phi như bay giữa rừng. Quỷ núi rất cô đơn, nhưng cũng rất đẹp, đẹp hơn hết thảy con gái trên đời.”
Có quỷ núi đẹp đến thế ư? Thập nhắm nghiền mắt lại, nghe Vu An rì rầm nói sau lưng.
Ai dà, người Tấn này biết nhiều thật đấy...
Thập cong môi lên rồi ngủ thiếp đi.
Đêm ấy Thập không mơ thấy ai nữa. Trời vừa tảng sáng, nó đã thức giấc vì lạnh quá, ngoảnh sang thấy Vu An và Tư đều đang ngủ say, nó bèn rón rén vén chăn xuống giường. Trời vẫn còn sớm, nó lấy kim chỉ ra, ngồi dựa tường, nương ánh bình minh rọi qua khe cửa sổ mà vá áo.
Trời lạnh phòng giá, ngón tay cứng đờ, được mấy mũi kim, nó lại phải dừng lại xoa tay. Chiếc áo rét của nó bị rách sau lưng, vá hơi xấu cũng chẳng sao, nhưng nhìn những đường chỉ dài ngắn không đều trên vai Vu An, nó thấy hơi xấu hổ, bèn thêu thêm một bông hoa dâm bụt meo méo lên trên. Gấp áo lại ngay ngắn đặt lên đầu giường xong xuôi, hai người trên giường vẫn đang rúc vào nhau ngủ mê mệt. Nó kéo chăn đắp cho Tư rồi quay người bước ra ngoài. Tuyết đọng bên ngoài càng lúc càng dày, giẫm lên thành tiếng lép nhép. Bấy giờ mặt trời mới mọc, ánh nắng nhàn nhạt rọi qua cành cây dát bạc trắng xóa, hắt lên mặt tuyết, không rực rỡ song vẫn sáng bừng lên, trông thật đẹp.
Thập mất cả nửa canh giờ mới quét sạch tuyết ngoài phòng sách, lại đốt lò sưởi trong phòng theo lệ.
Quá giờ Ngọ, tướng quân mới xuất hiện. Y chẳng nói năng gì, chỉ cầm một cuộn thẻ tre ngồi xuống bàn chăm chú đọc, coi Thập như không tồn tại.
Nó rất muốn nói chuyện với y song lại không dám mở miệng, cứ thế lưỡng lự mất cả chiều.
Tới khi mặt trời lặn, cuối cùng tướng quân cũng buông sách xuống. Nó nhỏm dậy tìm đá lửa. Một cây đèn đồng hình người quỳ từ dưới lên trên tổng cộng bảy đĩa đèn, nó nhón chân thắp từng đĩa một, thắp xong cả gian phòng tức thì nhuộm ánh vàng rực.
Thập hài lòng nhét đá lửa vào ngực áo, vừa quay lại đã thấy tướng quân đứng lù lù ngay sau lưng mình. Nó ngẩng cao đầu nhìn y, thân hình hơi chênh chao.
“Bé con có tên không?” Tướng quân vén áo ngồi xuống trước mặt nó.
“Thập... Nô tỳ tên Thập.” Nó lắp bắp. Lông mày y, mắt y... hình như y còn đẹp hơn trong giấc mơ của nó.
“Thập à, tên hay đấy.” Tướng quân nhẩm lại tên nó, gương mặt thoáng nét cười,
Nó quỳ thụp xuống đất nghĩ thầm, lần này cuối cùng cũng có cơ hội cảm tạ ơn thu nhận của y năm xưa rồi.
“Bẩm tướng quân, gia thần phủ công tử là Phù Thư cầu kiến.” Giọng ông quản gia Tần Cổ vang lên bên ngoài.
Tướng quân đỡ nó đứng dậy, “Lui xuống đi, ba ngày nữa ta đãi khách, nếu không muốn bị người ta xin mất thì ngoan ngoãn ở yên trong phòng đi.”
“Ơ... Dạ!” Nó gật đầu thật mạnh.
“Cầm cái này về.” Tướng quân chẳng biết biến đâu ra một chiếc hộp nhỏ bằng gỗ du sơn đen, đặt vào tay nó. Nó ngẩng lên nghi hoặc nhìn y, song y chỉ tủm tỉm cười rồi vẫy tay. “Đi đi!”
Nó dập đầu xin lui, vừa ra khỏi cửa đã nôn nóng mở hộp. Trong hộp xếp ngay ngắn một cuộn tơ tằm trắng muốt, một cuộn vải gai mịn màu vàng nhạt và một vuông lụa màu lá ngải. Nó nhìn tấm áo rét không còn lớp lót trên mình, sờ những tơ lụa mịn màng trong hộp sơn rồi ngoái lại nhìn phòng sách ấm áp phía sau, lòng chợt ấm sực khôn tả. Hơi ấm lan ra toàn thân, khiến cả người nó ấm ran như được ngâm vào nước nóng, gió đêm cuốn theo băng tuyết thổi ù ù bên tai bỗng dịu dàng hẳn.
Bách Phụ chỉ mất hai ngày đã may xong áo mới cho Thập, nó định lúc nào rỗi rãi sẽ mặc áo mới tới cảm tạ tướng quân, song mãi chưa có dịp. Dân thành Ung dường như chỉ sau một đêm đã biết tướng quân định ở lại kinh đônhiều ngày nên bái thiếp cứ nườm nượp được gửi tới, trong thư phòng của tướng quân ngày nào cũng đông nghịt sĩ tộc bàn luận hăng say.
Mấy hôm nay, Tư tranh thủ thay Vu An rời thành một chuyến. Tư tìm thấy cây dẻ duy nhất trong rừng du ngoạn ngoại ô, lấy đá khắc ký hiệu lên vỏ cây. Vu An nói rằng, nếu người hầu của hắn không chết, trông thấy ký hiệu nọ sẽ nghĩ cách cứu hắn ra khỏi thành. Tư lo liệu mọi sự xong xuôi, nhưng sau khi về phủ lại đói quá ngã ngất trong sân, rách toạc cả đầu.
Nếu Vu An muốn tiếp tục ở lại trong phủ thì cả đám trước hết phải giải quyết được một vấn đề, ấy là ăn uống. Ba đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn, trông vào ít cháo kê trong phủ phân cho thì sao no nổi. Thế nên Thập bắt đầu để ý đến mấy con “điếc cả tai”.
“Điếc cả tai” là tên Thập đặt cho một giống chim béo ú, đuôi đen, mặt đỏ. Mấy hôm nay có dăm con chim chẳng biết từ đầu bay tới, cứ sáng sớm và chiều hôm lại đậu trên cành kêu quàng quạc, tiếng vang vang inh tai, từ xa tít đã nghe thấy.
Vu An hết sức tò mò về kế hoạch bắt chim của Thập, hắn không hiểu sao nó không làm cung bắn, cũng chẳng đặt bẫy, chỉ rải một nắm hạt cỏ dưới gốc cây rồi thôi.
Mùa xuân năm ngoái, Thập theo các chị hầu ra ngoài thành hái đay, đi giữa đồng hoang một lúc lâu, nó phát hiện ra hạt một loại cỏ, chim ăn nhiều sẽ lảo đảo xoay mòng mòng tại chỗ như người say rượu, có bay cũng chấp chới ngả nghiêng. Nó từng thử vồ bắt những con chim “say rượu” nọ, nhưng dù sao chúng cũng biết bay nên may lắm thì mười con mới bắt được một. Về sau nó lại nghĩ để tới mùa đông mới áp dụng cách này, như vậy chẳng cần phải bắt, chỉ cần rắc hạt cỏ dưới gốc cây, rồi đợi một đêm, chim “say rượu” không bay về tổ được, ắt sẽ chết cóng.
Hôm sau, từ sớm tinh mơ Thập đã cùng Tư chạy đến khu nhà bên Đông tìm mấy con “điếc cả tai”. Quả nhiên chúng tìm thấy một con dưới gốc cây, xem bộ đã chết cóng, xách nặng trĩu cả tay, to gần bằng con gà nuôi trong phủ. Tư cười toe toét, Thập dúi chim vào tay bạn rồi trỏ lên táncây trên đỉnh đầu. “Có khi còn mấy con trong tổ, cậu đợi dưới này để mình leo lên xem chúng chết cóng chưa. Hôm nay bảo đảm sẽ cho cậu và Vu An ăn một bữa no nê.” Dứt lời Thập nhanh nhẹn quắp cả hai tay vào thân cây, thoăn thoắt trèo lên.
“Bên trên còn không?” Tư đứng dưới góc nhìn lên hỏi to.
“Còn! Mình ném xuống, cậu bắt lấy nhé!” Thập phát hiện ra một con trên chạc cây cạnh tổ chim, bèn tiện tay ném xuống.
“Con này còn béo hơn!” Tư vỗ tay cười, “Còn nữa không?”
“Phía trên còn một tổ nữa, để mình lên xem!” Thập với tay ra tóm lấy một cành cây to rồi trườn lên từng chút một, “Ha, còn một con nữa, phen này bọn mình đủ ăn mấy ngày rồi!” Nó mừng rỡ cúi xuống bảo Tư, rồi vươn tay ra tóm lấy cổ chim, nào ngờ con chim trong tổ vẫn chưa chết cóng, đờ đẫn ngoái lại mổ cho nó một phát, làm nó đau quá kêu ré lên.
“Ở trên đó làm gì vậy?” Dưới gốc cây chợt vang lên tiếng quát. Thập nhìn xuống, thấy tướng quân chắp tay sau lưng đứng cạnh Tư, nghiêm nghị nhìn mình.
“Tướng quân!” Thập giật bắn mình, chân đứng không vững, ngã cắm đầu xuống đất.
“Á á á!” Nó thét lên, ra sức quơ quào hòng tóm lấy cành cây nào đó, nhưng làm gãy liền hai cành mà vẫn không neo được người lại. Nó nhắm nghiền mắt, đợi cơn đau dữ dội nhói lên, nhưng cơn đau như dự liệu lại không tới. Tướng quân đã giơ hai tay ra, vững vàng đỡ lấy nó.
Toi rồi.
Nó nơm nớp mở mắt ra. Tướng quân nhíu mày nhìn nó, vẻ tức giận.
Thập nhảy xuống khỏi tay tướng quân, quỳ mọp dưới đất, Tư sợ quá cũng quỳ thụp xuống.
“Các ngươi đang làm gì thế?”
“Bắt chim ạ...” Giọng Thập không kìm được run rẩy.
“Leo lên cây bắt chim hả? Sắp mọc cánh hay sao?”
“Nô tỳ...” Thập đang bối rối chưa biết giải thích ra sao thì con chim béo múp vừa mổ nó bỗng chấp chới bay từ trên cây xuống, loạng choạng mấy bước tới dưới chân tướng quân rồi đâm sầm vào chân y ngất lịm.
Ba người lặng đi.
Hồi lâu, tướng quân mới đằng hắng một tiếng bảo Tư, “Ngươi lui trước đi!” Đoạn liếc nhìn Thập, chẳng nói chẳng rằng, xoay người bỏ đi.
“Này Thập, tướng quân nói vậy là sao?” Tư quỳ bên cạnh Thập, thì thào hỏi.
“Thế còn không hiểu à? Bảo cậu về trước, còn mình quỳ ở đây.” Thập rầu rĩ gục đầu quỳ dưới đất. “Hôm nay mình không thoát phạt được đâu, cậu về đem một con ra hầm canh, hai con còn lại làm sạch rồi bọc tuyết xung quanh, để dành mai ăn.”
“Vậy còn cậu thì sao?” Tư nhăn mặt hỏi.
Thập nhoẻn cười an ủi, “Không sao đâu, tướng quân dễ mềm lòng, lát nữa sẽ tha cho mình về thôi. Cậu mau đi đi, tối về mình đợi ăn canh thịt đấy nhé!”
Tư chẳng biết làm sao, đành rời khỏi đó, vừa đi vừa ngoái đầu nhìn lại. Thập quỳ giữa tuyết, tuyết dưới đầu gối chẳng mấy chốc đã tan thành nước. Nó vốn bệnh tật đầy người, quỳ thêm chút nữa e rằng sẽ thành tật ở chân. Nó gượng cười, lót tay xuống dưới đầu gối, chỉ lát sau, tất cả những chỗ lộ ra ngoài áo đã tê dại cả đi, không còn cảm giác.
Đúng lúc ấy, một tấm áo dài lam thẫm phủ lên vai nó. Nó khó nhọc thở hắt ra, ngẩng cần cổ cứng đờ vì lạnh lên, qua màn sương mờ trắng xóa, chỉ thấy tướng quân đang lo lắng nhìn mình.
“Chủ nhân, nô tỳ biết lỗi rồi.” Đôi môi Thập gần như dính chặt vào nhau vì lạnh.
Tướng quân thở dài, vươn cánh tay dài ra, bế thốc nó lên. Nó ngồi trên cánh tay trái y, mặt nóng bừng, “Trẻ con mới phải bế, nô tỳ tám tuổi rồi...”
Tướng quân nhìn nó, than thở, “Không chết trong đám cháy, giờ lại trèo lên cây trong sân nhà ta tìm chết à?”
Tướng quân nhận ra nó, không ngờ tướng quân vẫn nhận ra nó! Nó mừng đến lú đầu, quên cả đáp lời.
“Bé con bướng bỉnh, sau này cấm trèo cây nữa đấy.”
“Vâng.” Nó nhìn hàng mi khẽ chớp khi tướng quân nói chuyện, cười ngây ngô, gật đầu lia lịa.
Tướng quân ẵm nó chậm rãi đi trên tuyết, nó tựa vào cổ y, hít sâu một hơi, cảm nhận được mùi gió xuân tháng Hai, tuy vẫn còn se se lạnh nhưng lại khiến nó thấy an tâm vô kể. Ánh nắng ban mai chênh chếch rọi xuống nền tuyết, làm hai chiếc bóng một to một nhỏ đổ dài, nó chợt hy vọng con đường này cứ dài ra, không có tận cùng, như thế, tướng quân sẽ bế nó đi mãi...
Hôm Vu An đi, Thập dúi hai con “điếc cả tai” đã nướng chín vào tay nải hắn. Tư trùm chăn khóc thầm suốt một đêm, tới khi chia tay, hai mắt đã sưng húp lên, gần như không thấy con ngươi đâu nữa.
Thực ra Thập rất muốn khuyên Tư, song lại chẳng biết mở lời thế nào. Vu An là chim phượng rụng lông, Còn hai đứa bọn chúng là chim sẻ kiếm ăn ngoài đồng hoang, dù xúm lại chia nhau mấy hạt cỏ, cũng không thể bên nhau mãi được. Huống hồ hắn còn mang mối thù sâu của riêng mình.
“Giờ anh ra khỏi thành có an toàn không? Bọn em có giúp gì được không?”
“Trốn bằng ấy ngày rồi, chắc không sao đâu. Chỉ cần ra khỏi cổng thành, sẽ có người tới đón ta. Mấy hôm nay... cảm ơn nhiều nhé!” Vu An đỏ hoe mắt nghẹn ngào.
“Anh sẽ quay về thăm bọn em chứ?” Tư vừa chớp mắt, nước mắt đã lại lăn dài.
“Ừm.” Thiếu niên thận trọng gật đầu rồi quay sang nhìn Thập, “Nếu bảy năm nữa ta còn sống, nhất định sẽ quay về tìm hai người.”
Bảy năm, bảy năm xa tít tắp. Giữa thời loạn lạc này, với thân phận của hắn, sống thêm bảy năm nữa thực chẳng dễ dàng gì. Song Thập vẫn gật đầu thật mạnh, bởi dù bao lâu nữa, nó cũng vẫn ở đây, không đi đâu cả.
Thế là, vào một sớm mai đổ tuyết, thiếu niên áo xanh nọ đã đeo kiếm ra đi, vừa đi vừa ngoái lại. Thập nghĩ, nó sẽ nhớ mãi những đêm hắn ngủ cùng bọn nó, nhớ những lời hắn nói trong bóng tối, nhớ cả thế giới bên ngoài mà hắn kể.
Sau khi Vu An đi rồi, Tư hết sức rầu rĩ, bởi nó đã mất người thứ hai mà nó thích trong đời. Thập bên an ủi Tư rằng, nó sẽ không bao giờ mất người đầu tiên mà nó thích.
“Ranh con thối tha không biết xấu hổ!” Nghe Thập nói, Tư cười phá lên. Nó biết Thập nói thật.
Mấy hôm sau, khách khứa tới lui cũng thưa dần. Ông quản gia sai Thập vào thư phòng hầu hạ, Thập bèn dậy sớm mặc chiếc áo rét mới may đi đến. Lúc nó tới nơi, tướng quân đã ngồi trong. Nó vội hành lễ rồi quỳ xuống cạnh y.
Tướng quân đang cúi đầu đọc sách, thuận miệng nói, “Ta bảo quản gia làm cho bé mấy đôi hài mới rồi, bỏ đôi đi hôm trèo cây đi!”
Thập thấy ấm lòng, vội dập đầu. “Cảm ơn chủ nhân!”
Tướng quân ừm một tiếng, lại hỏi, “Bé muốn học chữ không?”
“Nô tỳ không dám.” Thập nơm nớp trong lòng, không dám nói bừa.
Tướng quân nhướng mày rồi lại quay ra đọc sách, không để ý tới Thập nữa. Thư phòng chợt lặng phắc, bên tai chỉ nghe thấy tiếng thở sâu của tướng quân cùng tiếng tim nó đập thình thịch.
Tướng quân hỏi đùa nó à? Nó được học chữ thật ư? Lần trước sau khi bị y bắt gặp đang lén xem sách, nó còn đinh ninh mình sẽ phải ăn roi, song chẳng hiểu sao lại không việc gì. Hôm nay, nếu nó không biết tốt xấu mà đáp có, liệu có bị y nọc ra đánh bù thành hai trận không? Nhưng nó không sợ ăn đòn. Nếu ăn hai trận đòn mà được học chữ, nó vui còn không hết ấy chứ. Nghĩ vậy, Thập đánh bạo nghiến răng, dập đầu thật mạnh xuống chiếu, dõng dạc đáp, “Bẩm tướng quân, nô tỳ muốn học chữ!”
“Ha ha, giỏi lắm!” Tướng quân có vẻ vui, y cười cười kéo nó lại ngồi cạnh mình rồi giơ tay mở một cuộn thẻ tre trên bàn ra. “Vậy hôm nay chúng ta bắt đầu từ quyển này đi...”
Nhiều năm về sau Thập mới biết cuốn sách tướng quân dùng để dạy vỡ lòng cho nó là binh thư do đại tướng nước Ngô Tôn Vũ viết, được người đời sau hết sức tôn sùng nhưng lúc bấy giờ lại chẳng mấy ai biết tới. Chỉ riêng cuốn binh pháp ấy đã cứu nó mấy lần, nhưng ấy là chuyện sau này. Chỉ là, có lúc số phận của con người ta thường được quyết định bởi một lựa chọn vụn vặt, vào khoảnh khắc cơ hội tìm đến một chút can đảm nhỏ nhoi có khi lại làm thay đổi hoàn toàn vận mệnh.
Sau hôm ấy ở thư phòng, cả phủ phải kinh ngạc há hốc miệng trước sự yêu chiều tướng quân dành cho Thập. Một đứa bé mồ côi thấp kém bỗng dưng lại có một u già dạy dỗ, nó không cần phải thức suốt đêm tước đay xe thừng, cũng chẳng cần giặt giũ hộ người ăn kẻ ở trong phủ nữa, hằng ngày chỉ ngồi trong thư phòng đọc sách, mài mực, viết chữ.
Người khác kinh ngạc cũng chẳng có gì lạ, đến bản thân nó còn chẳng dám tin kia mà.
Nó có trí nhớ tốt, học rất nhanh, tướng quân thường ngày không có nhiều thời gian dạy bảo, bèn chọn cho nó một ông thầy giỏi giang xuất chúng trong đám môn khách.
Thầy Thái vốn là người Tấn, chẳng hiểu sao lại phiêu bạt sang Tần. Thầy mới đi theo làm môn hạ cho tướng quân được mấy tháng, nghe nói tướng quân muốn nhờ dạy dỗ một đứa bé trong phủ thì không khỏi mừng thầm, tưởng rằng chủ nhân coi trọng tài hoa của mình nên mới cho dạy dỗ thiếu chủ.
Ôm niềm tin ấy, từ lúc trời còn chưa sáng, thầy Thái đã đeo tráp sách đứng đợi trước cổng phủ. Sáng sớm, ông quản gia vừa mở cổng đã thấy ông thầy già hai mắt thâm quầng, tươi cười nhìn mình, chòm râu dưới cằm đã kết băng li ti.
Thầy nhiệt tình như vậy, lẽ ra đường học hành của Thập cũng phải suôn sẻ. Ngờ đâu thầy vừa trông thấy nó, chòm râu đóng băng đã vểnh ngược lên vì tức. Ông run bần bật hai tay, không thốt ra nổi tiếng nào, ném cả tráp sách xồng xộc chạy thẳng ra khỏi phủ, về nhà đổ bệnh liệt giường.
Bấy giờ Thập không hiểu vì sao thầy lại giận dữ, cứ ngỡ rằng vì mình xấu xí làm ông hoảng sợ.
“Hóa ra là ở đây... Sao nào, chẳng lẽ trốn thì thầy sẽ quay lại à?” Lúc tướng quân tìm thấy Thập, nó đã nấp trên ngọn cây đại thụ ở sân sau khóc suốt một ngày.
“Nô tỳ làm thầy sợ quá bỏ đi rồi... tại nô tỳ xấu xí... là quái vật...” Nó khóc đến thâm quầng hai mắt, cảm thấy sau này bất luận đi đến đâu, dáng vẻ thế nào, dù không ai nhìn thấy màu mắt lạ lùng của nó, cũng sẽ bị người ta coi như quái vật.
“Là ta sơ ý, không phải lỗi của bé đâu.” Tướng quân thở dài, nhún chân nhảy lên cành cây. Y nhẹ nhàng lau nước mắt cho nó rồi dịu giọng cười bảo, “Đừng khóc nữa, nếu bé xấu thì con gái trên đời còn biết soi gương thế nào đây?”
Thập giơ bàn tay lem luốc ra nắm lấy cổ áo màu xanh trứng sáo của y, thổn thức hỏi, “Tướng quân, nô tỳ không phải yêu quái, cũng không phải quỷ núi, đúng không?” Dưới ánh trăng mờ, nụ cười của người bên cạnh dịu dàng đến mức Thập quên khuấy đi mất y là tướng quân cao quý tót vời còn mình chỉ là một nô tỳ thấp hèn.
“Đúng thế, những kẻ ghê tởm đôi mắt của bé thực ra sâu trong tâm khảm lại kính sợ, chẳng qua họ không nhìn thấu đấy thôi.”
“Tướng quân, sao người tốt với nô tỳ thế?” Thập níu chặt áo y, chỉ sợ hễ buông tay ra y sẽ biến mất trong màn đêm như một làn khói.
“Vì bé là báu vật ta nhặt về, vì ta muốn thấy dáng vẻ bé khi lớn lên...” Tướng quân cười nhẹ đáp rồi bế nó nhảy từ trên cây xuống. Nó ngả đầu vào vai y, ngẩn ngơ nhìn những chấm râu xanh lờ mờ trên cằm y, lần đầu tiên háo hức muốn lớn thật nhanh, háo hức muốn được thấy tương lai.
“Mệt rồi thì ngủ đi, mai còn phải đi mời thầy giáo quay lại nữa đấy!”
“Vâng!” Nghe tiếng tim đập bình thản mà mạnh mẽ bên tai, Thập vốn đã mệt lử bèn gục đầu vào lòng tướng quân ngủ vùi...
Hôm sau, qua lời ông quản gia, nó mới biết sau khi tướng quân về phủ, nghe bẩm chuyện thầy Thái thì tự trách không thôi, cho rằng mình quá sơ suất, làm thầy tự ái. Hóa ra theo lễ giáo thì đừng nói dân đen và nô lệ không được học hành, mà ngay cả con gái nhà quyền quý cũng chỉ được u già dạy xe đay, bóc kén, kéo tơ, dệt lụa, học tập nữ công. Bởi thế, khi biết tướng quân muốn mình dạy cho một nô tỳ trong phủ đọc sách học chữ, thầy Thái cho rằng tướng quân coi thường tài năng của mình, cố tình bày trò chế nhạo.
Hiểu ra đầu đuôi câu chuyện, Thập thu dọn tráp sách thầy bỏ lại phủ, hỏi ông quản gia chỗ ở của thầy rồi một mình đeo mười mấy cuốn sách tới tìm.
Lúc Thập tới, thầy Thái đã đổ bệnh mấy ngày. Ông một mình sang Tần, bên cạnh không có người săn sóc, trước đó tướng quân đã đích thân tới tạ lỗi, còn tặng cho hai nữ tỳ, nhưng đều bị ông trả lại.
Thấy cánh cổng khóa chặt, Thập chẳng biết làm sao, đành trèo qua tường bao nhảy vào.
Trông thấy nó, thầy Thái run bắn cả hai tay, chẳng thốt nổi câu nào. Nó cũng chẳng nhìn nhỏi đến ông, lấy ra một vò sành sắc thuốc.
Hôm đầu tiên, cả hai chẳng ai nói năng gì, thầy đổ thuốc nó sắc đi, nó lẳng lặng ra về.
Hôm thứ hai, nó lại trèo tường vào sắc thuốc, song trước khi đưa thuốc cho thầy đã nhắc đi nhắc lại, “Một túi kê đổi một nắm thuốc đấy.” Thầy vừa vểnh râu vừa trợn trừng mắt, cuối cùng cũng chịu uống thuốc.
Hôm thứ ba, nó trèo tường vào, sắc thuốc, đợi thầy uống thuốc xong nằm nghỉ, nó bèn ngồi bên ê a đọc cuốn sách lần trước thầy đem tới.
Hôm thứ bảy, uống xong thang thuốc cuối cùng, thầy cũng đã xuống giường đi lại được, việc đầu tiên ông làm là vác gậy trúc đuổi nó về, bởi mấy hôm nay nghe nó đọc mà ông ong cả tai.
Sau khi về phủ, Tư ấm ức thay cho Thập, lầu bầu nói không học thì thôi, cứ như trước cũng vẫn có ăn có uống. Song Thập vẫn canh cánh trong lòng, cố chịu thêm hai ngày, tới hôm thứ mười lại đi.
Lần này, cổng nhà thầy Thái mở toang, nó ngỡ là bị trộm, bèn nhặt một thanh gỗ cạnh cửa xông vào.
“Làm sao? Cầm gậy định đánh lão già này à?” Thầy ngồi ngay ngắn trước bàn, thấy Thập hùng hổ xông vào bèn quở.
Vừa nghe nói, Thập lập tức ném thanh gỗ ra thật xa, “Không, không, không, con tưởng nhà thầy có trộm.”
“Sao hôm nay ngươi lại tới? Con gái nhà thường dân không được học chữ, tướng quân nhà các người bậy quá!” Thầy Thái hừm một tiếng, vê râu gằn giọng nói.
“Không phải lỗi của tướng quân, là con càn rỡ, nảy ra ý muốn quá phận thôi.” Nói rồi Thập quỳ sụp xuống đất dập đầu liền mấy cái. “Thưa thầy, con thật lòng muốn học chữ, xin thầy thành toàn cho!”
“Con trai biết chữ học hành là mong có ngày tiếng tăm đến tai chư hầu, giúp ích cho chúng sinh thiên hạ, còn ngươi học chữ để làm gì?” Thầy chăm chú nhìn Thập hồi lâu, chậm rãi hỏi.
Thực ra nó chưa bao giờ nghiêm túc nghĩ tới vấn đề này, chỉ cảm thấy trong cõi u minh có một sợi dây vô hình buộc chặt vào mình. Đối với nó, những cuốn sách trong thư phòng còn hấp dẫn hơn cả cơm ngon áo đẹp nữa.
“Ngươi chưa hề nghĩ tới, đúng không nào? Chẳng qua ngươi ở được chủ nhân yêu chiều nên đòi hỏi bừa bãi đấy thôi.”
“Không phải!” Nó không kìm được lớn tiếng phản bác, “Con muốn biết chữ để hiểu được thế nào là đúng, thế nào là sai, thế nào là sang, thế nào là hèn, thế gian này vận hành theo nguyên lý nào. Huống hồ chẳng phải vì không biết những điều này nên con mới mạo phạm thầy hay sao? Vả lại, nếu thầy dạy dỗ được một đứa con gái như con nên người, chẳng phải càng chứng tỏ thầy giỏi giang ư?”
Thầy Thái trầm ngâm, vẻ như đã hơi hơi dao động, nhưng rồi lại lắc đầu ngay, “Dạy được ngươi nên người e là còn khó hơn lên trời.”
Thập biết thầy đang ngần ngại điều gì, bèn bước tới cạnh khay cát bên cửa sổ, cầm thanh trúc lên viết chữ.
“Con bé này vẽ lung tung cái gì đấy? Mau quay lại đây!” Thầy bước đến nhìn, rồi kinh ngạc thốt lên, “Không thể nào.”
Từ nhỏ Thập đã có trí nhớ hơn người, mẫu thêu chỉ cần nhìn qua là thêu lại được y hệt, đọc sách cũng vậy, dù những chữ chưa biết cũng chỉ cần nhìn mấy lần là nhớ được cách viết. Giờ nó đang viết lên khay cát nội dung cuốn sách đọc mấy hôm trước, tuy không hiểu đó là gì, rất nhiều chữ cũng chẳng biết đọc ra sao, nhưng vẫn nhớ rõ ràng cách viết.
Việc này khiến thầy giáo sửng sốt vô cùng, ông nghĩ đi nghĩ lại, rốt cuộc bị nó nài nỉ dữ quá, đành nhận lời tạm thời dạy nó ba tháng.
Không ngờ cuối cùng ông lại dạy một mạch bốn năm.
Chẳng nề ấm lạnh, bất chấp mưa to gió lớn, ngày nào thầy Thái cũng đeo chiếc tráp đen cũ nát tới phủ dạy Thập, thậm chí về sau ông còn khéo léo từ chối công tử bé con người thiếp của Tần bá mà tướng quân nhờ ông thay mặt dạy dỗ.
Mùa đông năm thứ ba mươi lăm đời Chu Kính vương, cả thành Ung phủ tuyết dày lớp lớp, trên đường tới phủ tướng quân, thầy bị té ngã, trở về bị nhiễm thương hàn, tới đầu năm sau thì nằm liệt giường. Tướng quân cùng Thập cầu thầy chạy thuốc khắp nơi, nhưng dùng hết mọi cách vẫn không cứu nổi. Hơn một ngàn ngày đêm, thầy Thái đã hao hết tâm sức vì Thập, đến mức râu tóc bạc trắng. Trước lúc lâm chung, thầy dựa vào thành giường, thều thào nói chuyện với nó thật lâu.
Thầy kể rằng, mình vốn là người Tấn, từ nhỏ thông minh lanh lợi, cần mẫn chăm học, nhưng không may một nỗi, ông lại có một người em trai học sâu hiểu rộng, thấu trời tỏ đất là thái sử Mặc nước Tấn. Ở Tấn, ai ai cũng chỉ biết thái sử Thái Mặc, nào có hay trên đời còn một Thái Thư như ông. Ông vẫn luôn sống dưới cái bóng của em trai, cuối cùng còn vì một người đàn bà mà bị em đuổi khỏi nước Tấn. Thời trẻ, ông phiêu bạt khắp các nước song vẫn bất đắc chí, tới trung niên lại mất cả vợ con, đến già cũng chỉ nhận một nữ đệ tử xuất thân nghèo hèn.
Giữa lúc nó đang sụt sùi thương cho cuộc đời thê lương của thầy thì ông lại cười nói, “Thập à, nếu con là trai thì tốt biết mấy, tới khi con lừng danh thiên hạ, người ta ai ai cũng sẽ biết thầy con là Thái Thư này”
Nói xong câu ấy, thầy tắt hơi, trên môi vẫn phảng phất nụ cười...
Thập ngồi trước khay cát khóc suốt bảy ngày, tưởng nhớ suốt bảy ngày, những lời thầy nói trước lúc lâm chung khiến nó lần đầu tiên nảy ra ý tưởng ngông cuồng, muốn tiếng tăm vang đến tai chư hầu.
Thầy không có con cháu, trước khi mất có dặn nó đem tất cả đồ đạc để lại đổi thành lương thực biếu bà Câm bán sữa đậu ở phía Tây thành, để báo đáp ơn cứu mạng của bà ngày trước.
Sau khi thầy được an táng, Thập chọn một ngày rồi rủ Tư cùng đi thu dọn di vật của ông. Thầy Thái nghèo túng, chẳng có mấy đồ đạc đổi được lương thực. Đống sách thẻ tre chồng chất trong góc đã được chôn theo ông, giờ ngoài mấy bộ quần áo và chiếc tráp sơn đen ra, cũng chỉ còn chiếc nồi treo ông vẫn dùng nấu nướng mà thôi.
“Mấy thứ này chỉ đổi được một nồi kê thôi. Thầy Thái cũng túng quá.” Tư nhìn căn nhà trong huơ trống hoác, cảm thán.
“Mấy năm nay lương thưởng thầy đều đem đổi thành sách cả, đừng nói là tiền, ngay quần áo, đồ ăn thầy cũng chẳng coi trọng nữa là.” Thập mở tráp sơn, lấy ra mười mấy đồng tiền đưa cho Tư, “Trong này còn một ít, cậu giữ lấy đi, sau này đưa cả cho bà Câm.”
“Thắt lưng cậu làm đấy à?” Tư tinh mắt, thoáng trông đã thấy một thứ khác trong tráp. Ấy là một chiếc thắt lưng đen rộng chừng hai lóng tay thêu hai hàng mây, Thập làm cho thầy cuối năm kia, nhưng chẳng bao giờ thấy ông đeo. Bấy giờ nó cứ nghĩ thầy chê xấu không chịu dùng, giờ xem ra e là tiếc không nỡ dùng. Thầy đã giúp nó nhiều như thế, nó có thể làm được gì cho ông đây...
“Sao lại khóc nữa?” Tư rút khăn nhẹ nhàng lau nước mắt cho nó rồi lấy chiếc thắt lưng trong tráp ra. “Giờ thầy Thái không dùng được nữa rồi, hay cậu giữ lại làm kỷ niệm vậy!”
“Không,” Thập hít sâu một hơi, bỏ thắt lưng vào chung với đám quần áo đã soạn ra. “Thắt lưng lụa thêu có lẽ sẽ đổi thêm được mấy nắm kê. Lúc thầy mới sang Tần bị trúng nắng, nếu không có chén sữa đậu của bà Câm, mình cũng chẳng được gặp thầy. Nói vậy thì mình cũng phải chịu ơn bà Câm.”
“Vậy cậu giữ lại cái này đi, không đáng tiền đâu.” Tư tìm thấy một thứ hình dạng kỳ lạ dưới chăn, bèn đưa cho Thập. Thập đón lấy xem, ra là con chim sẻ hai đầu bằng gốm nâu mà thầy thường đeo bên tay ngắm nghía, tuy trông thô sơ kỳ dị nhưng lại là vật thầy rất yêu quý.
“Mình giữ lại cái này vậy. Những thứ khác gom vào một bọc, nhân lúc ban ngày chợ còn đông, mau đem đi đổi thôi.” Thập nhét con chim gốm vào chiếc túi đeo bên người rồi cùng Tư gói ghém những thứ đáng tiền lại, tới chợ Tây.