Trúc Thư Dao - Tập 1: Nước Tần - Chương 12
GỖ THƠM BÍ ẨN
“Có phải tiên sinh đã đến Tần từ hơn một tháng trước không?”
“Hơn một tháng trước ta thay chủ nhân tới Tần dâng thiếp bái phỏng, sao cô nương biết?” Trương Mạnh Đàm ngạc nhiên ra mặt, nhưng ngay sau đó lại cười khì, “Để ta đoán nhé, cô nương đã gặp tên bán gỗ thơm đó đúng không?”
Tỉnh giấc, Thập mới nhớ ra tối qua quên không hỏi Ngũ Phong mấy tháng nay y thế nào, vết thương trên người ra sao rồi. Phen này về công, y nhận lệnh Tần bá cùng Kỳ tướng quân đi sứ sang Ngô; về tư là đi dự đám tang ông chú cùng tộc Ngũ Tử Tư bị Phù Sai ép phải tự sát. Bấy nhiêu năm nay, Ngũ Phong rất hiếm khi nói về mình, song thấy y võ vàng như vậy, xem chừng đối với y Ngũ Tử Tư không chỉ là một ông chú họ bình thường. Đợi xử lý xong việc ở phủ thái tử, cô phải tìm dịp hỏi kỹ y mới được.
Ăn sáng xong, Vô Tà hớn hở tới chỗ Thập. Trước kia cậu không biết nói, nhạy cảm trầm tĩnh, có phần ngang ngược, vậy mà giờ lại như biến thành một con chim sẻ to cao tráng kiện, lải nhải luôn mồm bên tai cô, lúc thì nói Do Đồng bắt nạt mình, lúc lại kể Dự Địch làm lơ mình, cuối cùng oán trách đến bác Đại Đầu dưới bếp năm ngày mới cho ăn một bữa thịt. Bộ dạng tội nghiệp như bị ức hiếp ghê lắm vậy.
“Năm ngày một bữa thịt là đãi ngộ đặc biệt của tướng quân rồi, cậu đừng than vãn nữa. Hôm nay tôi dẫn cậu ra chợ dạo một vòng rồi ra đồng hoang ngoài thành bắt thỏ ăn, được chưa nào?”
Nghe chữ “thỏ”, vẻ mặt tội nghiệp của Vô Tà biến mất ngay, cậu toe toét cười ngoác tận mang tai, “Vậy mau đi thôi!” Vừa nói cậu vừa kéo cô phăm phăm ra ngoài.
Nhìn dáng vẻ háo hức của cậu, Thập không nhịn được phì cười, nỗi buồn bã ủ ê chất chứa trong lòng mấy ngày nay cũng tiêu tan theo tiếng cười, “Đừng vội, tôi phải thay quần áo mới đi cùng cậu được, cậu ra sân đợi tôi đã.”.
“Thế cô thay nhanh đi!” Vô Tà giơ tay ra giật thắt lưng Thập, làm cô lật đật lùi lại tránh, gắt lên, “Cậu không ra ngoài tôi thay làm sao được?”
Vô Tà hoàn toàn không hiểu thế nào là nam nữ cách biệt, cậu ì ra lầu bầu hồi lâu, cuối cùng bị cô đá đạp đuổi ra.
Cô cởi chiếc áo dài cầu kỳ tinh xảo, thay áo ngắn vải thô lông xù, vấn qua quýt một búi tóc như tổ quạ trên đầu, cuối cùng còn bôi ít tro than lên mặt. Chẳng mấy chốc, một thiếu niên mặt mày đen nhẻm gầy gò đã hiện ra trong gương.
“Thập này, sao mặt cô đen nhẻm thế?” Từ khi hai người ra khỏi phủ theo cửa ngách ở sân sau, Vô Tà thỉnh thoảng lại giơ tay chùi mặt cô.
“Cậu còn táy máy nữa thì chúng ta về luôn bây giờ đấy. Tối nay cậu cứ ăn cháo kê đi!” Thập hất tay Vô Tà ra, sầm mặt gắt.
“Thế này xấu chết đi được...” Vô Tà ré lên rồi rụt tay lại. Sau bao ngày ăn cháo kê nhạt nhẽo, thỏ đã trở nên quan trọng nhất với cậu ta, không gì sánh bằng.
Thành Ung đầu đông đã bớt phần phồn hoa, thêm vẻ tiêu điều. Trên phố ngoài mấy cỗ xe ngựa chạy bon bon, chỉ còn những người đi đường mặt đầy gió bụi. Họ túm tụm lại thành từng tốp dăm ba người, co đầu rụt cổ, đeo tay nải, tấm áo rách lỗ chỗ trên mình trông càng mỏng manh trong gió rét.
“Những kẻ này đều từ Đại Lệ chạy tới, chợ Tây có hàng cơm, tới đó sẽ được cho ăn. Dự Địch nói ngoài cửa Đông còn vô khối người chết đói.” Mấy hôm nay Vô Tà nghe ngóng được không ít tin tức từ đám thị vệ.
“Cơm vua đâu thể ăn không? Phía Tây đang sửa tường thành, tháng trước đổ sập đè chết không ít lao dịch. Những người Đại Lệ chạy nạn kia lĩnh suất cơm ấy sẽ bị sung làm lao động, đưa đi tu sửa tường thành. Tấn Tần sắp giao chiến, Đại Lệ nằm giữa lại gặp thiên tai hồi mùa thu, những kẻ này chạy tới thành Ung, hẳn là muốn tìm một con đường sống. Tiếc rằng thiên hạ này làm gì có nơi nào con đường sống chứ.” Thập nhìn những người Đại Lệ chạy nạn, không nén nổi cảm thán.
“Làm người đúng là không bằng làm sói” Vô Tà bên cạnh đột nhiên trả lời một câu, nửa hiểu nửa không.
Thập quay sang nhìn vào đôi mắt trong veo của Vô Tà, lòng không khỏi cảm khái. Dù hiện giờ cậu đi theo cô, ở lại phủ tướng quân, thường ngày sinh hoạt cùng các binh sĩ trong phủ, nhưng trong lòng cậu, sói vẫn là người bạn thân thiết nhất.
“Thập à, sao cô không nói nữa vậy?” Thấy cô thẫn thờ, Vô Tà ghé đầu lại gần.
Thập khẽ cười, nắm lấy tay cậu, “Thực ra làm người cũng có nhiều điểm hay lắm. Đi nào, tôi dẫn cậu tới chợ xem!”
Lúc năm hết tết đến, bất luận là nhà quyền quý hay thường dân, đều phải bắt tay vào chuẩn bị việc cúng tế. Bởi vậy chợ là nơi đông đúc nhất trong cả thành. Đem vải nhà tôi dệt đổi lấy rượu nhà bác ủ; đem sả khô nhà tôi phơi mùa xuân đổi lấy kê nhà bác còn thừa vụ thu. Thường dân không có tiền nên đem đồ đạc ra chợ đổi; nhà quyền quý có tiền thì tới mua các loại hương liệu tốt nhất, rượu ngon nhất từ lái buôn các nước để cúng lễ, dâng lên tổ tiên.
Với phẩm cấp của Ngũ Phong, lý ra tới cuối thu, các nhà nông trong đất phong phải nộp nông sản lên làm đồ cúng tế, nhưng đất phong của Ngũ Phong cách thành Ung quá xa, nên thóc lúa, gia súc, rượu ngon, hương liệu đều phải mua trong thành luôn. Trước kia ông quản gia Tần Cổ sẽ lo tất cả việc này, năm nay ông chưa trở về, Thập đành thu xếp trước vậy.
“Thập nhìn kìa, đằng kia đông quá!” Vô Tà trỏ đám đông xúm xít bên trái đằng trước, nói to.
“Hàng nào mà đông khách thế nhỉ? Chúng ta cũng lại xem xem!”
Thập kéo Vô Tà chen vào đám đông, bất ngờ phát hiện hóa ra là một sạp xem bói bốc quẻ. Xúm xít quanh sạp toàn những thường dân áo vải, người cầm vuông vải, người bưng thúng kê, coi bộ đều ghé lại đây xem bói.
“Chẳng phải cô nói hằng năm cứ đến mùa đông sẽ có rất nhiều người chết đói à? Sao họ còn đem đồ ăn giao cho người kia vậy?” Vô Tà thắc mắc.
“Việc lớn trong nước là cúng tế và chinh chiến. Hằng năm ngoài những lễ tế lớn nhỏ vào các dịp cố định ra thì trước mỗi lần nhà vua quan quyền quý cưới gả hay hai nước giao tranh cũng đều phải hỏi vu sĩ, bói một quẻ xem lành dữ. Giờ thiên hạ loạn lạc thế này, dù nghèo tới đâu chăng nữa, tới cuối năm, mọi người cũng vẫn muốn hỏi thần linh xem năm sau thời vận của mình thế nào.”
“Cô nói gì, tôi chẳng hiểu mấy.” Vô Tà rầu rĩ lắc đầu.
“Tôi nói là, người kia có thể biết được năm sau sẽ xảy ra chuyện gì?
Thực ư? Lão già kia biết được năm sau sẽ xảy ra chuyện gì à? Hay là chúng ta cũng tới đó hỏi thử xem?” Vô Tà hào hứng định cởi áo khoác trên người ra để đổi một quẻ.
“Cậu mau mặc áo vào đi, trời rét thế này, làm gì có ai nhố nhăng như cậu!” Thập dở khóc dở cười trước sự ngốc nghếch của Vô Tà, “Cậu muốn xem bói thì tôi có đem tiền đây. Này, cho cậu là được mà.”
Vô Tà cầm tiền, cười khì hỏi, “Vậy còn cô?”
“Tôi không xem, nếu biết trước mọi chuyện tương lai thì chán chết.”
“Vậy tôi cũng không xem nữa, biết đâu ông ta xem sai thì sao, không thể cho không lão già ấy một đồng được.”
“Không ngờ con sói đầu đàn như cậu keo thế đấy.”
“Tôi đâu có keo, tôi sợ tiêu mất tiền cô lại không mua đủ đồ.” Nghe Thập trêu, Vô Tà đỏ bừng mặt, tức tối kéo cô rời sập bói.
Cô bị cậu kéo đi mấy bước, sực nhớ ra một chuyện cực kỳ quan trọng, “Vô Tà, tối hôm ấy cậu cứu tôi, về sau có kể với ai không?” Để khỏi làm Ngũ Phong lo lắng, cô chỉ kể với y rằng mình nấp sau thân cây nhìn trộm ả Dao lén gặp người Tấn, sau đó liều chết bỏ chạy, cố tình giấu việc được Vô Tà cứu. Trước kia Vô Tà không biết nói, không sợ bị cậu vạch trần, song giờ thấy cậu ngày càng nói năng lanh lợi, cô phải nhắc nhở mới được.
“Không nói, cô không nói với người khác, tôi đã nhiên cũng không nói.”
“Ừm, sau này bất luận ai hỏi cậu cũng không được nói, để tướng quân khỏi lo lắng cho tôi.”
“Sau này tôi sẽ bảo vệ cô, không ai làm cô bị thương được đâu. Chủ nhân có biết hay không cũng chẳng sao.”
Có người đoan chắc mười phần chỉ tin được năm, nhưng Vô Tà thì khác, cậu nghĩ sao nói vậy, nên cô nghe rất ấm lòng.
“Đi thôi, mau mua cho xong, tôi còn dẫn cậu đi bắt thỏ.”
“Được!”
Ngoài chợ cái gì cũng có, gia súc, ngũ cốc dùng khi tế lễ cô bảo người đưa thẳng tới phủ, còn lại mấy thứ đồ linh tinh đều đưa cả cho Vô Tà đeo.
“Vô Tà.”
“Hả?”
“Sao giờ cậu nói trôi chảy vậy?” Thập khoác nốt bao cỏ thơm lên cổ Vô Tà. Nghe cô hỏi, nụ cười trên môi Vô Tà tắt ngấm. Cậu quay đi rầu rĩ đáp, “Tôi vốn biết nói, chỉ là trước kia không muốn nói, về sau quên mất thôi.”
Tuy trước kia Thập cũng nghi ngờ, nhưng nghe cậu thừa nhận, cô vẫn giật mình, “Cậu vốn biết nói à? Tôi cứ tưởng cậu được bầy sói nuôi lớn, chỉ biết kêu như sói thôi.”
“Lúc tôi bị bỏ trong núi, chắc cũng bốn năm tuổi rồi.”
“Gì cơ? Cậu còn nhớ cậu tên gì, nhà ở đâu, cha mẹ là ai, bị kẻ nào bỏ vào núi không?”
Cặp mắt trong veo của Vô Tà tức thì như phủ một lớp màn xám xịt, cậu cắn môi lắc đầu. “Tôi không nhớ, cũng không muốn nhớ nữa. Tôi là Vô Tà, Vô Tà của Thập, những chuyện khác chẳng có gì quan trọng.”
“Được rồi, quên đi cũng tốt” Thập giơ tay xoa mái tóc hơi xoăn của Vô Tà. Đúng lúc này, chợt có một người từ bên trái nhào tới, đâm sầm vào cô. Thấy mình sắp ngã, cô vội chống tay xuống đất, không ngờ người đó xô quá mạnh, cô không chống nổi, hai tay cạ xuống đất trượt đi hơn một thước, trầy hết da, đá dăm bám đầy tay.
Kẻ xô vào cô hớt hải bò dậy, liêu xiêu mấy bước rồi cuống cuồng chạy tiếp. Vô Tà thấy cô ngã nhào ra đất, vội ném mọi thứ đang mang vác xuống, chạy bổ đến.
Kẻ nọ sao nhanh chân bằng Vô Tà, chưa chạy được mấy bước đã bị cậu thộp gáy xách lên, ném mạnh xuống đất.
“Đừng đánh!” Thấy Vô Tà đã cưỡi lên người kẻ nọ vung nắm đấm định nện, Thập vội hô lớn ngăn lại.
“Thằng chó kia, đâm vào xe ngựa quý nữ nhà ta còn muốn chạy à!” Mấy người hầu mặc áo lông ngắn chẳng biết từ đầu chui ra, kéo Vô Tà ra, đánh kẻ nằm dưới đất tới tấp.
Thấy kẻ nọ ôm đầu co rúm người dưới đất thực đáng thương, Thập vội chạy lại khuyên can, “Các anh bớt giận, cuối năm đánh chết người là xui xẻo sang cả năm mới đấy.”
“Cậu đừng chõ mũi vào chuyện người khác! Tên dân đen này đâm vào xe ngựa quý nữ nhà ta, làm quý nữ hoảng sợ, chúng ta có đánh chết hắn cũng đáng tội.”
Quý tộc sai người hầu đánh chết dân đen là chuyện thường, vì vậy lúc này người qua kẻ lại trên đường đều thờ ơ như không, chỉ có mấy người xúm lại xem, tỏ vẻ thương hại, nhưng cũng chẳng dám nhiều lời, sợ chuốc vạ vào thân.
Thập bèn kéo một gã hầu mặt mày có vẻ hiền hòa trong đám đó ra, rút ba đồng tiền từ thắt lưng dúi vào tay gã. “Chủ tôi sai tôi ra ngoài mua một tên hầu về làm việc nặng. Các anh đừng đánh chết hắn, bán lại cho tôi được không?”.
Gã hầu nọ nhìn cô rồi giắt tiền vào ruột tượng, “Hừm, oắt con nhà chú tháo vát đấy.” Dứt lời mới chậm rãi ngoái lại, hô lên bảo mấy kẻ kia, “Đi thôi, đi thôi, đừng làm lỡ giờ quý nữ vào cung.”
“Thằng chó mắt mù, may cho mày đấy!” Mấy kẻ kia còn đấm đá thêm mấy cái mới chịu đi, vừa đi vừa chửi oang oang.
“Vô Tà, cậu không giúp một tay à? Mau lên, giúp tôi dìu anh ta dậy!” Thập chạy tới toan dìu người dưới đất dậy, song cô quá yếu, không vực dậy nổi.
“Dìu hắn làm gì? Ai bảo hẳn vừa rồi chạy như ma đuổi, đâm cả vào cô, đánh chết cũng đáng!” Vô Tà chẳng buồn đếm xỉa tới cô, đi thẳng tới nhặt đồ đạc vừa bỏ xuống đất lên, “Ta đi thôi, còn chần chừ nữa trời tối mất, mau đi bắt thỏ nào!”
Vô Tà đối xử với người khác rất lạnh lùng, chết một người không liên quan hay chết một con thỏ, có lẽ cậu chỉ thấy khác một điểm là, người chết thì không ăn được còn thỏ chết thì ăn được mà thôi.
“Cậu cứ dìu anh ta dậy giúp tôi đã, tối nay tôi sẽ làm món ngon cho cậu, bảo đảm ngon hơn thịt thỏ. Huống hồ bên ngoài thành nhiều người chết đói như thế, có lẽ thỏ trong vạt rừng phía Tây đã bị người ta bắt sạch rồi, chúng ta có đi cũng không bắt được đâu.”
“Được rồi, được rồi, lúc nào cô chẳng có lý.”
Lúc này, mấy người đứng cạnh đó cũng xúm lại, một cô bé áo xanh lấy túi nước ra cho người dưới đất uống mấy hớp. Người nọ ọe ra một búng bọt máu rồi từ từ tỉnh lại.
“Này anh, sao mấy người kia lại đánh anh vậy?” Cô bé áo xanh hỏi.
“Tôi chỉ muốn xin quý nhân mua ít hương liệu để nhà tôi có lương thực sống qua mùa đông thôi, không ngờ lại đâm vào xe ngựa.”
“Anh đúng là phải gió, mấy khúc gỗ mục của anh đâu phải hương liệu, thế mà dám chặn cả xe ngựa của Bách Lý đại phu.” Một ông lão râu bạc giơ tay áo lau vết máu bên khóe miệng người nọ, thở dài.
Bách Lý đại phu? Té ra lại là người quen cũ. Lúc trước Thập nghe Ngũ Phong nói, vợ cả Bách Lý đại phu là chị ruột Tần bá, con gái bà ta lại là con dâu được chính Tần bá lựa chọn. Kẻ này dám chặn xe ngựa nhà họ, quả là chán sống.
“Bác à, bác quen anh ta ư?” Thập hỏi.
“Anh ta lang thang trên phố này hơn tháng nay rồi, ôm mấy cành cây gãy mà cứ khăng khăng là hương liệu. Lão chưa dùng hương liệu bao giờ, nhưng sống tới từng này tuổi cũng biết đôi chút. Hương liệu là thứ quý giá chỉ nước Sở phương Nam mới có, núi non nước Tần ta lấy đâu ra. Thế mà anh ta nhất quyết không tin, nằng nặc nói tháng trước tình cờ gặp quý nhân giữa đường, bảo rằng mấy khúc gỗ mục của anh ta là hương liệu gì đó đáng giá nghìn vàng, phải giữ cho kỹ, nếu bán được giá còn xây được nhà. Các vị bảo có buồn cười không? Quý nhân nọ nói bỡn mà tên ngốc này lại tưởng thật”
“Tôi không cần xây nhà, chỉ là trong nhà không còn gì ăn nữa, dưới đất cũng chẳng đào nổi củ dại, hai đứa con đói lả ra rồi. Có điều tôi không lừa gạt, gỗ này đốt lên thơm thật mà!”
“Anh lấy ra tôi xem xem, nếu đúng là gỗ thơm, tôi sẽ mua, được không nào?” Trong túi Thập còn năm đồng, nếu mua ít kê rẻ thì cũng cầm cự được hơn một tháng.
Nghe nói cô muốn mua, người nọ xốc lại tinh thần, rút trong ngực áo ra mấy cành cây chẳng có gì đặc biệt, “Cậu xem này, đốt lên thơm lắm đấy!”
Cô mỉm cười nhận lấy, giơ lên mũi ngửi, ngoài mùi ngai ngái vốn có của cây cối ra thì không còn gì khác lạ. Ôi, ngờ đâu một câu đùa hôm ấy của vị quý nhân nọ lại suýt hại chết người ta.
“Ngửi cũng hơi có mùi đấy, tôi mua, năm đồng được không?” Cô móc tiền ra đặt vào tay người nọ, “Nhiều hơn tôi không có đâu. Nhân lúc còn chưa tối, anh mau đi mua thức ăn đi!”.
“Đủ rồi, đủ rồi, cảm ơn cậu! Đấy, lão thấy chưa lão bán dưa, tôi đã bảo tôi không gạt người mà. Quý nhân nọ mây đỏ hiện mày, tướng tá rất lạ, người ta đã nói đáng tiền là đáng tiền thật đấy.” Kẻ nọ cầm tiền cười toe toét, như thể vết thương trên người vừa khỏi trong nháy mắt vậy.
“Đời đúng là lắm kẻ ngu. Này nhóc mặt đen, cậu mua mấy thanh gỗ mục của anh ta về thì khó ăn nói với chủ đấy!” Ông lão lắc đầu nhìn cô rồi chắp tay sau lưng bỏ đi.
“Giải tán, giải tán đi!” Vô Tà gắt gỏng giục đám đông rồi quay ra bảo người dưới đất. “Này anh, anh cầm tiền rồi thì mau đi đi chứ!”
Người nọ đỡ lưng, cảm ơn rối rít. Thập cầm một nắm cành cây, nhìn theo mãi tới khi anh ta khập khiễng đi khuất hẳn.
Về tới phủ, trời đã tối om, cô giao đống đồ mua được cho Do Đồng rồi dẫn Vô Tà xuống bếp.
Từ khi cô mua nắm “gỗ thơm” nọ, Vô Tà chẳng nói năng gì với cô nữa, chắc là giận cô vung tiền mua gỗ mục, tự ăn quả lừa.
“Đừng tiếc hộ tôi nữa, năm đồng tiền của tôi không phải để mua nắm gỗ này, mà để giữ mạng cho cả nhà anh ta đấy. Cậu nghĩ mà xem, nếu anh ta bị đánh chết thật thì vợ con ở nhà làm sao sống nổi?”
Nhà bếp lúc này trống không, để khỏi tốn củi, qua giờ Thân, trong phủ sẽ không nổi lửa nữa. Nhưng thường ngày tướng quân hay về muộn, vì vậy bác Đại Đầu sẽ rót nước nóng vào chiếc đĩa chân cao có nắp, chạm hoa văn vảy cá, rồi đặt một âu canh kê vào trong, lỡ khi cần tới. Hôm nay tướng quân được giữ lại trong cung, thành ra cô và Vô Tà được lợi.
Thập thận trọng bưng âu gốm từ trong lòng đĩa ra, thấy vẫn còn ấm, “Mau lại đây ăn, có canh kê còn ấm này” Cô cười hì hì bưng âu gốm tới trước mặt Vô Tà, cậu liếc nhìn, vẻ miễn cưỡng rồi bực bội cầm que cời chọc đống tro đã tắt ngấm trong lò.
“Chán vì không được ăn thịt thỏ à?” Thập đặt âu xuống, khều mấy lọn tóc quăn trước trán cậu, “Mấy hôm nữa làm lễ xong, tướng quân sẽ chia các con vật cúng tế cho mọi người ăn. Nếu cậu thích, tôi nhường cho cậu cả phần tôi.”
“Tôi không cần, bọn họ háo hức đợi từng ngày, chứ tôi chẳng thèm!” Vô Tà dẩu môi.
Thập đi tới quỳ xuống trước đống củi, thò tay vào trong bới tìm, “Binh lính ở với cậu đều là thường dân, ăn được bữa thịt cũng là chủ nhân ân sủng. Những người sống ở vòng ngoài thành, thú săn được, rượu ủ ra, cây trồng được, đều phải nộp lên chủ nhân, còn bản thân đến cuối năm chỉ được phát cho ít lương thực cũ mốc gắng gượng sống qua ngày. Có rất nhiều người cả đời còn chẳng biết mùi thịt đâu.”
“Trước kia tôi cũng ăn chán rồi. Họ thích thì tôi nhường luôn phần cho họ. Thập này, cô tìm gì thế?”
“A, thấy rồi!” Cô moi ra một vò gốm xám từ đống củi, cười nói, “Trong đây có cái này ngon lắm, Tư làm cho tôi trước khi đi đấy! Thường ngày tôi tiếc không nỡ ăn, hôm nay lấy ra cho cậu nếm, coi như đền cho cậu!”
“Ồ, là cô ả chết tiệt bảo cô vứt tôi đi ấy hả! Thứ ả làm chắc chắn không ra gì rồi.”
“Có ra gì hay không, cậu ngửi là biết. Có phải vừa có mùi rượu vừa có mùi thịt không?”
Vô Tà ghé mũi lại ngửi rồi mừng rỡ hỏi, “Là thịt ngâm trong rượu à?”
“Đoán đúng một nửa rồi đấy. Muốn làm món này phải ướp thịt lợn sữa tươi với rượu củ nghệ đủ hai hôm rồi lấy ra bỏ vào nồi đồng* hấp, khi thịt nhừ thì thái hạt lựu nêm nếm gia vị rồi đem phơi. Món thịt khô này ăn với canh kê ngon tuyệt, cậu nếm thử một miếng mà xem?”
Vô Tà thò tay vơ mấy viên nằm trong tay, thoạt tiên ngửi ngửi sau đó nhét cả vào miệng.
Thập âm thầm nuốt nước miếng, cười hỏi, “Ngon không?”
“Ừm... Ừm... cho tôi thêm mấy viên nữa!”
Thấy cậu thèm thuồng ra mặt, cô thừa cơ đẩy âu canh kê tới, “Uống nửa âu thì cho cậu thêm bốn viên.”
Vô Tà chóp chép miệng rồi ngoan ngoãn uống canh. “Giờ hết giận rồi chứ?”
Thấy cô ra sức làm lành, Vô Tà sầm mặt, “Thập à, tôi không thích cô cứ cứu hết người này tới người khác như thế. Cô cứu tôi, rồi cứu cả Dự Địch, hôm nay lại cứu thêm một người nữa.”
Ừm, thực ra hồi xưa lâu lắm rồi, tôi và Tư còn cứu một người nữa đó.”
Cô vừa dứt lời, Vô Tà đã tức tối giậm chân bình bịch, “Gì cơ? Còn một người nữa à?”
“Cứu người có gì không tốt đâu? Huống hồ tôi cũng chẳng mất mát gì.”
“Không tốt, tôi nói không tốt là không tốt!” Dứt lời Vô Tà cau mày đi lòng vòng trong bếp, cuối cùng vòng tới cạnh cô, thủ thỉ hỏi thật khẽ, “Vậy có phải cô tốn nhiều tiền cho tôi nhất không?”
Nghe câu này, cô thiếu điều hai mắt tối sầm, ngất lịm đi, hóa ra vòng vo một hồi, chú “sói con” này lại so đo chuyện ấy.
“Chính xác, cậu được công tử Lợi bỏ ra rất nhiều rất nhiều tiền mua về, tôi cũng vì cậu mà nợ ân tình công tử rất nhiều. Thế nên cậu rất quan trọng, quan trọng hơn Dự Địch, hơn anh bán cành cây, hơn cả người trước kia tôi cứu nhiều. Thế nào, cậu vừa lòng chưa?”
Vô Tà nghe vậy thì toét miệng cười khanh khách, “Tốt quá, mai tôi sẽ nói với Dự Địch, xem hắn còn dám coi thường tôi không?”
Nhìn nụ cười của Vô Tà, cô bất giác nghĩ thầm: sao mình lại thích cứu người thế nhỉ?
Có lẽ đó là vì từ khi biết nhớ chuyện, ngày nào cô cũng mong mỏi có người tới cứu mẹ con mình khỏi đói khát, khổ sở, nhưng mãi tới khi mẹ cô chết đi, người ấy vẫn không hề xuất hiện. Giờ cô cứungười, thực ra chỉ là đang cứu lấy chính mình hết lần này sang lần khác mà thôi.
Trước khi đi ngủ, Thập vẫn không nản lòng, lại cầm thanh “gỗ thơm” mua ngoài phố lên ngửi, song vẫn chẳng ngửi thấy mùi thơm nào cả, bèn tiện thể ném vào chậu than, tắm rửa rồi lên giường.
Ngủ thẳng một mạch không hề mộng mị, đây hẳn là giấc ngủ sâu nhất của cô trong hơn một tháng nay.
“Quý nữ tỉnh rồi à?”
“Tỉnh rồi, vào đi!”
Một ả hầu dáng dấp cao to đẩy cửa bước vào. Sau khi ả Dao đi, Bàn Nha trở thành tỳ nữ quản việc trong phủ, ả ta đầu óc sáng láng, tay chân nhanh nhẹn, hết sức tháo vát.
“Quý nữ, giờ miền Đông tuyết lớn đã lấp mất đường núi, e rằng ông quản gia và cô Tư phải mấy hôm nữa mới về được.”
“Ừm, tôi biết rồi. Năm nay ông quản gia đi vắng, tướng quân cũng bận bịu, mấy người chúng ta phải lo chuẩn bị việc tế lễ trước. Mấy thứ tôi mua hôm qua, chị đến chỗ Do Đồng mà lấy, chia ra, ngũ cốc, gia súc thì đưa xuống bếp, rồi mau sai người đem những đồ dùng khi tế lễ trong kho ra, lát nữa tôi sẽ tới xem thử.” Thập xỏ tấm áo kép vào, khép cổ áo lông thỏ thật chặt, xuýt xoa vì rét.
“Dạ!” Bàn Nha hành lễ rồi lui ra.
Thập cầm que cời đang định dập tắt chậu than rồi ra ngoài, thì tình cờ ngửi thấy một mùi hương là lạ, không thơm như đỗ hành, cũng chẳng ngọt lịm như đinh hương, hít một hơi, mùi hương thuần khiết như có chân, nháy mắt đã theo mũi chạy lên não, khiến người ta thấy sảng khoái tĩnh tại.
Ồ, cành cây này đúng là loại hương lạ, chẳng lẽ đêm qua cô ngủ say như thế là nhờ nó? Sớm biết thì đã hỏi xem người nọ lấy ở đâu, chưa chừng cô cũng buôn được mấy chuyến lớn, tự cất được nhà cho mình cũng nên. Cô mỉm cười khép cửa lại, sải bước đi tới nhà trước, nghĩ tới lễ tế nhộn nhịp, nghĩ tới Tư sắp trở về, bước chân cô càng thoăn thoắt như bay.
“Này, các anh mạnh tay lên tí, cẩn thận đừng để va vào tường!” Ngay giữa nhà, Bàn Nha đang chỉ huy một tốp thị vệ trong phủ hăng hái bưng những món đồ đồng dùng khi tế lễ ra.
“Bàn Nha, cái này nặng quá, được khiêng cô có phải nhẹ hơn không?” Mấy người đàn ông hì hục bưng một chiếc đỉnh to ba chân hai tai chạm hình ve, cười rộ lên.
“Cẩn thận cười xóc hông, đỉnh rơi nện gãy chân bây giờ. Muốn khiêng tôi, tối mò đến đúng cửa thử xem!”
“Này các anh em nghe thấy cả rồi đấy, tối nay chúng ta so tài một trận, ai thắng thì được đi!” Mấy thị vệ đầu đầy mồ hôi cười ha hả, thấy Thập đỏ mặt đứng trước cửa mới ngớ ra, ai nấy cúi gằm mặt lẳng lặng bê đồ.
Trái lại Bàn Nha tự nhiên như không, đi tới trước mặt Thập hành lễ thưa, “Quý nữ, tôi dặn kỹ nhà bếp rồi, trước buổi trưa, vật dụng tế lễ cũng sẽ bê ra hết.”
Mỗi lần nhìn Bàn Nha, Thập lại nhớ tới Bách Phụ trước kia, tính tình cả hai đều thẳng thắn hào sảng, dễ khiến người ta quý mến. Trai gái chỉ cần cảm mến nhau thì ngủ chung một đêm cũng chẳng phải chuyện gì to tát, chỉ là từ khi cô dọn sang ở bên nhà Đông, hiểm khi nghe thấy những câu cợt nhả kiểu này, nhất thời hơi ngượng.
“Tôi có danh sách các đồ đạc để kiểm kê, chị đọc được không?”
“Xấu hổ quá đi mất! Nếu Bàn Nha này mà biết đọc thì bọn khỉ trên núi kia cũng biết chữ cả rồi.” Bàn Nha phồng má làm bộ vò đầu bứt tai, chọc mọi người cười rộ lên.
“Vậy để tôi kiểm kê cho, mọi người cứ khiêng ra đi!” Thập ôm cuộn trúc, bật cười theo.
“Dạ!” Cả đám đồng thanh đáp.
“Quý nữ, có một điều không hay. Hè năm nay mưa nhiều, hương liệu trữ trong kho bị ẩm, đổi màu rồi, chẳng biết còn dùng được nữa không?
“Phải thắp hương mới vời được thần linh, nên hương liệu không thể qua quýt được. Hôm qua tôi mua được một ít, nhưng sợ không đủ. Chị mau bàn với Do Đồng xem nên bảo ai ra ngoài mua.”
“Nô tỳ không hiểu gì về hương liệu, nhỡ ra mua phải loại không tốt, đâu như quý nữ ngay quần áo cũng thơm nức.”
“Là loại hương tôi mới mua hôm qua đấy, nếu chị thích lát nữa qua chỗ tôi mà lấy một thanh.” Thập nói rồi giơ tay áo lên ngửi. Mùi hương này thật lạ, giờ ngửi lại thấy khác hẳn lúc trước.
Nghe Thập bảo sẽ tặng hương liệu, Bàn Nha hớn hở ra mặt. Chợt một bóng đen lướt qua tâm trí Thập, khiến cô lạnh cả gáy.
“Quý nữ sao vậy?” Thấy Thập sững sờ, Bàn Nha cao giọng hỏi.
Thập định thần lại, vội giục, “Mau! Bảo Do Đồng chuẩn bị xe cho tôi, tôi phải ra ngoài ngay!”
“Vậy hương liệu thì sao?”
“Tới tiệm hương liệu mua hương huỳnh đàn!” Dứt lời Thập nhấc gấu váy chạy vụt đi.
Đây không phải lần đầu cô ngửi thấy mùi hương này, trước kia cô đã ngửi thấy mùi hương y hệt trên người gã đàn ông đeo mặt nạ thú!
Người đương thời thường dùng hương để tỏ đức độ, trên là cúng tế với thần, dưới là tắm nước thơm, trong cuộc sống hằng ngày của đám quyền quý, các loại hương liệu là vật dụng không thể thiếu. Công tử Lợi biết cô thích hương, hễ thu thập được hương liệu ở đâu đều sẽ đưa tới phủ tướng quân một phần. Có giang ly, mộc lan, tử ngọc lan, đỗ nhược, phương chỉ, cỏ linh lăng, từ Sở đến Tấn, từ Ngô đến Vệ, hương liệu các nước qua tay cô e rằng còn nhiều hơn Tỳ hương xứ trong cung Tần. Nhưng cành cây lạ lùng mua được hôm qua rốt cuộc là loại hương liệu gì, cô nghĩ mãi không đoán được. Điều này khiến cô không khỏi vừa mừng vừa lo. .
Mừng là bởi hương liệu này hiếm có làm vậy, nếu biết được tên và xuất xứ, cô có thể lần ra manh mối liên quan tới gã đàn ông đeo mặt nạ thú kia; lo là vì, ngay đến người bán còn chẳng biết đó là hương gì, cô sao biết được?
Giờ điều duy nhất cô có thể làm là tìm cho ra quý nhân mặt có tướng lạ, mày hiện mây đỏ mà người bán hương kể. Mà người đó có lẽ là mưu sĩ nước Tấn cô vừa quen biết - Trương Mạnh Đàm!
Trương Mạnh Đàm mắt sâu mũi cao, không giống người Trung Nguyên bình thường nên người bán hương mới thấy là tướng lạ; còn vết bớt đỏ cuối đuôi mày hắn rất có thể chính là áng “mây đỏ” theo lời người nọ.
Thập rời phủ thái tử đã ba ngày, nếu Trương Mạnh Đàm sắp rời Tần, thì chính là vào hôm nay.
Khi cô xách chiếc bình có quai đi ra, xe ngựa Do Đồng chuẩn bị đã đậu trước cổng đợi sẵn.
Dọc đường xe đi băng băng. Tới quán dịch nơi đoàn sứ thần nhà Tấn trọ lại, họ mới hay đội xe của tộc Triệu nước Tấn vừa xuất phát, rời thành Ung theo cửa Đông.
“Mau lên, Do Đồng, tới cửa Đông đi!” Thập từ quán dịch chạy ra, vội vàng nhảy lên xe.
Do Đồng biết cô nóng ruột nên vung liền mấy roi, ngựa hí vang rồi chạy như bay về phía cửa Đông.
Thập nghe nói lúc sang Tần Triệu Vô Tuất đã đem theo không ít lễ vật dâng lên Tần bá, để tỏ lòng thành, khi họ ra về, Tần bá nhất định cũng sẽ tặng thật nhiều quà đáp lễ. Mùa đông, sông Vị đóng băng, họ không đi được đường thủy, xe bò kéo nhiều vật nặng chắc hẳn cũng không đi nhanh được, nên chỉ cần xe ngựa của cô chạy thật nhanh thì sẽ đuổi kịp họ trên đường.
Quả nhiên ra khỏi cổng thành chạy về phía Đông chưa đến hai dặm, cô đã thấy đằng xa thấp thoáng một đội xe đang đi chầm chậm.
“Tốt quá, cuối cùng cũng đuổi kịp rồi! Do Đồng, cho xe chặn đầu đoàn xe kia đi!”
“Vâng!”
Ngũ Phong vốn yêu ngựa, ngựa kéo xe trong phủ đều là tuấn mã chọn mua tận Tây Vực, vì vậy chỉ trong chốc lát, họ đã chặn đầu đội xe.
“Xin hỏi có phải đoàn xe của tộc Triệu nước Tấn không?” Do Đồng đứng trên xe lớn tiếng hỏi.
“Đúng thế, ai vậy?” Một kiếm sĩ đánh xe đội mũ dẫn đầu đoàn hỏi lại.
“Tiểu nữ xin được gặp mưu sĩ Mạnh Đàm!”
“Ai tìm Mạnh Đàm đấy?” Thập vừa dứt lời, một người đã ló đầu ra từ cỗ xe mui sơn đen cạnh đó, cô nhìn kỹ, hóa ra là Triệu Vô Tuất từng gặp trong phủ thái tử.
“Tiểu nữ xin được gặp mưu sĩ Trương Mạnh Đàm.”
“Ra là cô à!” Triệu Vô Tuất cười, quan sát cô một lượt rồi giơ tay ra hiệu cho binh lính đằng trước dừng xe cả lại, “Cô nương vội vã chạy tới đây, có phải muốn từ biệt Mạnh Đàm chăng?”
Thập gật đầu, bước xuống xe. Triệu Vô Tuất cười khanh khách, “Hay, hay lắm, Địch đâu, dẫn cô nương này tới gặp Trương tiên sinh!”
“Vâng!” Một cậu lính trẻ chỉ chừng mười bốn mười lăm tuổi từ bên cạnh xe chạy ra, bảo cô, “Mời cô nương theo kẻ hèn này!”
Thập Vái Triệu Vô Tuất một vái rồi theo cậu lính đi về phía giữa đoàn xe. Mới đi được hai bước, lại nghe tiếng Triệu Vô Tuất đùa, “Nơi này phong cảnh đẹp lắm, Triệu mỗ chưa vội lên đường ngay đầu, cô nương cũng không cần vội. Nếu có đổi ý muốn theo Mạnh Đàm nhà ta về Tấn thì Triệu mỗ rất mừng.”
Thập đờ mặt ra, nghĩ thầm, Triệu Vô Tuất chắc hẳn cho rằng cô có tư tình với Trương Mạnh Đàm nên mới quyến luyến dong xe đuổi theo. Có điều sau này cũng chẳng gặp lại nữa, giải thích chỉ thêm phiền.
“Cô nương nhìn kìa, Trương tiên sinh đã xuống xe đợi cô rồi đấy.” Cậu lính oang oang nói.
Thập nhìn theo tay cậu ta chỉ thấy Trương Mạnh Đàm vận thường phục xanh thanh thiên, tay gác lên chuôi kiếm dựa vào xe ngựa, đương cười khi nhìn mình.
“Tôi tới tiễn tiên sinh!” Vừa rồi cô mải lo đuổi theo, chẳng kịp nghĩ ngợi gì, chỉ chăm chắm muốn hỏi cho rõ chuyện về hương liệu, song giờ đứng trước mặt Trương Mạnh Đàm, cô lại thấy ngường ngượng.
“Cô đổi ý muốn theo ta về Tấn rồi à?” Trương Mạnh Đàm tủm tỉm cười nhìn cô, trong đôi mắt sâu ẩn giấu cảm xúc gì đó mà cô không hiểu nổi.
“Ai muốn theo tiên sinh về Tấn chứ?” Cô cúi đầu chìa chiếc bình có quai trong tay ra. “Hôm ở phủ thái tử tiên sinh giải vây cho tôi, đây là rượu hoa đào mới làm đầu xuân năm nay, coi như quà cảm tạ.”
“Rượu cô ủ đấy à?” Trương Mạnh Đàm nhận lấy, mở nắp bình hít một hơi thật sâu, “Thơm quá, ủ thế nào vậy?”
“Ngắt lấy hoa đào đầu xuân mới được mưa bụi gột sạch, hong khô trong gió đêm, ngâm vào rượu, lại đợi đến khi sao Tửu Kỳ mọc lên thì thắp hương, chôn xuống dưới gốc đào, sáu tháng thì thành. Xuân năm nay tôi chỉ ủ ba vò, đây là vò cuối cùng rồi.”
“Mùi rượu thơm nức mát lạnh, ngửi đã say sưa, hay lắm!” Trương Mạnh Đàm khẽ nhướng đôi mày dài, rồi bỗng ghé đầu lại, rỉ tai cô, “Ta thích rượu, nhưng tấm lòng người đẹp càng đáng quý hơn nữa.”
Thập vội lùi lại một bước, cúi đầu tiếp, “Rượu của tôi không dễ uống thế đâu, hôm nay tiên sinh phải trả lời một câu hỏi cho tôi mới được.”
“Hỏi gì cơ?” Trương Mạnh Đàm cúi đầu nhìn vành tai đỏ bừng của cô, cười tủm tỉm hỏi.
“Có phải tiên sinh đã đến Tần từ hơn một tháng trước không?”
“Hơn một tháng trước ta thay chủ nhân tới Tần dâng thiếp bái phỏng, sao cô nương biết?” Trương Mạnh Đàm ngạc nhiên ra mặt, nhưng ngay sau đó lại cười khì, “Để ta đoán nhé, cô nương đã gặp tên bán gỗ thơm đó đúng không?”
“Sao tiên sinh biết?” Cô kinh ngạc hỏi.
“Trên người cô có mùi bạch đàn, hơn một tháng trước ta lại vừa gặp kẻ nọ, nên chuyện này chẳng có gì khó đoán cả. Nhưng nếu hôm nay cô tới đây đòi gỗ thơm thì ta không có mà cho đâu.”
“Tôi không xin hương liệu, chỉ muốn hỏi xuất xứ loại hương liệu này thôi.”
“Vậy cô nói cho ta biết cô mua nắm gỗ thơm ấy hết bao nhiêu đã?”
“Năm đồng tiền.”
“Nắm hương liệu ấy ít nhất có thể bán được hai nén vàng! Đã nói rõ thế rồi mà tên ngốc ấy vẫn bán lỗ.” Trương Mạnh Đàm lắc đầu thở dài, vẻ tiếc rẻ cho người nọ.
“Tiên sinh tinh tường như vậy hay là đừng làm mưu sĩ nữa, đi buôn làm giàu cho chủ nhân có phải hơn không.” Cô cười trêu.
“Ta đâu có giỏi đi buôn làm giàu. Loại hương cô muốn hỏi gọi là bạch đàn, chỉ có ở đồng hoang Tây Vực, lá và vỏ cây đều không có mùi, chỉ có lõi gỗ thơm thoang thoảng; nếu bỏ lên than mà đốt, ắt tỏa hương thơm nồng, có thể trừ tà, sáng mắt. Năm ngoái có người ở Tây Vực vào Tấn, từng dâng hương này lên bệ hạ, về sau bệ hạ lại ban cho tông chủ tộc Trí. Giờ phủ Trí cứ ba tháng lại phải phái đội buôn đi Tây Vực một chuyến, bỏ ngàn vàng mua bạch đàn về để một mình tông chủ mới kế nhiệm Trí Dao sử dụng.”
“Trí Dao ư?” Trương Mạnh Đàm vừa nhắc tới tộc Trí nước Tấn, tim Thập đã thót lại, “Tiểu nữ nghe nói tộc Trí và tộc Triệu nước Tấn xưa nay vốn bất hòa, Mạnh Đàm huynh là gia thần tộc Triệu, sao biết được mùi hương Trí Dao thích dùng?”
Ánh mắt Trương Mạnh Đàm tối hẳn đi, hắn lặng thinh hồi lâu mới chậm rãi lên tiếng, “Anh em ta vốn là gia thần tộc Trí. Hai năm trước, thế tử tộc Trí là Trí Dao vô cớ hạ độc giết anh trai ta, ta chẳng còn cách nào khác, đành nương nhờ tộc Triệu”
“Ra vậy.” Năm ngoái, tông chủ tộc Trí là Trí Thân qua đời, con trai Trí Dao kế nhiệm chức tông chủ, mới vừa đến tuổi đội mũ đã là quân tá, thống lĩnh hạ quân* nước Tấn.
“Mạnh Đàm phản bội chủ cũ là bởi không còn đường nào khác. Mong cô nương chớ coi ta là kẻ bất trung bất nghĩa.” Thấy Thập trầm ngâm, Trương Mạnh Đàm nói thêm.
“Chim khôn còn biết lúc cất tiếng hót phải tìm cành lành, huống hồ là người. Theo tôi thấy, việc này chẳng liên quan gì tới trung nghĩa cả, nếu kẻ khác xì xào bàn tán, tiên sinh cứ coi như gió thoảng qua tai, chẳng nên để trong lòng.” Thập ngẩng đầu cười, nhẹ nhàng hành lễ, “Hôm nay đa tạ tiên sinh đã giải đáp thắc mắc của tiểu nữ, Thập bái tạ tại đây, chúc tiên sinh lên đường may mắn!”
“Mới thế đã đi rồi à?”
“Ừm, tôi làm mất nhiều thời gian của cả đoàn lắm rồi, dù chủ nhân tốt tính đến đâu, e rằng cũng sẽ nổi giận” Thập ngoái lại nhìn đoàn xe phía trước, thấy Triệu Vô Tuất cũng đã xuống xe, chắp tay sau lưng đứng giữa bụi cỏ dại, nhìn về phía cô và Trương Mạnh Đàm.
“Nếu cô rảnh có thể sang Tấn tìm ta, ta nhất định sẽ chiêu đãi thật hậu.”
“Một cô gái như tôi, sao sang được Tấn? Có điều nếu tiên sinh có dịp sang Ung đô lần nữa, hai ta có thể uống túy lúy một bữa!”
“Được, có lẽ chúng ta sẽ gặp lại sớm thôi.” Trương Mạnh Đàm cười vang rồi nhẹ nhàng nhảy lên xe.
“A phải, rượu hoa đào chớ uống nhiều, dễ say lắm đấy.”
Trương Mạnh Đàm cúi đầu nhìn bình rượu xách trong tay rồi nói với lên bảo người phía trước, “Lên đường thôi!”
Thập lùi lại mấy bước, đứng giữa bụi cỏ vàng úa nhìn theo đoàn xe chầm chậm lăn bánh.
Bỗng chốc nghe có người cất tiếng hát khẽ:
Đào tơ mơn mởn đẹp tươi,
Hoa hồng rực rỡ ngập trời xuân trong.
Bây giờ nàng ấy lấy chồng,
Cửa nhà êm ấm trong lòng an vui
Đào tơ mơn mởn đẹp tươi,
Quả đơm lúc lỉu giữa trời xuân trong.
Bây giờ nàng ấg lấy chồng,
Cửa nhà êm ấm trong lòng an vui.
Đào tơ mơn mởn đẹp tươi,
Lá xanh rợp mát giữa trời xuân trong.
Bây giờ nàng ấy lấy chồng,
Cửa nhà êm ấm vui cùng người thân.*