Trúc Thư Dao - Tập 1: Nước Tần - Chương 04
VẰNG VẶC TRĂNG TREO
Thấy Thập dốc sức phấn đấu như thế, Tư thường lắc đầu quầy quậy, tuy ngoài miệng không ủng hộ song lại lén lút lấy thêm cho bạn nhiều đồ ăn mỗi tối hơn. Thập thường trêu Tư là con chuột to trong nhà bếp phủ tướng quân, còn mình là con chuột nhỏ được Tư nuôi.
Từ sau đêm ấy, Thập bắt đầu miệt mài đọc sách viết chữ bất kể sớm khuya, ngoài chữ Tần ra, còn học thêm chữ các nước Tề, Lỗ, Tấn, Vệ. Sách vở trong thư phòng, bất luận do ai viết, viết để làm gì, nó đều học thuộc làu. Tướng quân hẹn gặp môn khách, bất luận tài học cao thấp, nó đều hầu hạ bên cạnh, nghiền ngẫm kỹ từng lời của họ.
Thấy Thập dốc sức phấn đấu như thế, Tư thường lắc đầu quầy quậy, tuy ngoài miệng không ủng hộ song lại lén lút lấy thêm cho bạn nhiều đồ ăn mỗi tối hơn, Thập thường trêu Tư là con chuột to trong nhà bếp phủ tướng quân, còn mình là con chuột nhỏ được Tư nuôi.
Cứ như thế, lại một năm trôi qua, chớp mắt đã tới năm thứ ba mươi bảy đời Chu Kính vương.
Thập đã cao vọt lên hơn hẳn Tư, cao hơn cả đám con trai cùng trang lứa. Sáng sớm rửa mặt, nhìn gương mặt ngày càng rạng rỡ in bóng dưới nước, cô không khỏi mừng thầm.
Thực ra mấy năm nay không chỉ có Thập thay đổi, mà vào năm thứ ba mươi lăm đời Chu Kính vương, Ngũ Phong cũng đã thăng tới chức thượng tướng quân. Nửa năm trước, Tần bá lại ban cho y đất Khuê ở miền Tây làm thái ấp. Bởi vậy, hiện giờ thỉnh thoảng y sẽ rời thành Ung đi tuần tra biên ải, có lúc còn ở lại thái ấp của mình hơn tháng trời.
Mấy hôm trước có binh lính đưa tin tới, nói rằng ngày mai tướng quân sẽ về.
“Này Thập, mau ra đây, tướng quân về rồi!” Tư ơi ới gọi ngoài sân.
“Cậu đi trước đi, mình ra liền đây!”
“Nhanh lên nhé!”
Tướng quân về phủ, tất cả mọi người trong phủ đều phải ra ngoài cổng đón. Thập vội vàng đứng dậy thu dọn sách vở, sơ ý giẫm lên tóc mình. Khác với Tư, từ nhỏ cô đã không thích buộc túm tóc lên, thường ngày cứ thả xoã tóc chạy đi chạy lại trong phủ. Một lần, tướng quân uống rượu với các đồng liêu, trở về say khướt, nắm mái tóc của cô trong tay cười nói, “Ai bảo tóc gái Sở đẹp, tóc Thập nhà ta mới là đẹp nhất trên đời.” Dứt lời liền lăn ra ngủ vùi. Người bấy giờ coi tóc đen là đẹp, nhiều phụ nữ quyền quý thầy nữ tỳ nhà mình tóc đẹp sẽ sai người cắt đi, làm thành tóc giả đội lên để lấy lòng chồng. Ngoài việc học hành ra, tướng quân rất hiếm khi khen ngợi Thập, cô cũng chẳng biết sau khi tỉnh lại y có còn nhớ lời mình nói không, song từ đó trở đi, cô không cắt tóc nữa. Tóc dài quá gối cũng có khi bất tiện, giống như vừa nãy, cô đứng lên thì giẫm phải tóc mình, đau điếng người. Thấy người ở sân sau đã kéo đi đón tướng quân hết, cô càng sốt ruột, đành một tay xoa đầu, một tay xách gấu váy vội vàng chạy ra ngoài, mới tới cửa đã đâm sầm vào lòng một người đang đi tới.
Là y...
Cô mừng rỡ, đang định quỳ xuống hành lễ thì đã bị nắm lấy hai cánh tay nhấc lên cao, “Đây là A Thập nhà ta, so với Thi Di Quang nước Việt mà người nói thì sao?” Nói rồi, Ngũ Phong buông nhẹ hai tay ra, cô lại đứng xuống đất. Lúc này, phía sau lưng y bước ra một thanh niên, vận áo dài đen, lưng đeo xâu bạch ngọc chạm con ly, dáng người cao ráo, phong thái như rồng phượng, có vẻ là quý tộc nước Tần.
“Lợi cũng chưa gặp nàng gái Việt đó bao giờ. Chỉ nghe người miền Nam kể rằng, mấy năm trước Việt vương Câu Tiễn tặng cho Ngô vương Phù Sai một mỹ nhân, đẹp đến mức khiến hoa cũng phai sắc thắm. Ngô vương yêu chiều nàng ta vô hạn, nói gì nghe nấy. Xuân năm ngoái, Ngô đánh Tề, nghe nói cũng liên quan tới nàng ta.” Vừa nói người nọ vừa âm thầm quan sát Thập, ánh mắt đầy tò mò và kinh ngạc.
Ngũ Phong tủm tỉm cười đi đến trước án thư, nghiêng người nhường ghế chủ tọa cho người nọ.
“Vậy công tử cho rằng, năm ngoái Ngô vương đem quân đánh Tề có phải kế hay không?”
Nghe tướng quân gọi người nọ là công tử, lại nhường ghế chủ tọa, Thập hiểu ra ngay, người thanh niên trước mặt nhất định là con thứ tư của Tần bá mà tướng quân thường nhắc tới - công tử Lợi. Hôm nay nghe họ nói chuyện, e rằng quan hệ giữa đôi bên không chỉ là chủ tớ bình thường.
Ngũ Phong vừa dứt lời, công tử Lợi đã đáp ngay, không mảy may suy nghĩ, “Ngô vương Phù Sai xưa nay anh dũng thiện chiến, năm ngoái giao chiến với quân Tề ở Ngải Lăng, ta nghe mật thám kể lại rằng, quân Ngô vốn đã núng thế, song Ngô vương đích thân dẫn ba vạn tinh binh, chia ra ba cánh, khua chiêng làm hiệu, xé đại quân Tề ra làm ba, cuối cùng thừa dịp các cánh quân Tề không tiếp ứng được cho nhau, rối loạn cả lên thì ào ào xông tới chém giết, đánh bại mười vạn quân Tề. Sau cuộc chiến, nghe nói chỉ riêng chiến xa đã thu được tám trăm cỗ.” Rõ ràng công tử Lợi hết sức thán phục tài cầm quân của Ngô vương Phù Sai trong trận này, tán tụng luôn miệng. Nếu công tử Lợi không nói quá thì Ngô vương đánh bại mười vạn quân Tề, thực xứng với hai chữ “kiêu dũng”.
Nghe công tử Lợi nói xong, Ngũ Phong lặng thinh không đáp. Thập thắc mắc ngẩng lên nhìn y, chỉ thấy y nhíu mày nhìn công tử Lợi hồi lâu mới nhận xét, “Ấy là cái dũng của kẻ thất phu thôi, Phù Sai còn kém Hạp Lư cha mình xa lắm.”
Lời Ngũ Phong như tạt một gáo nước lạnh vào công tử Lợi đang kích động, hắn tắt hẳn nụ cười, gượng gạo đáp, “Sao tướng quân lại nói vậy? Nước Ngô thắng trận Ngải Lăng, thu được một lượng lớn vàng lụa của Tề, Ngô vương hào phóng, lại đem tám trăm cỗ xe, ba nghìn thủ cấp lính mặc giáp thu được tặng cả cho nước Lỗ để kết thành đồng minh*. Sau cùng mấy nước nhỏ như Tống, Vệ cũng lần lượt tỏ ý quy phục nước Ngô. Hiện giờ Ngô đã thành nước mạnh, đủ sức tranh ngôi bá chủ thiên hạ với hai nước Tấn, Sở rồi. Tướng quân coi thường Ngô vương như vậy có phải vì trước kia ông ta đã xử phạt Ngũ Tử Tư, chú họ ngươi, nên ngươi cho rằng chiến thắng Ngải Lăng của Ngô vương chưa đủ vang danh thiên hạ chăng?” Dứt lời công tử Lợi mím chặt môi, mặt đỏ gay. Bên kia, Ngũ Phong thấy công tử Lợi nhắc tới Ngũ Tử Tư cũng biến sắc mặt.
Hai người lẳng lặng nhìn nhau, không khí trong phòng bỗng chốc căng thẳng hẳn.
Thập đứng dậy tới bên cạnh công tử Lợi rồi quỳ xuống, mượn cớ nhóm lửa, cố ý gõ que cời bằng đồng vào vách lò, rồi lại cời cho than trong lò nổ lách tách.
Quả nhiên công tử Lợi nghe tiếng nổ bèn quay lại nhìn cô, cô không hề hốt hoảng quỳ xuống nhận tội, mà chỉ quỳ ngay ngắn, thẳng lưng lên, nhìn thẳng vào hắn.
Công tử Lợi nhìn cô hồi lâu rồi bỗng thở hắt một hơi dài, cả người thả lỏng, vái Ngũ Phong một vái, “Lợi thất lễ, mong tướng quân bỏ quá cho!”
Ngũ Phong nhìn cô rồi vái lại đáp lễ công tử Lợi, “Là hạ thần thất lễ, không nói rõ với công tử. Thần cho rằng Tề là nước lớn, lại cách Ngô rất xa, bất luận thắng thua, mấy phen giao chiến này cũng làm hao tổn quân tinh nhuệ của Ngô. Huống hồ, đối với Ngô, kẻ địch lớn nhất hiện giờ không phải Tề, cũng không phải Tấn và Sở, mà là một kẻ Phù Sai vẫn luôn lơ là bỏ qua.”
Công tử Lợi hơi rướn người tới trước, gặng hỏi, “Là Việt vương Câu Tiễn ư?”
Bấy giờ Ngũ Phong mới cả cười, giơ tay cung kính đáp, “Công tử sáng suốt! Phù Sai thả Câu Tiễn về nước, rõ là thả hổ về rừng, Câu Tiễn đã chịu đựng được điều mà người khác không thể chịu được, ắt lòng ôm chí lớn. Trong vòng mười năm tới, Ngô và Việt nhất định sẽ giao chiến”
Công tử Lợi nghe vậy gật đầu tán đồng, “Vậy xem ra mỹ nhân Thi Di Quang kia cũng là một con cờ ghê gớm mà Câu Tiễn cài cắm. Thật tội cho Ngô vương còn hết sức tin tưởng rằng Câu Tiễn đã thần phục, chẳng những thả hổ về rừng mà còn tặng xe ngựa lương thực nữa.”
“Công tử hiểu được là tốt rồi. Đại trượng phu không thể chìm đắm trong hương son phấn, đàn bà chẳng qua là đồ vật để thưởng ngoạn lúc nhàn rỗi thôi, chớ nên hết lòng hết dạ.”
“Lợi biết rồi.”
Về sau, hai người còn nói những gì, Thập không nghe lọt tai nữa, trong đầu cứ văng vẳng một câu: “Đàn bà chẳng qua là đồ vật để thưởng ngoạn lúc nhàn rỗi thôi, chớ nên hết lòng hết dạ.”
Bấy giờ cô không hiểu được thâm ý trong lời nói của Ngũ Phong, chỉ cảm thấy nước Tần giáp với Tây Nhung, Khương Khương, dân chúng phóng khoáng cởi mở hơn các nước Tấn, Tề, Lỗ phía Đông nhiều. Lễ pháp cũng không ràng buộc nghiêm ngặt với con gái, tuy địa vị của nữ không bằng nam, nhưng có thế nào cũng không đến mức chỉ như đồ vật. Sao hôm nay tướng quân lại nói ra những lời hồ đồ như vậy?
Hai người còn trò chuyện hơn một canh giờ nữa, tới khi mặt trời lặn, công tử Lợi mới đứng dậy cáo từ. Tướng quân tiễn chân ra tận ngoài phủ.
“Hôm nay tướng quân đi xe ngựa vất vả, hẳn là mệt lắm rồi, Lợi cáo từ trước, hôm khác lại tới xin tướng quân chỉ giáo.” Công tử Lợi nghiêm trang hành lễ, lúc ngẩng lên còn liếc trộm Thập rồi mới quay người bước lên xe.
Ngũ Phong nhìn theo tới khi xe ngựa đi khuất rồi tươi cười nắm tay cô vào trong phủ, “Chưa đầy nửa năm mà bé con nhà ta lại cao thêm rồi, hai năm nữa e là ngưỡng cửa phủ tướng quân này sẽ bị người ta giẫm nát mất thôi. Mười lăm tuổi cập kê, bé không tránh được đâu. Để ta nghĩ kỹ xem tổ chức lễ cài trâm cho bé thế nào.”
“Sao tướng quân lại nói chuyện này rồi! Nô tỳ không hứa hôn, cũng không lấy ai hết. Nam nhi trên đời đâu còn ai sánh nổi tướng quân, nô tỳ sẽ ở đây cả đời hầu hạ tướng quân, không đi đâu hết.” Cô dừng bước, nhìn người đàn ông đứng sừng sững như một quả núi trước mặt, quả quyết đáp.
“Hầu hạ ta ư? Ha ha ha...” Ngũ Phong phá lên cười, nhấc bổng cô lên, “Bé con biết được bao nhiêu trang tài tuấn trong thiên hạ rồi? Mới bằng ấy tuổi mà mạnh miệng thế à, nếu lão già này tin thật, sau này bé chớ có hối hận đấy”
Ngũ Phong thường tự xưng là lão già với cô, song nhìn gương mặt tuấn tú của y, cô thực sự chẳng thấy già đâu cả.
“Tướng quân thích tự xưng là lão già thì cũng đừng coi nô tỳ như trẻ con nữa chứ, nô tỳ lớn rồi mà!”
“Thế à!” Ngũ Phong khom người quan sát cô một lượt từ trên xuống dưới rồi trêu, “Ừ, lớn thật rồi, ta phải bắt đầu tìm chồng cho bé thôi.”
“Tướng quân...” Cô thẹn quá hóa giận, hất tay y ra định bỏ chạy, song Ngũ Phong nắm chặt tay cô lại, cười nói, “Có điều, với xuất thân hiện giờ của bé, muốn lấy một nhà tử tế e rằng hơi khó, hay là bé cũng nhập vào tộc Ngũ theo ta đi, lấy họ Mị nhé?”.
Lời này của tướng quân quá đột ngột khiến cô nhất thời ngẩn ra. Trên đời có vô khối kẻ không tộc không họ, thậm chí nhiều người đến tên còn chẳng có, “Tộc họ” đối với một thường dân là ân sủng lớn bằng trời.
“Thường ngày bé nhanh mồm nhanh miệng lắm mà, sao lại ngẩn ra thế? Đi nào, vào trong rồi nói!”
Lúc này bên ngoài trời đã tối, Thập thắp đèn trong phòng ngủ rồi cố nén kích động, ngoan ngoãn quỳ xuống trước mặt Ngũ Phong. Dưới ánh đèn, trông y hơi mệt mỏi, rõ ràng đã nói mai mới về mà hôm nay về rồi, chắc hẳn đã phải ra roi thúc ngựa chạy suốt đêm.
“Thập này, bé có biết vì sao Ngô lại đánh Tề không?” Tướng quân không nhắc tới chuyện vào tộc, mà nhắm nghiền mắt lại, hỏi về việc quân sự và chính trị của hai nước Ngô, Tề.
Tuy Thập cho rằng chiến tranh là việc giữa đàn ông với nhau, không nên quy tội cho một người con gái, song ngoài miệng vẫn đáp, “Chẳng phải công tử Lợi đã nói là do Việt vương lệnh cho nàng Thi Di Quang cố tình xúi giục đấy ư?”
“Cô ta tuy đổ thêm dầu vào lửa, nhưng kẻ xúi giục thực sự lại là người khác.”
“Ai vậy? Là người Việt, người sở hay người Tấn?” Cô tò mò hỏi.
“Đều không phải, là một người Vệ tên Đoan Mộc Tứ.” Ngũ Phong mở mắt.
“Đoan Mộc Tứ là ai? Sao có thể thuyết phục Ngô vương kéo quân đánh Tề được?”
“Đoan Mộc Tứ vì muốn dập tắt lửa chiến tranh giữa Tề và Lỗ mà đã một mình đi khắp bốn nước du thuyết. Trong thư phòng ta có báo cáo của mật thám, ngày mai bé đọc sẽ hiểu ngay tình hình trong chuyện này.”
“Thập chỉ là một nô tỳ, sao dám xem báo cáo quân sự? Không được, không được, nếu để người ngoài hay biết, e rằng sẽ bị dị nghị, bất lợi cho tướng quân.”
“Không sao, ta đã bảo bé xem được thì bé không phải ngại. Bé bề ngoài yếu đuối song tâm trí kiên định, xử sự quả quyết, chỉ tiếc lại là phận nữ, bằng không với tư chất của bé, chỉ cần bồi dưỡng thêm chút ít, thừa sức làm một trí sĩ trong nhà đại phu. Hôm nay ta cho bé nhập tộc Ngũ, e rằng sau này bé chỉ có thể làm môn khách của tộc Ngũ mà thôi.”
Hiện giờ uy quyền của nhà Chu chẳng còn như trước, các nước trong thiên hạ chiến loạn liên miên, dân chúng lầm than. Trong mắt đám công khanh quý tộc, mạng người chỉ như cỏ rác, nhưng có hai loại người ngoại lệ, một là trí sĩ, hai là kiếm sĩ.
Trí sĩ dựa vào tài học và mưu lược để phục vụ chủ nhân; còn kiếm sĩ dựa vào lòng trung nghĩa và kiếm thuật để lấy lòng chủ. Hai hạng người này dù xuất thân thấp hèn, cũng có thể được mọi người tôn kính. Dĩ nhiên điều này chỉ dành cho đàn ông, chứ con gái nhà thường dân được làm thị thiếp nhà quyền quý đã là vinh dự tày trời. Giờ đây Ngũ Phong so sánh cô với trí sĩ, khiến nhiệt huyết bừng bừng sôi sục trong lồng ngực cô, bốc cả lên đầu. Cô vội đứng dậy, trang nghiêm hành đại lễ dập đầu quỳ bái, “Thập tạ ơn tướng quân!”
“Đứng dậy đi, tộc Ngũ là hậu duệ của Đế Chuyên Húc, lấy họ Mị, bé còn nhỏ chưa đặt tên chữ được, vẫn lấy tên “Thập nhé, gọi là Mị Thập đi! Ngày mai ta sẽ bảo quản gia dựng cho bé một khu nhà riêng, bé không phải chung với các nô tỳ nữa. Muốn cười thì cười đi, đừng nghiến răng nữa, trông buồn cười lắm!” Ngũ Phong cười khẽ, đứng dậy.
Thập ngẩng lên cười rạng rỡ, vui vẻ đề nghị, “Để Thập hầu tướng quân thay áo nhé.”
Cô đi tới trước mặt Ngũ Phong, mắt nhìn ngang tầm cằm y. Cô ôm hờ lấy y, cởi đai lưng ra, rồi cởi chiếc áo dài khoác ngoài cho y, vừa định giơ tay tháo dây áo lót thì y đã đằng hắng một tiếng, giữ tay cô lại.
Sao thế nhỉ, cô làm sai ở đâu à? Cô còn đang nghi hoặc, Ngũ Phong đã ho thêm tiếng nữa, vẻ mặt thoáng bối rối, “Để ta tự làm, bé về ngủ sớm đi.”
“Vâng.” Cô rút tay lại, lòng hơi hụt hẫng. Mấy năm trước lúc cô còn nhỏ, giữa hai người không hề có khoảng cách nam nữ. Mùa hè hằng năm cứ tới độ ve kêu râm ran, cô thường hay gối đầu lên đùi y, vén cả áo lên nằm phơi bụng ngủ trong thư phòng. Lúc mới học cưỡi ngựa, y cũng bế cô lên ngựa xuống ngựa, chẳng chút kiêng dè. Song từ mùa đông năm ngoái, cô tự dưng trổ mã cao vụt lên, y không cho cô bám lấy mình như trước nữa, khiến cô thấy rất gượng gạo.
Cô ngượng nghịu hành lễ lui ra, vì quay người quá nhanh nên vừa dợm bước đã giẫm phải gấu váy mình. Tưởng chừng sắp ngã nhào thì đột nhiên eo cô căng ra, hai bàn tay to lớn đã đỡ lấy cô.
Trong phòng bỗng lặng phắc, tai cô chỉ nghe thấy tiếng tim mình đập như trống làng, “thình thịch” dồn dập...
Có lẽ tự lúc nào chẳng rõ, có thứ gì đó thực sự đã thay đổi, mặt cô lần đầu tiên nóng bừng lên, từ hai bên má lan ra tới vành tai, rồi tới gáy. Bàn tay Ngũ Phong đặt trên eo cô nóng rẫy, sức mạnh trên từng tấc ngón tay y có thể thấm qua lớp quần áo truyền thẳng tới trái tim đang đập rộn lên của cô. Cảm giác lạ lùng này là gì? Trước kia có thân mật với y hơn nữa, cô cũng chưa bao giờ có cảm giác này.
“Tướng quân, nô tỳ...” Cô lên tiếng, giọng khàn đi.
Ngũ Phong thình lình buông cô ra, đanh mặt lạnh lùng nói, “Từ bé đến giờ vẫn không sửa được cái tật hễ vui lên là đâm ra hấp tấp. Được rồi, mau về đi!”
Cô ngây ra, chẳng biết nên nói gì, đành xách gấu váy chạy ra ngoài.
Rời khỏi phòng tướng quân, cô như đi trên mây, cả người lâng lâng. Tạm gạt cảm giác lạ lùng ban nãy sang một bên thì hôm nay là một ngày vô cùng ý nghĩa với cô, chỉ trong một ngày ngắn ngủi mà cô đã có họ của riêng mình, đúng là việc đáng mừng đến nằm mơ cô cũng chẳng dám nghĩ tới. Càng nghĩ cô càng kích động, không kìm được guồng chân chạy vùn vụt ngược gió, gió lớn thổi tung tay áo cô, khiến cô thấy nhẹ bẫng như sắp bay lên.
Chạy thẳng một mạch về phòng mình, cô đẩy bật cửa ra gọi to, “Tư ơi, Tư à...”
Tư đang ngồi trên giường hí hoáy khâu túi tiền, thấy cô vui như vậy bèn dừng tay, cười trêu, “Cậu thường bảo mình điên, sao không nhìn lại cậu lúc này mà xem, thế này mới là điên ấy.”
Thập nhào lên giường, kéo tay Tư khoe, “Tư à, tướng quân ban họ tộc của người cho mình rồi, giờ mình tên là Mị Thập.”
Thoạt nghe tin ấy, Tư còn mừng hơn cả cô, vội kéo tay cô nhảy tưng tưng trên giường, “Thật không? Thế thì tốt quá, sau này cậu không còn là nô tỳ nữa, mà thành quý nữ trong phủ tướng quân rồi.” Mừng rỡ hồi lâu, Tư chợt dừng lại, rụt rè hỏi, “Vậy sau này có phải cậu sẽ không thể ở cùng mình nữa, cũng không ở đây nữa đúng không?”
“Ừm, tướng quân nói sẽ tặng cho mình một khu nhà...” Còn chưa nói dứt câu, thấy Tư mếu máo như sắp khóc tới nơi, Thập giật thót, vội siết chặt tay bạn nói, “Đồ điên này, làm sao thế? Định dọa mình sợ chết à? Mình đã nói xong đâu! Về sau bất luận mình là Mị Thập hay là Thập, mình cũng không rời xa cậu đâu. Cậu chỉ cần dọn tới ở cùng mình là được mà? Chắc chắn tướng quân sẽ đồng ý thôi.”
“Sao cậu không nói sớm! Làm người ta buồn ơi là buồn” Tư giằng tay Thập ra, sụt sịt mũi rồi lại ngồi xuống thêu túi tiền.
Thập ghé lại dòm, thấy ngón tay Tư đã bị đâm chi chít mấy đốm đỏ lừ, bèn giằng lấy, “Cậu thêu túi tiền làm gì? Để tay bị kim đâm thế kia.”
“Trả cho mình, không phải túi tiền đâu.” Tư lầu bầu, giơ tay giật lại.
“Có phải cậu lại thích ai rồi không? Còn thêu đồ tặng nữa.” Thập vừa nói vừa huých vai vào Tư.
“Thập thối tha, cậu nói linh tinh gì thế? Mau trả đây!”
“Mình không trả đâu, trừ phi cậu nói cậu thêu cho ai.”
“Mình thêu cho cậu đấy. Hơn nữa đây không phải túi tiền, nó dùng để đựng đồ ăn.”
“Cho mình á?” Thập chớp mắt, ngỡ ngàng. “Cậu hễ vào thư phòng là ở lì trong đó cả ngày, nên mình nghĩ phải làm một chiếc túi đựng đồ ăn, khi nào cậu đói thì lấy ra ăn lót dạ.” Tư nhìn chiếc túi trong tay Thập rồi đỏ mặt nói, “Quần áo, khăn tay của mình đều do cậu làm cả. Tay nghề may thêu mình không sao bì nổi cậu, túi thêu hơi xấu, cậu đừng chê đấy nhé.”
Nghe Tư nói xong, Thập dụi đôi mắt cay sè, ôm chầm lấy bạn, “Tư tử tế của mình ơi, cậu tốt với mình quá. Sau này đi đâu mình cũng sẽ đeo túi cậu làm. Hay là cậu thêu thêm cho mình con chuột nhỏ lên đó nhé? Có vậy sau này mình trông thấy nó sẽ nhớ ngay đến con chuột to là cậu.”
“Còn dám trêu mình à!” Tư véo bạn một cái, hai người nô đùa ầm ĩ.
Đêm hôm ấy, hai cô quấn chăn nói với nhau rất nhiều chuyện, mãi tới tảng sáng mới chợp mắt chốc lát. Sáng ra trở dậy, cả hai lại chụm đầu mơ màng ăn sáng, sau đó Tư mắt nhắm mắt mở dật dờ xuống bếp, còn Thập đi tới thư phòng trong trạng thái choáng váng.
Trên bàn của tướng quân đã xếp chồng mấy cuộn thẻ tre, có lẽ là mật báo y nói hôm qua. Thập vẫn còn hơi choáng, bèn bỏ ít cỏ thơm vào chiếc lư sành hoa văn chấm tròn gồ lên đặt ở cạnh bàn, nhắm mắt dưỡng thần chốc lát mới bình tĩnh tỉnh táo mở cuộn thẻ ra. Tuy là tin mật báo của Tần song lại viết bằng chữ Tấn, đọc một lượt, cô nhận ra nội dung bên trong chẳng liên quan gì tới cuộc chiến Tề Ngô, trái lại lời lẽ như một bức thư nhà kể lể dông dài. Cô ngạc nhiên lật mấy cuộn thẻ tre còn lại ra đọc nốt một lượt, phát hiện thấy chúng đều có chung đặc điểm ấy.
Tướng quân coi cô là trí sĩ, vậy mà cô đến một phong mật báo cũng đọc không hiểu, lát nữa nếu y hỏi tới chuyện mật báo, cô không trả lời được, hẳn sẽ khiến y thất vọng. Nghĩ vậy cô lại cầm cuộn thẻ tre lên đọc ngược đọc xuôi, thậm chí còn giơ tay sờ, song vẫn không phát hiện ra được bí ẩn bên trong.
Tay mật thám nước Tần này rất giỏi, dù đống thẻ tre này bị người ta chặn lại, có lẽ cũng chẳng ai ngờ người Tần lại mượn thư nhà của người Tấn để truyền tin mật báo. Có điều đã là mật báo về chuyện giữa các nước, chắc vẫn phải viết tên nước và tên người chứ nhỉ? Thế nên cô lại bắt đầu tìm tên các nước chư hầu trong bức mật hàm, quả nhiên là thấy.
Bức mật hàm này có cách đọc cực kỳ độc đáo: lấy chữ đầu tiên ở thanh tre đầu tiên ghép với chữ đầu tiên thanh thứ chín, sau đó lại lấy chữ thứ hai ở thanh thứ hai ghép với chữ thứ hai ở thanh thứ tám... Cứ thế mà suy, cuối cùng nội dung bức mật báo cũng hiện ra trước mắt cô. Chỉ là trong đó không hề nhắc tới Đoan Mộc Tứ mà tướng quân nói hôm qua, trái lại rất nhiều lần đề cập đến một người tên Tử Cống.
Tử Cống là học trò cưng của Khổng Khâu nước Lỗ, rất giỏi ứng đối, từng được thầy khen là “hồ liễn”. Trước kia thầy Thái từng nghe Khổng Khâu thuyết giảng ở Lỗ nên hết sức tôn sùng Nho gia, khiến cô cũng biết rất nhiều người trong cửa Khổng, mà Tử Cống là một trong số đó. Chỉ là Nho gia nhiều văn sĩ, chẳng biết vì sao lần này lại dính líu tới cuộc chiến giữa Tề và Ngô. Càng đọc tiếp xuống dưới, cô càng thấy người tên Tử Cống này thực đáng sợ.
Ngọn nguồn câu chuyện bắt đầu từ việc Tề định cất quân đánh Lỗ. Để Lỗ khỏi gặp họa chiến tranh, Tử Cống bèn thuyết phục tướng Tề là Trần Hằng, khuyên Tề quay sang đánh Ngô. Tử Cống nói rằng, “Lo bên ngoài thì đánh nước yếu, lo bên trong thì đánh nước mạnh.” Ý câu này là, nếu Trần Hằng muốn mượn việc binh đao để diệt trừ những kẻ chống đối trong nước thì phải đánh nước mạnh, khiến tất cả các khanh đại phu có thế lực khác trong nước dồn quân đánh Ngô, có vậy ông ta mới mau chóng thao túng được chính sự nước Tề.
Đề nghị này rất hợp ý Trần Hằng nên ông ta lập tức đồng ý xuất quân đánh Ngô. Song cánh quân Tề xuất phát trước đã tới biên giới nước Lỗ, nên hai quân Tề, Lỗ rơi vào cục diện khó xử, không đánh cũng chẳng hòa.
Sau đó, Tử Cống lại sang Ngô. Ngô vương Phù Sai triệu kiến y, vốn cho rằng y sẽ xin Ngô cho mượn binh cứu Lỗ, không ngờ y chẳng hề nhắc tới việc mượn binh, trái lại còn khuyên Phù Sai, muốn tranh ngôi bá chủ thiên hạ thì đừng đánh Việt mà hãy đánh Tề, hơn nữa còn đảm bảo mình có thể thuyết phục Việt vương Câu Tiễn phái binh giúp Ngô đánh Tề.
Phù Sai còn đương nửa tin nửa ngờ thì Tử Cống đã sang Việt. Việt vương Câu Tiễn đích thân đón tiếp y. Tử Cống nói với Việt vương, muốn báo thù thì phải khiến kẻ địch hoàn toàn mất cảnh giác, nếu phen này ông ta chịu phái binh giúp Ngô đánh Tề thì Phù Sai sẽ càng tin ông ta hết lòng thần phục. Hơn nữa trận này bất luận Ngô thắng hay thua, Việt đều có lợi.
Bức mật hàm dừng lại ở đó, không viết tiếp nữa. Thập bất giác nghĩ, nếu sau cuộc chiến với Tề, Ngô thực sự trở thành nước lớn ngang hàng với Tấn, Sở thì có lợi gì cho Việt?
Việc cô nghĩ chưa thông thì Việt vương Câu Tiễn đã nghĩ thông từ lâu. Ông ta phái một cánh quân tinh nhuệ ba nghìn người trang bị mũ giáp đầy đủ viện trợ cho Ngô đánh Tề, đồng thời còn tặng nhiều tiền tài vật dụng. Vậy nên cuối cùng Ngô vương Phù Sai quyết định phái quân chín quận nước Ngô đi giúp Lỗ đánh Tề.
Cuối cùng Tử Cống lại tới gặp chính khanh nắm quyền nước Tấn là Triệu Ưởng, khuyên ông ta giữ thế trung lập trong cuộc chiến giữa hai nước Ngô và Tề, dưỡng binh trữ lương đợi thời cơ.
Đọc liền mấy bức mật báo, đầu óc Thập ong cả lên. Nghe nói lần này mười vạn quân Tề phái đi đều bỏ mạng
Ngải Lăng, xác chết chất đống trên chiến trường như núi. Một văn sĩ chỉ uốn ba tấc lưỡi mà có thể điều động quân đội mấy nước trong lòng bàn tay. Rốt cuộc Tử Cống này là người thế nào nhỉ? Y đã lợi dụng cái gì? Mười mấy vạn binh sĩ ấy chết vì cái gì mới được chứ?
Thập nghĩ đến choáng váng đầu óc, đành nằm bò ra bàn nghỉ chốc lát, không ngờ lại ngủ thiếp đi. Trong lúc mơ màng, cô như rời khỏi phủ tướng quân, tới một vùng đồng hoang mọc đầy cỏ tranh xanh ngắt cao lút đầu gối, lác đác những bông hoa trắng li ti. Thỉnh thoảng gió nhẹ thổi qua, cỏ tranh dập dềnh như sóng, vang tiếng xào xạc.
Đẹp quá, êm đềm quá...
Giữa những đợt sóng xanh rì ấy thấp thoáng một con đường nhỏ nở đầy hoa dại, cô đi men theo con đường nhỏ ấy, gió mát trên đồng lướt qua tóc cô, thổi tung vạt áo cô, tới cuối con đường, khi lối đi chìm khuất vào bụi cỏ, cô đã đứng giữa cánh đồng, được trời đất ôm chặt vào lòng.
Thập ngả người nằm ngửa xuống giữa đồng cỏ tranh, tiện tay ngắt một bông hoa trắng bé xíu đưa lên mũi ngửi, nhắm nghiền mắt lại, chỉ nghe gió nhẹ rì rào hát khẽ bên tai:
Đằng Đông đã rạng mặt trời,
Có nàng xinh đẹp đến chơi trong nhà.
Chơi rồi rón rén theo ta,
Chẳng rời một bước, vào ra cận kề.
Đằng Đông đã sáng trăng thề,
Có nàng xinh đẹp theo về nhà ta.
Chơi rồi rón rén theo ta,
Chẳng rời một bước, vào ra cận kề*.
Bài này là dân ca nước Tề ư, nghe hay thật đấy...
Thập mở bừng mắt ra hòng nghe kỹ hơn, song chợt thấy đằng xa văng vẳng tiếng đánh giết loảng xoảng. Cô vội đứng dậy, chỉ thấy vô vàn binh sĩ từ gò đất cao hai bên rầm rập lao xuống, hò hét quát tháo, lăm lăm kích dài rìu lớn, nháy mắt đã lao tới trước mặt cô.
Cô định bỏ chạy song hai chân không nhấc lên được. Cả người như bị đóng đinh giữa chiến trường, chỉ biết trơ mắt nhìn từng người từng người lính ngã xuống trước mặt mình. Thi thể họ chìm vào đồng cỏ tranh, đè nát cả hoa. Máu họ bắn lên mặt cô, nóng hổi.
Đây là đâu? Sao lại thế này! Một người lính còn chưa chạy tới trước mặt cô đã bị một người lính khác phía sau đâm chết, đầu anh ta lập tức bị chặt đứt, lăn lông lốc đến dưới chân cô. Cô giật bắn mình vì sợ, song không thốt ra nổi tiếng nào. Kẻ chặt đầu đi xuyên qua cô, nhặt cái đầu dưới đất lên giắt vào thắt lưng, nhưng chưa kịp ngẩng lên thì đã bị một cỗ chiến xa lao tới cắt đứt chân trái. Cổ họng cô quặn lên, không kìm được nôn vọt ra.
Trời ơi, ai tới cứu tôi với!
“Thập à, tỉnh lại đi... tỉnh lại đi nào!” Mở mắt ra lần nữa, cô thấy Ngũ Phong đang ngồi ngay cạnh mình, đầy vẻ lo âu. Tuy mở mắt song cô vẫn chưa thoát ra khỏi cơn ác mộng, đầu người lăn lông lốc trên thảm cỏ, những đoạn tay chân bị chém đứt, máu nóng tanh nồng, tất cả những cảnh tượng trong mộng đều khiến cô hoảng sợ tột độ. “Tướng quân...” cô lao tới ôm chặt lấy người bên cạnh.
Ngũ Phong xoa đầu cô hỏi khẽ, “Bé sao vậy?”
Cô ngước lên nhìn quanh, thấy mình vẫn đang ngồi trong thư phòng, cảnh chiến trường máu chảy đầu rơi khi nãy đã chẳng còn tăm tích.
“Mơ thấy ác mộng à? Sợ quá thế này” Ngũ Phong đỡ lấy vai cô, cúi đầu nhìn cô.
Thập gật đầu, nghiêm túc hỏi, “Trên sa trường tướng quân từng giết người rồi đúng không?”
Ngũ Phong không ngờ cô lại hỏi chuyện này, hơi sững ra rồi cười đáp, “Ngốc ạ, dĩ nhiên là giết rồi. Bằng không ta làm sao sống đến ngày nay, làm sao giữ vững biên cương bảo vệ đất nước?”
“Vậy trên chiến trường binh lính nhất thiết phải chặt đầu quân địch ư?”.
“Dĩ nhiên rồi. chiến tranh hiện giờ đã không còn là cuộc chiến giữa các quý tộc nữa, để gia tăng quân số, các nước đều chiêu mộ dân thường, thậm chí cả nô lệ nhập ngũ. Những người đó nếu muốn thoát kiếp nô lệ hoặc miễn giảm thuế má thì buộc phải lập được chiến công. Mà chiến công phải tính bằng số đầu lâu kẻ địch họ chặt được. Mỗi khi giết một người, phải chặt đầu đeo lên mình. Trên sa trường, một binh lính đeo lủng lẳng ba bốn cái đầu lâu là chuyện thường. Giữa các đồng đội, có lúc còn đánh giết nhau để tranh giành đầu lâu nữa là.”
“Vậy trong quân của tướng quân cũng có quy định này sao?” Cô nhíu mày buồn bực hỏi.
“Hai quân đối địch, nhiệm vụ hàng đầu là giết địch. Mải chém đầu lâu làm mất thời gian, dễ lỡ cơ hội chiến đấu, nên trong quân ta tính công bằng cách đếm số tai trái của địch.” Đoạn Ngũ Phong nói thêm, “Sao hôm nay bé lại hỏi chuyện này thế, có ai nói gì với bé à?”
“Không ạ. Tôi chỉ nghĩ trận Ngải Lăng chết đến mười vạn quân Tề, vậy số đầu lâu quân Ngô chém e rằng phải xếp thành núi.” Với một người đang sống yên ổn thì một vạn, hai vạn hay mười vạn quân trên chiến trường bỏ mạng cũng chỉ là một con số, không có cảm giác nhiều. Nhưng vừa rồi chứng kiến trong mơ, cô lại cảm nhận hết sức rõ rệt sự tàn khốc của chiến tranh cùng sự bé mọn của mạng người.
“Mặt tái mét thế này, hay về nghỉ ngơi trước đi?” Ngũ Phong lo lắng bảo.
“Không cần đâu, chẳng phải hôm nay tướng quân còn muốn kiểm tra tôi ư?”
“Được, vậy bé nói cho ta nghe xem, những thẻ tre này viết chuyện gì?”
Thập ngẫm nghĩ giây lát, thuật lại những gì mình đọc được một lượt, cuối cùng hỏi, “Người tên Tử Cống được nhắc tới trong bức mật báo này có phải Đoan Mộc Tứ mà tướng quân nói lúc trước không?”
“Tử Cống chính là tên chữ của Đoan Mộc Tứ.” Đôi mày đang nhíu chặt của Ngũ Phong giãn ra, y gõ nhẹ ngón trỏ tay trái xuống mặt bàn, đây là động tác thường thấy mỗi khi y cao hứng, “Không ngờ chỉ trong nửa ngày bé đã lần ra cách đọc mật báo, xem ra ta đã đánh giá thấp bé rồi. Vậy bé cho rằng tại sao Việt vương lại nhận lời xuất binh giúp Ngô?”
“Nếu Ngô thua, hiển nhiên Việt được lợi. Nếu Ngô thắng, với tính tình của Ngô vương, ắt sẽ quay sang đánh Tấn để giành cái tiếng bá chủ. Tới lúc đó quân tinh nhuệ của Ngô đã bị tiêu hao ở Tề, binh lính cả nước lại kéo hết sang Tấn, Việt vương Câu Tiễn chỉ cần phát binh sang đánh là có thể hạ được nước Ngô bỏ trống. Với Đoan Mộc Tứ, bất luận Tề hay Ngô thắng trong trận Ngải Lăng thì nước Lỗ bị kẹp ở giữa đều được lợi.”
“Vậy y dựa vào cái gì mà du thuyết thành công ở cả bồn nước?”
“Lòng người, y đã lợi dụng lòng người. Từ Tề đến Ngô, từ Ngô đến Việt rồi đến Tấn là những mắt xích nối vào nhau, chỉ cần sai một chỗ là hỏng tất cả. Sở dĩ y thành Công là nhờ nhìn thấu lòng người. Y lợi dụng dã tâm của tướng Tề Trần Hằng, lòng tự mãn của Ngô vương Phù Sai, sự ẩn nhẫn của Việt vương Câu Tiễn cùng tâm tư ngồi xem hổ đấu nhau của Tấn khanh Triệu Ưởng.”
Thập nói liền một mạch, trong khi Ngũ Phong chỉ trầm tư nhìn cô. Cô chẳng biết mình nói đúng hay sai nên không khỏi thấp thỏm, chỉ mong y mau nói gì đó.
Hai người cứ ngồi lặng như thế hồi lâu, cuối cùng Ngũ Phong mới lên tiếng, “Tiếc rằng bé lại là phận gái...”
Y nói vậy nghĩa là cô trả lời đúng rồi? Cô toan hỏi thì y lại nói, “Được rồi, bé lui xuống trước đi.”
“Dạ!” Cô chẳng biết làm sao, đành hành lễ lui xuống. Tới cửa mới sực nhớ ra chuyện của Tư, cô bèn vòng lại thế thọt hỏi, “Tướng quân cho Tư dọn vào ở cùng tôi được không?”
Y cười bình thản đáp, “Tùy bé, thích là được."
“Tốt quá, đa tạ tướng quân!” Cô bất chấp lễ nghi, xách gấu váy chạy ra ngoài. Lúc ra cửa, nghe phía sau loáng thoáng tiếng thở dài, song cô đang nôn nóng muốn báo tin mừng cho Tư nên không để ý.
Không đầy hai ngày sau, Ngũ Phong phái người dọn đồ đạc của cô và Tư sang khu nhà phía Đông trong phủ. Chính giữa khu nhà này là một bãi cỏ xanh rì, bên phải nhà chính trồng một cây phong đỏ, dưới gốc là một miệng giếng sâu hút. Căn nhà tổng cộng có ba gian, Thập và Tư ở chung một gian, hai gian còn lại bỏ trống, làm chỗ để cô ủ rượu.
Đêm đó, trăng sáng vằng vặc, những vì sao lấp lánh treo trên nền trời tối sẫm tỏa ánh sáng mê người. Cô và Tư nằm trên bãi cỏ ngoài sân, nghe côn trùng rả rích, ngắm trăng cùng những đám mây lơ lững bay ngang, tán gẫu câu được câu chăng.
“Này Thập, mình nghe ông bảo Bách Phụ lại sinh được một con trai cho công Sĩ Hy rồi đấy, mai cậu có rảnh không? Đi thăm với mình nhé.”
“Được thôi, mai tướng quân ăn sáng xong sẽ vào cung gặp bệ hạ, tới lúc đó mình sẽ đi với cậu.” Cô vừa nói vừa giơ tay lên che đi vầng trăng, sau đó lại từ từ xòe tay ra, ngắm ánh trăng chảy qua kẽ tay rọi xuống, “Nhanh thật đấy, lần đầu gặp Bách Phụ mình mới bốn tuổi. Bấy giờ chị ấy còn đang ở góa, chưa lấy Công Sĩ Hy, cậu cũng chưa đến đây.”
“Giờ chị ấy thành mẹ ba con rồi, Thập này, cậu bảo hai năm nữa, liệu tướng quân có gả luôn cậu đi không?”
“Sao cậu lại hỏi thế? Mình không lấy chồng đâu.” Tư bỗng quay sang nhìn cô rồi hỏi bằng thái độ nghiêm túc chưa từng thấy, “Cậu thích tướng quân đúng không?”
Trước giờ cô chưa bao giờ nghĩ kỹ về vấn đề này, bỗng dưng bị hỏi thì không khỏi sững ra, sau đó nghiêm trang gật đầu.
“Mình biết ngay mà, nhưng tướng quân hơn cậu nhiều tuổi quá.”
“Thế thì có sao! Mình nghe mẹ kể, năm xưa khi mẹ bị bán cho cha, ông ấy đã sáu mươi tuổi rồi.”
“Ừm, cũng phải.” Tư gật đầu rồi lại hỏi, “Thập này, cậu còn nhớ Vu An không?”
“Dĩ nhiên là nhớ, cậu vẫn đợi anh ta à?” Cô siết nhẹ tay Tư,
“May mà còn cậu nhớ anh ấy, bằng không mình cứ cảm thấy đó chỉ là một giấc mơ hồi bé. Cậu bảo bấy nhiêu năm nay anh ấy không quay lại thăm bọn mình, liệu có phải đã ngất giữa đường vì đói rồi chết cóng không?” Nói tới cuối câu, giọng Tư khẽ đến mức khó mà nghe nổi.
Cô gập hai ngón tay, búng mạnh vào trán bạn, “Cậu nghĩ những chuyện ấy làm gì? Nếu số Vu An phải chết thì vì sao ông trời lại để bọn mình cứu được anh ta? Huống hồ anh ta đã hẹn bảy năm cơ mà, chẳng phải còn hai năm ư!
“Đúng thế, anh ấy tốt như thế, ông trời nhất định sẽ không nỡ để anh ấy chết đâu.” Dứt lời Tư nhoẻn cười, hai lúm đồng tiền in sâu trên má khiến người ta trông thấy cũng vui lây.
“Tư này, nếu sau này Vu An quay lại tìm cậu thì lấy anh ấy đi! Tới lúc ấy mình nhất định sẽ thêu cho cậu bộ đồ cưới đẹp nhất trên đời.”
“Ha ha, hay cậu cũng lấy quách anh ấy đi, thế là chúng mình khỏi phải xa nhau” Tư kéo tay Thập, vui vẻ rů.
“Ranh con chết giẫm, cậu không biết xấu hổ à! Muốn lấy người ta lại còn đòi lôi cả mình theo làm hầu thiếp!” Cô phì cười, giơ tay cù Tư, Tư rất sợ nhột, bèn kêu ré lên, bật dậy bỏ chạy.
Cô cười khanh khách, phủi cỏ bám trên mình rồi cũng vào phòng theo.
Bấy giờ cả hai cô còn vô tư lự, nào có hay số phận mình sau này sẽ ra sao, chỉ thầm dệt những giấc mộng ngọt ngào đẹp đẽ như hết thảy thiếu nữ bình thường. Lúc mộng mơ bao giờ cũng hạnh phúc nhất...