Trúc Thư Dao - Tập 2: Nước Tấn - Chương 10

GIÓ MƯA U ÁM
Vào khoảnh khắc ngỡ rằng mình sắp mất y, hết thảy hoang mang và oán hận, hết thảy lý do trước kia ép mình rời khỏi y đã chẳng còn quan trọng nữa. Khi thấy lọn tóc bạc y giấu trong mũ chụp tóc, cô không cứng rắn nổi nữa. Bất kể ai đúng ai sai, bất luận là ai phụ ai, ít nhất lần này cô cũng muốn cùng sống chết với y.

Nửa tháng sau, đất Tần bắt đầu nổi gió Tây mà Thập quen thuộc nhất, bờ lau ven sông Vị trút nốt đốm xanh cuối cùng còn sót lại của mùa hè, nở ra từng chùm bông lau trắng xóa như tuyết. Đoàn người ruổi ngựa dọc sông Vị, còn cách thành Ung hơn năm mươi dặm thì gặp một đám dân đen dắt díu nhau, gồng gánh theo cả quần áo, chăn màn, nồi niêu.

“Bà ơi, mọi người từ đâu đến thế ạ?” Thập xuống ngựa níu một bà cụ tóc bạc phơ lại hỏi. Bà lão nhìn Triệu Vô Tuất ngồi trên lưng ngựa phía sau cô, run rẩy ôm đứa cháu bé bỏng vào lòng.

“Bà ơi, chúng tôi từ nước Tấn đến, không phải người Nhung đâu, đang định đến thành Ung gặp người bạn. Bà biết đường đến thành Ung không?” Thập lấy trong tay nải sau lưng ra một miếng thịt khô dúi cho đứa bé trong lòng bà lão.

“Các vị về đi thôi, thành Ung sắp đánh nhau rồi!” Nghe nói họ sắp tới thành Ung, bà cụ xua tay lia lịa, “Sáng nay đóng cổng thành rồi, các vị không vào được đâu.”

“Cảm ơn bà.” Thập gật đầu cảm ơn rồi lên ngựa.

“Đóng cổng thành rồi, chẳng biết mấy người bọn A Lục đã vào thành chưa.” Chúc Độc lo lắng bảo Triệu Vô Tuất.

“Có lẽ họ đã đến từ ba ngày trước rồi, giờ còn thấy dân đen chạy nạn ở đây, chứng tỏ quân hai nước Ba, Thục chưa tới đâu.” Triệu Vô Tuất đáp.

“Vậy ta còn đợi gì nữa? Mau đi thôi!” Bá Doanh thúc ngựa chạy lên trước nhất.

“Đi thôi!”

Trời tối dần, bốn người cưỡi ngựa đến dưới thành, cổng thành đã đóng. Triệu Vô Tuất toan thúc ngựa lên gọi cửa thì Thập đã xuống ngựa ngăn lại, “Để tôi đi cho, anh đeo kiếm, lính giữ thành dễ sinh nghi lắm.”

“Cô cẩn thận đấy, đây là tín vật Ngũ Phong gửi kèm theo thư, nếu họ đòi bằng chứng thì cô đưa cái này ra.” Triệu Vô Tuất rút trong ngực áo ra nửa miếng ngọc đặt vào tay cô.

Cô cất miếng ngọc vào tay áo, rảo bước đi đến dưới thành.

“Ai ở dưới thành?” Các tay cung trên thành thấy Thập đến gần, nhất tề nhắm thẳng vào cô.

“Sứ giả tộc Triệu nước Tấn, xin gặp Ngũ tướng quân!” Cô cao giọng đáp.

“Ra chỗ sáng đi!” Có người quát lớn.

Thập chậm rãi đi tới chỗ ánh lửa hắt đến, giơ cao miếng ngọc trong tay, “Tôi có tín vật của Ngũ tướng quân ở đây, trên lầu cổng thành nếu có người phủ tướng quân, trông thấy sẽ nhận ra ngay!”

“Quý nữ à? Mau, mau thả giỏ treo xuống, là quý nữ phủ tướng quân!” Trên thành có người hô lớn.

Chẳng mấy chốc giỏ treo đã được thả xuống, cô ngồi vào, được kéo lên thành. Chẳng đợi cô kịp bước ra, một võ sĩ vận giáp trụ đã nắm tay nhấc cô ra, “Quý nữ, tôi biết cô chưa chết mà.”

Đứng trước mặt cô là Dự Địch đã lâu không gặp, một vết sẹo đỏ bầm chạy từ mang tai đến khóe miệng, vắt chéo qua gò má trái gầy gò của gã. Cô lùi lại một bước, thản nhiên gạt tay gã ra, trầm giọng nói, “Anh lính, tôi không phải quý nữ mà là sứ giả tộc Triệu nước Tấn phái tới. Đây là tín vật của Ngũ tướng quân, xin hãy giao ngay cho tướng quân rồi mau mau mở cổng cho bạn tôi vào thành”

“Quý nữ?” Dự Địch sững ra, thu lại vẻ kích động vừa nãy rồi quay đầu bảo một người lính phía sau, “Mau đưa miếng ngọc này cho tướng quân!” Dứt lời lại nói với cô, “Hôm nay tướng quân bị thương, giờ đang ở bên căn gác gỗ đối diện, chắc sẽ truyền tin qua nhanh thôi.”

“Tướng quân bị thương ư? Ai đả thương vậy?” Tim Thập thắt lại, cô buột miệng hỏi ngay.

“Là thích khách thái tử cài lại trong thành, võ nghệ cao cường lắm. May mà tướng quân phát hiện kịp thời mới giữ được tính mạng.” Dứt lời Dự Địch nhìn cô vẻ thăm dò.

Cô thẫn thờ đi tới cạnh tường thành, nhìn xuống những đường phố nhà cửa quen thuộc dưới chân, song tâm trí đã bay đến mùa hè năm mười một tuổi.

Hè năm ấy, thành Ung nóng nực vô cùng, hồ nước trong phủ cũng cạn trơ đáy, cứ đến chiều là ve sầu thành đàn trên cây lại kêu ra rả, làm người ta ong cả óc. Bấy giờ cô bị thầy nhốt trong thư phòng luyện chữ, chợt nghe ngoài cửa có người nói tướng quân từ biên ải về rồi, bèn ném bút đi, chẳng kịp xỏ giày, tất tả chạy đến chỗ y.

Vừa đẩy cửa ra, cô nhào ngay vào lòng người mình chờ đợi bấy lâu như thường lệ. Nhưng lần ấy y không giơ cô lên cao quá đỉnh đầu như trước kia. Trên mình y bị người Nhung đâm lủng một lỗ, thấy bờ môi y tái nhợt, băng vải đẫm máu, cô hoảng quá òa lên khóc. Y vỗ nhẹ đầu cô định an ủi, nhưng cô đã ngồi thụp xuống đất khóc nức lên, khóc từ sáng đến tối. Hôm ấy, lần đầu tiên A Thập mười một tuổi kinh hoàng nhận ra, hóa ra kẻ tưởng như thần tiên là Ngũ Phong cũng có thể bị thương, bị chết…

“Xin các vị thần linh đừng để tướng quân bị thương, đừng để tướng quân chết, hết thảy đau đớn con xin chịu thay.” Có một đứa bé đã quỳ dưới bầu trời sao cầu khẩn hết lần này tới lần khác.

“Cuối cùng bé cũng về rồi…”

Thập cứng người ngoái lại, thấy Ngũ Phong khoác một chiếc áo dài đen đứng ngay sau lưng mình, chiếc áo nho sĩ xanh trứng sáo bên trong đã tụt đến thắt lưng, bộ ngực trần quấn mấy vòng băng trắng, hai vết thương bên sườn vẫn ri rỉ máu.

Thấy thế, ngực cô như bị đấm một quyền, lòng đau thắt, nhưng cổ họng cứ nghẹn lại không thốt nổi nên lời.

“Đừng khóc, ta không sao đâu.” Y bước đến, giơ ngón tay nhẹ nhàng lau đi nước mắt trên mặt cô.

Mình khóc rồi ư? Thập ngỡ ngàng sờ tay lên gò má ướt đẫm, chợt nhận ra bức tường bồi đắp lâu nay trong lòng đã sụp đổ tan tành ngay khoảnh khắc trông thấy y.

“Mở cổng để họ vào đi!” Ngũ Phong vẫy tay, cao giọng ra lệnh với lính giữ thành, nhưng ngay sau đó thân hình lại lảo đảo.

Cô vội bước đến đỡ y, cuống quýt hỏi, “Lang Đàm không bôi thuốc cho tướng quân à? Sao vẫn không cầm được máu vậy? Tướng quân có muốn ngồi xuống không?”

“Bé đừng đỡ ta, không thể để các binh sĩ thấy ta bị thương nặng được.” Y tươi cười gỡ tay cô ra, khép vạt áo ngoài lại, đứng thẳng lên, sải bước xuống dưới thành.

Cô thấp thỏm theo sau y, chỉ sợ y sơ ý ngã xuống.

Ba người bọn Triệu Vô Tuất chẳng mấy chốc đã được binh lính dẫn vào thành, Ngũ Phong gặp gỡ chào hỏi họ xong, liền sai người thu xếp một căn nhà cạnh căn gác gỗ y đang ở cho họ ở tạm..

“Trong thành giờ vẫn còn nhiều người của thái tử, ở đây có binh lính canh giữ, an toàn hơn.” Ngũ Phong dẫn mọi người tới căn nhà tạm.

“Ngũ tướng quân chu đáo quá! Trước lúc đi khanh phụ có dặn, chuyện này chúng tôi phải nhất nhất nghe tướng quân sắp xếp.” Triệu Vô Tuất hành lễ đáp.

Lúc này mặt Ngũ Phong đã tái nhợt, cắt không ra máu, y tủm tỉm cười gật đầu, bỗng dưng lại nhìn sang cô.

Triệu Vô Tuất nhìn cô rồi đứng chen vào chắn giữa cô và Ngũ Phong, “Đại chiến sắp nổ ra, tướng quân vẫn nên nghỉ ngơi sớm đi!”.

Xung quanh chợt lặng phắc, hai người lẳng lặng nhìn nhau, lát sau, giọng Ngũ Phong bình thản cất lên, “Các vị cũng nghỉ ngơi sớm đi, Ngũ mỗ cáo từ.”

Thấy Ngũ Phong định đi, Thập vội bước sấn lên hai bước, nhưng bị Triệu Vô Tuất níu lại. Cô ngỡ ngàng quay lại nhìn hắn, song hắn chỉ lạnh lùng nhìn cô, đợi Ngũ Phong ra khỏi cổng mới vặn hỏi, “Cô định đi đâu?”

“Y bị thương rồi, tôi là thầy thuốc, phải đi xem thử.”

“Ngũ tướng quân bị thương ư? Thảo nào sắc mặt kém thế.” Bá Doanh sải bước tới cạnh cô, “Trước lúc xuất phát chẳng phải thái sử đã cho Tử Ảm đem theo cả bao thuốc tốt đấy ư? Mau đi xem đi!”

“Tôi đi đây! Các vị nghỉ ngơi trước đi, đừng đợi tôi.” Cô gạt tay Triệu Vô Tuất ra, chạy vụt đi.

Vừa bước vào phòng Ngũ Phong, mùi máu tanh đã xộc thẳng vào mặt Thập, cách cô chừng hai bước, y đang nhắm nghiền mắt dựa vào tường. Cô vội khép cửa rồi chạy đến cạnh y, vạch áo ngoài của y ra, thấy máu tươi đã thấm loang đỏ cả mảng băng to tướng.

“Thật không nên để bé thấy ta thế này..” Ngũ Phong mở mắt ra, nhăn nhó cười với cô.

Cô không sao phân rõ nổi những cảm xúc rối loạn trong lòng, chỉ cúi đầu tháo bằng vải trên ngực y ra thật nhanh. Vào khoảnh khắc vết thương phơi ra, cô gần như không dám tin vào mắt mình: vết kiếm đâm nặng nhường ấy ở vị trí nguy hiểm thế này mà y không hề bôi thuốc!

“Tướng quân đang làm gì vậy? Lang Đàm đâu? Ông ấy ở đâu rồi? Tôi đi tìm ông ấy!” Cô vừa cuống quýt vừa xót xa, vội đứng phắt dậy.

“Đừng đi!” Ngũ Phong giơ tay giữ cô lại, “Trước khi rời Ung, thái tử Thượng đã hạ độc vào giếng nước phía Tây thành, ta sai lang Đàm đi giải độc cứu người rồi.” Y ngửa đầu dựa vào tường, giọng hơi thều thào, mồ hôi không ngừng rịn khắp trán.

Thập giằng tay y ra, gắt, “Vậy còn tướng quân thì sao, tướng quân không cần mạng nữa à?”

“Ta…”

“Đừng nói nữa!” Cô quát khẽ, quay người nhanh nhẹn rút mảnh kỳ lân kiệt Sử Mặc cho cất trong tay nải, lấy dao găm cạo ra ít bột, hòa với nước trên bàn thành thuốc sệt, “Tướng quân cố chịu một chút, hơi đau đấy.” Cô bôi từng chút thuốc lên vết thương của Ngũ Phong, thấy y rên khẽ, cô vội ấn y xuống, “Đau lắm à? Tướng quân cố chịu một chút, phải cầm máu mới được.”

“Ta không đau, giờ ta đang rất vui, vui hơn lúc nào hết.” Ngũ Phong mỉm cười nhắm mắt lại, rồi cả người chao đi, đổ nhào xuống đất như một con rối gỗ bị hỏng.

Tướng quân…” Thập thét lên ôm lấy y, nhưng y đã không còn biết gì nữa. Đừng, đừng chết, đừng bắt tôi phải sinh ly, rồi giờ lại phải từ biệt… “Người đâu! Người đâu!” Thập lau nước mắt, lao ra cửa gọi to.

“Quý nữ?” Một toán binh sĩ từ bên ngoài chạy vào, dẫn đầu là thân vệ Do Đồng.

“Do Đồng! Anh vào đây, những người khác đứng canh ngoài cửa.” Cô kéo Do Đồng vào trong.

“Tướng quân!” Thấy tình cảnh trong phòng, Do Đồng tái mặt, lập tức đỡ Ngũ Phong ngã dưới đất dậy, “Tướng quân sao thế?”

“Tướng quân mất máu quá nhiều nên bị ngất. Anh giúp tôi đỡ tướng quân đi!” Cô cắn môi, run rẩy bôi hết số thuốc còn lại lên vết thương của y, “Ở đây có vải sạch không?”

“Trong tráp sơn trên giường ấy!” Do Đồng lấy tay áo lau mồ hôi lạnh trên trán cho Ngũ Phong.

Cô tìm thấy tráp sơn Do Đồng nói nhanh nhất có thể, lấy vải ra, nhưng lại trông thấy một thứ cứ ngỡ vĩnh viễn không bao giờ thấy lại nữa nằm bên dưới. Sao nó lại ở đây? Rõ ràng cô đã thấy Thúc Quy ném nó xuống giếng rồi mà?

“Quý nữ tìm thấy chưa?” Tiếng gọi của Do Đồng đánh thức cô khỏi cơn bần thần.

“Thấy rồi!” Cô đậy tráp lại chạy tới bên cạnh Ngũ Phong, “Sao tướng quân bị thương nặng thế? Sao các người lại để thích khách của thái tử Thượng có cơ hội hành thích hả?” Nhìn vết thương lật cả thịt ra, lòng cô nóng như lửa đốt.

“Tướng quân về phủ lấy đồ bị thích khách mai phục trong giếng đâm bị thương.” Do Đồng sa sầm mặt, mày cau lại, “Thích khách kiếm pháp quỷ dị, bấy giờ chúng tôi lại đều đứng ngoài cổng, không được theo tướng quân vào.”

“Xin lỗi, tôi không nên…” Cô thắt nốt nút buộc cuối cùng, chống trán cố bình ổn lại tâm trạng, “Giờ phải để tướng quân nằm yên đừng xê dịch, anh múc cho tôi một bình nước rồi lấy ít củi lại đây, tôi phải sắc thuốc.” Cô lấy tấm chăn lót xuống dưới người Ngũ Phong.

“Vâng!” Do Đồng vội vàng chạy đi. Trong phủ tướng quân ngoài giếng nước đằng sau minh đường ra, chỉ còn một cái giếng trong khu nhà cô ở. Y định tới chỗ cô lấy cái gì? Sao phải một mình vào lấy… Cô thẫn thờ nhìn Ngũ Phong đang mê man, tay chân lạnh đến tê dại đi, chẳng bao lâu sau, răng cũng bắt đầu va vào nhau lập cập. Dường như Cô vừa quay lại mùa hè năm mười một tuổi, cảm giác bất lực và kinh hoàng choán ngập tâm trí, cô bắt đầu điên cuồng lo lắng, lo rằng y sẽ không tỉnh lại nữa.

Chẳng mấy chốc Do Đồng đã đưa những thứ cô cần đến, còn địu thêm một gùi thảo dược lang Đàm để lại trong phòng.

“Quý nữ có nhận ra được những vị thuốc này không? Có loại nào dùng được không?” Hắn mở gùi đổ tất cả thảo dược ra sàn.

“Tốt quá, có mấy loại này là được rồi!” Cô mừng rỡ chọn ra mấy loại thảo dược cầm máu rồi quay ra bảo Do Đồng, “Những thứ khác anh cất đi, biết đâu còn có lúc dùng. Những băng vải này anh tìm nơi nào đốt bỏ, chớ để các binh lính trông thấy.”

“Vâng!” Do Đồng gom mớ thảo dược dưới sàn lại bỏ vào gùi, rồi ngập ngừng gọi cô, “Quý nữ…”

“Sao vậy?”

“Không có gì, tôi vui quá ấy mà, cuối cùng cô cũng về rồi.” Nói đoạn Do Đồng cúi đầu ôm mớ băng vải sải bước ra ngoài.

Chế thuốc, sắc thuốc xong xuôi, cô gục xuống ngủ thiếp đi bên cạnh Ngũ Phong, mãi tới khi đằng Đông tảng sáng, mấy tiếng gà gáy đánh thức cô khỏi cơn mơ.

Giữa ánh bình minh, Ngũ Phong đang nheo mắt nhìn cô, miệng tủm tỉm cười như có như không, “Bé con, mắt sưng húp lên như hột đào rồi kìa, hôm nay làm sao nhìn mặt người khác được đây?”

Cô dụi mắt rồi vạch vạt áo y ra xem, thấy máu đã cầm, cuối cùng cũng thở phào nhẹ nhõm.

“Tôi đã dặn người nấu cháo cao lương rồi, tướng quân ăn một bát hẫng, lát nữa tôi hâm lại thuốc cho tướng quân uống.” Cô đỡ Ngũ Phong ngồi dậy rồi quay sang mở vò sành trên bếp lò, bưng ra một bát cháo âm ấm.

“Bé bị người ta bắt đi đâu thế? Sao không về tìm ta? Sao lại không chịu nhận ta?” Y đăm đăm nhìn vào mắt cô, hỏi liền một mạch, sau đó mím chặt môi lại, khiển cả phòng chỉ còn thinh lặng.

Vào khoảnh khắc ngỡ rằng mình sắp mất y, hết thảy hoang mang và oán hận, hết thảy lý do trước kia ép mình rời khỏi y đã chẳng còn quan trọng nữa. Khi thấy lọn tóc bạc y giấu trong mũ chụp tóc, cô không cứng rắn nổi nữa. Bất kể ai đúng ai sai, bất luận là ai phụ ai, ít nhất lần này cô cũng muốn cùng sống chết với y.

Thập nắm lấy bàn tay lạnh ngắt của Ngũ Phong, dịu giọng nói, “Khoan hẵng nói mấy việc đó, được không? Chừng nào giải quyết xong chuyện thái tử Thượng, tôi sẽ giải thích rành rọt với tướng quân.”

Ánh mắt Ngũ Phong dịu dàng lướt qua gương mặt cô, “Được, bé về rồi, ta cũng không phải lo lắng nữa. Có điều nơi này nguy hiểm lắm, ta đã dặn Tư và Vô Tà đợi bé ở thành Trần Thương rồi, nhân lúc quân thái tử Thượng chưa đến, hôm nay ta sẽ cho người đưa bé ra khỏi thành.”

“Không, tôi không đi đâu cả.” Nghe nói y muốn đưa mình đi, Thập vội lắc đầu quầy quậy, “Tôi muốn ở lại đây, bên cạnh tướng quân. Sống sót vượt qua được trận này, chúng ta sẽ ngồi lại giải thích với nhau, được không?”

Ngũ Phong biết mỗi lần Thập mở to mắt nhìn y chằm chằm có nghĩa là việc này không thể thương lượng được nữa, bởi thế y đành gật đầu, cố nén vẻ buồn bã, thở dài, “Giúp ta gọi Do Đồng đến đây, việc quân khẩn cấp, không thể lần lữa nữa.”

“Tôi gọi cả người tộc Triệu nước Tấn đến nhé, có lẽ họ cũng giúp được một tay”

“Được. Bé đừng lo cho ta nữa, mau đi gọi người đi!”

“Tướng quân… Lát nữa đừng gọi tôi là bé trước mặt người tộc Triệu, tôi là đệ tử thái sử Mặc nước Tấn, họ gọi tôi là Tử Ảm.” Dứt lời, chẳng đợi Ngũ Phong trả lời, cô đã mở cửa bước ra.

“Cô ở đấy cả đêm à?” Giữa sương mai, Triệu Vô Tuất ôm kiếm đứng tựa ngay bên ngoài căn gác gỗ của Ngũ Phong.

Thập gật đầu đáp khẽ, “Anh vào trước đi, tướng quân đang đợi đấy, tôi đi gọi bọn Chúc Độc đến.”

“Y bị thương mà cô đau đớn thế à?” Triệu Vô Tuất kéo tay cô, ép cô phải ngẩng lên nhìn mình.

“Hồng Vân nhi, năm tôi bốn tuổi, chính người bị thương trong kia đã cứu tôi ra khỏi đám cháy, rồi hết lòng yêu thương chăm bẵm tôi mười năm, bất luận xuất phát từ mục đích gì, y vẫn là người quan trọng nhất đối với tôi. Tòa thành này đối với anh có lẽ chỉ là một trạm dịch dừng chân tạm thời, nhưng đối với tôi lại là quê nhà nơi tôi lớn lên, tôi không muốn nó bị hủy hoại trong tay thái tử Thượng thế này. Xin anh, xin anh cùng tôi bảo vệ nó, được không?” Thập nhìn Triệu Vô Tuất, nghẹn ngào nói.

Triệu Vô Tuất giơ tay sờ lên đôi mắt sưng húp của cô, khẽ thở dài rồi nói, “Đi gọi người đi, ta ở bên trong đợi cô!”

Khi cô gọi được cả đám người Tấn lại, Ngũ Phong đã cùng mọi người ngồi tề tựu trong nhà, ngoài gương mặt hơi tái, chẳng hề nhận ra y đang bị thương.

“Đây là Chúc Độc, cháu nội dòng đích của hành nhân Chúc Quá nước Tấn, giỏi dùng kiếm .”

“Đây là đệ tử của thái sử Mặc, Tử Ảm, tinh thông thuật chiêm tinh bói quẻ, cũng biết y thuật.”

“Đây là..” Giới thiệu đến Bá Doanh, Triệu Vô Tuất hơi ngập ngừng.

“Tôi là gia thần tộc Triệu, gọi là Tiểu Doanh, giỏi dùng kiếm.” Bá Doanh tiếp lời Triệu Vô Tuất, cao giọng thưa.

Giới thiệu chào hỏi xong xuôi, Ngũ Phong bắt đầu nói qua về tình hình hiện nay ở thành Ung, Bá Doanh ghé tai Thập hỏi nhỏ, “Ngũ tướng quân bị thương thật à? Sao ta chẳng nhận ra gì cả?”

“Đêm qua tướng quân bị thương nặng, mê man cả đêm, vừa tỉnh lại đấy.” Thập cũng ghé tai Bá Doanh thì thào đáp.

“Ồ, ra thế!” Bá Doanh nhìn Ngũ Phong, bất giác gật đầu.

Nửa tháng trước thái tử Thượng viện cớ đi săn, đem đội thân vệ ra khỏi thành theo cổng Nam, chạy thẳng đến Ba, Thục. Sau khi khống chế được phần lớn thế lực của thái tử Thượng trong thành, công tử Lợi bẩm lên Tần bá, vạch trần việc thái tử Thượng liên kết với hai nước Ba, Thục, hòng làm phản. Tần bá nghe vậy thì nổi giận đùng đùng, lệnh cho thượng tướng quân Ngũ Phong và hộ quân tướng quân Kỳ An Cốc dẫn binh tiêu diệt quân phản loạn.

Giờ cổng Đông do Ngũ Phong trấn thủ, cổng Nam do Kỳ tướng quân trấn giữ, hai cổng Tây và Bắc địa thế bên ngoài thành chật hẹp, gập ghềnh nhấp nhô, dễ thủ khó công, được chia ra cho công tử Lợi và Bách Lý đại phu trấn giữ. Thái tử Thượng đã tập hợp bảy vạn tinh binh Ba, Thục, vài ngày nữa sẽ áp sát vây thành. Hiện tại quân trấn giữ thành Ung chỉ có hai trăm chiến xa, ba nghìn võ sĩ, sáu nghìn chân phu phen tạp dịch, người được phái đi cầu viện vẫn biệt tăm chưa thấy tin tức. Ai mạnh ai yếu, thoạt trông đã rõ.

“Chúng ta chỉ có ngần ấy người, còn phải chia ra bốn cổng, làm sao chống nổi quân thái tử Thượng?” Một tên lính áo đen mặc giáp lo lắng hỏi.

“Tướng quân, ngoài cổng Đông là ruộng đồng phì nhiêu trải dài nghìn dặm, quân thái tử Thượng ắt sẽ đóng trại ven sông, tấn công chủ yếu vào cổng Đông, ít nhất ta cũng phải giữ một nửa số võ sĩ và chiến xa lại cổng Đông!” Người lên tiếng là gia thần Nhiễm.

“Đông Nam Tây Bắc, cổng thành nào chẳng quan trọng? Với binh lực chúng ta hiện giờ, không thể nào đối chọi nổi với bảy vạn quân địch, cách duy nhất là tử thủ, tới khi nào hai cánh quân Đông, Tây kéo tới cứu viện mới thôi.” Ngũ Phong nhìn khắp lượt mọi người trong phòng, cao giọng nói, “Khi thái tử Thượng vờ ra ngoài thành đi săn, ta đã sai người cưỡi ngựa gấp rút đi điều một vạn quân đồn trú ở Miên Chư và ba vạn tinh binh của công tử Lợi ở Kinh Dương rồi, giờ chúng ta chỉ cần lo làm sao giữ được thành nửa tháng thôi.”

“Sao quân cứu viện phải nửa tháng mới đến được vậy?” Bá Doanh khẽ hỏi Thập.

“Đại quân không phải cứ nhổ trại rồi muốn đi là đi được ngay, phải tính tới lương thảo, vũ khí… rất nhiều vấn đề. Nếu đến được trong vòng nửa tháng, chứng tỏ Miên Chư và Kinh Dương đã chuẩn bị sẵn sàng cho trận chiến hôm nay, bằng không có khi hai ba tháng cũng chưa chắc đến được ấy.” Thập thì thầm giải thích.

“Ngũ tướng quân, lương thực trong thành Ung Có đủ không?” Triệu Vô Tuất hỏi.

“Kho lương đầy ắp, đủ cung ứng nửa tháng.”

“Giờ là giữa tháng Chín, kê ngoài ngoại ô chắc đã gần chín, tướng quân nên mau chóng phái người đi thu hoạch, vận chuyển vào thành phòng khi cần tới. Nếu để bên ngoài, lại thành ra cung cấp lương thảo cho quân địch” Thập nhắc nhở.

Kê ngoài thành ta đã sai người đi gặt, chở cả vào thành rồi.” Ngũ Phong đáp.

“Dù viện quân có tới thì bốn vạn đối chọi với bảy vạn, tướng quân nắm chắc được mấy phần thắng?” Kẻ lên tiếng là tả lại Tần bá phái đến.

“Mười phần. Liên quân Ba Thục vì lợi mà đến, lòng quân không vững; thái tử Thượng câu kết với kẻ địch phản quốc, không có danh nghĩa chính đáng để xuất quân. Huống hồ trước là dùng mưu, sau đến ngoại giao, kế tới dùng binh, cuối cùng mới đánh thành. Tướng sĩ thành Ung chỉ thủ không ra, mười tên đánh thành thì giết mười, nghìn tên đánh thành thì giết nghìn, vạn tên đánh thành thì giết vạn, giết đến khi hai nước Ba, Thục xót quân, tự nhiên phải lui.” Ngũ Phong vừa dứt lời, mọi người trong phòng đều sục sôi ý chí chiến đấu, chỉ muốn xông ngay lên lầu cổng thành chém giết quân địch một phen.

Ngũ Phong nói cũng đúng, liên quân Ba, Thục có bảy vạn lính mặc giáp, lương thảo và vật tư mỗi ngày tiêu phí đến nghìn vàng, chỉ cần giữ được thành nửa tháng, khiến chúng tiêu hao tới mức xót ruột không chịu nổi, ắt chẳng đánh cũng thắng.

“Báo!!!” Một binh sĩ từ bên ngoài chạy thẳng vào.

“Nói đi!” Ngũ Phong quát lớn.

“Phát hiện xe ngựa của quân địch bên ngoài thành!”

“Đến nhanh thế à? Đi nào, theo ta ra xem thử!” Ngũ Phong đứng dậy sải bước ra ngoài.

Đứng trên lầu cổng thành, chỉ thấy đằng xa bụi đất bốc lên mù mịt, tiếng xe ngựa rầm rập kéo đến làm rung chuyển cả mặt đất.

Mọi thứ trước mắt không còn là tưởng tượng của cô nữa, đây là chiến trường thực sự, cuộc chiến một mất một còn sắp nổ ra.

Cuối chân trời phía Đông hiện ra vô số cờ xí, đỏ rực một mảng tựa quái thú ngoác cái miệng to tướng như chậu máu, toan nuốt chửng cả thành Ung. Theo sau là hàng loạt chiến xa san sát chở theo tinh binh mặc giáp, bánh xe cuốn tung bụi mù rợp trời.

Thập chợt thấy sờ sợ, bèn nhích sang hai bước, đứng phía sau Ngũ Phong. Dường như nhận ra cô đang bất an, Ngũ Phong quàng tay kéo cô lại trước ngực, mượn tay áo rộng che đi đôi tay họ đang nắm chặt lấy nhau.

“Các ngươi có sợ không?” Y cao giọng quát lên với những binh lính trên thành.

“Không sợ!” Cả đám lính được huấn luyện nghiêm ngặt đồng thanh đáp.

“Nhìn cho rõ kẻ địch đi, vì chẳng bao lâu nữa chúng sẽ phải cụp đuôi tiu nghỉu tháo chạy thôi! Mâu trong tay các ngươi, kích trong tay các ngươi sẽ khiến chúng phải hối hận vì đã đến thành Ung!”

Là tướng lĩnh, Ngũ Phong có thể khơi dậy ý chí chiến đấu của các binh sĩ dễ như trở bàn tay, còn cô? Cô có thể làm gì cho y đây?

“Mùa thu thành Ung ít mưa mà nhiều gió cát, để đề phòng kẻ địch phóng hỏa đốt cổng thành, phải bố trí thêm hai tiểu đội ở mỗi cổng, thay nhau lấy nước sông trong thành tưới đẫm cổng thành, chất thêm bao cát ở hai bên cổng thành, lỡ như cổng thành bốc lửa thì lập tức dùng bao cát chèn cổng lại.” Cô nghĩ ngợi giây lát rồi trình bày ý kiến của mình.

“Ngươi nghe rõ chưa?” Ngũ Phong quay sang hỏi Tần Mãnh bên cạnh.

“Rồi ạ!” Lúc đi ngang qua, Tần Mãnh còn vỗ mạnh lên vai cô, “Cô bé, đánh xong trận này, nhớ phải mang rượu tới nhà trả nợ cho ta đấy nhé!”

“Vâng ạ!” Cô nhoẻn cười gật đầu.

“E rằng trong thành còn khá nhiều người của thái tử Thượng, Do Đồng, ngươi dẫn người ngày đêm trông coi kho lương, không được để xảy ra bất kỳ sơ sót nào.” Ngũ Phong lần lượt hạ lệnh cho mọi người trên tường thành, cuối cùng chỉ còn lại mấy người bọn Triệu Vô Tuất.

“Chẳng hay chúng tôi có thể làm gì cho tướng quân đây?” Triệu Vô Tuất hỏi.

“Phải bắt giữ và kết liễu thái tử Thượng ra sao, chúng ta còn cần thảo luận kỹ hơn, hiện giờ Ngũ mỗ chỉ mong các vị dũng sĩ âm thầm giúp ta bảo vệ kho lương trong thành, có lương thảo chúng ta mới phòng thủ vững vàng được.”

“Tướng quân yên tâm, chúng ta nhất định sẽ bảo vệ kho lương!” Bá Doanh cầm kiếm cao giọng đáp. Những lời vừa rồi của Ngũ Phong khiến Bá Doanh kích động như một binh sĩ mới nhập ngũ, sục sôi tráng chí, một lòng đợi lệnh chỉ huy.

“Cảm ơn người anh em nhé!” Ngũ Phong mỉm cười vỗ vai Bá Doanh rồi đi vượt qua, tới bên cạnh Triệu Vô Tuất, hạ giọng nói gì đó với hắn.

“Tử Ảm à, chuyến này đến đây, ta vui lắm!” Bá Doanh kéo cô vào một góc tường thành, kích động đến mức giọng nói cũng run run, “Y là người đàn ông uy vũ nhất, dịu dàng nhất mà ta từng gặp, cô có thấy nụ cười vừa rồi của y không?” Bá Doanh háo hức như đứa trẻ được quà, chỉ nôn nóng muốn khoe với người khác.

“Tôi thấy rồi.” Nụ cười y đã bầu bạn bên cô mấy nghìn ngày đêm, dù có nhắm mắt cô vẫn hình dung rõ mồn một.

“Cô cứ chờ mà xem, ta nhất định sẽ khiến y phải nhìn mình bằng con mắt khác! Này Tử Ảm, kho lương ở đâu? Ta đi bây giờ đây.” Bá Doanh siết chặt tay cô, dồn dập nói.

“Quý nữ chớ vội, lát nữa sẽ có binh sĩ dẫn các vị tới. Có điều xin quý nữ nhớ cho, tướng quân nhờ các vị âm thâm canh giữ, như vậy dù kẻ cố tình phá hoại có thoát được tai mắt đám lính canh kho, cũng sẽ bị các vị phát hiện.”

“Ừ, ta hiểu ý y rồi. Bá Lỗ luôn miệng khen cô giỏi y thuật, mấy ngày này cô giúp ta chăm sóc y nhé”

“Vâng.” Thập hành lễ đáp.

Màn đêm buông xuống, quân đội của thái tử Thượng đóng trại bên bờ sông Vị ở mặt Đông Nam thành, ánh đuốc chạy dài mấy dặm từ trại địch chiếu sáng rực cả nửa khung trời thành Ung. Không khí yên tĩnh trước trận đại chiến dường như khiến trái tim tất cả mọi người đều phấp phỏng không yên. Trên đường đâu đâu cũng là binh lính chạy tới chạy lui, chuẩn bị chiến đấu. Dân chúng trong thành đã đóng chặt cửa nẻo từ lâu, cả gia đình túm tụm nấp trong căn nhà tối om, nơm nớp lo sợ, chẳng biết ngày mai sống chết ra sao. Dọc đường đi, Thập và Triệu Vô Tuất chỉ thấy mấy đứa bé chưa hiểu chuyện tò mò nằm bò ra cửa sổ, nhìn thành Ung quen thuộc mà lạ lẫm dưới nền trời đỏ thẫm.

“Cái này cô đợi lát nữa cầm về ướm thử xem.” Triệu Vô Tuất dúi cho cô một gói nhỏ vuông vắn.

“Gì thế?”.

“Mở ra mà xem, ta sai người làm theo vóc người cô đấy.”

Thập cúi đầu mở nút thắt chữ thập trên gói, bên trong hóa ra là một bộ giáp mềm làm bằng năm lớp da tê giác.

“Sắp khai chiến đến nơi rồi, cô có sợ không?” Triệu Vô Tuất hỏi.

Cô nhìn bộ giáp mềm trong tay, lắc đầu, “Tôi chỉ áy náy vì kéo anh đến đây thôi.”

“Cô áy náy gì chứ, ta đi chuyến này đâu phải vì cô. Ngày mai giao chiến, dù ta có nguy đến tính mạng, cô cũng không cần áy náy.” Triệu Vô Tuất sải bước đi tiếp, được mấy bước, đột nhiên quay phắt lại chắn trước mặt cô, “Thập này, nếu lần này chúng ta sống sót, cô có còn theo ta về Tấn nữa không?”

Có lẽ câu hỏi này hắn đã ấp ủ trong lòng từ lâu, nhưng lòng cô vẫn chưa có câu trả lời.

“Tôi không biết nữa, giờ tôi chỉ mong thắng được trận này thôi.”

“Yên tâm đi, Ngũ Phong là một vị tướng xuất sắc, y đã nói thắng thì sẽ thắng. Nếu có một ngày y và ta gặp nhau trên chiến trường, y sẽ là kẻ địch mạnh nhất của ta.” Triệu Vô Tuất ngẩng đầu nhìn về phía căn gác gỗ đằng xa, ánh mắt thâm trầm.

Nghĩ tới cảnh hắn và Ngũ Phong sống mái trên sa trường, tim cô chợt thắt lại, “Chỉ mong lúc tôi còn sống vĩnh viễn không phải trông thấy ngày ấy, bằng không có khác gì xé tôi ra làm đôi đâu.”

“Ồ?” Nghe vậy, Triệu Vô Tuất chợt mỉm cười, khom lưng ghé mặt lại sát mặt cô, đùa bỡn, “Nói vậy là ta vẫn được một nửa của cô! Cũng khá đấy nhỉ.”.

“Anh còn bụng dạ đùa với tôi à? Mau đi sắp xếp người của anh đi, phải giữ được kho lương, chúng ta mới có cửa sống”

“Biết rồi, thưa nữ tướng quân!” Triệu Vô Tuất cười xoay người cô đi, “Về chăm sóc thương binh của cô đi, nếu ngày mai khai chiến, e rằng sẽ có kẻ thách đấu y đấy!”

“Ừm, các vị cũng phải cẩn thận nhé.” Thập gật đầu với hắn rồi guồng chân chạy về phía căn gác gỗ, tới cạnh gác ngoái lại nhìn, hắn vẫn đứng yên tại chỗ.

Cô chạy ù vào phòng Ngũ Phong, tức thì chạm mặt Tần Mãnh.

“Cô bé đến đúng lúc lắm, mau vào khuyên tướng quân đi! Cổng Nam giao cho Kỳ tướng quân trấn giữ có khác gì trao chìa khóa mở cổng thành cho quân phản loạn. Năm xưa nếu không phải Kỳ An Cốc dốc sức ủng hộ, công tử Thượng đã chẳng ngồi lên được ngôi thái tử.”

“Chú Tần cứ yên tâm, cháu sẽ bàn với tướng quân. Chú đi nghỉ sớm đi, mai còn phải đánh địch!”

“Ta đi đây, cháu cố mà khuyên tướng quân đấy!” Tần Mãnh thở dài, vác kiếm đi thẳng.

Cô hâm lại thuốc sắc sẵn từ trước, bưng vào trong, “Giờ tướng quân thấy sao rồi?”

Ngũ Phong nhíu mày ngồi trước bàn, “Thuốc của bé hay lắm, máu đã cầm rồi, vết thương cũng không bị loét.”

“Uống thêm hai thang nữa nhé. Ngày mai quân phản loạn có thể sẽ gửi chiến thư tới, chúng ta phải tìm người vào trại địch đàm phán với chúng, kéo dài thêm mấy ngày, đợi vết thương của tướng quân đỡ hơn hẵng khai chiến”

“Ta cũng định thế, nhưng vấn đề lớn nhất hiện giờ không phải vết thương của ta, mà là Kỳ tướng quân trấn giữ cổng Nam, ông ta quả thực là một mối họa tiềm ẩn lớn, ta chỉ sợ tới lúc đó thái tử Thượng sẽ lợi dụng điểm này.”

“Kỳ tướng quân là người chính trực, đã nhận lệnh dẹp loạn hẳn sẽ không tùy tiện gia nhập vào quân phản loạn đâu. Nếu tướng quân vẫn không yên tâm thì tôi có ý này.”

“Ý gì vậy?”

“Tướng quân uống thuốc đi đã, tôi sẽ nói cho nghe.” Cô đưa bát thuốc tận tay Ngũ Phong.

Ngũ Phong giơ một tay đón lấy, uống hai ngụm là hết, “Nói đi!”

“Công tử Thượng và công tử Lợi đều do một mẹ sinh ra, năm xưa Kỳ tướng quân khăng khăng lập công tử Thượng làm thái tử, chẳng qua là tuân theo quy chế trưởng thứ, chứng tỏ Kỳ tướng quân là người cực kỳ coi trọng lễ pháp. Nếu thái tử Thượng sơ ý dung túng cho lính hai nước Ba, Thục đào trộm báu vật bồi táng ở khu lăng mộ mặt Nam, hoặc thó đỉnh vàng dùng để tế lễ trong tông miếu thì Kỳ tướng quân chắc chắn sẽ không còn ảo tưởng gì với thái tử Thượng nữa. Tới lúc đó, tướng quân chỉ cần để người đi thăm dò tình báo quân địch “lỡ miệng để lộ tin lăng mộ tổ tiên bị trộm cho Kỳ tướng quân biết thì dù thái tử Thượng không gây ra việc ngu ngốc ấy, cũng chẳng cách nào chạy tới giải thích với Kỳ tướng quân được.”

“Ha ha ha, hay, hay lắm! Bé quả là túc trí đa mưu!” Đôi mày Ngũ Phong giãn ra, y vỗ bàn cười lớn.

“Tướng quân nhẹ thôi, vết thương rách ra bây giờ!” Cô vội cúi xuống kiểm tra vết thương trước ngực y.

Ngũ Phong thừa cơ quàng tay ôm ghì cô vào lòng, “Tối ấy ở quán dịch, ta biết chú nhỏ kia là bé, nhưng bé cứ lắc đầu quầy quậy, lúc đó ta cứ nghĩ có lẽ cả đời không bao giờ được ôm bé nữa rồi.”

Cô cúi đầu nép vào ngực Ngũ Phong, mặc cho y ôm, không vùng ra, nhưng cũng không ôm lại y.

“Bé ở Tấn có ổn không?” Y khẽ hỏi phía trên đầu cô.

“Ổn lắm.” Nghe tiếng tim đập đều đều bên tai, Thập cười đáp, “Tôi bái thái sử Mặc nước Tấn làm sư phụ, có nhà riêng bên bờ sông Quái, hằng ngày đọc sách, bốc quẻ, phơi thuốc, sống rất thanh nhàn. Tôi còn một sư huynh tên Doãn Cao, là một kẻ kỳ dị, chẳng những biết rõ từng ngôi sao trên trời, còn gọi ra được tên chúng, nhưng trừ phi cháy nhà hoặc hết tấm gỗ khắc tinh bàn, bằng không sẽ không bao giờ ra khỏi cửa..” Thập huyên thuyên kể mãi, còn Ngũ Phong chỉ ôm cô, lặng lẽ lắng nghe. Đĩa đèn đồng điếu trên bàn đựng đầy mỡ cá, lạt tre quấn sợi bông thấm mỡ tanh, cháy sáng rực.

Đêm dần về khuya, cô ngả người vào ngực Ngũ Phong, nghe tiếng mình càng lúc càng nhỏ đi. Lạt tre quấn sợi bông trong đĩa đèn sắp cháy hết, “tách” một tiếng, nổ bùng ra một đốm hoa đèn sáng lóe. Thấy thế, Thập thình lình vùng dậy, ngồi lên giữa vòng tay Ngũ Phong, “Tướng quân, tôi nghĩ ra một ý! Tôi tìm được cách khiến thái tử Thượng chỉ vây không đánh rồi!”

Báo cáo nội dung xấu