Trúc Thư Dao - Tập 1: Nước Tần - Chương 03

GẶP PHƯỜNG GIAN ÁC

Thập nghĩ ngợi suốt ba ngày ba đêm, ăn cũng nuốt không trôi, cuối cùng quyết định từ bỏ cái tôi tua tủa gai nhọn khoác bên ngoài lớp lớp vỏ cứng. Hiện giờ nó đã có một mái nhà, có người bảo vệ mình, có lẽ cũng đến lúc quên đi quá khứ rồi.

Phiên chợ đầu xuân đã quét sạch vẻ đìu hiu của mùa đông, ngoài thương nhân các nước tấp nập lại qua ra, còn không ít nông dân vác lương thực tới đổi vật dụng. Tới giờ Thân, Tư và Thập đổi được một niêu kê và ba thước vải gai mịn, vốn định đưa luôn cả tiền cho bà Câm, nhưng tới sạp nước đậu lại chỉ gặp được Hề, con trai bà cụ.

Hề nhận lấy đống đồ, vội quỳ sụp xuống đất luôn miệng tạ ơn. Thì ra bà Câm bị bệnh đã lâu, nhà lại không dư lương thực để mời thầy chạy thuốc nên cứ lay lắt đến nay. Giờ có mấy thứ họ biếu, có lẽ bệnh tình bà cụ sẽ được cứu.

Từ biệt Hề, trên đường về phủ, Tư cứ cười tủm tỉm, hai lúm đồng tiền hiện rõ trên má, có vẻ rất vui. Còn Thập lại thấy lòng trĩu nặng vì một câu nói của Hề.

“Thập này, hôm nay bọn mình làm được một việc cực tốt, sao cậu vẫn rầu rầu thế?” Tư lắc tay Thập, cười hỏi.

“Cậu không nghe Hề bảo hôm qua bà Câm đã không ăn uống được nữa sao? Trước lúc mất, thầy cũng vậy...”

Tư thần mặt ra, thở dài rồi giơ tay vuốt má Thập, dịu giọng, “Khóc suốt mấy ngày, má tóp lại rồi này. Được rồi, đừng buồn nữa, bọn mình phải nghĩ lạc quan lên chứ?”

Thập thấy lòng đau thắt, song vẫn cố nặn ra một nụ cười, gật đầu với Tư.

Lúc này, phía trước chợt có một du hiệp đeo kiếm cưỡi ngựa phi đến, Thập vội kéo Tư tránh sang bên đường theo phản xạ, định kêu gã cứ đi trước. Song kẻ kia đột ngột ghìm cương dừng lại, cho ngựa chạy vòng quanh hai người hai vòng. Con ngựa cao lớn màu nâu vàng thở phì phì, thả bộ quanh Thập, hơi thở nóng hổi chua lòm từ miệng ngựa phả ra táp thẳng vào mặt Thập, làm nó cau mày, thầm khó chịu.

Gã du hiệp cúi xuống dùng kiếm nâng cằm Thập lên, cợt nhả, “Không ngờ đất Tần cũng có người đẹp nhường này? Cô bé tên gì? Nhà ở đâu?”

Thập cố nén cơn giận trong lòng, đanh mặt giơ tay gạt kiếm của gã ra, quay lại bảo Tư đang nấp sau lưng, “Mình đi thôi!”

Thấy hai người định đi, gã du hiệp nhảy phóc xuống ngựa đuổi theo, tóm lấy tay Thập cười khì, “Ta tặng người nhà cô hai mươi đồng, cô theo ta nhé!”

“Bỏ tay ra!”

Thập toan liều mạng giằng ra, song gã nắm rất chắc, cười chế nhạo, “Làm vành làm vẻ định vòi thêm cho cha mấy đồng à?” Nói rồi tay phải thình lình kéo mạnh, bế thốc Thập đặt lên lưng ngựa.

Lúc này trên đường tấp nập người qua kẻ lại, thấy tay du hiệp giằng co với một cô gái thì xúm lại cười đùa xem trò vui. Đang đầu xuân, cứ mấy hôm lại bắt gặp cảnh này một lần.

“Quân láo xược! Mau thả ta xuống!” Thập ré lên như một con cá thình lình bị ném lên bờ, ra sức vùng vẫy song chẳng ích gì. Cánh tay tên du hiệp cứng như gọng kìm siết quanh eo nó, không mảy may suy suyển.

Thoạt đầu Tư còn ngây người vì sợ, giờ mới bừng tỉnh, vội vàng xông tới kéo tay gã ra. “Cô ấy không bằng lòng theo ngươi mà, ngươi thả cô ấy ra đi!”

“Tránh ra!” Gã vung cánh tay cầm kiếm hất Tư ngã xuống đất.

“Tư ơi...” Thập kêu thét lên, đấm thùm thụp vào tay gã. “Khốn kiếp, mau buông tay ra!”

“Ha ha ha, buông tay ấy à? Trong số con gái ta gặp, cô là đẹp nhất, cũng hung dữ nhất, ta thích lắm, đời nào lại chịu buông ra?” Dứt lời gã còn cắn vào lưng Thập qua lớp áo.

Thập vừa thẹn vừa tức, nỗi buồn ngập tràn lồng ngực giờ đều đã hóa thành lửa giận. Nó lật tay tóm chặt mũ chụp tóc của gã, giật mạnh. Gã bị đau, vội buông nó ra, hai tay ôm lấy mái tóc rũ rượi, chửi mắng luôn miệng. Thập ném nắm tóc giật được của gã đi, tiện thể rút một cành củi của người đốn củi ven đường đâm mạnh vào dưới mắt gã.

Từ khi nhớ được chuyện tới năm tám tuổi, nó đã đánh nhau với rất nhiều người, cũng bị rất nhiều người đánh, nó biết rõ chỗ nào bị đánh vào là đau nhất, choáng váng nhất.

Thấy tên du hiệp bị đánh, đám đông xúm quanh bắt đầu cười rộ lên reo hò. Thập nhân lúc gã chưa kịp phản ứng, tức tốc kéo Tư đang ngồi đờ ra dưới đất dậy, rẽ đám đông chạy mất.

“Người đứng lại! Ôi...” Gã du hiệp chống kiếm bôn ba thiên hạ, cũng có mấy phần bản lĩnh, vừa rồi bị Thập đánh lén là bởi không đề phòng, giờ gã đã lấy lại phản ứng, chẳng mấy chốc bèn xách kiếm hò hét đuổi theo.

Thấy gã chỉ còn cách chưa đầy hai trượng, Thập cuống quýt bảo Tư, “Mau lên, cậu chạy sang trái, về phủ gọi người tới cứu mình với!” Dứt lời Thập ngoặt vội sang phải, chui vào một con hẻm, lợi dụng thân thể nhanh nhẹn, chạy lòng vòng câu giờ.

Tiếc rằng sức con gái suy cho cùng cũng không bì nổi đàn ông, lại thêm bốn năm nay ngày ngày nó chỉ theo thầy học chữ, theo u già học may vá thêu thùa, ủ rượu, đâu còn dai sức như trước kia, mới chạy được một khắc đã sắp bị đuổi kịp, nhác thấy bên đường có một gốc cây to, nó chẳng buồn nghĩ ngợi liền vội vã trèo lên.

Gã du hiệp chạy đến dưới gốc cây, thở hồng hộc nhìn nó trừng trừng, bấy giờ nó mới nhìn rõ mặt mũi gã.

Gã vận chiếc áo dài bằng vải gai thô, râu ria xồm xoàm che lấp quá nửa mặt, cặp mắt to thô lố như mắt trâu, dưới mắt nửa tấc còn vết rách do nó đâm bằng cành củi, vẫn đang chảy máu đầm đìa, trông vô cùng dữ tợn.

“Oắt con, xuống đây cho tao!” Gã gầm lên, ném cả kiếm đi, vừa trèo lên vừa mắng sa sả, “Hôm nay mày vừa rạch mặt vừa làm mất mặt ông, ông phải chặt tay mày mới được!”

Làm sao đây? Giờ nói lý với gã còn kịp không?

Thấy sắp bị gã tóm lấy mắt cá chân, Thập vội cởi luôn giày đập túi bụi vào tay gã.

“Ai làm rộn bên ngoài thế?” Đang lúc cuống quýt, cánh cổng nhà dưới gốc cây bỗng kèn kẹt mở, rồi một người đàn ông lưng hổ eo gấu thân cao chín thước vác thanh kiếm nặng trịch bước ra.

Trông thấy ông ta, Thập mừng suýt khóc, nằm bò trên chục cây gọi thảm thiết, “Chú ơi, cứu cháu với!”

Thảo nào nó thấy cái cây này quen quen, hóa ra ở ngay bên ngoài nhà họ Tần.

Tần Mãnh là gia thần trong phủ tướng quân, khỏe mạnh vô cùng, tinh thông kiếm thuật. Vì ông ta thường ngày thích uống rượu nên tướng quân hay sai nó đem rượu mạnh cực ngon tới cho ông ta uống đỡ thèm. Hôm nay nó chạy lòng vòng thế nào lại tới ngay trước cổng nhà ông ta.

“Ối dà, Thập, sao cháu lại trèo lên cây thế?” Tần Mãnh ngẩng lên, ngạc nhiên nhìn nó.

Nó biết bộ dạng mình lúc này khác hẳn dáng vẻ dịu dàng lễ phép mọi ngày, đành mặt dày làm bộ đáng thương kể lể, “Chú ơi, tên này chặn cháu giữa chợ định bắt cháu đi, cháu không chịu, hẳn đòi chặt tay cháu để trút giận.”

Câu này nửa trước là thật, nửa sau lại pha lẫn mấy phần giả dối, bởi nó thực không có mặt mũi nào kể rằng mình đã ra tay đánh người. Thấy Tần Mãnh bước ra, tên du hiệp đã nhảy từ trên cây xuống, nghe nó nói thì nổi điên lên, Tần Mãnh nghe nói cũng tức giận, cả hai chẳng nói năng gì đã rút kiếm ra.

Tần Mãnh hành lễ kiếm sĩ tỉ võ, tay du hiệp cũng nghiêm trang đáp lễ.

Người đương thời phần lớn đấu kiếm trên tiệc, giữa các gia thần với nhau, dù vậy cũng chẳng thiếu kẻ bị thương đổ máu. Giờ ngay giữa con ngõ hẹp, hai người đánh qua đánh lại mấy chiêu. Tuy Tần Mãnh tạm thời chiếm thế thượng phong, song trước khi trận đấu kết thúc, vẫn chưa thể phân thắng bại.

Thập nằm trên cây xem mà thót tim, chỉ sợ có người bị thương vì mình.

Keng một tiếng, hai thanh kiếm chém vào nhau, tia lửa bắn tóe ra. Tay du hiệp run rẩy, buộc phải lùi lại hai bước, nhưng gã lập tức chống kiếm xuống đất, gượng đứng vững, quát lớn một tiếng nhào tới, thế kiếm hung hãn đâm thẳng vào ngực Tần Mãnh.

Tần Mãnh lùi một bước, đường kiếm của gã bổ xuống, suýt nữa chém đứt đai lưng ông ta.

Giữa lúc sống chết cách đường tơ, Tần Mãnh xoay cổ tay, ra một chiêu cực nặng, gạt đốc kiếm đang chực đâm vào lưng mình ra. Tay phải gã du hiệp tê rần, thanh trường kiếm tuột khỏi tay bay về phía Thập, nó nghiêng đầu tránh, thanh kiếm ghim vào cành cây. Lúc này, gã đã không còn vẻ cợt nhả trêu chòng như lúc ở chợ nữa, chỉ nhìn chằm chằm thanh kiếm trên cây với vẻ mặt căng thẳng. Thập sợ gã nhất thời nghĩ không thông sẽ xông lên liều mạng với Tần Mãnh, đành quyết định xuống nước trước.

Nó vươn người ra lấy kiếm rồi leo từ trên cây xuống, sửa sang lại tóc tại quần áo, quỳ phục xuống đất, hai tay giơ thanh kiếm cao quá đầu, nghiêm trang nói, “Đức của người quân tử được ví như ngọc, đức của bậc tráng sĩ được ví như kiếm. Vừa rồi tôi thấy hiệp sĩ dùng kiếm lẫm liệt đường hoàng, mới hay mình mắt kém, cứ ngỡ hiệp sĩ là hạng xấu xa cướp đoạt con gái giữa phố, thực là hổ thẹn, mong hiệp sĩ bỏ quá cho!”

Tay du hiệp nghe Thập nói thì sững ra, nhận lấy kiếm đeo vào hông rồi thở hắt một hơi dài. “Đứng dậy đi! Một cô bé mà cũng nói được câu đức của bậc tráng sĩ được ví với kiếm, xem ra lời đồn người Tần thô lậu rõ là nhảm nhí.” Dứt lời gã giơ tay với Tần Mãnh một vái thật dài. “Chúc Độc thua rồi, xin hỏi tôn danh dũng sĩ."

Tần Mãnh cũng thu kiếm đáp lễ, “Tại hạ là Tần Mãnh, gia thần của tộc Ngũ nước Tần, vừa rồi so kiếm với dũng sĩ thực là sảng khoái, nếu dũng sĩ muốn, Tần mỗ có thể tiến cử với chủ nhân.”

“Tần huynh kiếm pháp siêu quần, tại hạ sao bì nổi. Lòng tốt của Tần huynh tại hạ xin nhận, song chí tại hạ không ở chỗ đó, tại hạ tự do tự tại quen rồi.”

Thấy gã từ chối, Tần Mãnh cũng không ép mà hào sàng cười nói, “Nếu dũng sĩ không vội lên đường, chi bằng vào nhà uống với Tần mỗ mấy chén, được không?”

Chúc Độc vuốt râu cười nói, “Tại hạ thích nhất là rượu, kiếm và người đẹp. Hôm nay kiếm bị đánh văng đi, người đẹp cũng không cầu được, chén rượu này không thể không uống.”

Tần Mãnh nghe vậy cười khà, vác cây kiếm nặng trịch lên vai, sang sảng nói, “Mời dũng sĩ!”

“Mời!” Gã du hiệp ngoái lại trừng mắt với Thập rồi tươi cười theo Tần Mãnh vào nhà.

Hai người họ vừa rồi còn sống mái với nhau, giờ đã thành bạn bè khăng khít, khiến Thập không khỏi bật cười khe khẽ, quay người lẳng lặng bỏ đi.

Về tới phủ tướng quân, từ xa nó đã trông thấy ông quản gia Tần Cổ lo lắng đi đi lại lại trước cổng.

“Ôi Thập, sao cháu về một mình vậy?” Ông quản gia kéo nó lại hỏi gặng.

“Sao ạ, Tư vẫn chưa về ư?” Giờ đến lượt nó cuống lên.

“Chủ nhân vừa gặp bệ hạ trở về, nghe con Tư nói có kẻ muốn giết cháu, bèn từ chối hết khách khứa đến viếng thăm, không kịp thay cả quần áo đã dẫn nó đi cứu cháu rồi.”

Nghe ông quản gia nói vậy, Thập mới biết hôm nay mình đã gây ra họa lớn. Nó định ra chợ tìm hai người kia, lại sợ họ về phủ không gặp được mình, đành quỳ trước cổng phủ đại tướng quân trở về. Nó đợi từ ban ngày đến tận hoàng hôn, tới khi trời tối hẳn, họ mới xuất hiện.

“Thập! Cậu không sao chứ? Về lúc nào vậy? Tướng quân lật tung cả chợ Tây lên mà không thấy cậu, sợ cậu bị người ta bắt đem ra ngoài thành, lại ra ngoài thành tìm, về sau gặp chú Tần tiễn tên xấu xa kia ra khỏi thành, mới biết cậu đã về nhà! Làm người ta lo chết đi được! Tên khốn ấy đánh cậu à? Có bị thương không?” Tư xông tới sờ khắp người nó.

Thập giữ tay Tư lại, rụt rè liếc tướng quân, cố ra vẻ bình thản đáp, “Mình không sao, không sây sát gì cả.”

“Vào đi!” Tướng quân nhìn nó, tuy vẻ mặt khó coi song cũng không tỏ ý tức giận.

Thập ngỡ rằng mình đã qua truông, bèn cười khì đứng dậy, xoa đôi chân quỳ đến mỏi nhừ, theo y vào thư phòng.

“Đứng đấy cho ta.” Tướng quân buông một câu bảo nó, rồi quay sang bảo Tư, “Ngươi ra cửa đợi, khi nào ta cho phép mới được vào.”

Tư đưa mắt nhìn Thập, lo lắng lui ra. Bấy giờ Thập mới thấp thỏm, không biết tướng quân định phạt mình ra sao.

“Tay hay chân?” Tướng quân rút một thanh trúc mới vót trên bàn, đi tới trước mặt nó, lạnh lùng hỏi.

Nó sững sờ, tới khi vỡ lẽ mới ấp úng đáp, “Chân ạ.” Đoạn tự giác vén xiêm lên, để lộ ra một đoạn bắp chân trắng muốt.

Bốp một tiếng, thanh trúc dài hơn một thước quật mạnh vào chân nó, đau đến mức nó không kìm được buột miệng kêu thét lên. Song tướng quân không hề ngừng tay, lại quật thêm phát nữa. Thanh trúc quật xuống, bắp chân như bị lửa thiêu, tới khi nhấc lên, lại như bị lột một lớp da. Thập kêu thất thanh, song tướng quân vẫn quật, nhát sau mạnh hơn nhát trước.

Thường ngày ở trong phủ Thập được chiều chuộng rất mực, chẳng hề bị tướng quân nói nặng câu nào. Hôm nay tuy mắc lỗi, song người bị một phen hoảng sợ cũng là nó kia mà! Nó vô cùng ấm ức, nước mắt cứ thế tuôn ra.

“Có biết vì sao hôm nay bị đánh không?” Tướng quân dừng tay, thốt ra từng chữ lạnh băng.

“Vì nô tỳ không nên... không nên để... chủ nhân tìm không thấy.” Nó thổn thức thút thít đáp.

Lại một cú quật nữa, đau đến mức nó ngạt thở, không khóc nổi, chỉ thấy chân vừa ướt vừa nóng, chắc chắn đã rách da. Khó khăn lắm nó mới lấy lại hơi thở, thấy tướng quân định đánh nữa, bèn khóc òa lên nức nở, cảm thấy mình đúng là người oan uổng nhất trong thiên hạ.

“Trận đòn hôm nay người phải chịu thay cho thầy Thái đã khuất. Ông ấy dạy ngươi bốn năm, lần nào gặp ta cũng khen không ngớt lời, nói người tài trí kinh người, lễ phép chu toàn. Hôm nay xem ra toàn là nói láo, rõ là lão thất phu chỉ biết lừa người!”

“Không, thầy không phải kẻ lừa đảo! Không phải thất phu! Không phải! Không phải! Không phải!”

“Vậy tài trí của người đi đâu cả rồi? Lễ phép vứt đâu hết rồi? Giữa đường giữa chợ ngang nhiên giở thói hung hăng đánh lộn gây chuyện, mấy năm nay ông ấy dạy ngươi thế à?” Tướng quân bỗng cất cao giọng hỏi. Rõ ràng kẻ bị đòn là Thập, song gương mặt y lại hằn rõ vẻ đau đớn.

Thập choáng váng đầu óc, thở không ra hơi, nhất thời không tìm được câu nào phản bác.

“Đức của bậc tráng sĩ được ví như kiếm, cứ ngỡ là hạng xấu xa. Ngươi tâng bốc hẳn rồi ám chỉ nếu hắn còn cố ý đeo bám cũng có nghĩa là tự nhận mình xấu xa. Kẻ nói ra những lời này và đồ hung hăng đánh lộn kia là một người thực à? Thầy Thái dốc hết tâm huyết dạy người làm người, nhưng người chỉ bắt chước được bề ngoài, thường ngày lễ nghĩa chu toàn là vờ vịt cho ai xem đấy?” Dứt lời, tướng quân ném thanh trúc đẫm máu trong tay xuống, bỏ đi thẳng.

Thập ngồi bệt dưới đất, gục mặt khóc òa lên, “Xin lỗi thầy, con xin lỗi...”

Trận đòn ấy làm chân nó rách toạc mấy chỗ, những chỗ không rách cũng sưng vù tím tái, nhìn rất đáng sợ. Trước kia hễ nó bị ốm, tướng quân sẽ cho thầy thuốc trong phủ tới chữa trị, song lần này y mặc kệ, cuối cùng vẫn là ông quản gia dấm dúi đắp cho nó ít thuốc lá cầm máu trị thương.

Thực ra nó hiểu nỗi khổ tâm của tướng quân. Có điều làm người hay chỉ làm bộ, vấn đề này thoạt nhìn thì đơn giản, nhưng thực hiện lại rất khó. Nó sinh ra đã không phải con gái nhà quý tộc, sâu thẳm trong lòng nó, hễ gặp phải việc không giải quyết được, phản ứng đầu tiên sẽ là lao vào đánh lộn.

Thiên hạ này vốn là cá lớn nuốt cá bé, giữa nước này với nước kia đã vậy, giữa người với người há chẳng phải thế ư.

Với một đứa ăn mày, nếu không có ai che chở cho thì nó đành phải tự bảo vệ mình, nếu không muốn thành kẻ bị ăn đòn thì phải vung nắm đấm lên, trở thành kẻ tấn công. Trước khi gặp thầy, đó là bí quyết sinh tồn mà nó rút ra được từ trong máu và nước mắt.

Song giờ đây tướng quân lại muốn nó rũ bỏ hoàn toàn cái tôi vốn có từ trong cốt cách, trở thành một A Thập mới, một A Thập học rộng lại lễ độ như y và thầy kỳ vọng.

Thập nghĩ ngợi suốt ba ngày ba đêm, ăn cũng nuốt không trôi, cuối cùng quyết định từ bỏ cái tôi tua tủa gai nhọn khoác bên ngoài lớp lớp vỏ cứng. Hiện giờ nó đã có một mái nhà, có người bảo vệ mình, có lẽ cũng đến lúc quên đi quá khứ rồi.

Nó đã nghĩ thông, song tướng quân vẫn không chịu gặp nó. Nó tới trước cửa thư phòng đợi, y bèn ngày ngày ở tiền sảnh bàn việc với các gia thần, nếu nó chờ trước cửa phòng ngủ, y bèn phái nô tỳ đuổi nó đi. Được hai hôm, ngay cả u già dạy dỗ nó bốn năm nay cũng bị y cho người đưa đi.

“Tư ơi, làm sao bây giờ? Tướng quân không chịu gặp mình nữa rồi.” Thập ngồi trong phòng thở dài thườn thượt, chẳng nghĩ được cách gì.

“Hay cậu đi tìm Hạnh Nữ ở mé Đông xem? Nghe nói hai hôm nay chị ấy đều ở bên tướng quân, Cậu đi nài nỉ chị ấy, nhờ chị ấy nói đỡ cho trước mặt tướng quân vậy?”

“Hạnh Nữ á? Thị thiếp người Việt mà Bách Lý đại phu đưa tới năm kia à?” Thập cũng láng máng nhớ cái tên này, hôm ấy Bách Lý đại phu đưa mười nữ nhạc vào phủ, hai năm nay đã bị tướng quân chia tốp năm tốp ba đẩy đi gần hết, chỉ giữ lại một mình người nọ.

“Đúng chị ấy đấy. Mình nghe ông nói, từ khi chủ mẫu trong phủ qua đời, Hạnh Nữ là người ở bên cạnh tướng quân lâu nhất đấy. Mai dùng cơm sáng xong, bọn mình đi nhờ chị ấy nhé.”

“Ừm, đành vậy thôi.”

Sáng hôm sau, ăn sáng xong, hai đứa kéo nhau đến khu nhà mé Đông. Hạnh Nữ vận áo ngắn váy lụa từ trong phòng bước ra, trông thấy hai đứa thì ngẩn người, rồi tươi cười bước tới đón.

Thập và Tư hành lễ rồi ngỏ lời nhờ vả, Hạnh Nữ trầm ngâm quan sát Thập một lượt, đoạn lấy trong nhà ra một giỏ trúc đưa cho nó, “Mấy hôm nay thấy sắc xuân phơi phới, ta hơi thèm măng trúc ở quê, nếu em đào được cho ta một mụt, ta sẽ xin chủ nhân cho em.”

Măng trúc, chính là mầm trúc non. Tuyên Vương từng dùng cỏ hương bồ và măng trúc làm món ăn ban cho chư hầu, tuy Thập chưa từng ăn, song chắc cũng là vật hiếm thấy.

“Đi đâu mới tìm được măng trúc ạ?” Nó đón lấy giỏ trúc hỏi.

“Nước Việt đâu đâu cũng thấy trúc xanh, còn đất Tần, ta nghe nói chỉ cánh rừng phía Nam mới có.” Hạnh Nữ nhếch môi cười, nhìn chằm chằm Thập như chim ưng săm soi con mồi.

“Được.” Thập nhận lời rồi cùng Tư lui ra. Tư lo lắng hỏi, “Cậu định đến cánh rừng phía Nam tìm măng trúc thật à? Nghe nói ở đó nhiều dã thú, nguy hiểm lắm.”

“Mình sẽ đi vào giữa trưa, chắc không hề gì đâu, hiềm nỗi măng trúc mọc dưới đất, chắc sẽ mất công đào.”

“Vậy mình đi cùng cậu.”

“Cậu đừng làm loạn nữa, cứ ở yên trong phủ đợi mình về. Mình không ngại tìm măng trúc, song với tính tình của tướng quân, chưa chắc thị thiếp đã khuyên nổi đâu.” Nữ chủ nhân của phủ tướng quân vốn là con gái Trần hầu, thân phận tôn quý đã đành, dung mạo nghe nói cũng thuộc hàng xuất chúng trong số con gái nước Trần. Hạnh Nữ tuy có mấy phần nhan sắc song cũng chẳng lấy gì làm nổi trội, dù tướng quân chỉ giữ lại mình cô ta nhưng lờicô ta nói có sức nặng không? Thập không khỏi nghi ngờ.

“Chuyện đó cậu khỏi lo, cậu có thấy con bướm vàng chị ấy đeo ở thắt lưng mới rồi không?”

“Ừm, trông đẹp phết.”

“Cái đó gọi là bướm mê. Nghe nói con gái nước Việt vừa mắt ai sẽ ra đồng hoang tìm một loại sâu, nuôi trong tráp trang điểm, ngày ngày cho ăn lá cỏ mê. Tới khi sâu hóa thành bướm, họ sẽ đeo lên mình. Như vậy người họ yêu không bao giờ rời khỏi họ nữa.” Tư úp mở nói, vẻ bí hiểm.

Nghe vậy Thập xỉa trán nó một cái đau điếng, cười nói, “Con bé này, nghe đâu được mấy chuyện bậy bạ ấy thế, cẩn thận tướng quân biết lại đánh cho một trận bây giờ.”

“Mình cũng nghe các chị hầu khác kể thôi, bằng không tại sao tướng quân không giữ lại ai mà chỉ giữ mình chị ấy?”

“Từ khi về thành Ung đến nay, tướng quân đã nhận được ít nhất hai ba chục cô hầu rồi, giờ chỉ giữ lại một người mà còn bị xì xào bàn tán, khổ quá đi mất.”

“Làm sao, cậu xót à?” Tư nghiêng đầu chớp mắt nhìn Thập, thấy nó giơ tay định đánh mới cười khanh khách chạy đi.

“Ranh con chết tiệt, đừng hòng chạy.” Thập đuổi theo được vài bước thì khựng lại, vết thương ở chân vẫn chưa lành hẳn lại nhói lên.

Thấy vậy Tư vội vã chạy trở về, cúi xuống vén xiêm Thập lên, lo lắng hỏi, “Vẫn đau lắm à? Đều tại mình cả...” Thập bèn gập ngón tay trỏ cốc mạnh một cái lên đầu nó, cáu kỉnh mắng, “Ai bảo cậu trêu mình!”

“Ai da!” Tư dẩu môi đứng dậy xoa đầu rồi lại ríu rít dặn dò, “Về đi, mình bôi thêm thuốc cho cậu, khi nào khỏi hẳn mới được đi hái măng trúc, biết chưa?”

“Biết rồi ạ, chị Tư.”

Sáng hôm sau, nhân lúc Tư dậy rửa mặt, Thập len lén xách giỏ trúc lẻn ra khỏi phủ. Lúc này bầu trời trong veo xanh ngắt đầy những đóa mây trắng muốt như hoa, vầng dương vàng rực ló ra cuối chân trời, ngắm nhìn mảnh đất mênh mông vừa thức tỉnh.

Trong rừng cây ban sớm lặng phắc như tờ, sương mù bảng lảng lẩn khuất giữa những thân bách cổ thụ chọc trời, như lụa mỏng vắt trên cành, song còn trắng và trong suốt hơn lụa. Thập hít thở không khí trong lành trong rừng, cố tìm một búp xanh chỉ mọc ở vùng sông nước đất Việt giữa tiếng chim kêu ríu rít.

Mất mấy canh giờ, nó hái được khá nhiều quả mọng ngọt lịm, song mãi vẫn không thấy tăm tích măng trúc đâu cả. Cảm giác dễ chịu và mới mẻ ban đầu đã bị mệt mỏi và thất vọng xua tan hoàn toàn, nó lê đôi chân cứng đờ đi lòng vòng trong rừng mãi, tới hoàng hôn vẫn chẳng thấy bóng cây măng trúc nào.

Thấy trời sắp sập tối, nó đành quay gót trở về.

Chiều buông là lúc âm dương giao thoa, mãnh thú trong rừng nghỉ ngơi suốt một ngày bắt đầu rục rịch ra ngoài kiếm ăn. Nó vừa đi vừa dùng cành cây đập vào thân cây hòng cảnh cáo những con thú đi kiếm ăn lúc hoàng hôn. Lẽ nào Hạnh Nữ định lừa nó? Hằng ngày nó cũng chẳng qua lại gì với chị ta, thỉnh thoảng có chạm mặt, chị ta cũng lánh đi rất nhanh, dường như không ưa nó cho lắm. Lẽ nào chị ta lấy cớ đào măng trúc để từ chối khéo nó sao?

Đang ngờ vực, Thập ngẩng đầu lên, trông thấy một đám mây đen đặc từ cuối chân trời bay đến, mang theo tiếng sấm ì ùng, chim chóc trong rừng nhao nhao bay qua nó, mưa lớn sắp kéo đến rồi. Nó vội vàng guồng chân chạy ra bìa rừng, song chưa đầy một khắc, nước mưa trắng xóa đã từ tán cây trút xuống như một bức rèm nước, làm nó ướt sũng. Nó lau nước mưa trên mặt, nghiến răng đi tiếp, vết thương ở chân vừa rồi chạy nhanh đã toác ra, giờ bị ngấm nước mưa đau rát.

Bất luận thế nào, hiện giờ quan trọng nhất là ra khỏi rừng, bằng không tới khi sập tối, dù không bị mãnh thú ăn thịt thì dầm mưa chịu lạnh suốt đêm cũng sẽ chết cóng.

Cuối cùng khi nó tập tễnh chui ra khỏi rừng, mặt đã dính bết tóc tai và lá khô, quần áo cũng bị cành cây cào rách mấy chỗ, dán sát vào mình.

Nó ngẩng lên uống mấy ngụm nước mưa, thầm nhủ may mà vừa rồi chạy nhanh, bằng không mưa tạnh biến thành sương mù bốc lên thì có đi đến sáng cũng không ra khỏi rừng được.

Phía Nam thành Ung có rất nhiều mồ mả, ít dân cư, Thập vừa lạnh vừa mệt vừa đói, đi mãi chẳng thấy nhà dân nào để ghé vào xin ít nước nóng. Dầm mưa đi hơn nửa canh giờ, nó đã mệt lử như chó nhà có tang, chỉ thiếu điều thè lưỡi ra thở. Đúng lúc ấy, giữa màn mưa bụi mịt mờ đằng trước chợt sáng lên mấy ngọn đèn.

Thập mừng như điên, vội chạy ào tới. Nhưng tới trước căn nhà nhỏ, nó lại bị khóm trúc xanh rì ngoài sân thu hút.

A, cuối cùng cũng tìm được bọn mi rồi...

Nó thầm thở dài, những mệt mỏi đói khát tức thì tan biến, chẳng kịp nghĩ ngợi gì, vội cầm mảnh gỗ lên lúi húi đào đất dưới gốc trúc. Chẳng biết là nó may mắn hay trời thương bụi trúc nọ, đào được hai hố thì tìm thấy một mụt măng to bằng bàn tay, nó bèn thận trọng bẻ bỏ vào giỏ.

Tìm được măng rồi, nhưng nhìn cảnh mặt đất bị xới tung, nó chẳng dám gõ cửa nhà nọ nữa, đành lấy một vuông khăn thêu đáng tiền nhất trên người buộc lên cánh cửa, tự cho rằng mình đã tiền trao cháo múc.

Lúc này, bóng người hắt lên cửa sổ là ai, trong quá khứ xa xăm và tương lai sắp tới có liên quan gì tới mình, Thập hoàn toàn không biết. Có lúc số mệnh thích trêu đùa người ta như thế đấy, chỉ cách một cánh cửa mà nó đã bỏ lỡ cơ hội quen biết người nọ...

Khi nó đeo giỏ trúc về tới cổng thành Nam, cổng chính ở giữa đã đóng lại. Trên lầu thành, hai tốp lính canh đang đổi ca lần cuối trước khi đêm xuống.

Nó vội vắt chân lên cổ mà chạy, cuối cùng cũng kịp chen vào thành trước khi cánh cổng phụ hai bên khép lại. Thành Ung đã về đêm, đèn đuốc sáng trưng, nó chẳng hơi đâu quan tâm tới bộ dạng nhếch nhác của mình, hớt hải chạy vội về phủ. Mở cổng cho nó không phải Tư, mà là ông quản gia, Nhìn bộ dạng nó, ông thở dài, ánh mắt như muốn ám chỉ gì đó.

“Cho vào đây!” Giọng tướng quân vang lên rành rọt sau cánh cổng.

Thập thót tim, run bắn lên.

Ông quản gia nhắm nghiền mắt, bất đắc dĩ mở cổng. Tướng quân vận áo nho sĩ màu xanh, chắp tay sau lưng đứng trong cổng, bên cạnh là Hạnh Nữ thướt tha đang nhoẻn miệng cười.

“Đây là câu trả lời người dành cho ta đấy à?” Tướng quân đau xót nhìn nó, đôi mày kiếm cau lại. Nhìn nụ cười của Hạnh Nữ, Thập hiểu ra ngay mình đã trúng kế chị ta, nói gì mà nhớ vị măng trúc quê nhà, chẳng qua là muốn tướng quân trông thấy dáng vẻ người không ra người quỷ không ra quỷ của nó hiện giờ thôi. Chị ta vốn chỉ mong thấy nó lem luốc đất cát, không ngờ cơn mưa lớn lại giúp chị ta được xem một màn đặc sắc hơn. Bởi thế, Hạnh Nữ không giấu nổi nụ cười trên mặt.

Thập không trả lời tướng quân mà đi thẳng tới trước mặt Hạnh Nữ, quỳ xuống đất, giơ cao giỏ trúc, nghiêm trang nói, “Măng trúc ở đây, mong thứ thiếp thực hiện lời hứa hôm qua!”

“Ngươi đã nói gì với con bé?” Giọng tướng quân bình thản, không gợn mảy may cảm xúc, song Hạnh Nữ lại sợ đến nhũn cả chân, quỳ sụp xuống đất, ấp úng hồi lâu không nói nên lời.

“Thứ thiếp nói mình thèm măng trúc mùa xuân ở quê nhà, còn hứa rằng nếu nô tỳ đào được măng trúc trong cánh rừng phía Nam, sẽ nói đỡ cho nô tỳ trước mặt chủ nhân.”

“Ngươi tự cút đi hay để ta sai người lôi ra ngoài?” Tướng quân cúi xuống hỏi Hạnh Nữ đang quỳ dưới đất.

“Chủ nhân, tiện tỳ biết sai rồi, xin người đừng đuổi tiện tỳ đi mà!” Hạnh Nữ tái mét mặt khóc òa lên, lê đầu gối tới ôm chặt lấy chân tướng quân.

“Lôi ra ngoài đi!” Tướng quân thở dài, Hạnh Nữ lập tức bị hai người hầu khiêng ra khỏi cổng.

“Hôm qua bé muốn nhờ cô ta nói giúp chuyện gì?” Tướng quân hỏi.

Thập lấy lại bình tĩnh, quỳ thẳng người dậy, “Nô tỳ muốn nhờ chị ấy chuyển lời với chủ nhân rằng, A Thập thuở xưa hung hăng đánh lộn cũng chỉ để sinh tồn. Giờ giữ lại bản tính hung hăng, là đề phòng lỡ có ngày chọc giận chủ nhân bị vứt bỏ thì còn quay lại làm ăn mày được.”

“Bé sợ ta sẽ vứt bỏ bé ư?” Tướng quân ngồi xuống trước mặt nó, vén mớ tóc ướt bết vào trán nó lên.

“Chẳng phải chủ nhân không cần nô tỳ nữa ư?” Thập cắn môi nhìn y, mắt đã lấp loáng ánh lệ, “Hôm nay người đợi ở đây, chẳng phải để chứng thực tội vô lễ của nô tỳ, rồi... yên tâm đuổi nô tỳ đi à?”

“Bé con nghĩ thế thật sao?” Tướng quân nhìn sâu vào mắt nó, “Xem ra bình thường ta đối tốt với bé quá, nên mới lạnh lùng có mấy ngày mà bé đã làm cho mình thương tích đầy người để chỉ trích ta.”

“Hôm nay là ngày thứ bảy rồi!” Y vừa dịu giọng, Thập lại càng khóc dữ hơn. Mấy năm trước, dù nó có bôi sơn vào áo y hay uống rượu say nôn vào người y, y cũng chưa bao giờ mắng nhiếc nó nặng lời. Vậy mà lần này, suốt bảy ngày y chẳng buồn nói với nó nửa câu.

Tướng quân thở dài, nhẹ nhàng bế nó lên: “Ta đâu có vứt bỏ bé, chẳng qua ta cần thời gian để nghĩ thông một chuyện thôi.”

“Chủ nhân... muốn... nghĩ thông chuyện gì?” Nó nằm phục trên vai y như muốn trút ra hết bao nhiêu nước mắt tích tụ mấy ngày qua.

“Ta đang nghĩ phải làm sao mới có thể khiến cô bé hiểu ra rằng, bé không còn là một đứa ăn mày nữa mà đã có gia đình của riêng mình rồi. Thập à, bé đừng đề phòng nữa, nếu bé sợ thì để ta bảo vệ bé tới khi bé đến tuổi cài trâm gả chồng, được không?”

Trên đời có những gương mặt khiến người ta cảm thấy hạnh phúc ấm áp, tựa hồ hết thảy đau khổ đều có thể được an ủi, được chữa lành. Trước một gương mặt như thế, nỗi ấm ức trong lòng nó thoắt chốc đã tiêu tan. “Nô tỳ không lấy chồng đâu.” Nó ngồi trên cánh tay tướng quân, mặt mũi tèm lem nước mắt.

“Làm gì có con gái nhà ai không lấy chồng?” Y khẽ cười, bế nó đứng dậy, “Lớn nhanh quá đi mất, có khi mấy năm nữa ta không bế nổi bé đâu.”

“Nô tỳ không lấy chồng đâu, nô tỳ đi theo tướng quân cả đời.” Nó ôm chặt lấy cổ tướng quân, nếu được y bế mãi thế này, nó chỉ mong mình đừng bao giờ lớn lên nữa.

“Nếu bé không lấy chồng, thì về sau lại chăm sóc cho lão già như ta nhé?” Tướng quân vỗ lưng nó cười nói.

“Vâng ạ!” Nó thận trọng gật đầu, ghi khắc vào lòng, coi như lời thề quan trọng nhất trong đời.

Báo cáo nội dung xấu